Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Đánh giá tăng trưởng kinh tế việt nam giai đoạn 2001 – 2010, tăng trưởng kinh tế việt nam trong thời gian qua có ảnh hưởng như thế nào đến xoỏ đúi giảm nghèo và công bằng xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.66 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm 1986.
Kể từ đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy
kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đa dạng hóa và đa phương húa cỏc quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở
cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đú đó giỳp Việt Nam giảm nhanh được
tình trạng nghèo đói, bước đầu xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, đạt được tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng tương đối trong xã hội.
Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng
bước được hình thành. Chính phủ đã chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp,
nhấn mạnh quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tập trung vào các biện pháp quản lý kinh tế,
thành lập hàng loạt các tổ chức tài chính, ngân hàng, hình thành các thị trường cơ
bản như thị trường tiền tệ, thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường đất
đai… Cải cách hành chính được thúc đẩy nhằm nâng cao tính cạnh tranh của nền
kinh tế, tạo môi trường thuận lợi và đầy đủ hơn cho hoạt động kinh doanh, phát huy
mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Chiến lược cải cách hành chính giai đoạn
2001-2010 là một quyết tâm của Chính phủ Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc sửa
đổi các thủ tục hành chính, luật pháp, cơ chế quản lý kinh tế… để tạo ra một thể chế
năng động, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
Để rõ hơn những vấn đề trong quá trình tăng trưởng giai đoạn này của nền
kinh tế nước ta, chúng ta hãy thảo luận và nghiên cứu đề tài “Đánh giá tăng trưởng
kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010, tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời
gian qua có ảnh hưởng như thế nào đến xoỏ đúi giảm nghèo và công bằng xã hội”.
1
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định ( thường là một năm).


Tăng trưởng kịnh tế là điều kiện cần của sự phát triển, Các nước đang phát
triển không thể thực hiện được mục tiêu phát triển nền kinh tế nếu không có một
khả năng tích luỹ vốn cao, và mục tiêu phấn đấu của xã hội không phải là cho một
sự công bằng trong đó ai cũng nghèo như ai. Một xã hội lành mạnh phải dựa trên cơ
sở của một nền kinh tế vững chắc về vật chất. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật
chất cần thiết cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cho sự thay đổi các mục
tiêu xã hội.
1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế:
1.2.1.Tổng sản phẩm quốc nội:
Trong kinh tế học, tổng sản phẩm nội địa, tức tổng sản phẩm quốc nội hay
GDP (viết tắt của Gross Domestic Product) là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa
và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia trong
một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
1.2.2 Tổng sản lượng quốc gia:
GNP (viết tắt cho Gross National Product bằng tiếng Anh) tức Tổng sản lượng
quốc gia hay Tổng sản phẩm quốc gia là một chỉ tiêu kinh tế đánh giá sự phát triển
kinh tế của một đất nước nó được tính là tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm
cuối cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một khoảng thời gian
nào đó, thông thường là một năm tài chính, không kể làm ra ở đâu (trong hay ngoài
nước).
1.2.3 Chỉ tiêu thu nhập quốc dân (Gross national income – GNI)
Thu nhập quốc dân là chỉ số kinh tế xác định tổng thu nhập của một quốc gia
trong một thời gian, thường là một năm.
2
Nó bao gồm tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ tạo ra trong quốc gia (chính là
Tổng sản phẩm nội địa - GDP), cộng với thu nhập nhận được từ bên ngoài (chủ yếu
là lãi vay và cổ tức), trừ đi những khoản tương tự phải trả ra bên ngoài.
Thu nhập quốc dân bao gồm: chi tiêu dùng cá nhân, tổng đầu tư của dân cư,
chi tiêu dùng của chính phủ, thu nhập thuần từ tài sản ở nước ngoài (sau khi trừ các
thuế), và tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu và trừ đi hai khoản: tổng giá trị

hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu và thuế gián thu.
Thu nhập quốc dân tương tự như tổng sản lượng quốc gia – GNP, chỉ khác
biệt ở chỗ GNP không trừ đi thuế gián thu. Ví dụ, lợi nhuận của một công ty Mỹ
hoạt động tại Anh sẽ được tính vào GNI của Mỹ và GDP của Anh, không tính vào
GNI của Anh hay GDP của Mỹ.
1.2.4 GDP bình quân đầu người:
GNP bình quân đầu người của một quốc gia hay lãnh thổ tại một thời điểm
nhất định là giá trị nhận được khi lấy GNP của quốc gia hay lãnh thổ này tại thời
điểm đó chia cho dân số của nó cũng tại thời điểm đó.
1.3. Cỏc công thức đo lường tăng trưởng kinh tế:
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ
tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai
đoạn.
1.3.1. Mức tăng trưởng tuyệt đối:
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần
so sánh.
K = Yt – Yo
Y : GNP, GDP
Yt : GDP, GNP tại thời điểm t của kỳ thời gian phân tích
Y : GDP, GNP tại thời điểm gốc của kỳ thời gian phân tích.
1.3.2. Tốc độ tăng trưởng:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô
kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước.
3
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:
y = dY/Y ì 100(%)
trong đó :
Y là qui mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng.
Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc

độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng
GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế.
Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh
nghĩa.
4
CHƯƠNG 2
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 – 2010
2.1. Quy mô tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao và ổn định trong nhiều năm
Nếu không kể 3 năm cuối do ảnh hưởng đáng kể của khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, nhìn chung, chúng ta đã duy trì được tốc độ tăng trưởng nhanh (từ 7% trở lên).
Việt Nam đã nằm trong danh sách các nước châu Á tăng trưởng nhanh nhất. Tăng
trưởng nhanh được thể hiện ở các khu vực và ở các ngành của nền kinh tế.
- Xét theo khu vực kinh tế, tăng trưởng nhanh nhất là khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài và tiếp sau là khu vực tính tế tư nhân.
- Xột theo các ngành kinh tế, trong xu hướng tăng trưởng nhanh thì ngành
CN luôn đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh hơn cả, và tiếp đó là ngành dịch vụ
Với kết quả tăng trưởng nhanh trong nhiều năm liền: (i) đời sống kinh tế của
đất nước đã thực sự được khởi sắc; (ii) đời sống của người dân cũng theo đó được cải
thiện khá nhanh và Liên Hiệp Quốc đã công nhận Việt Nam đã hoàn thành các chỉ tiêu
về xóa đói giảm nghèo trong chương trình thiên niên kỷ do tổ chức này đạt ra.
Tuy vậy trong bức tranh tổng thể khá tích cực về tăng trưởng kinh tế gợn lên
một số vấn đề đáng lo ngại, đó là xu hướng tăng trưởng nhanh đang có biểu hiện
giảm sút và nhìn chung thu nhập bình quân của Việt Nam vẫn nằm ở mức thấp nhất
trong khu vực
- Tăng trưởng kinh tế qua hai thập kỷ diễn biến mang tính chu kỳ 10 năm khỏ
rừ, trong mỗi chu kỳ, tăng trưởng đạt tốc độ cao dần vào giai đoạn đầu sau đó thấp
đi ở giai đoạn sau.
- Sự suy giảm tăng trưởng diễn ra ở tất cả các ngành kinh tế, trong đó điều

đáng nói là sự giảm sút tốc độ tăng trưởng của hai nhóm ngành CN và Dịch vụ.
2.1.2. GDP bình quân đầu người vẫn ở mức thấp nhất trong khu vực
Tính thu nhập bình quân đầu người tính bằng USD (theo tỷ giá hối đoái bình
quân) năm 2010 của Việt Nam đạt khoảng 1170 USD. Tuy vậy, hiện tại còn thấp xa
5
so với các con số tương ứng của nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á (Singapore
37.597,3 USD, Thái Lan 4.042,8 USD, Philippines 1.847,4 USD). GDP bình quân
đầu người của Việt Nam mới bằng 42,8%, con số tương ứng của khu vực Đông
Nam Á và đứng thứ 7/11 nước; bằng 26% con số tương ứng của châu Á và đứng
thứ 36/50 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh; bằng 11,7% con số tương ứng
của thế giới và đứng thứ 138/182 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh.
2.2. Đánh giá mô hình tăng trưởng theo các yếu tố đầu vào
Mô hình tăng trưởng xét theo góc độ đầu vào nhằm giúp làm rõ nguồn gốc của
tăng trưởng kinh tế, bao gồm việc huy động các yếu tố của sản xuất là K (vốn), L
(lao động) và năng suất (TFP).
- Đóng góp vào tăng trưởng GDP của Việt Nam thời gian qua chủ yếu là yếu
tố nguồn lực vật chất là K và L và sự đóng góp của yếu tố này có xu hướng tăng
lờn.Trong thời kỳ 1990-2000, 56% tăng trưởng GDP của Việt Nam là do đóng góp
của yếu tố vật chất Tuy nhiên, trong thời kỳ 2000-2010, đóng góp của các yếu tố vật
chất đã tăng lên tới 73%. Điều này phản ánh thực chất quá trình tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam đó thiên theo hướng mở rộng theo chiều rộng. Việc mở rộng quy mô
nền kinh tế (tăng trưởng theo chiều rộng) đối với cac nước đang phát triển như Việt
Nam là hợp lý, trong điều kiện chúng ta đang còn nhiều tiềm năng phát triển chưa
được khai thác và sử dụng. Tuy vậy, theo thời gian nó phải được giảm đi về tỷ trọng
và thay thế dần bằng các yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu mới là đúng xu thế và
quy luật. Xu thế tăng trưởng quá thiên về vốn vật chất (với tỷ lệ góp ngày càng
tăng của K và L) là sự bất hợp lý trong mô hình tăng trưởng ở nước ta hiện nay.
- Đóng góp của yếu tố TFP vào tăng trưởng chiếm tỷ lệ thấp và lại có xu
hướng giảm sút nhanh trong giai đoạn 2001- 2010. Thời kỳ 1990 – 2000 44% tăng
trưởng GDP là do yếu tố TFP; đến giai đoạn 2001-2010 phần đóng góp của TFP

giảm xuống chỉ còn 26%, có năm đóng góp của yếu tố này còn có giá trị âm. Nhìn
chung đóng góp của TFP vào tăng trưởng của Việt Nam thấp xa so với con số 35 –
40% của một số nước trong khu vực. Có thể khẳng định rằng, vai trò hạn chế của
yếu tố TFP đối với tăng trưởng là một rào cản lớn cho việc nâng cao hiệu quả tăng
trưởng kinh tế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ tiêu năng suất lao động, hiệu quả
6
đầu tư, và nhất là đến khả năng duy trì bức tranh tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
cũng như khả năng khai thác triệt để các tiềm năng của đất nước.
- Trong các yếu tố vật chất thì đóng góp chính lại là yếu tố vốn vật chất chứ
không phải là lao động. Thời kỳ 1990-2000, yếu tố vốn vật chất đóng góp 34% vào
tốc độ tăng trưởng, sang đến giai đoạn 2001-2010 đã lên tới xấp xỉ 60%. Trong khi
đó đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng có xu hướng giảm sút, từ 22%
(giai đoạn trước) xuống còn 19% giai đoạn sau.
Kết luận: nếu theo góc độ các yếu tố đầu vào, những dấu hiệu trờn đó phản
ánh tăng trưởng của Việt Nam thời gian qua được thực hiện theo mô hình tăng
trưởng theo chiều rộng với việc chú trọng chủ yếu đến yếu tố vốn vật chất
Mô hình này phản ánh một số bất cập sau đây:
2.2.1. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đó quỏ dựa vào K (vốn),
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đó quỏ dựa vào K (vốn), tức là tăng trưởng
theo kiểu “quảng canh” ngày càng rõ nét. Các nước đang phát triển, khi tiềm năng
còn chưa khai thác nhiều thường có xu hướng tăng trưởng theo chiều rộng. Tuy vậy,
theo xu hướng phát triển, việc mở rộng nền kinh tế theo chiều rộng cần phải được
giảm đi và thay vào đó là cần phải chú trọng nhiều hơn đến yếu tố năng suất, hiệu
quả như các yếu tố khoa học công nghệ, quản lý và chất lượng nguồn nhân lực, nhất
là phải chú trọng đến năng suất của lao động sống
Đối với Việt Nam, điều này còn bất hợp lý hơn khi chúng ta là một nước không có
năng lực về vốn, kể cả vốn tài chính lẫn vốn vật chất. Vấn đề tăng trưởng của Việt Nam
đã phụ thuộc quá nhiều vào vốn vật chất đã hàm ý nói rằng năng suất biên của vốn ở
Việt Nam là thấp và đặt ra câu hỏi về sự bền vững của cách thức tăng trưởng hiện nay.
2.2.2. Đóng góp của yếu tố lao động

Đóng góp của yếu tố lao động đã nhỏ nhưng lại có xu hướng giảm là một bất
hợp lý đối với một nước có nhiều tiềm về lao động. ở phần lớn các nước trong khu
vực có quy mô dân số tương đồng với Việt Nam, tỷ lệ đóng góp của yếu tố này
khoảng từ trên 20% đến 30%, thậm chí 40%, trong khi đó ở Việt Nam lao động
đóng góp dưới 20% vào tăng trưởng kinh tế. Yếu tố lao động đóng góp ít và có xu
hướng giảm ở Việt Nam phản ánh những bất cập sau đây:
7
Một là, chưa tận dụng hết lực lượng lao động vào hoạt động kinh tế. Tốc độ
tăng trưởng việc làm bình quân năm năm thấp hơn tốc độ tăng trưởng lao động. Bất
cập trong gia tăng vốn vật chất làm trầm trọng hơn mức độ gia tăng chậm của việc
làm.hơn 37% tổng đầu tư xã hội tập trung vào khu vực nhà nước thâm dụng vốn
trong khi khu vực này chỉ tạo 34% GDP và tạo ra 10% số việc làm. Trong khi đó,
khu vực kinh tế tư nhân tạo ra nhiều việc làm nhất (hơn 87% tổng số việc làm) lại
chỉ chiếm 28% tổng đầu tư xã hội. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp thành thị và tỷ lệ sử
dụng thời gian lao động khu vực nông thôn vẫn không được cải thiện.
Hai là, chất lượng lao động thấp hiện là thắt nút cổ chai lớn nhất.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo có tăng lên qua các năm nhưng còn thấp xa so với
các nước, thậm chí thấp hơn so với mục tiêu đề ra
- Cơ cấu lao động qua đào tạo mất cân đối, mang tính vừa thiếu thầy, vừa
thiếu thợ, “thiếu thợ còn hơn thiếu thầy”. công tác đào tạo nghề chưa được quan
tâm đầu tư đúng mức. Hệ thống quản lý đào tạo nghề manh mún và phân tán, dưới
sự quản lý của nhiều cơ quan quản lý khác nhau (Bộ Lao động thương binh và xã
hội, Bộ GD & ĐT, các cơ quan quản lý chuyên ngành). Trang thiết bị đào tạo nghề
và cán bộ giảng dạy không nhận được thu nhập thích đáng; và tâm lý xã hội vẫn còn
coi nhẹ đào tạo nghề và những người tốt nghiệp các trường nghề.
- Trình độ đào tạo có nhiều khiếm khuyết. Đào tạo thợ thì lý thuyết nhiều hơn
tay nghề, các doanh nghiệp khi sử dụng thường phải đào tạo lại.
- Tình trạng thiếu hụt lao động có kỹ năng. Giữa các cơ sở giáo dục đào tạo
với các doanh nghiệp và các đơn vị sử dụng lao động nói chung chưa có sự gắn kết,
do đó sinh viên tốt nghiệp thường không đáp ứng được yêu cầu của thị trường.

Ba là: năng suất lao động rất thấp.
+ NSLĐ của Việt Nam đã tăng liên tục kể từ năm 1986 tới nay, với tốc độ
tăng tương đối cao so với các nước so sánh. Trong thời kỳ 1986 – 2010, NSLĐ của
Việt Nam tăng trung bình 4,67% – cao hơn so với các nước trong khu vực ASEAN
nhưng vẫn thấp hơn khá nhiều so với tốc độ của Trung Quốc (7,26%).
8
(ii) Về mặt tuyệt đối, Việt Nam vẫn là quốc gia có NSLĐ thấp trong khu vực
Đông Nam Á. Ví dụ năm 2009, 2010, NSLĐ của Việt Nam chỉ tương đương 52,6%
của Trung Quốc, Nếu so sánh năng suất lao động trong khu vực chế biến chế tạo,
khu vực vốn được coi là động lực dẫn dắt tăng trưởng năng suất của Việt Nam, thì
kết quả của Việt Nam còn khiêm tốn hơn nữa. Nếu lấy mốc năng suất của Hoa Kỳ
là 100 thì năng suất của khu vực công nghiệp chế biến của Việt Nam tương ứng là
2,4; của Ấn Độ là 4,3; của Inđụnờxia là 5,2; của Trung Quốc là 6,9
+ Năng suất tăng chủ yếu là do chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công
nghiệp và dịch vụ, tuy nhiên tăng năng suất nội bộ ngành còn chậm
Trong giai đoạn 1996 – 2010, tốc độ tăng NSLĐ chỉ đạt trung bình 4,8% hàng
năm từ một mức năng suất xuất phát điểm thấp. chuyển dịch cơ cấu ngành đóng góp
tới hai phần ba tăng trưởng năng suất tổng thể trong giai đoạn 2000 – 2010, trong
khi tăng trưởng năng suất nội bộ ngành chỉ đóng góp khoảng một phần ba. Điều
đáng nói là sự chuyển dịch này phần lớn nhờ vào tác động của di chuyển lao động
từ ngành có NSLĐ thấp sang ngành có NSLĐ cao hơn (chuyển dịch cơ cấu tĩnh).
Trong khi đó số ngành có tốc độ tăng NSLĐ nhanh mà đồng thời tăng được tỷ trọng
lao động vẫn còn ít hoặc nếu có thì tác động của chuyển dịch cơ cấu loại này
(chuyển dịch cơ cấu động) đối với tăng năng suất chung là rất yếu. Kết quả này
phản ánh quá trình chuyển dịch cơ cấu trong hơn hai thập kỷ vừa qua chủ yếu theo
chiều rộng, tức là sự thu hẹp của ngành nông nghiệp đi liền với mở rộng của ngành
công nghiệp và dịch vụ xét cả về tỷ trọng đóng góp vào GDP lẫn tỷ trọng lao động.
Tốc độ tăng NSLĐ trong nội bộ các ngành còn chậm cũng làm nảy sinh những
lo ngại. Hỡnh trờn cho thấy: khu vực nông lâm nghiệp có tốc độ tăng trưởng NSLĐ
cao nhất, trong khi trọng tâm đầu tư của nhà nước và các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tập

trung nhiều vào khu vực chế biến, chế tạo mới mức NSLĐ thấp hơn. Trong những năm
gần đây, ngành công nghiệp chế biến là nơi tạo được nhiều việc làm, đóng góp vào
chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu ngành. Tuy nhiên, chủ yếu là do ngành này mở
rộng quy mô sản xuất và hấp thụ lao động có trình độ thấp, chứ chưa đồng thời tăng quy
mô và tăng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng cao.
9
2.2.3. Đóng góp của yếu tố TFP ngày càng thấp
Điều này đã phản ánh tính chất lạc hậu về công nghệ kỹ thuật và hiệu quả của
tăng trưởng ngày càng thấp.
Một, hàm lượng công nghệ trong giá trị sản phẩm thấp.
So sánh với các nước khác trong khu vực, các sản phẩm chế biến nói chung và
đặc biệt là chế biến cho xuất khẩu của Việt Nam không phức tạp về mặt công nghệ.
Tỷ trọng của các sản phẩm công nghệ vừa và cao trong tổng giá trị gia tăng của các
mặt hàng chế biến xuất khẩu chỉ ở mức trên 20% và không thay đổi qua những năm
gần đây. Các lĩnh vực công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động, chủ yếu là cỏc nhúm
mặt hàng may mặc thời trang, chiếm tới hơn 70% giá trị gia tăng của ngành công
nghiệp chế biến của Việt Nam.
Hai, Trình độ công nghệ các ngành kinh tế thấp
Trình độ công nghệ của nền kinh tế nói chung, kể cả của ngành công nghiệp
nói riêng cũng còn rất thấp. Tỷ trọng doanh nghiệp có công nghệ cao của Việt Nam
mới đạt khoảng 20,6%, thấp xa so với con số tương ứng 29,1% ,73% của Singapore.
Các dự án đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp chủ yếu có quy mô nhỏ (dưới
5 triệu USD/1 dự án). Lĩnh vực đầu tư chủ yếu là các ngành công nghiệp nhẹ, sử
dụng nhiều lao động như dệt, may, các ngành có công nghệ cao còn rất ít. Trình độ
công nghệ thấp chính là lý do hạn chế hiệu quả tăng trưởng kinh tế, hạn chế tốc độ
tăng trưởng giá trị gia tăng, làm cho chúng ta luôn chịu thua thiệt trong quan hệ
thương mại quốc tế, và cũng ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng trong dài hạn khi
các dấu hiệu lợi thế về lao động rẻ ở nước ta đang mất dần và năng lực cạnh tranh
tăng trưởng bị giảm đi một cỏcch tương đối.
Ba, hoạt động chuyển giao công nghệ kém hiệu lực.

Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua cũng chú ý tới việc chuyển giao công
nghệ qua thu hút FDI. tuy nhiên quy mô và hiệu quả không cao. Trình độ lao động
thấp, năng lực công nghệ yếu kém của doanh nghiệp trong nước, và sự thiếu liên kết
(cả xuôi và ngược) giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước được xem là
những rào cản cho quá trình chuyển giao công nghệ thông qua FDI ở Việt Nam. các
10
doanh nghiệp chỉ thực hiện những khâu đơn giản nhất trong dây chuyền sản xuất tại
Việt Nam, còn việc thiết kế, xác định dung lượng và cỏc khõu tinh vi khác đều được
quyết định bởi công ty mẹ ở nước ngoài. Đây là mô hình gia công giản đơn điển
hình, dựa vào nguồn lao động rẻ, tiêu tốn năng lượng, đòi hỏi giao thông và hạ tầng
logistic tốt và cạnh tranh dựa trên giá. Với mô hình này thì sẽ rất khó có thể tạo ra
tác động tràn tích cực từ khu vực FDI
Bốn, công tác nghiên cứu và triển khai trong nước (R&D) hạn chế.
Mặc dù số lượng các tổ chức khoa học công nghệ tăng lên đáng kể, nhưng
chất lượng hoạt động và năng lực sáng tạo công nghệ của các tổ chức này còn thấp
và số tổ chức KHCN trong các trường đại học và khu vực ngoài nhà nước còn rất
thấp. Đầu tư hàng năm cho hoạt động khoa học và công nghệ chỉ chiếm 2% tổng chi
ngân sách nhà nước, kết quả nghiên cứu khoa học được ứng dụng vào thực tiễn chỉ
rất ít do lỗi thời hoặc không còn phù hợp.
2.3.Đánh giá mô hình tăng trưởng theo góc độ ngành:
Mô hình tăng trưởng theo góc độ ngành được xem xét cụ thể trờn cỏc khía
cạnh về đóng góp của các ngành vào tăng trưởng và tính chất hoạt động của các
ngành kinh tế tác động đến tăng trưởng.
- Ngành CN luôn đóng góp vào tăng trưởng nhiều nhất. Trừ 2 năm chịu ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, ngành CN luôn đạt tốc độ tăng trưởng hai
con số và đóng góp vào tăng trưởng toàn nền kinh tế xấp xỉ 50%.
- Đóng góp vào tăng trưởng của ngành thương mại dịch vụ đang có xu hướng
tăng lên. So với thời điểm xuất phát (2001) thì tăng trưởng ngành thương mại – dịch
vụ, tốc độ tăng trưởng thương mại – dịch vụ có xu hướng tăng, từ chỗ thấp hơn tốc
độ tăng trưởng bình quân (giai đoạn 2001-2005), đến duy trì được tốc độ tăng

trưởng cao hơn ở giai đoạn sau, kể cả thời điểm suy giảm tăng trưởng. Kết qủa là
đóng góp của ngành thương mại – dịch vụ vào tăng trưởng có xu hưởng tích cực
hơco. Nếu không kể 2 năm do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, ngành CN
bị suy giảm tăng trưởng nặng thì ngành thương mại – dịch vụ cũng đã đóng góp
khoảng 40% vào tăng trưởng kinh tế chung.
11
Tuy vậy, nếu xem xét tổng thể, thì tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian
qua vẫn được chi phối bởi các ngành sản xuất (NN và CN) là chủ yếu (2/3), tỷ trọng
đóng góp của ngành thương mại dịch vụ được đánh giá là thấp, thời kỳ 2001-2005,
là 37,7% và giai 2006-2010 là 40%. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với nhiều nước
trong khu vực, ví dụ như: Singapore là 65%, Hàn Quốc 62%, Thái Lan 50%,
Philippine 53,5% (Số liệu của Bộ KH& ĐT).
(i) Lao động trong nền kinh tế có xu hướng chuyển dịch khá tốt, bình quân
năm trong giai đoạn từ 2000 đến 2010, tỷ trọng lao động NN đã giảm đi khoảng 1,5
điểm phần trăm Mặc dù tỷ trọng lao động NN giảm đi nhanh nhưng số lao động NN
còn nhiều
(2) Trong khi cơ cấu lao động chuyển dịch nhanh thì chuyển dịch cơ cấu
ngành theo GDP là lại rất chậm. Bình quân năm giai đoạn 2000-2010, tỷ trọng
nông nghiệp chỉ giảm đi 0,3 điểm phần trăm, chậm hơn nhiều so với giai đoạn
1991-2000 (mỗi năm NN giảm 1,56 điểm phần trăm) và chậm hơn so với các nước.
Hiện nay, tỷ trọng đóng góp của NN vào GDP còn chiếm khá cao (trên 20%). Trong
khi tỷ trọng ngành NN giảm chậm thì tỷ trọng dịch vụ gần như không thay đổi,
thậm chí cũn cú nguy cơ giảm trong suốt giai đoạn 2001-2010.
Kết luận: Hiện trạng trên cho thấy cơ cấu kinh tế của Việt Nam hiện nay phản
ánh trình độ phát triển ở mức thấp (giai đoạn chuẩn bị cất cánh, với tỷ trọng NN
trên 20%) và chỉ đạt bằng mức của Thái Lan những năm 1990. Tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam thời gian qua là mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào các ngành sản
xuất, với sự chi phối cũn khỏ mạnh của sản xuất NN.
CHƯƠNG 3
12

THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI VẤN ĐỀ XOÁ ĐểI
GIẢM NGHÈO, CÔNG BẰNG XÃ HỘI THỜI GIAN QUA
3.1. Những thành tựu đã đạt được của sự kết giữa tăng trưởng và xóa đói
giảm nghèo
Nhờ đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong suốt thời kỳ đổi mới, chất
lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cũng ngày càng được cải thiện. Điều đó thể
hiện ở các khía cạnh cơ bản sau:
- Thu nhập theo đầu người ngày càng tăng. Trước thời kỳ đổi mới, phần lớn
dân số nước ta sống bằng nghề nông, Việt Nam bị đánh giá là một đất nước nghèo
nàn, lạc hậu, với mức thu nhập bình quân đầu người rất thấp và có nhiều người
trong diện nghèo đói. Đường lối đổi mới và chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đã
tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, dẫn đến nâng cao thu nhập cho
người dân. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở Việt Nam trong giai
đoạn 1990 - 2002 đạt trung bình 5,2%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2007
của người dân Việt Nam đã đạt 820 USD/năm. So với năm 1995, mức thu nhập
bình quân đầu người hiện nay của Việt Nam đã tăng khoảng 2,8 lần.
- Tỷ lệ nghèo đói có xu hướng giảm mạnh. Trên cơ sở kinh tế tăng trưởng nhanh,
mức độ nghèo đói của dân cư giảm mạnh. Năm 2006, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam là
18,1% (tính theo chuẩn nghèo quốc tế) và được thế giới đánh giá là thành công
trong việc chống nghèo đói.
- Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng lên đáng kể. Nhờ chú
trọng giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe, hạn chế tỷ lệ sinh, nên chỉ số phát triển
con người của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Năm 2006, HDI của Việt Nam
đạt 0,709, cao hơn nhiều nước cú cựng trình độ phát triển kinh tế.
- Đời sống kinh tế, sinh hoạt của người dân ngày càng được cải thiện. Đến nay ở
Việt Nam có 89,4% xó đó có điện, 94,6% xã có đường trải nhựa, 98,9% xó cú
trường tiểu học và 99% cỏc xó cú trạm y tế. Nhiều mục tiêu đề ra đã đạt được hoặc
13
vượt mức như tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 1 tuổi chỉ còn 2,1%, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ

em dưới 5 tuổi còn 25%, tỷ lệ thôn bản có cán bộ y tế cộng đồng đạt 79,8%. Tuổi
thọ của người dân (năm 2006) đạt 71,3 tuổi. Phần lớn người dân Việt Nam đó có
những tiện nghi tối thiểu cho sinh hoạt hằng ngày như điện, nước sạch, ti vi Tỷ lệ
hộ dõn cú phương tiện đi lại bằng xe máy, ụ-tụ và sử dụng các phương tiện sinh
hoạt cao cấp như điện thoại di động, máy tính cá nhân, ngày càng có xu hướng
tăng nhanh.
3.2. Những vấn đề đang tồn tại
Thứ nhất, giữa chính sách kinh tế tài chính và chính sách xã hội chưa thực sự
gắn kết với nhau, dẫn đến sự phân hóa về thu nhập và tài sản ngày càng lớn. Hiện ở
nước ta chưa có cuộc điều tra nào về sự phân hóa thu nhập và tài sản, mà chỉ có
điều tra về mức chi tiêu (thang đo theo ngũ phân vị nêu trên dựa vào chi tiêu của
các tầng lớp xã hội, chứ không phải thu nhập). Sự giàu nhanh của một bộ phận dân
cư, chủ yếu dựa vào sự bất cập của cơ chế và yếu kém trong quản lý nhà nước, chứ
không phải dựa vào tài năng, sự sáng tạo và hiệu quả của lao động. Chẳng hạn,
trong 10 năm gần đây, có rất nhiều người giàu nhanh là nhờ vào "lỗ hổng" trong
quản lý đất đai. Tuy chưa có cuộc điều tra nào về vấn đề này, nhưng thực tế dễ nhìn
thấy được là do yếu kém và tiêu cực trong quản lý đất đai, nhất là ở các đô thị lớn,
đã biến nguồn vốn xã hội này thành của cải của một thiểu số, tạo sự bất công xã hội
ngày càng gay gắt. Tình hình khiếu nại, khiếu tố kéo dài của một bộ phận dân cư
mất đất trong thời gian qua có nguyên nhân từ sự yếu kém này.
Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn thế giới cho thấy, ở những quốc
gia có tỷ lệ đô thị hóa còn thấp, quá trình đô thị hóa chính quỹ đất đô thị là "con gà
đẻ trứng vàng", mà chính quyền có thể điều tiết để đầu tư phát triển các phúc lợi
công cộng, nâng cao chất lượng cuộc sống cộng đồng, tạo sự hưởng thụ bình đẳng
cho các tầng lớp dân cư nếu có sự phân phối hợp lý nguồn vốn này. Do chính sách
thiếu đồng bộ, nhất là sử dụng không hiệu quả các công cụ quản lý, như quy hoạch,
quản lý sử dụng đất, quản lý dự án đầu tư bất động sản , sử dụng công cụ tài chính
như thuế, phí để điều tiết và chống đầu cơ, đã tạo ra bất công xã hội.
14
Thứ hai, quá trình đô thị hóa diễn ra tự phát, thiếu quy hoạch và chính sách

điều tiết chưa hợp lý dẫn đến mâu thuẫn giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội.
Nghiên cứu kinh nghiệm ở nhiều quốc gia cho thấy, trong quá trình đô thị hóa và
công nghiệp hóa, vấn đề khó khăn nhất là làm thế nào để chuyển một bộ phận nông
dân mất đất thành thị dân, trở thành người lao động trong các ngành nghề phi nông
nghiệp. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua, chúng ta chưa có các chính sách và giải
pháp thực sự hữu hiệu để giải quyết bài toán khó khăn này. Ngược lại, ở nhiều địa
phương, chính quyền chủ yếu chỉ quan tâm vào việc giải tỏa nhanh để lấy đất, đền
bù cho người dân một số tiền theo kiểu "áp đặt giá mua", trong khi việc quan trọng
hơn là giúp họ tổ chức cuộc sống cho bản thân và gia đình sau khi mất đất thỡ ớt
được quan tâm. Nhiều người đã hiểu sai lệch về cơ chế kinh tế thị trường theo kiểu
"thuận mua vừa bán" trong công tác đền bù giải tỏa (để chuyển từ đất nông nghiệp
sang phi nông nghiệp), mà không hiểu rằng, chỉ có việc làm mới là cơ sở quan trọng
nhất tạo sự ổn định cuộc sống cho mỗi con người. Sự phản ứng của xã hội trong
thời gian gần đây về tình hình mất đất nông nghiệp, sử dụng lãng phí quỹ đất phi
nông nghiệp cũng là hệ quả của tình hình trên.
Thứ ba, trong mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng
xã hội thông qua sự vận động của cơ chế thị trường, công cụ quan trọng nhất để
Nhà nước điều tiết là thuế và phí. Trong đó, chính sách thuế phải chuyển dần từ
thuế gián thu sang thuế trực thu, như thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản bất động
sản trong nguồn thu ngân sách nhà nước. Sau Đại hội IX (năm 2001), Chính phủ đó
cú chiến lược cải cách về thuế trong giai đoạn 2001 - 2010 nhằm thay đổi cơ cấu
nguồn thu. Nhưng đến nay vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể. Thuế trực thu hiện mới
đóng góp khoảng 7% - 8% cho ngân sách, còn chủ yếu dựa vào thuế gián thu. Từ đó
có thể nói, chính sách thuế chưa thực sự thúc đẩy công bằng xã hội. Mặt khác,
những nỗ lực của Nhà nước thời gian qua để kiểm soát thu nhập của các tầng lớp
dân cư nhằm điều tiết bằng công cụ thuế thu nhập cá nhân đã không mấy thành
công do chưa giải quyết được tình trạng của nền kinh tế tiền mặt.
Thứ tư, mô hình kinh tế dựa vào nền tảng phát triển các doanh nghiệp vừa và
nhỏ là mô hình tạo ra tầng lớp trung lưu chiếm chủ yếu trong cơ cấu xã hội, nờn
15

tớnh bình đẳng càng cao. Trong nhiều năm qua, chúng ta cũng có chủ trương hỗ trợ
để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng trên thực tế, khi thực hiện chủ trương
này, hầu như không có chính sách cụ thể kèm theo, như chính sách thuế, chính sách
tín dụng, chính sách hỗ trợ về đất đai, dịch vụ sản xuất, ứng dụng công nghệ, đào
tạo nhân lực, xúc tiến thương mại Hiện nay, cả nước có đến hàng chục tổ chức hỗ
trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng chủ yếu vẫn chỉ là cung cấp dịch vụ để thu phí,
thay vì thực thi chính sách quốc gia hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
Thứ năm, có sự lệch lạc trong việc thực thi chủ trương xã hội hóa các dịch vụ
thuộc về hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa v.v Điển hình nhất là thương
mại hóa các lĩnh vực giáo dục, y tế với chủ trương cho phép thành lập các loại công
ty kinh doanh y tế, giáo dục. Ai cũng biết, bản chất của công ty là tối đa hóa lợi
nhuận, nên không thể vừa cho lập công ty kinh doanh vừa kêu gọi hạn chế lợi
nhuận. Trong khi đó, y tế, giáo dục là vấn đề của Nhà nước chứ không phải là vấn
đề của thị trường. Một khi để thị trường điều tiết 2 loại dịch vụ công này, thì không
thể rút ngắn được khoảng cách biệt về hưởng thụ giữa các tầng lớp dân cư, để từ đó
góp phần nâng cao tính chất công bằng xã hội.
Như vậy, cả về lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, không phải lúc nào thị
trường cũng đúng trong việc phân bố nguồn lực của nền kinh tế. Sự thất bại của thị
trường thậm chí sẽ mang đến những hệ quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế, tạo
nên những cuộc khủng hoảng kinh tế.
Mặc dù đến nay người ta nhận thấy rằng, chưa có mô hình kinh tế nào tạo
động lực phát triển tốt hơn mô hình kinh tế thị trường, nhưng bản thân mô hình kinh
tế này cũng có nhiều khuyết tật mang tính bản chất, nổi bật và trên thực tế thường
diễn ra 3 khuyết tật: (1) - Sự phát triển mang tính tự phát do "bàn tay vô hình" là thị
trường dẫn dắt, nên luôn luôn tạo ra khủng hoảng thừa và thiếu, khủng hoảng mang
tính chất chu kỳ; khủng hoảng cục bộ hoặc toàn cục; (2) - Do động lực cạnh tranh
và động cơ lợi nhuận, các doanh nghiệp luôn luôn xem nhẹ lợi ích cộng đồng, như
vấn đề phá hoại môi trường, gian lận thương mại, đầu cơ thái quá; (3) - Mô hình
kinh tế thị trường là mô hình làm giàu cho thiểu số, không thể có chuyện mọi người
16

cùng giàu theo sự tác động tự nhiên của thị trường.
Do đó, nhiều nhà kinh tế đó vớ mối quan hệ giữa thị trường với nhà nước như
"hai bánh xe" của một cỗ xe vận hành nền kinh tế. Sự chệch choạc trong quá trình
vận hành của "hai bánh xe" này chính là điều mà chúng ta thường nói là sự bất cập
trong quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Bởi vì, thị trường hoạt động
theo quy luật của "bàn tay vô hình", mà các quy luật đó giống như quy luật "nước
chảy chỗ trũng". Còn vai trò của nhà nước can thiệp vào thị trường là dẫn dắt "dòng
nước" đó chảy theo mục đích của mình. Nghĩa là, nhân tố khách quan (của quy luật
thị trường) và ý muốn chủ quan (trong mục tiêu phát triển của nhà nước) không triệt
tiêu lẫn nhau. Đõy chớnh là điểm khó khăn nhất cả về phương diện tư duy cũng như
hành động trong suốt quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung sang kinh tế thị trường; cũng là điều bất cập đáng kể nhất trong cơ chế
quản lý kinh tế hiện nay.
Để khắc phục những khuyết tật trờn, cỏc quốc gia, tùy theo điều kiện lịch sử
và đặc điểm của mình; đồng thời tùy theo mục tiêu của nhà nước đó đề ra những
công cụ quản lý khác nhau. Ngày nay, khi nói đến phát triển bền vững, tức là nói
đến việc sử dụng vai trò của nhà nước để khắc phục 3 khuyết tật của thị trường vừa
đề cập ở trên. Do đặc điểm chế độ chính trị, truyền thống văn hóa, lịch sử và năng
lực quản trị khác nhau, nên việc giải quyết những khuyết tật nói trên ở mỗi quốc gia
sẽ có kết quả khác nhau. Có thể nói, vai trò của nhà nước là hạn chế những thất bại
của thị trường, đồng thời khắc phục những khuyết tật cố hữu của thị trường. Chức
năng này càng trở nên quan trọng đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa mà nước ta đang xây dựng.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đang diễn ra, cựng
lỳc xuất hiện sự tranh luận về vai trò của nhà nước. Trong đó, có 2 quan điểm khác
nhau là: nhà nước nhỏ, thị trường lớn hoặc ngược lại. Tuy nhiên, thực tiễn kinh tế
thế giới cũng như ở nước ta trong những năm qua đều cho thấy, các cuộc khủng
hoảng lớn hay nhỏ đều có nguyên nhân từ sự yếu kém trong vai trò điều tiết của nhà
nước nhằm hạn chế những khuyết tật của thị trường.
17

Vấn đề không phải ở chỗ nhà nước lớn hay thị trường lớn, mà ở chỗ, nhà nước
phải thực sự đảm nhận chức năng bổ khuyết và xử lý những thất bại của thị trường.
Nói cách khác, nhà nước can thiệp vào thị trường như thế nào, bằng các công cụ gì
để phù hợp với chức năng của mình; nhưng đồng thời không làm cho các quan hệ
của thị trường bị méo mó. Đây cũng chính là một biểu hiện cụ thể trong nhận thức
về vai trò của nhà nước trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội trong điều kiện ngày nay
18
CHƯƠNG 4
GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
KẾT HỢP XOÁ ĐểI GIẢM NGHÈO, CÔNG BẰNG XÃ HỘI
TRONG THỜI GIAN TỚI
4.1. Quan điểm phát triển
4.1.1. Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền
vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược
Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm
an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú
trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải
kết hợp hài hoà với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không
ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế-xã hội phải
luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí
hậu. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang
đặt ra hết sức cấp thiết. Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển
nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải
luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế-
xã hội.
Phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc
phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.

4.1.2. Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây
dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh
Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với
đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong
19
xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc thực
hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi
mới và phát triển.
4.1.3. Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người
là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển
Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người
được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện
đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng
sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước.
Phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội.
4.1.4. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công
nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Hoàn thiện thể chế để tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải
phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học,
công nghệ; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Phát
triển nhanh, hài hoà các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Phải tăng
cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ

vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều
tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Phát triển kinh tế tập thể với nhiều
hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã. Khuyến khích phát triển các
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh
nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc
đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để
phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế.
20
Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy hoạch.
Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh
và ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và phân
phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.
4.1.5. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ
ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững
và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm lực
kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
sâu rộng và có hiệu quả. Phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều
thương hiệu mạnh, có sức cạnh tranh cao để làm chủ thị trường trong nước, mở
rộng thị trường ngoài nước, góp phần bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
Trong hội nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích ứng với những thay đổi của tình
hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia.
4.2 Mục tiêu chiến lược và khâu đột phá
4.2.1. Mục tiêu tổng quát
Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục
được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.

4.2.2. Mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường
•Về kinh tế
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7
- 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010;
GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD.
21
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ
chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng
dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp
chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có
bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị
gia tăng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động; tỉ lệ
lao động nông nghiệp khoảng 30 - 35% lao động xã hội.
Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt khoảng 35%; giảm
tiêu hao năng lượng tớnh trờn GDP 2,5 - 3%/năm. Thực hành tiết kiệm trong sử
dụng mọi nguồn lực.
Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỉ lệ đô thị
hoá đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%.
•Về văn hóa, xã hội
Xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, công bằng, văn minh. Đến
năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới;
tốc độ tăng dân số ổn định ở mức khoảng 1%; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; đạt 9
bác sĩ và 26 giường bệnh trên một vạn dân (1), thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; lao
động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã hội; tỉ lệ
hộ nghèo giảm bình quân 1,5- 2%/năm; phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và chăm sóc
sức khỏe cộng đồng được bảo đảm. Thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần
so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa cỏc vựng và nhóm dân cư.
Xoá nhà ở đơn sơ, tỉ lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây dựng nhà ở
tớnh trờn một người dân.

Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đến năm 2020, có một số lĩnh vực khoa
học và công nghệ, giáo dục, y tế đạt trình độ tiên tiến, hiện đại. Số sinh viên đạt 450
trên một vạn dân.
22
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến
bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực
sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật.
•Về môi trường
Cải thiện chất lượng môi trường. Đến năm 2020, tỉ lệ che phủ rừng đạt 45%
(2). Hầu hết dân cư thành thị và nông thôn được sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh.
Các cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập phải áp dụng công nghệ sạch hoặc
trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 80% các cơ sở sản xuất kinh
doanh hiện có đạt tiêu chuẩn về môi trường. Các đô thị loại 4 trở lên và tất cả các
cụm, khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung. 95%
chất thải rắn thông thường, 85% chất thải nguy hại và 100% chất thải y tế được xử
lý đạt tiêu chuẩn. Cải thiện và phục hồi môi trường các khu vực bị ô nhiễm nặng.
Hạn chế tác hại của thiên tai; chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu,
nhất là nước biển dâng.
4.2.3. Các đột phá chiến lược
(1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng
tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
(2) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao,
tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt
chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
(3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện
đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
23
KẾT LUẬN
Kết quả của quá trình tăng trưởng trong giai đoạn 2001-2010 đã giúp sức cho

công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt nhiều thành tựu nổi bật, được quốc tế đánh giá
cao. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn giảm .Trẻ em được quan tâm
bảo vệ, chăm sóc; tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 33,8% xuống còn
dưới 18%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 67 lên 75 tuổi. Cả nước đã hoàn thành phổ
cập giáo dục trung học cơ sở. Chỉ số phát triển con người (HDI) không ngừng tăng
lên, đạt 0,733 (theo tiêu chí cũ) và 5,75 (theo cách tính mới), thuộc nhóm nước
trung bình cao trên thế giới. Mức hưởng thụ văn hoá, điều kiện tiếp cận thông tin
của người dân được nâng lên rõ rệt. Hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội được coi
trọng và từng bước mở rộng. Cùng với những kết quả to lớn trong việc xã hội hoá
phát triển các lĩnh vực xã hội, ngân sách nhà nước chi cho các lĩnh vực này không
ngừng tăng lên; bảo hiểm y tế được mở rộng từ 13,4% dân số năm 2000 lên khoảng
62% năm 2010. Bình đẳng giới có nhiều tiến bộ, tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội và
giữ các trọng trách trong hệ thống chính trị ngày càng cao
Tuy nhiên, trong giai đoạn tới Chính phủ cần có những chính sách mới, những
giải pháp tốt hơn nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam
để thông qua đó có thể nâng cao chất lượng sống của người dân.
24

×