Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

kinh tế lâm nghiệp huyện trấn yên tỉnh yên bái (1986-2010)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.86 MB, 103 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM







HOÀNG VĂN VINH





KINH TẾ LÂM NGHIỆP
HUYỆN TRẤN YÊN TỈNH YÊN BÁI (1986 - 2010)






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ











THÁI NGUYÊN, NĂM 2012



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






HOÀNG VĂN VINH



KINH TẾ LÂM NGHIỆP
HUYỆN TRẤN YÊN TỈNH YÊN BÁI (1986 - 2010)




Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS - TS Nguyễn Ngọc Cơ






THÁI NGUYÊN, NĂM 2012


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CẢM ƠN

Trước hết tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thày cô giáo
trong tổ Lịch Sử Việt Nam khoa Lịch Sử trường Đại Học Sư Phạm Đại Học Thái
Nguyên, Đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn khoa học Giáo Sư - Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc
Cơ đã chỉ bảo tận tình , động viên khích lệ tác giả trong suốt quá trình học tập và

hoàn thành luận văn.
Trong thời gian thực hiện luận văn, Tác giả đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình của tỉnh uỷ, UBND tỉnh Yên Bái, Huyện Uỷ, UBND huyện Trấn
Yên, cùng các ban ngành, đoàn thể trong huyện Trấn Yên đã cung cấp tư
liệu, để tác giả hoàn thành luận văn. Tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp
đỡ quý báu đó .
Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn
thành luận văn.

Thái Nguyên, ngày … tháng …. năm 2012
Ngƣời thực hiện



Hoàng Văn Vinh


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Ngƣời thực hiện




Hoàng Văn Vinh


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục i
Danh mục các bảng iii
Danh mục các hình iv
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN
TRẤN YÊN TRƢỚC 1986 7
1.1. Khái quát về huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái 7
1.1.1. Điều kiện tự nhiên 7
1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên chính của huyện Trấn Yên 10
1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 12
1.2.1. Đặc điểm kinh tế 12
1.2.2 Đặc điểm xã hội, các di sản văn hóa truyền thống đấu tranh chống
giặc ngoại xâm của nhân dân huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái 13
1.3. Tình hình kinh tế - xã hội huyện Trấn Yên trước năm 1986 15
1.3.1. Kinh tế 15
1.3.2. Xã hội huyện Trấn Yên trước năm 1986 19
Tiểu kết: 22
Chương 2. NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG KINH TẾ LÂM

NGHIỆP HUYỆN TRẤN YÊN TỪ 1986 – 2010 24
2.1. Bối cảnh lịch sử mới 24
2.2. Đường lối đổi mới của Đảng và sự chuyển biến về kinh tế lâm nghiệp 25
2.2.1. Đường lối đổi mới của Đảng và chủ trương phát triển kinh tế lâm
nghiệp của huyện Trấn Yên 25
2.3. Sự chuyển biến về kinh tế lâm nghiệp của huyện Trấn Yên 27
2.3.1. Sự chuyển biến về rừng và tài nguyên đất rừng qua từng thời kỳ. 27

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
2.3.2. Sự chuyển biến của ngành lâm nghiệp trong cơ cấu kinh tế của huyện 31
2.3.3. Chuyển dịch cơ cấu nông lâm nghiệp 37
2.3.4. Chuyển dịch cơ cấu nội ngành lâm nghiệp 39
2.3.5. Tăng trưởng ngành lâm nghiệp 42
2.4. Hiệu quả của sự phát triển kinh tế lâm nghiệp 45
Tiểu kết: 46
Chương 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ LÂM NGHIỆP Ở HUYỆN TRẤN YÊN
TỈNH YÊN BÁI 49
3.1. Chặng đường đi dến thành công, những bài học kinh nghiệm trong
quá trình phát triển kinh tế lâm nghiệp 49
3.1.1. Sự lãnh đạo của các cấp lãnh đạo huyện 49
3.1.2. Sự ủng hộ, tin tưởng của nhân dân địa phương vào sự lãnh đạo của
Đảng. 61
3.1.3. Khai thác điều kiện thuận lợi, khắc phục sự hạn chế, khó khăn là một
nguyên nhân thành công của kinh tế lâm nghiệp tại huyện Trấn Yên. 62
3.2. Ý nghĩa của sự phát triển kinh tế lâm nghiệp 67
3.2.1. Hiệu quả của sự phát triển kinh tế lâm nghiệp 67
3.2.2. Kinh tế lâm nghiệp thúc đẩy sự phát triển của xã hội 69

Tiểu kết: 77
KẾT LUẬN 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Rừng gắn bó mật thiết với lịch sử loài người, từ thủa xa xưa đời sống
con người phụ thuộc hoàn toàn phụ thuộc vào rừng, con người sống bằng săn,
bắn, hái lượm những sản phẩm tự nhiên của núi rừng. Rừng núi, hang động là
“nhà ở” là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm cho người Nguyên Thủy.
Trong nhiều thập kỷ qua, rừng được coi là một trong những nguồn tài nguyên
thiên nhiên vô cùng quý giá, rừng cung cấp nhiều sản vật phục vụ cho đời
sống con người như gỗ, củi đốt, nhựa cây, nguyên vật liệu làm giấy….
Rừng góp phần duy trì chất lượng và nguồn nước sạch, hơn 3/4 nguồn
nước sạch trên thế giới bắt nguồn từ rừng, rừng có vai trò như cỗ máy điều
hòa tự nhiên làm cho môi trường trong lành, bớt độc hại, chúng có khả năng
hấp thụ, lọc, hút bớt lượng các chất khí độc hại, chống ô nhiễm, làm sạch
không khí, giảm tiếng ồn, giúp tránh được những nguy hại cho sức khỏe con
người và tạo ra quá trình sinh thái bình thường cho sinh vật.
Rừng là “người bạn” thân thiết của con người, mọi nhà. Từ ngôi nhà là
nơi trú ngụ đến trang trí nội thất, đồ gia dụng đến cụ lao động….tất cả không
thể thiếu tài nguyên rừng. Rừng là nguồn tài nguyên quý báu của đất nước, có
khả năng tái tạo nếu được bảo vệ và khai thác hợp lý thì tài nguyên sẽ không
bao giờ cạn. Rừng là một bộ phận quan trọng của môi trường sinh thái, hạn
chế lũ lụt, chống xói mòn, tái tạo và nâng cao độ phì nhiêu của đất. Rừng trở
thành “vệ sĩ của nhà nông” và có vai trò to lớn đối với nền kinh tế quốc dân,

gắn liền với đời sống nhân dân và sức sống của dân tộc.
Hiểu rõ tầm quan trọng của rừng, trên con đường đổi mới, Đảng ta đã
có những bước đi quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế lâm nghiệp. Để
góp phần thúc đẩy kinh tế lâm nghiệp trên con đường đổi mới theo định
hướng của Đảng, nhân dân huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái đã không ngừng
phát triển kinh tế lâm nghiệp để nâng cao chất lượng cuộc sống.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Trấn Yên là một huyện vùng thấp của tỉnh Yên Bái, nằm bao quanh
thành phố, diện tích đất lâm nghiệp khá lớn có nhiều dân tộc anh em cùng
sinh sống (chủ yếu là Dao, Hmông, Tày, Mường, Cao Lan). Toàn huyện có 29
đơn vị hành chính (28 xã và 1 thị trấn), 280 thôn bản. Dân số 97.796 người,
vùng lưu vực sông Hồng gắn liền với nền văn minh trồng lúa, đất đai phì
nhiêu bởi lượng phù sa bồi đắp. Cùng với những cây trồng chính như lúa, chè,
ngô, trồng dâu nuôi tằm. Nhân dân huyện Trấn Yên còn biết dựa vào địa thế
đồi núi để phát triển kinh tế lâm nghiệp. Trước thời kỳ đổi mới (trước năm
1986) nhân dân trong huyện còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến nạn phá rừng,
khai thác rừng bừa bãi còn phổ biến. Cuộc sống nhiều hộ gia đình còn đánh đu
với cái nghèo, cái đói, nạn du canh du cư vẫn còn ở một số dân tộc trong huyện.
Từ năm 1986 thực hiện đường lới đổi mới của Đảng và Nhà nước, các
cấp lãnh đạo huyện Trấn Yên có những bước đổi mới trong quá trình phát
triển kinh tế lâm nghiệp. Nhân dân kiên trì chịu khó “bắt đất nhả vàng”, đời
sống nhân dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn đã thay da, đổi thịt.
Vậy thành công của chương trình phát triển kinh tế lâm nghiệp là do
đâu? Trong quá phát triển có những thuận lợi và khó khăn gì? Giải pháp tháo
gỡ những khó khăn, hạn chế trong những năm tiếp theo. Xuất phát từ những
vấn đề thực tế như biến đổi khí hậu, hạn hán, lũ lụt xảy ra liên tiếp ở nước ta
trong những năm qua vừa là tiếng chuông “cảnh tỉnh sinh thái” là sự trả giá

của loài người cho tài nguyên bị suy thoái.
Để cung cấp những kiến thức cơ bản về tác dụng của kinh tế lâm
nghiệp, tác dụng của rừng, tư vấn chọn nghề đối với học sinh miền núi trong
những buổi học ngoại khóa là hết sức cần thiết. Với những lý do nêu trên
chúng tôi đã chọn đề tài “ Kinh tế lâm nghiệp ở huyện Trấn Yên tỉnh Yên
Bái (1986 – 2010)” làm đề tài luận văn thạc sĩ lịch sử.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và các địa phương nói riêng
luôn là vấn đề được các cấp lãnh đạo, các nhà khoa học chính trị quan tâm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
nghiên cứu dưới nhiều hình thức, góc độ khác nhau, nhất là từ năm 1986. Từ
khi thực hiện đường lối đổi mới đất nước cho đến nay, đáng chú ý trong số đó
là hệ thống các văn kiện, nghị quyết của Đảng, nhất là văn kiện đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII và IX. Trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX có nêu lên hai nội dung rất quan trọng, mang tính chất định hướng
cho sự phát triển là “ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010” và “
Phương hướng nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm năm 2001 –
2005”. Ban chấp hành trung ương Đảng: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế
xã hội đến năm 2000 ( Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1991)
Các bài viết, phát biểu của lãnh đạo có:
- Lê Duẩn: Nắm vững đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến lên xây
dựng kinh tế địa phương vững mạnh (Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1986).
- Trường Chinh: Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và của thời
đại ( Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1987).
- Nguyễn Văn Linh: Đổi mới sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực
hoạt động ( Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1992).

Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học:
- Phạm Xuân Nam: Đổi mới kinh tế - xã hội thành tựu, vấn đề giải pháp
( Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội 1991).
- Trần Xuân Kiên: Các giải pháp kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XXI
(nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội 2003).
- Nguyễn Mạnh Hùng: Kinh tế - xã hội Việt Nam hướng tới tăng trưởng,
hội nhập phát triển bền vững (Nhà xuất bản Thống Kê – Hà Nội 2004).
- Nguyễn Trần Quế: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những
năm đầu thế kỷ XXI ( Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội – Hà Nội 2004).
Tất cả các công trình nêu trên đều nói đến kinh tế xã hội Việt Nam, khi
nói đến kinh tế các tác giả cũng đã đề cập đến kinh tế lâm nghiệp của nước ta

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
trong thời kỳ đổi mới. Phát triển kinh tế lâm nghiệp là vấn đề quan trọng
trong sự phát triển của đất nước. Ngoài các công trình nêu trên, đối với tỉnh
Yên Bái nói chung và huyện Trấn Yên nói riêng, vấn đề kinh tế xã hội đã
được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu của các cá nhân, cơ quan,
các báo đài, các báo cáo của các cơ quan Đảng, chính quyền địa phương,
trong đó đáng chú ý:
- Ủy ban nhân dân huyện Trấn Yên: Chiến lược phát triển kinh tế -xã
hội của huyện giai đoạn 1991 – 2001.
- Ủy ban nhân dân huyện Trấn Yên: Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội 2001 -2010…
Tình hình kinh tế xã hội huyện Trấn Yên còn được đề cập trong hệ
thống niên giám của chi cục thống kê huyện Trấn Yên. Các công trình nghiên
cứu và tài liệu nói trên ở mức độ khác nhau đã đề cập đến tình hình kinh tế -
xã hội của huyện Trấn Yên từ 1986- 2010. Các công trình nghiên cứu tổng
hợp cả kinh tế - xã hội, trong quá trình nghiên cứu có đề cập đến kinh tế lâm

nghiệp nhưng chỉ là những nghiên cứu chung chung, chưa cụ thể, mang tính
chất khái quát. Đề tài kinh tế lâm nghiệp ở huyện Trấn Yên chưa có công
trình nào nghiên cứu chi tiết, cụ thể. Các công trình nghiên cứu và tài liệu nói
trên chúng tôi vẫn đánh giá cao và coi đó là nguồn tư liệu tham khỏa quan
trọng cho chúng tôi thực hiện đề tài kinh tế lâm nghiệp huyện Trấn Yên từ
1986 – 2010.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về kinh tế lâm nghiệp ở huyện Trấn Yên từ sau
đổi mới (1986 – 2010). Những chuyển biến về kinh tế lâm nghiệp, chặng
đường dẫn đến thành công và ý nghĩa của kinh tế lâm nghiệp tác động đến xã
hội, môi trường ở huyện Trấn Yên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Đề tài giới hạn trong huuyện Trấn Yên gồm 28 xã và một
thị trấn. Đề tài đánh giá hiệu quả kinh tế lâm nghiệp trên địa bàn huyện, tác
động của kinh tế lâm nghiệp đến xã hội và môi trường địa phương. Để làm
sáng tỏ sự phát triển kinh tế lâm nghiệp của huyện Trấn Yên, luận văn còn đề
cập khái quát tình hình kinh tế xã hội trước đổi mới.
Về không gian: Từ sau đổi mới đến năm 2010.
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
Thứ nhất: Khái quát về huyện Trấn Yên, điều kiện tự nhiên, vị trí địa
lý, tài nguyên thiên nhiên, thành phần dân tộc, tình hình kinh tế, xã hội của
huyện trước năm 1986.
Thứ hai: Nghiên cứu hệ thống, toàn diện về kinh tế lâm nghiệp. Sự phát
triển về kinh tế lâm nghiệp đã làm thay đổi về xã hội, môi trường từ năm 1986
- 2010. Qua đó rút ra được những lợi thế của lâm nghiệp địa phương và

những khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế lâm nghiệp.
4. Nguồn tƣ liệu, phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Thực hiện đề tài này chúng tôi chủ yếu sử dụng các nguồn tài liệu tại
địa phương (huyện Trấn Yên)
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử
và phương pháp logic. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các phương pháp khác
như thống kê, so sánh thực tế.
5. Đóng góp của luận văn
Nâng cao sự hiểu biết về tác dụng của rừng từ đó ứng dụng vào thực tế
góp phần nâng cao sự hiểu biết của học sinh, nhân dân về rừng và bảo vệ
rừng. Đánh giá thành công công cuộc đổi mới của huyện Trấn Yên đồng thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
chỉ ra những hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế lâm nghiệp, đưa ra các
giải pháp khắc phục. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho Đảng bộ
huyện Trấn Yên trong việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội đồng thời
làm tư liệu giảng dạy lịch sử địa phương, những buổi ngoại khóa, tư vấn nghề
cho học sinh miền núi là hết sức cần thiết.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục, tài liệu tham khảo, phụ lục. Phần chính
của luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Khái quát tình hình kinh tế xã hội huyện Trấn Yên trước
đổi mới.
Chƣơng 2: Những chuyển biến trong kinh tế lâm nghiệp huyện Trấn
Yên từ 1986 – 2010.
Chƣơng 3: Bài học kinh nghiệm và ý nghĩa của sự phát triển kinh tế

lâm nghiệp ở huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7

Chương 1
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
HUYỆN TRẤN YÊN TRƢỚC 1986

1.1. Khái quát về huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa, là khu vực chuyển
tiếp giữa Tây Bắc và trung du Bắc Bộ, phía Đông Bắc giáp hai tỉnh Tuyên
Quang, Hà Giang, phía Đông nam giáp tỉnh Lào Cai. Diện tích tự nhiên của
cả tỉnh là 6.882.922 km
2
với dân số là 76 vạn người (năm 2010). Toàn tỉnh có
9 đơn vị hành chính trực thuộc là thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ, các
huyện Lục Yên, Yên Bình, Văn Yên, Trấn Yên, Văn Chấn, Trạm Tấu, Mù
Cang Chải. Yên Bái đứng thứ 15 về diện tích (2.08%) và đứng thứ 15 về dân
số (0.89%) trong tổng số 61 tỉnh thành của cả nước.
Theo Nghị quyết ngày 11 tháng 4 năm 1900 của toàn quyền Đông
Dương, tỉnh Yên Bái được thành lập, địa bàn khi đó gồm huyện Trấn Yên,
châu Văn Chấn, Văn Bàn, Lục Yên, châu Than Uyên. Tỉnh lỵ đặt tại Yên Bái.
Năm 1962, một số huyện của Yên Bái được tách ra lập tỉnh Nghĩa Lộ.
Sau ngày đất nước giải phóng, tại kỳ họp II (27/12/1975) Quốc hội Việt
Nam dân chủ cộng hòa hợp nhất ba tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ (trừ

huyện Bắc Yên, Phù Yên nhập về tỉnh Sơn La thành tỉnh Hoàng Liên Sơn (80
trang 341)
Ngày 12/8/1991, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII đã quyết định
chia tỉnh Hoàng Liên Sơn thành hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Tỉnh Yên Bái
chính thức đi vào hoạt động ngày 1/10/1991. Về mặt hành chính: Yên Bái có
hai thị xã là thị xã Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ và 7 huyện Lục Yên, Yên Bình,
Văn Yên, Trấn Yên, Văn Chấn,Trạm Tấu, Mù Cang Chải.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Đơn vị hành chính của huyện Trấn Yên: Toàn huyện có 29 đơn vị hành
chính (28 xã và 1 thị trấn) 280 thôn bản, khu phố. Huyện có 7 xã vùng cao
(Kiên Thành, Lương Thịnh, Việt Cường, Hồng Ca, Việt Hồng, Hưng Khánh,
Hưng Thịnh) và 8 xã đặc biệt khó khăn (Tân Đồng, Quy Mông, Vân Hội,
Kiên Thành, Lương Thịnh, Việt Cường, Hồng Ca, Việt Hồng).
Về vị trí địa lý: Trấn Yên là một huyện vùng thấp của tỉnh Yên Bái,
nằm bao quanh thành phố, diện tích tự nhiên 68.940,8 ha dân số 97.796
người. Ranh giới hành chính của huyện được xác định phía Bắc giáp huyện
Văn Yên, phía Nam giáp huyện Hạ Hòa (tỉnh Phú Thọ), phía Đông giáp
huyện Yên Bình, phía Tây giáp huyện Văn Chấn. Trung tâm huyện Trấn Yên
( thị trấn Cổ Phúc ) cách thành phố Yên Bái 13,5 km, cách thủ đô Hà Nội gần
200km. Trấn Yên có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy
(sông Hồng), có cầu Văn Phú bắc qua sông Hồng rất thuận tiện cho việc đi lại
giao lưu văn hóa và trao đổi hàng hóa giữa các địa phương trong và ngoài huyện.
Yếu tố địa hình: Trấn Yên có địa hình chuyển tiếp từ trung du lên miền
núi được kiến tạo bởi hai dãy núi lớn ( núi Pú Luông phía hữu ngạn và dãy
núi con Voi phía tả ngạn sông Hồng). Hai dãy núi đều chạy theo hướng Tây
Bắc - Đông Nam, độ cao trung bình từ 100 – 200m so với mực nước biển.
Nơi thấp nhất là xã Minh Quân có độ cao là 20m so với mực nước biển. Nhìn

chung địa hình cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc phù hợp với địa hình chung
của vùng núi Tây Bắc, các xã phía Nam và Đông Nam có địa hình đồi thấp,
bát úp, đỉnh đồi bằng, sườn dốc thoải thuận lợi cho việc trồng cây lương thực
như lúa, ngô và cây công nghiệp lâu năm như Quế… Các xã nằm xen kẽ dưới
chân núi Pú Luông và dãy núi con Voi có địa hình phức tạp, đồi cao, độ dốc
lớn, chia cắt mạnh, núi đồi xen kẽ với các thung lũng sâu gây nhiều khó khăn
cho việc đi lại và giao lưu kinh tế. Những con suối đều ngắn và dốc nên từ
tháng 7 đến tháng 10 hàng năm thường xẩy ra lũ gây thiệt hại về mùa màng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
và tài sản. Tuy nhiên, do độ ẩm cao, đất đai có độ phì nhiêu lớn nên có điều
kiện để phát triển kinh tế nghề rừng. Dòng sông Hồng chảy qua Trấn Yên
chia huyện thành hai miền, sông Hồng đoạn thượng lưu từ Phú Thọ lên Yên
Bái mang tên địa phương là sông Thao. Dòng sông vừa là tuyến giao thông
đường thủy quan trọng từ Đồng Bằng Bắc Bộ lên mạn thượng du Tây Bắc,
cần mẫn chở nặng phù sa qua nhiều thiên kỷ bồi đắp nên Đồng bằng châu thổ,
những cánh đồng phù sa màu mỡ ven sông như lúa, ngô, khoai, sắn bát ngát
và dâu tằm xanh mướt. Các xã vùng trong cũng có những cánh đồng bồn địa
điển hình và đất đai vô cùng phì nhiêu.
Về thời tiết, khí hậu:
Trấn Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm mưa
nhiều. Nhiệt độ trung binh hàng năm từ 22 – 23
o
C. Nhiệt độ cao nhất lên tới
38,9
o
C nhiệt độ thấp nhất xuống tới 3,3
o

C. Biên độ giao động nhiệt trong
ngày lớn thường gây nên những khó khăn. Chính nhiệt độ cao và độ ẩm trong
các tháng mùa xuân đã hình thành các vùng khí hậu dễ phát sinh nhiều loại
sâu bệnh cho gia súc, gia cầm, cây trồng và cả con người. Lượng mưa trung
bình hàng năm là 2.050mm. Mưa nhiều nhất vào tháng 7, 8, 9 mưa ít nhất vào
tháng 11, 12 cho đến tháng 1 tháng 2 năm sau. Độ ẩm tương đối trung bình
các tháng trong năm từ 84% đến 87%. Lượng bốc hơi trung bình là
630mm/năm. Hướng gió trong năm thay đổi theo mùa, mùa Đông hướng
chính là Bắc và Đông Bắc, mùa hè hướng chính là Đông và Đông Nam ít có
những ngày gió Tây bởi phía Tây của huyện là dãy núi Pú Luông hùng vĩ.
Hàng năm xuất hiện sương mù từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau, sản xuất vụ
chiêm thường gặp phải những ngày sương muối gây nhiều khó khăn, giá rét sinh
bệnh trâu, bò, gia cầm….chết vì sương muối. Lượng bức xạ mặt trời đạt
200kcl/cm
2
, thời gian chiếu sáng trong ngày giao động từ 10 – 13,5 giờ chiếu sáng
song cường độ chiếu sáng lớn nên tổng nhiệt độ vẫn đạt mức 8.300
o
C/năm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên chính của huyện Trấn Yên
Tài nguyên khoáng sản: Khoáng sản kim loại như quặng Sắt phân bố ở
xã Kiên Thành, Việt Hồng, Hưng Khánh, Hưng Thịnh, Hồng Ca với tổ trữ
lượng 93 triệu tấn, song đều thuộc loại mỏ nhỏ, phân tán, hàm lượng nghèo,
riêng mỏ ở xã Kiên Thành có hàm lượng giàu trên 60%. Khoáng sản phi kim
loại chủ yếu là đá Thạch Anh tập trung ở xã Lương Thịnh, Hòa Cuông trữ
lượng trên 54.000 tấn chủ yếu là quặng, chất lượng đạt yêu cầu cho sản xuất

kính và sứ. Quặng raphít phân bố chạy dài từ Trái Hút tới Văn Phú, hàm
lượng C=3-70%, trữ lượng khoảng 142.000 tấn. Ngoài ra trên địa bàn huyện
còn có mỏ Cao Lanh ở Cường Thịnh, mỏ Đất Sét ở Hợp Minh.
Tài nguyên đất: Xét theo điều kiện hình thành, tài nguyên đất của
huyện Trấn Yên chủ yếu là đất Feralít phát triển trên đá Gnai, đá phiến thạch,
sa thạch, đá trầm tích trong đó có các loại đất như sau:
 Đất Feralít phát triển trên phiến đá có tầng dầy trung bình khoảng
22.200ha.
 Đất Feralít phát triển trên Gnai tầng dầy có diện tích khoảng
25.500ha.
 Đất Feralít phát triển trên đá sa thạch thành phần cơ giới trung bình
diện tích khoảng 1.950ha.
 Đất Feralít biến đổi thành phần cơ giới nhẹ diện tích khoảng 3.850ha.
 Đất Feralít biến đổi thành phần cơ giới thịt trung bình đến mỏng diện
tích khoảng 5.900ha.
Nhìn chung đất Feralít trên địa bàn huyện Trấn Yên có tầng dày từ
50cm trở lên chiếm trên 90%, diện tích tự nhiên còn lại <10% là sông suối.
Song trải qua thời gian dài, việc khai thác sử dụng tài nguyên của con người
chưa hợp lý mặt khác do tác động của thiên nhiên làm xói mòn, rửa trôi làm
cho đất đai bị bạc màu, hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất giảm. Vì

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
vậy, việc phát riển sản xuất nông lâm nghiệp phải chú trọng đến khâu đầu tư
thâm canh, cải tạo đất.
Tài nguyên nước: Nước là nguồn tài nguyên phụ thuộc lớn vào điều
kiện thời tiết, khí hậu hàng năm. Nguồn nước mặt của huyện có sông Hồng
chảy qua với diện tích lưu vực lớn gần 600km
2

, lưu lượng từ 1.500 đến
5.000m
3
/s (tính cho cả nước). Đây là giao thông đường thủy lớn nhất của
huyện song về mùa mưa thường gây lũ lụt ở các xã ven sông như Báo Đáp,
Việt Thành, Nga Quán… Huyện Trấn Yên có 32 ngòi suối phân bố tương đối
đồng đều trên địa bàn huyện, ngòi suối thường ngắn, dốc thuận tiện cho việc
xây dựng các công trình thủy lợi cung cấp nước tưới cho đồng ruộng nhưng
về mùa mưa thường xảy ra lũ ống, lũ quét gây thiệt hại cho nhân dân. Ngoài
ra huyện còn có hệ thống ao hồ khá phong phú với tổng diện tích 700ha mang
lại tiềm năng lớn cho phát triển thủy sản và du lịch sinh thái trong tương lai.
Nguồn nước ngầm: Trấn Yên nằm trong vùng chứa nước Đệ Tam, Đệ
Tứ nhưng lưu lượng nhỏ 0.11m
3
/g sử dụng tốt cho việc đào giếng phục vụ
sinh hoạt cho nhân dân, chất lượng khá tốt, hầu như chưa bị ô nhiễm độ
khoáng hóa thấp 190mg/lít độ cứng nhỏ từ 3-4mg/lít phần lớn đảm bảo các
công trình nước sạch.
Tài nguyên rừng: Tổng diện tích đất lâm nghiệp của huyện là 51.072 ha
chiếm trên 70% so với đất tự nhiên toàn huyện (theo báo cáo thống kê của
huyện 2010) chủ yếu là rừng trồng. Rừng đầu nguồn luôn được nhà nước
quan tâm bảo vệ nên hạn chế lũ lụt, hạn hán. Diện tích rừng đạt tiêu chuẩn là
24.597,25 ha trong đó rừng Quế 6.6220,1 ha rừng Bồ Đề, Keo 14.132,7ha
ngoài ra là rừng Luồng, Tre măng Bát Độ, Nứa, Vầu… Hàng năm cho khai
thác từ 10.000 – 15.000m
3
gỗ, tre, nứa các loại từ rừng trồng. Những năm gần
đây, do có những chủ trương và giải pháp đúng đắn, rừng trồng ở huyện Trấn
Yên phát triển mạnh, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân trong huyện.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
1.2.1. Đặc điểm kinh tế
Do vị trí, đặc điểm và tiềm năng của một huyện miền núi, từ xưa nhân
dân các dân tộc trong huyện sống chủ yếu dựa vào rừng nhất là các xã miền
núi, vùng sâu vùng xa. Tuy là một huyện miền núi nhưng Trấn Yên vẫn có
những cánh đồng bằng phẳng, màu mỡ tập trung đông dân cư, thuận lợi cho
việc phát triển kinh tế nông nghiệp. Bên cạnh kinh tế nông nghiệp, ngành
công nghiệp và và thủ công nghiệp cũng từng bước hình thành và góp phần
mang lại thu nhập cho người dân, đóng góp vào nền kinh tế chung của huyện.
Với những ngành thủ công truyền thống như rèn đúc kim loại, mộc, gốm. Tuy
nhiên trước năm 1986 ngành kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chưa
được quan tâm phát triển đúng mức, hiệu quả chưa cao. Với nguồn tài nguyên
khoáng sản phong phú, nguồn lao động dồi dào đó là những điều kiện cơ bản
thuận lợi để huyện Trấn Yên phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp.
Trong những năm gần đây do tận dụng được thế mạnh của địa phương, ngành
công nghiệp, thủ công nghiệp của huyện đã có những bước phát triển mạnh,
nhiều đơn vị nhà máy xí nghiệp đã đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng
quy mô sản xuất, thu hút nhiều lao động, đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao.
Huyện Trấn Yên có các tuyến đường bộ, đường sắt, đường thủy đi qua, có địa
giới hành chính tiếp giáp với tỉnh Phú Thọ do vậy khá thuận lợi cho giao lưu
văn hóa và hàng hóa. Cùng với sự phát triển của đất nước theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu kinh tế của huyện Trấn Yên phát triển theo
hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương
mại, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông lâm nghiệp. Tuy nhiên vị trí của ngành
nông lâm nghiệp vẫn giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế của huyện. Bước vào
thời kỳ đổi mới, huyện cần tích cực đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu theo hướng hợp
lý cùng cả nước thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
1.2.2 Đặc điểm xã hội, các di sản văn hóa truyền thống đấu tranh chống
giặc ngoại xâm của nhân dân huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái
Trấn Yên là miền đất có bề dày văn hóa, có nhiều dân tộc anh em cùng
sinh sống qua nhiều thế kỷ đã sát cánh bên nhau cùng phát triển kinh tế xã
hội, bảo vệ quê hương đất nước. Đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng
các dân tộc huyện Trấn Yên rất phong phú và đa dạng, chủ yếu là văn hóa phi
vật thể với văn hóa tinh thần của người Kinh với tinh hoa văn hóa Đồng Bằng
và trung du Bắc Bộ, văn hóa tinh thần giàu bản sắc của đồng bào các dân tộc
Tày, Dao, Mường, Cao Lan, Hmông… Đặc biệt là vùng giao thoa văn hóa
giữa vùng miền núi Đông Bắc và miền núi Tây Bắc, giữa miền xuôi và miền
ngược đã tạo nên vườn hoa văn hóa phong phú sắc màu. Văn hóa tinh thần
của cộng đồng dân tộc huyện Trấn Yên được hình thành từ lịch sử lâu dài
dựng nước và giữ nước, phản ánh quá trình chế ngự thiên nhiên và mối quan
hệ giữa người với người trong đời sống xã hội; Là một bộ phận của nền văn
hóa sông Hồng, yếu tố cơ bản của nền văn minh nông nghiệp. Di vật đồ đồng
tiêu biểu nhất là Thạp đồng Đào Thịnh tìm thấy ở thôn Đồng Giang xã Đào
Thịnh vào ngày 19/6/1960, Thạp đồng Hợp Minh được tìm thấy vào ngày
4/6/1995 ngoài ra trên địa bàn huyện còn tìm thấy nhiều hiện vật của thời kỳ
đồ đá.
Các di chỉ khảo cổ đã tìm thấy với nhiều công cụ, hiện vật của thời đại
Hùng Vương chứng tỏ vùng đất Trấn Yên ngay từ thời tiền sử con người ở
đây đã biết rời hang động đến cư trú vùng đồi gò và bờ bãi bên sông Hồng,
khai thác đất đai ven sông phát triển nghề trồng lúa. Chứng tỏ Trấn Yên là mảnh
đất quan trọng của nhà nước Văn Lang thời đại các Vua Hùng dựng nước.
Tín ngưỡng tôn giáo chủ yếu là thờ cúng tổ tiên, thờ các vị thần, thờ
những người có công với làng nước. Mỗi tộc người có cách thể hiện khác

nhau nhưng đều có điểm chung là hậu thế luôn hào vọng, nhớ về cội nguồn,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
về quê hương, bản quán. Hai tôn giáo có vị trí đáng kể trong đời sống văn hóa
tinh thần của nhân dân trong huyện là đạo Phật và đạo Thiên Chúa. Hệ thống
Đình, Đền trong tín ngưỡng dân gian ở Trấn Yên không chỉ có ý nghĩa thờ
cúng những người có công khai sáng, xây dựng nên làng bản, thâm nghiêm
linh ứng. Đình, Đền đã góp phần vào cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc. Đình
ở Trấn Yên đã từng là nơi dạy bình dân học vụ, diệt giặc dốt, đã từng là nơi
họp chi bộ, nơi kết nạp Đảng viên mới, nơi khai hội của Việt Minh. Huyện
Trấn Yên còn là nơi quy tụ nhiều anh hùng trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc, là
nơi đã từng nổi dậy chống chế độ phong kiến ở các địa phương.
Năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tấn công nước ta, sau khi làm chủ
được thành Hưng Hóa và tỉnh Tuyên Quang chúng tiếp tục mở rộng xâm lược
lên mạn thượng lưu sông Hồng, tiến công tuyến phòng thủ trên đất Trấn Yên.
Dưới sự chỉ huy của tướng Nguyễn Quang Bích và Nguyễn Văn Giáp nhân
dân Trấn Yên đã đấu tranh anh dũng. Pháp coi Yên Bái là địa bàn quân sự
quan trọng, từ năm 1930 chúng đã tập trung ở đây một lực lượng khá mạnh.
Trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Quốc Dân Đảng tiến hành nhân dân các
dân tộc huyện Trấn Yên đã góp phần không nhỏ ghi thêm vào những trang sử
vẻ vang của dân tộc.
Cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc ta đứng trước tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”. Giặc đói, giặc dốt, phản động tung hoành khắp nơi. Để tháo
gỡ những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa…. Đầu tháng 9 Chính phủ ra
sắc lệnh về “Quỹ độc lập” và “ Tuần lễ vàng” nhằm động viên mọi người dân
yêu nước thiết tha với cách mạng, tự nguyện đóng góp ủng hộ nền độc lập.
Trong toàn huyện Trấn Yên đã dấy lên phong trào góp quỹ cứu nước ở tất cả
các bản làng, mọi người, mọi nhà đều hưởng ứng khẩu hiệu “Hãy đem vàng

rửa hận cho Tổ quốc”. Trong tuần lễ vàng các cuộc quyên góp diễn ra sôi nổi
ở nhiều xã nhất là các xã : Quy Mông, Việt Hồng, Giới Phiên, Báo Đáp…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Riêng cuộc quyên góp ở xã Giới Phiên đã thu được 2,1 lạng vàng, 20 lạng bạc
và 12.616 đồng tiền giấy (lịch sử Đảng bộ huyện Trấn Yên trang 112)
Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch Điện Biên
Phủ nhiệm vụ của huyện Trấn Yên và tỉnh Yên Bái là phục vụ chiến dịch trên
các lĩnh vực đảm bảo an toàn giao thông mở đường ra mặt trận, cung cấp
lương thực thực phẩm, con người đi phục vụ hỏa tuyến. Nhân dân huyện Trấn
Yên đã góp phần không nhỏ làm nên chiến thắng Điện Biên. Cuộc kháng
chiến chống Mĩ ngày càng ác liệt, với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả
để đánh thắng giặc Mĩ xâm lược, nhân dân huyện Trấn Yên đã đóng góp vượt
mức các chỉ tiêu về người và của cho miền Nam ruột thịt. Trên các chiến
trường những người con của quê hương Trấn Yên không quản hi sinh gian
khổ đã cống hiến hết sức lực cho Tổ quốc. Đó là niềm tự hào của nhân dân
các dân tộc huyện Trấn Yên.
1.3. Tình hình kinh tế - xã hội huyện Trấn Yên trƣớc năm 1986
1.3.1. Kinh tế
Thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy
mùa xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta, giải phóng hoàn toàn
miền Nam thống nhất đất nước. Cách mạng ta chuyển sang một giai đoạn
mới, giai đoạn cả nước độc lập thống nhất cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện đường lối của Đảng, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Trấn
Yên đã hăng hái bắt tay vào thực hiện các nhiêm vụ xây dựng phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội. Trước yêu cầu bức thiết về phát triển kinh tế - xã hội trong
giai đoạn mới, Đảng bộ huyện Trấn Yên đã triệu tập Đại hội Đảng bộ huyện

lần thứ XI (24-30/10/1976). Đây là đại hội có ý nghĩa quan trọng xác định
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nhằm ổn định đời sống nhân dân trong
điều kiện đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, tạo bước đi ban đầu lên chủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
nghĩa xã hội. Đại hội xây dựng Nghị quyết về vùng chuyên canh lúa nước với
mục tiêu thâm canh đạt 50tạ/ha, kinh tế hướng vào các loại cây nguyên liệu
giấy, sợi, vùng trồng cây nguyên liệu, cây đặc sản… Phấn đấu để mọi người
dân ăn no, mặc ấm. Nghị quyết đã nhanh chóng đi vào cuộc sống nên đã thúc
đẩy nền kinh tế của huyện phát triển, phong trào trồng rừng phủ xanh đất
trống đồi núi trọc được nhân dân hưởng ứng.
Trong nông nghiệp: việc sử dụng giống mới đã mang lại năng suất cao
và chống chịu sâu bệnh tốt hơn những giống cây trồng trước đó. Các công
trình thủy lợi được nâng cấp như Báo Đáp, Minh Tiến…. nhiều công trình
được làm mới như trạm bơm Việt Thành. Nhân dân tập trung hoàn thiện bờ
vùng, bờ thửa, cải tạo đồng ruộng đưa năng suất lúa lên 50 tạ/ha. Sản lượng
lương thực huyện đạt xấp xỉ 23.000 tấn/năm. Theo Đại hội, ngô, khoai, sắn
được khuyến khích sản xuất trên tất cả các loại đất có thể sử dụng được để
tăng nhanh tổng sản lượng lương thực và mức bình quân lương thực cho nhu
cầu của con người và chăn nuôi. Diện tích Sắn hàng năm đạt 2.000 – 2.200ha,
góp phần đáng kể vào việc nâng cao tổng sản lượng lương thực. Tuy nhiên,
trong cuộc vân động tổ chức lại việc sản xuất nông nghiệp một cách ồ ạt với
đặc trưng cơ bản là chuyển toàn bộ hợp tác xã từ quy mô thôn lên quy mô
toàn xã, đội sản xuất được mở rộng tạo ra nhiều bất cập về cơ sở vật chất và
năng lực điều hành khi đưa khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng. Điều hành lao
động lỏng lẻo dẫn tới năng suất lao động thấp, vật tư xuống cấp, thất thoát.
Vai trò quản lý của hợp tác xã chưa được rõ ràng, hiện tượng bao cấp tràn lan
không đi sâu vào hoạch toán kinh tế kinh doanh. Hoạt động của hợp tác xã

cứng nhắc, đơn điệu khiến tăng trưởng kinh tế có chiều hướng giảm dần,
không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Thực tế đó đòi hỏi
phải có biện pháp giải quyết một cách đồng bộ và triệt để hơn đối với loại
hình kinh tế hợp tác xã.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Trước tình hình đó, Đảng bộ huyện Trấn Yên đã chủ trương: tiếp tục
đầu tư thâm canh, tiếp tục khai hoang và mở rộng diện tích đất trồng, lấy thủy
lợi làm biện pháp hàng đầu, hình thành các vùng trồng cây công nghiệp tập
trung, cân đối đủ lương thực cho nhu cầu con người và chăn nuôi là vấn đề
bức thiết cần phải giải quyết trong thời điểm hiện tại. Đi vào cụ thể, huyện
Trấn Yên đã giải phóng mặt bằng, khai hoang mở rộng thêm gần 200ha đất
canh tác lúa nước và hoa màu, áp dụng nhiều tiến bộ về giống, kỹ thuật, chăm
bón, phòng trừ sâu bệnh hại, quy hoạch lại đồng ruộng, đưa các cụm dân cư
lên đồi, gò nhằm tránh lũ lụt.
Từ năm 1976 – 1978, năm nào huyện cũng hoàn thành vượt mức nghĩa
vụ giao nộp với nhà nước, mạng lưới giao thông, thủy lợi được đầu tư mở
rộng, nâng cấp và khai thác phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp và cải tạo nông
thôn. Giao thông thủy lợi đã thúc đẩy nông lâm nghiệp phát triển, xây dựng
bộ mặt nông thôn mới, giao thông từ tỉnh tới huyện và về các xã cơ bản đã
thông suốt.
Ngày 13/1/1981, ban Bí thư trung ương Đảng ra chỉ thị về cải tiến công
tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp
tác xã nông nghiệp. Chỉ thị đã thực sự khơi dậy ý thức làm chủ của người lao
động, từng nhóm hộ, từng gia đình đã biết lo lắng cho công việc, đi sớm, về
trưa, hoàn thành sản xuất trong khung thời vụ thuận lợi nhất để đạt năng suất
lao động, sản lượng cây trồng, vật nuôi cao nhất. Trong vòng 4 năm (1981-
1986) tất cả 67 hợp tác xã trong huyện đều tiến hành phương thức khoán sản

phẩm cuối cùng tới nhóm người lao động, năng suất lúa đã đạt trên 53 tạ/ha.
Ngành chăn nuôi cũng từng bước được phát triển, tạo chính sách giá cả hợp lý
thỏa đáng đối với người trực tiếp chăn nuôi, giống tốt, tuyển chọn kỹ lưỡng
khiến hiệu quả kinh tế tăng lên rõ rệt. Năm 1985 đàn lợn của huyện tăng 31%

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
so với năm 1981, chất lượng đàn lợn cũng từng bước được nâng cao, phát
triển nhanh lợn lai kinh tế, đàn trâu tăng 10%, đàn bò tăng 47%. Bước đầu
huyện đã chuyển từ chăn nuôi trâu bò cày kéo sang hướng chăn nuôi trâu bò
vừa đảm bảo sức kéo vừa mở rộng chăn nuôi trâu bò sinh sản. Tuy nhiên
ngành chăn nuôi ở huyện Trấn Yên vẫn còn phát triển chậm chưa tương xứng
với đất đai và nguồn thức sẵn có tại địa phương.
Về lâm nghiệp:
Với đặc điểm là một huyện miền núi, huyện Trấn Yên có diện tích rừng khá
lớn, sản phẩm lâm sản phong phú, đa dạng, rừng có nhiều loài gỗ quý, một bộ
phận không nhỏ người dân đang sống trực tiếp dựa vào rừng. Từ năm 1976 –
1980, công tác trồng cây gây rừng, bảo vệ và chăm sóc rừng được tăng cường,
các hợp tác xã đều xây dựng được các tổ ươm giống cây trồng. Trong thời
gian này toàn huyện đã trồng mới gần 3000ha rừng và tiến hành giao đất, giao
rừng cho các hợp tác xã quản lý kinh doanh. Công tác bảo vệ rừng tiếp tục
được củng cố và đi vào nề nếp, số vụ vi phạm liên quan rừng giảm. Hàng năm
huyện đều hoàn thành kế hoạch khai thác lâm sản với giá trị trên
1.000.000đồng. Từ năm 1981-1985 toàn huyện trồng được gần 4000ha rừng
tập trung và hàng triệu cây phân tán. Chính sách giao đất, giao rừng, phủ xanh
đất trống đồi núi trọc được thực hiện tốt. Bên cạnh những thành tích đã đạt
được trong thời kỳ này, ngành lâm nghiệp huyện Trấn Yên còn gặp nhiều khó
khăn và hạn chế. Phong trào trồng cây trong nhân dân chưa phát triển mạnh,
hiệu quả còn thấp do hoàn cảnh lúc bấy giờ nhân dân trong huyện còn gặp

nhiều khó khăn, nạn du canh du cư của người Hmông dẫn đến nạn phá rừng
làm nương rẫy ngày càng trầm trọng. Việc giao đất khoán rừng còn chạy theo
số lượng, thiếu cụ thể, chưa mang tính đồng bộ trong phát triển và xây dựng
vốn rừng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
Nhiều hộ gia đình nhận đất trồng rừng rồi lại để đấy không có kế hoạch trồng
rừng. Trước năm 1986 đất bỏ hoang còn quá nhiều, hoặc một số hộ gia đình
trồng rừng nhưng chất lượng rừng không được cao. Nguyên nhân là do không
áp dụng khoa học kỹ thuật vào sảm xuất, thiếu sự chăm sóc, hoặc chăm sóc
chưa đúng thời vụ, chưa đúng kỹ thuật. Các rừng trồng chủ yếu là phục vụ
trước mắt như để lấy măng, làm củi đốt. Nhân dân huyện Trấn Yên chưa nghĩ
tới trồng rừng là để suất khẩu, để đem bán ra thị trường.
Có thể nói kinh tế lâm nghiệp huyện Trấn Yên trước năm 1986 còn có nhiều
hạn chế. Chất lượng rừng kém, đây cũng chính là cơ sở để Đảng bộ huyện
Trấn Yên sau năm 1986 có những biện pháp cụ thể để phát triển rừng trồng,
đưa ngành lâm nghiệp trở thành ngành mũi nhọn của huyện nhà.
Trên đây là bức tranh kinh tế của huyện Trấn Yên trước năm 1986 với
những khó khăn đặc trưng của một huyện miền núi và những khó khăn chung
của cả nước trong giai đoạn đầu đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng
xã hội chủ nghĩa. Trấn Yên có điều kiện tự nhiên tốt, nguồn tài nguyên phong
phú đa dạng cho phép mở rộng phát triển kinh tế nhưng những năm qua sản
xuất ở Trấn Yên còn mang tính tự cấp, tự túc, cơ sở kinh tế đơn thuần chỉ là
nông lâm nghiệp, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm vị trí rất
nhỏ trong nền kinh tế. Đó là những khó khăn trở ngại cho việc phát triển một
nền kinh tế toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn trên địa bàn huyện Trấn Yên.
1.3.2. Xã hội huyện Trấn Yên trước năm 1986

Quán triệt chỉ thị Nghị quyết Đảng bộ huyện Trấn Yên, chính quyền
các cấp trong huyện có nhiều chủ trương biện pháp để phát triển văn hóa giáo
dục. Với chủ trương và biện pháp đúng đắn được sự đồng thuận và hưởng ứng
tích cực của nhân dân, công tác văn hóa giáo dục đã đạt được những kết quả

×