Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT MỞ BÀI TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.75 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HÀ TĨNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT MỞ BÀI TRONG
BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH THPT

Lĩnh vực : Dạy học
Bộ môn : Ngữ văn
Mã số

:

Hà Tĩnh, tháng 04/2014


MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ…...……………………………………….………………………...
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ…………………………………………….………….…..
1. Cơ sở khoa học của đề tài………………………………………....……………..
1.1. Cơ sở lí luận: ……………………………………………………...….………….
1.2. Cơ sở thực tiễn: ……………………………..……………………….…………
2. Thực trạng và nguyên nhân của những hạn chế khi viết phần mở bài
2.1. Thực trạng viết mở bài văn nghị luận xã hội…...….……………………...
2.2. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế khi viết mở bài........………………………
3. Rèn luyện kĩ năng từ một số cách viết mở bài........................................….....
31. Mở bài trực tiếp:…………………………………………………….…………...
3.2. Mở bài gián tiếp:………………………………………………….…………...
3.3. Mở bài theo hướng phản đề:………………….…….…………………........
4. Kết quả dạy học thể nghiệm…..………………..………….....….……………...


C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ………………………………...…………….…...
1. Kết luận…………………………………………………….………………….…...
2 Kiến nghị………………………………………………………………………..….

MỞ ĐẦU

1
3
3
3
4
5
5
6
8
8
12
16
19
20
20
20


Trong các kỳ thi Tốt nghiệp THPT và Đại học, Cao đẳng và kể cả thi
chọn học sinh giỏi, câu hỏi nghị luận xã hội có một vị trí hết sức quan trọng.
Câu hỏi nghị luận xã hội vừa là cơ sở để đánh giá chất lượng của đề thi, vừa là
câu hỏi chiếm tỉ lệ điểm tương đối cao (từ 3 đến 4 điểm trong thang điểm 10)
góp phần làm nên thành công của bài thi. Trong đề thi môn Ngữ văn, câu hỏi
nghị luận xã hội là phần mà thí sinh thích nhất, bởi nó khơng bị gị bó, ln đem

đến sự mới mẻ và cũng là phần đề thi dễ “kiếm điểm”. Tuy nhiên, hiện nay
nhiều học sinh rất ngại và lười rèn luyện kỹ năng viết bài, nên khi làm bài văn
nghị luận xã hội, thường lúng túng và mắc nhiều lỗi. Điều này tất yếu dẫn đến
kết quả các bài làm văn điểm không đạt được như mong muốn.
Để làm nên một bài văn nghị luận xã hội thành công cần phải đạt được
nhiều yêu cầu. Trong đó, mở bài vừa đúng, vừa hay là yêu cầu đầu tiên và cũng
có ý nghĩa nhất. Bởi vì, mở bài khơng chỉ có một vị trí quan trọng trong cả bài
viết mà cịn là phần khó khăn nhất của học sinh. Không phải ngẫu nhiên mà
Macxim Gorki đã từng kết luận: “Khó hơn cả là phần mở đầu, cụ thể là câu đầu,
cũng như trong âm nhạc, nó chi phối giọng điệu của tác phẩm và người ta
thường tìm nó rất lâu”.
Hiện nay có nhiều bài viết, sách mẫu, sách hướng dẫn về cách làm bài văn
nghị luận xã hội, tuy nhiên khơng có một tài liệu nào tập trung tháo gỡ khó khăn
của học sinh khi viết mở bài. Học sinh khi viết mở bài văn nghị luận xã hội luôn
chiếm nhiều thời gian, mắc phải nhiều lỗi về diễn dạt và trình bày. Trong thời
gian dạy học làm văn nghị luận xã hội, tôi nhận thấy giáo viên cần phải hình
thành kỹ năng làm mở bài cho học sinh. Khi học sinh thành thạo kỹ năng chắc
chắn sẽ viết được mở bài tốt hơn, hay hơn, hấp dẫn hơn.
Với mong muốn nâng cao hiệu quả dạy học phần nghị luận xã hội nói
riêng và dạy học Ngữ văn nói chung khiến tơi trăn trở, suy ngẫm, tìm tịi để đưa
ra một hướng dạy học giúp học sinh nâng cao hiệu quả khi làm văn nghị luận xã
hội. Đó cũng chính là những lý do để tôi lựa chọn đề tài: “Rèn luyện kỹ năng
làm mở bài cho học sinh trong văn nghị luận xã hội”


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở khoa học của đề tài:
1. Cơ sở lí luận:
Mục tiêu dạy học khơng chỉ giúp học sinh nắm được nội dung kiến thức
mà phải hình thành cho học sinh kỹ năng vận dụng vào thực tiễn với những dạng

bài tập cụ thể. Việc vận dụng đòi hỏi phù hợp với yêu cầu của từng dạng đề, phù
hợp với tính chất của từng kỳ thi. Nếu trong kỳ thi tốt nghiệp chỉ yêu cầu học
sinh với những kiến thức và kỹ năng cơ bản thì kỳ thi Đại học, Cao đẳng đòi hỏi
học sinh phải vận dụng thành thục những kỹ năng đó để có thể viết được một bài
văn nghị luận không chỉ đầy đủ luận điểm, dẫn chứng, lí lẽ mà cịn phải hay, hấp
dẫn, lôi cuốn người đọc.
Nghị luận xã hội thực chất là đưa ra những dẫn chứng, lí lẽ để bàn luận,
đánh giá về một vấn đề xã hội thông qua hệ thống luận điểm. Những câu hỏi
nghị luận xã hội trong đề thi giúp học sinh có cơ hội thể hiện đầy đủ quan niệm,
suy nghĩ, nhận thức của học sinh về một vấn đề xã hội. Trong những kỳ thi gần
đây, dạng đề văn nghị luận xã hội ngày càng khó hơn, đa dạng hơn. Đề thi mang
tính tổng hợp chứ khơng cịn tách biệt giữa nghị luận về một hiện tượng đời
sống và nghị luận về một tư tưởng đạo lý. Câu hỏi nghị luận xã hội hết sức đa
dạng. Khi làm bài phải phụ thuộc vào cách nhìn nhận của học sinh về những vấn
đề xã hội. Trước một vấn đề, mỗi học sinh có thể có cách tiếp cận khơng giống
nhau. Vì thế, việc dẫn dắt của học sinh vào vấn đề cũng khác nhau.
Trong bài làm văn nghị luận xã hội, phần mở bài có vai trị hết sức quan
trọng góp phần làm nên thanh công cho cả bài văn. Phần mở bài vừa làm cơ sở
cho phần thân bài, vừa tạo tâm thế, gợi cảm hứng cho người đọc. Phần mở bài
phải đạt những yêu cầu nêu được vấn đề một cách ngắn gọn, định hướng cách
giải quyết vấn đề đặt ra của đề bài. Tuy nhiên, trong thang điểm, phần mở bài
nhiều khi khơng đưa vào đáp án nhưng trong q trình chấm, mở bài đảm bảo
yêu cầu đúng, đủ, hay sẽ đạt điểm số nhất định. Để một mở bài hay, hấp dẫn


người đọc, địi hỏi mở bài phải có tính sáng tạo. Mỗi dạng đề văn nghị luận xã
hội thường có những cách mở bài phù hợp. Từ yêu cầu, tính chất cả từng kỳ thi
sẽ đòi hỏi học sinh cách mở bài tương ứng.
2. Cơ sở thực tiễn:
Trong phân phối chương trình Ngữ văn hiện nay, phần làm văn nghị luận

xã hội chỉ được sắp xếp với một thời lượng tương đối ít (chỉ từ 2 đến 3 tiết học).
Chỉ trong vài tiết học, giáo viên không đủ thời gian để hướng dẫn cho nhiều đối
tượng học sinh một cách đầy đủ, chi tiết. Học sinh cũng khơng có nhiều thời
gian để rèn luyện kỹ năng làm bài qua việc vận dụng vào những bài tập cụ thể.
Hiện nay, khi dạy học, phần lớn giáo viên ít chú ý đến việc rèn luyện ky
năng viết mở bài của học sinh. Chính vì thế, khi viết mở bài học sinh thường
lúng túng, thiếu kỹ năng cho nên những bài làm văn nghị luận xã hội ít khi đem
đến sự mới mẻ, sáng tạo thậm chí trở nên nhàm chắn cho người đọc. Trong các
kỳ thi, khi làm bài nghị luận xã hội học sinh thường lúng túng chọn cách mở bài
dẫn đến mất nhiều thời gian để viết mở bài (thực tế nhiều học sinh phải mất từ
15 đến 20 phút mới có thể viết được phẩn mở bài). Điều này cho thấy, học sinh
vừa thiếu kỹ năng phân tích đề, tìm hiểu đề vừa khơng có kỹ năng diễn đạt, trình
bày bài viết, trước hết là kỹ năng viết phần mở bài. Để một mở bài hay, học sinh
cần được trang bị kiến thức và kỹ năng viết được nhiều cách mở bàif khác nhau
Đề văn nghị luận xã hội có nhiều hình thức khác nhau. Chính vì thế, các
kiểu mở bài cũng hết sức đa dạng. Tuy nhiên, trong thực tế, mở bài của đề văn
xã hội đều theo những yêu cầu nhất định. Hiện nay, đa số học sinh lựa chọn cách
mở bài trực tiếp. Cách mở bài này đơn giản, dễ vận dụng nhưng học sinh mắc
nhiều lỗi cơ bản. Thực ra, với đề văn nghị luận xã hội có thể mở bài theo nhiều
cách khác nhau. Mỗi cách sẽ đáp ứng yêu cầu nhất định về tính chất của từng kỳ
thi, đồng thời mỗi học sinh sẽ có những khả năng riêng khi lựa chọn mở bài.
II. Thực trạng và nguyên nhân của những hạn chế khi viết phần mở bài.
1. Thực trạng viết mở bài văn nghị luận xã hội


Đề văn nghị luận xã hội đem đến một sự thay đổi lớn trong cách nhìn
nhận, trong quá trình đổi mới dạy học Ngữ văn. Những bài làm văn nghị luận xã
hội hay của học sinh đã góp phần tạo nên những làn sống dư luận tích cực về đổi
mới dạy học Ngữ văn trong đời sống. Nhiều bài văn nghị luận xã hội cho ta thấy
được cách nhìn, cách nghĩ mở mẻ với nhiều sáng tạo trong phần mở bài. Trên

các phương tiện thông tin đại chúng, những bài viết hay với cách mở bài sáng
tạo đã kích thích hứng thú cho học sinh. Có nhiều bài làm văn nghị luận xã hội
đã đem đến thành công cho bản thân học sinh như bài của em Nguyễn Trung
Hiếu (trường Hà Nội Amstexdam), bài của em Nguyễn Thị Hậu (trường THPT
Huỳnh Thúc Kháng - Nghệ An)...
Trái lại, thực tế của nhiều năm đi chấm thi và trực tiếp dạy học, ôn luyện
cho học sinh thi học sinh giỏi, thi Đại học - Cao đẳng, tôi nhận thấy, phần mở
bài trong bài làm văn nghị luận xã hội của học sinh cịn tồn tại rất nhiều hạn chế.
Nhiều học sinh khơng biết mở bài. Thực ra, trong quá trình học, học sinh phần
lớn chưa chú ý mở bài sao cho đúng, cho hay. Một số lỗi thường gặp của học
sinh khi viết mở bài cho đề văn nghị luận xã hội:
- Nhiều học sinh làm bài khơng có khơng có mở bài, khơng giới thiệu u
cầu đề. Hay nói chính xác hơn, học sinh mở không xác định được bố cục bài viết
nên làm bài không phân biệt được mở bài hay thân bài. Vì vậy, học sinh làm bài
là trực tiếp giải quyết vấn đề mà thiếu phần đặt vấn đề. Nhiều học sinh chép lại y
nguyên yêu cầu đề để thay cho phần mở bài..
- Mở bài không nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài. Khi thiếu kỹ năng
làm bài văn nghị luận xã hội, học sinh sẽ khơng biết phân tích đề, xác định trọng
tâm u cầu đề. Chính vì vậy, mở bài khơng giới thiệu được yêu cầu đề. Nếu mở
bài không giới thiệu được yêu cầu sẽ không đảm bảo yêu cầu của phần mở bài
đồng thời khi viết bài sẽ diễn đạt lan man, thiếu luận điểm để làm rõ vấn đề đạt
ra.
- Mở bài dài dịng, khơng nêu được giới hạn phạm vi vấn đề cần nghị
luận. Viết mở bài dài dòng sẽ khiến mất thời gian, cạn kiệt ý tưởng cho phần


thân bài. Mở bài dài dòng sẽ gây nhàm chán cho người đọc đồng thời có thể dẫn
đến xa đề, lạc đề ở phần thân bài.
- Mở bài bằng việc dẫn dắt ngôn từ sáo rỗng, gượng ép. Khi học sinh
khơng hiểu u cầu của đề bài, khơng phân tích đề ra thường “bịa ra” mở bài để

dẫn dắt vấn đề. Điều này sẽ gây cho người đọc cảm giác mơ hồ, khó chịu về sự
giả tạo.
2. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế khi viết mở bài văn nghị luận xã hội.
Những hạn chế của học sinh khi viết mở bài cho bài văn nghị luận xã hội
xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau:
a. Nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu của phần mở bài:
Mở bài là phần khó nhất trong bài văn nghị luận xã hội. Học sinh viết
được một mở bài đạt yêu cầu không chỉ giới thiệu được vấn đề mà còn phải làm
tiền đề cho phần thân bài, tạo tâm thế tiếp nhận cho người đọc đồng thời phải có
tính sáng tạo, mới mẻ để hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Viết được mở bài đồng
nghĩa với học sinh nhận thức được yêu cầu đề, biết cách phân tích đề ra và có
định hướng viết thân bài và kết bài. Vì vậy, mở bài là phần đầu của bài làm văn
nghị luận xã hội nhưng mở bài cũng chi phối đến các yếu tố khác trong quá trình
làm bài văn nghị luận xã hội.
b. Nguyên nhân xuất phát từ học sinh:
Đây là nguyên nhân chủ yếu và căn bản nhất dẫn đến những hạn chế của
học sinh khi viết phần mở bài:
- Học sinh không nắm vững lý thuyết làm bài văn nghị luận xã hội. Trước
hết là lý thuyết viết mở bài. Trong quá trình học, kiến thức viết mở bài cho bài
văn nghị luận xã hội không tách riêng trong một bài học cụ thể. Trong chương
trình Ngữ văn THCS, học lý thuyết Viết mở bài và kết bài cho bài văn nghị luận.
Trong chương trình Ngữ văn THPT học bài thực hành: Rèn luyện viết mở bài,
kết bài trong văn nghị luận (trong chương trình Ngữ văn lớp 12). Chính vì thế,
đa số học sinh khơng nắm vững kiến thức lý thuyết. Khi vào phòng thi, học sinh
cứ đặt bút viết theo cảm tính, nghĩ gì viết nấy, khơng chịu để ý đề yêu cầu nghị


luận cái gì, cứ viết chung chung, tràn lan, linh tinh, khơng có chọn lọc. Cho nên
mở bài rồi chuyển xuống thân bài chưa nêu ra được vấn đề đề yêu cầu nghị luận.
Những mở bài như vậy sẽ trở nên mơ hồ, dễ lạc đề, lệch đề, xa trọng tâm yêu

cầu đề, thậm chí là lan man, lạc đề.
- Khi làm bài thi, học sinh có thói quen khơng thực hiện thao tác phân tích
đề. Khơng phân tích đề, dẫn đến nhiều mở bài không xác định đúng yêu cầu của
đề, không xác định được phạm vi đề đặt ra. Việc khơng phân tích đề làm cho bài
viết của học sinh vừa hệ thống luận điểm không rõ ràng, không chặt chẽ vừa làm
cho mở bài lan man. Phân tích đề là bước đầu tiên của việc làm bài văn nghị
luận nhưng đồng thời đó cũng là bước hết sức quan trọng để có thể viết được
một mở bài hay. Khơng tiến hành thao tác phân tích đề, dẫn đến học sinh trong
quá trình làm bài nghĩ đến đâu, viết đến đó. Đây là nguyên nhân đa số học sinh
gặp phải kể cả với những học sinh học khối để ôn thi ĐH & CĐ, cả học sinh ôn
thi chọn học sinh giỏi.
- Bên cạnh đó cịn có ngun nhân: học sinh khơng chịu khó rèn luyện
trong q trình học. Chính điều này làm cho học sinh khơng thành thạo khi viết
mở bài. Ngay cả với học sinh giỏi, việc tự viết bài để rèn luyện và hoàn thiện kỹ
năng cũng rất ít. Học sinh phần lớn chỉ chờ giáo viên đọc chép, khơng có ý thức
tự mày mị, tìm kiếm. Chính vì vậy, để ơn thi học sinh phải học thuộc cách viết
của giáo viên hoặc viết theo các bài văn mẫu của sách tham khảo.
c. Nguyên nhân xuất phát từ giáo viên:
Hạn chế trong viết mở bài cho đề văn Nghị luận xã hội còn xuất phát từ
phương pháp dạy học của giáo viên: Trong quá trình dạy học, giáo viên tập
trung hướng dẫn học sinh phân tích đề, lập dàn ý, xây dựng hệ thống luận điểm.
Giáo viên khơng dành thời gian hình thành kỹ năng viết mở bài cho học sinh.
Bên cạnh đó, một số giáo viên hiện nay lại chủ yếu tập trung vào việc cung cấp
kiến thức về mặt lý thuyết, ít chú ý rèn luyện kỹ năng thực hành. Vì vậy, một tiết
học trên lớp, học sinh ít có cơ hội rèn luyện kỹ năng viết mở bài của mình
III. Mợt số cách viết mở bài cho đề văn nghị luận xã hội


Một bài văn nghị luận xã hội hay cần nhiều kỹ năng song mở bài là một
kỹ năng quan trọng cho thấy người viết đã xác định đúng và trúng vấn đề, tạo

tâm thế cho người đọc tiếp nhận bài viết. Mục đích của phần mở bài là giới thiệu
và dẫn dắt vào vấn đề nghị luận. Đó cũng là hai bước không thể thiếu ở phần mở
bài. Mở bài cho đề văn nghị luận có rất nhiều cách khác nhau, văn nghị luận xã
hội việc lựa chọn cách viết mở bài càng đa dạng. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh
đã từng khẳng định: “Các cách mở bài khác nhau chủ yếu ở phần dẫn dắt. Phần
nêu vấn đề và phần giới hạn vấn đề thường không thay đổi, viết mở bài theo
kiểu gì thì ai cũng phải nêu được phần này. Nói gọn lại, cứ thay đổi phần dẫn dắt
ta sẽ có một mở bài mới”. Trong đề tài này, xuất phát từ kinh nghiệm và kết quả
dạy học, tôi lựa chọn 3 cách mở bài cơ bản, dễ dàng vận dụng vào dạy học với
nhiều đối tượng học sinh khác nhau. Đó là: Mở bài trực tiếp, mở bài gián tiếp và
mở bài theo hướng phản đề. Mỗi cách mở bài đều có những ưu điểm và hạn chế
tùy thuộc vào khả năng vận dụng và yêu cầu đề để vận dụng.
1. Mở bài trực tiếp:
a. Mở bài trực tiếp:
Mở bài trực tiếp là cách mở bài đi thẳng vào vấn đề mà yêu cầu của đề đặt
ra. Cách mở bài này không yêu cầu cao đối với học sinh. Đây là dạng mở bài
tương đối dễ. Học sinh cũng dễ vận dụng vào quá trình làm bài của mình. Ngay
cả đối tượng là những học sinh trung bình cũng dễ dàng vận dụng hướng mở bài
trực tiếp.
Mở bài trực tiếp là cách mở bài được học sinh lựa chọn nhiều. Mở bài
theo hướng trực tiếp thường ngắn gọn, dễ dẫn dắt vào yêu cầu đề. Học sinh có
thể trực tiếp giới thiệu vấn đề nghị luận. Cách mở bài này sẽ không bị xa đề, lạc
đề. Mặt khác, mở bài trực tiếp sẽ không bị mất nhiều thời gian. Mở bài trực tiếp
có thể hạn chế tính sáng tạo, không tạo được hứng thú mới mẻ cho người đọc.
Tuy nhiên, trước khi hướng dẫn học sinh viết bài theo những cách khác, giáo
viên cần rèn luyện học sinh thành thạo cách viết mở bài theo hướng trực tiếp.


Cách viết mở bài theo hướng trực tiếp là tiền đề cho những cách viết mở bài
khác với những yêu cầu cao hơn, khó hơn.

b. Hướng dẫn học sinh cách viết mở bài trực tiếp:
+ Xác định trọng tâm yêu cầu đề. Đây là thao tác quan trong nhất trong việc
phân tích đề. Yêu cầu đề thường nằm ở phần giới hạn của đề. Trọng tâm đề có
vai trị then chốt đối với cách mở bài trực tiếp.
+ Từ yêu cầu trọng tâm của đề, học sinh phải đưa ra được những hiểu biết, đánh
giá của mình về những ảnh hưởng, tầm quan trọng của vấn đề đặt ra.
+ Cuối cùng, dẫn dắt vào yêu cầu đề. Với cách mở bài trực tiếp, khi có thể đưa
ra nhận định của mình về vấn đề ngay từ phần mở bài. Tuy nhiên, dẫn dăt phải
ngắn gọn.
c. Bài tập vận dụng:
Ví dụ 1: Đề số 1:
Khi bàn về lối sống thực dụng, có ý kiến cho rằng: “sống thực dụng sẽ
làm cho con người ta ngày càng trở nên toan tính, ti tiện, coi trọng giá trị vật
chất hơn mọi giá trị khác trong cuộc sống”. Ý kiến khác lại khẳng định:“Không
phải lối sống thực dụng lúc nào cũng xấu. Nếu sống trong mơi trường tồn
những người thực dụng mà bản thân khơng như thế thì cuối cùng cũng sẽ bị đào
thải thôi”.
Anh chị hãy viết bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của
mình về hai ý kiến trên.
Các bước tiến hành viết mở bài:
+ Xác định trọng tâm yêu cầu đề: Lối sống thực dụng
+ Ảnh hưởng, tầm quan trọng của vấn đề đặt ra: phổ biện trong cuộc sống hiện
nay, để lại những hậu quả nghiêm trọng.
+ Đưa ra nhận định về vấn đề để dẫn dắt vào yêu cầu đề
Viết mở bài :
Thực dụng đang là một lối sống phổ biến trong xã hội hiện nay. Lối sống
thức dụng gây nên những ảnh hưởng không nhỏ đến những giá trị truyền thống


tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên, khi bàn về lối sống thực dụng, lại có những quan

điểm trái ngược nhau. Có ý kiến cho rằng: “sống thực dụng sẽ làm cho con
người ta ngày càng trở nên toan tính, ti tiện, coi trọng giá trị vật chất hơn mọi
giá trị khác trong cuộc sống”. Ý kiến khác lại khẳng định: “Không phải lối
sống thực dụng lúc nào cũng xấu. Nếu sống trong mơi trường tồn những người
thực dụng mà bản thân khơng như thế thì cuối cùng cũng sẽ bị đào thải thơi”.
(Trích từ bài làm của học sinh)
Ví dụ 2: Đề số 2:
Trước tình trạng người nhà bệnh nhân hành hung bác sĩ ngay tại bệnh
viện hiên nay, trên trang báo điện tử Dantri.com.vn, bạn đọc có tên Lê Chân
Nhân đã viết: “Nơi nào mà lòng nhân ái và đạo đức tụt hậu thì sự lo ngại cịn
lớn hơn sự tụt hậu về kinh tế” .
Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày quan điểm của anh /
chị về ý kiến trên.
Các bước tiến hành viết mở bài:
+ Xác định trọng tâm yêu cầu đề: Sự tụt hậu về lòng nhân ái và đạo đức.
+ Ảnh hưởng, tầm quan trọng của vấn đề đặt ra: Đó là mối lo ngại lớn trong
cuộc sống hiện nay.
+ Đưa ra nhận định về vấn đề để dẫn dắt vào yêu cầu đề
Viết mở bài :
Những thành tựu kì diệu của kỹ thuật công nghệ làm nên những thay đổi
mạnh mẽ về nhiều mặt của đời sống. Nhưng, cuộc sống càng hiện đại con người
phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thử thách. Trong đó có nguy cơ tụt hậu về kinh
tế, xuống dốc về đạo đức, về lòng u thương, tình nhân ái. Nguy cơ tụt hậu về
lịng nhân ái, về đạo đức đã thể hiện qua tình trạng người nhà bệnh nhân hành
hung bác sĩ. Trước tình trạng đó, trên báo điện tử Dantri.com Lê Chân Nhân đã
đưa ra nhận định: “Nơi nào mà lòng nhân ái và đạo đức tụt hậu thì sự lo ngại
cịn lớn hơn sự tụt hậu về kinh tế”. (Trích từ bài làm của học sinh)


Ví dụ 3: Đề số 3:

Trong lễ tang của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trên báo điện tử
Dantri.com.vn, có đưa hai thông tin:
- Trong lúc chờ đợi xe linh cữu đi qua, nhóm phóng viên của VTV bất ngờ
lao ra và đứng chắn hết trước mặt nhân dân, tỏ thái độ thơ lỗ, thiếu văn hóa với
người dân đang đứng xếp hàng phía đằng sau, cịn hiên ngang đứng giữa
đường đưa điện thoại ra tạo dáng, chụp ảnh.
- Trong dòng bạn trẻ lễ viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Nhà văn hóa
Thanh niên: Nguyễn Xuân Nguyên - Anh thanh niên cụt cả hai tay, mắt rưng
rưng, quỳ dưới di ảnh của Đại tướng.
Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày quan điểm của anh /
chị về hai hình ảnh trên.
Các bước tiến hành viết mở bài:
+ Xác định trọng tâm yêu cầu đề: Cách ứng xử của giới trẻ hiện nay.
+ Ảnh hưởng, tầm quan trọng của vấn đề đặt ra: Bên cạnh những cách ứng xử
cao đẹp, giới trẻ hiện nay đang hình thành một cách ứng xử thiếu văn hóa
+ Đưa ra nhận định về vấn đề để dẫn dắt vào yêu cầu đề
Viết mở bài :
Ứng xử là thước đo chuẩn xác về giá trị văn hóa nhận thức của con người.
Trong cuộc sống, mỗi người có hồn cảnh khác nhau vì thế trước một sự việc,
một tình huống sẽ có những thái độ sống, quan niệm sống khác nhau và cũng sẽ
có cách ứng xử khác nhau. Có những cách ứng xử được đồng tình, ngợi ca,
ngược lại có những cách ứng xử bị lên án, phê phán. Hai thông tin đăng tải trên
báo điện tử Dantri.com về cách ứng xử của tuổi trẻ trong Lễ tang Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đã cho thấy rõ điều đó: nhóm phóng viên của VTV ứng xử thiếu
văn hóa với một thái độ thơ lỗ còn anh thanh niên tật nguyền Nguyễn Xuân
Nguyên cụt cả hai tay, mắt rưng rưng, quỳ giữa đường, ôm di ảnh của đại tướng
trước ngực”.
2. Mở bài gián tiếp:



a. Mở bài gián tiếp:
Mở bài gián tiếp là cách người viết đi từ vấn đề khác có liên quan để bắt
cầu giới thiệu vấn đề nghị luận. Khi mở bài gián tiếp thường bắt đầu bằng cách
trích dẫn một ý kiến, một câu chuyện, lối sống, cách ứng xử,... làm cơ sở đề dẫn
dắt vào yêu cầu của đề đặt ra.
Mở bài gián tiếp tạo cho bài viết có chất văn chương, sáng tạo hơn, đem
đến những sáng tạo mới mẻ, bất ngờ cho người đọc. Tuy nhiên, cách mở bài
gián tiếp với những học sinh không thành thạo kỹ năng sẽ rất dễ lan man, dài
dòng, sa đà vào vấn đề khác dẫn đến xa đề hoặc lạc đề. Học sinh khơng chủ
động khi viết thì mở bài có thể sẽ trích dẫn vịng vo, dài dịng, mất thời gian. Do
vậy cần đọc thật kĩ đề bài, gạch chân những từ ngữ quan trọng để xác định cho
trúng vấn đề nghị luận.
b. Hướng dẫn học sinh cách viết mở bài gián tiếp:
Để mở bài gián tiếp, khi dạy học sinh cần hình thành các cho học sinh
những kỹ năng qua các bước sau:
+ Đọc phân tích yêu cầu đề. Từ đặt ra yêu cầu bàn luận về vấn đề gì của
của sống: Cách sống, cách ứng xử, thái độ sống, quan niệm sống,....
+ Lựa chọn một câu chuyện, một thông tin, một ý kiến, cách ứng xử... để
dẫn dắt, khẳng định vấn đề. Khi lựa chọn cần phải đặt nó trong mối quan hệ
tường dồng, gần gũi về mặt ý nghĩa
+ Dẫn dắt vào yêu cầu đề để giới thiệu vấn đề. Dẫn dắt cần bộc lộ cách
đánh giá của người viết về những thơng tin mình đưa ra.
c. Bài tập vận dụng:
Ví dụ 4: Đề số 4:
Matin Luther King từng nói: "Trong thế giới này, chúng ta khơng chỉ xót
xa vì những hành động và lời nói của người xấu mà cịn cả vì sự im lặng đáng
sợ của người tốt". Anh (chị) có suy nghĩ gì về ý kiến trên?
Các bước tiến hành viết mở bài:
+ Xác định trọng tâm yêu cầu đề: Sự tim lặng của người tốt



+ Lựa chọn một câu chuyện, một thông tin, một ý kiến,...: Câu chuyện về anh
thanh niên bị móc ví trên xe buýt
+ Dẫn dắt vào yêu cầu đề để giới thiệu vấn đề.
Viết mở bài :
Cách đây không lâu, cư dân mạng truyền tay nhau một đoạn clip tại một
bến xe buýt ở Hà Nội. Nhân vật trong clip là một thanh niên gầy gị, gương mặt
vơ cùng khắc khổ, đã bị kẻ gian lấy cắp chiếc ví. Dẫu rằng, chiếc ví ấy khơng hề
có tiền mà chỉ có một giấy phép lái xe, anh ta thảm thiết nhìn ra xung quanh van
nài kẻ trộm: “Cho em xin…khơng có tiền đâu, chỉ có bằng lái xe thơi…”. Vậy
mà trước hồn cảnh đó khơng ai dám lên tiếng, khơng ai hỏi han hay có ý giúp
đỡ người thanh niên tội nghiệp. Câu chuyện này để lại cho nhiều người về cách
sống và thái độ ứng xử của con người trong xã hội hiện nay. Quả thật đúng như
Martin Luther King: “Trong thế giới này, chúng ta khơng chỉ xót xa trước lời
nói và hành động của kẻ xấu mà cịn cả vì sự im lặng đến đáng sợ của người
tốt.” (Trích bài làm của em Đỗ Thị Ngọc Anh trường THPT chuyên Nguyễn
Trãi - Hải Dương)
Ví dụ 5: Đề số 5:
“Con người bình đẳng, khơng phải sự sinh ra mà đức hạnh mới tạo nên sự
khác biệt (Voltaire)
Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh
(chị) về ý kiến trên.
Các bước tiến hành viết mở bài:
+ Xác định trọng tâm yêu cầu đề: Vai trò của đức hạnh làm nên sự khác biệt của
con người
+ Lựa chọn một câu chuyện, một thông tin, một ý kiến,...: câu chuyện về Nick con người giàu nghị lực và khát vọng để làm nên điều kỳ diệu của cuộc sống
+ Dẫn dắt vào yêu cầu đề để giới thiệu vấn đề.
Viết mở bài:



Nếu ai đã từng gục ngã sau những lần thất bại, nếu ai đã từng nghĩ rằng
cuộc đời không công bằng khi mình ln gặp phải những khó khăn, thử thách.
Nhưng nếu một lần được nghe Nick Vujicic diễn giả ta sẽ hiểu ra rằng cuộc đời
ln bình đẳng với mọi người. Nick trở thành con người kỳ diệu nhất thế giới bở
anh có một cơ thể khiếm khuyết nhưng lại có một trái tim lành lạnh. Với Nick,
điều quan trọng nhất là đứng bao giờ từ bỏ khát vọng, hãy luôn yêu thương và
biết tha thứ với mọi người.. Nick đã đến với con người bằng tất cả trái tim, bởi
với anh: “tơi khơng có tay để chạm vào tay của người khác nhưng tơi có trái tim
để chạm vào trái tim của người khác”. Trái tim của Nick đã thắp lên ngọn lửa
khát vọng cho bao nhiêu con người vượt lên số phận. Từ nghị lực phi thường
của mình, từ trái tim quả cảm của Nick ta nhận ra rằng: “Con người bình đẳng,
khơng phải sự sinh ra mà đức hạnh mới tạo nên sự khác biệt” (Voltaire) (Trích
từ bài làm của học sinh)
Ví dụ 6: Đề số 6:
Trên Facebook, nickname T.B (của thiếu nữ 9X) đã tung tin giả chết để
câu like chia sẻ của mọi người.
Anh chị hãy viết bài văn ngắn (khoảng 600 từ) bày tỏ suy nghĩ của mình
về hiện tượng trên.
Các bước tiến hành viết mở bài:
+ Xác định trọng tâm yêu cầu đề: Cách sống của giới trẻ hiện nay
+ Lựa chọn một câu chuyện, một thông tin, một ý kiến,...: từ một nhận định và
một vài hiện tượng tương tự
+ Dẫn dắt vào yêu cầu đề để giới thiệu vấn đề.
Viết mở bài :
Albert Schweitzer từng khẳng định“Đạo đức khơng gì bằng lịng tơn kính
cuộc sống” bởi mỗi con người ai cũng chỉ được sống có một lần. Tuy nhiên,
thay vì nghĩ làm sao để sống tốt, sống đẹp thì con người ta lại xem nhẹ những
giá trị cuộc sống của mình. Trong giới trẻ hiện nay, điều này xẩy ra ngày càng
nhiều. Dư luận chưa hết sửng sốt với hàng loạt cô gái trẻ lên các trang mạng xã



hội để khoe thân thì phải giật mình trước hiện tượng “Trên Facebook một cơ gái
có nickname T.B đã tưng tin giả chết để câu like chia sẻ cùng mọi người”. Phải
chăng, đó là cách để giới trẻ khẳng định giá trị cuộc sống của mình. (Trích từ bài
làm của học sinh)
Ví dụ 7: Đề số 7:
Có ý kiến cho rằng: “Thời gian là vàng, vì thế phải biết quý trọng từng
phút từng giây”. Ý kiến khác lại cho rằng: “Thời gian không quan trọng, điều
quan trọng là cách con người sử dụng thời gian của bản thân mình”
Anh chị hãy viết bài văn ngắn (khoảng 600 từ) bày tỏ quan niệm của mình
về hai ý kiến trên.
Các bước tiến hành viết mở bài:
+ Xác định trọng tâm yêu cầu đề: Cách sử dụng thời gian
+ Lựa chọn một câu chuyện, một thông tin, một ý kiến,...: từ một câu chuyện về
chim sê
+ Dẫn dắt vào yêu cầu đề để giới thiệu vấn đề.
Viết mở bài:
Những chú chim non đi lượm lặt thóc rơi vãi trên cánh đồng rộng lớn để
chuẩn bị nguồn thức ăn cho mùa đông, trong số đó có hai chú chim gần nhau là
sẻ nâu và sẻ vàng. Sẻ nâu cần mẫn từ sáng sớm chỉ mong thu nhặt được nhiều
thứ ngược lại, sẻ vàng luôn nhởn nhơ và nó ln nghĩ cịn nhiều thời gian lắm.
Nhưng mùa động năm đó đến sớm hơn dự định, tuyết phủ trắng cánh đồng và
đàn chim về tổ. Sẽ vàng đã khơng sống sót qua nổi chỉ vì thiếu lương thực. Câu
chuyện về những chú chim làm ta nghĩ đến những quan niệm khác nhau về cách
sử dụng thời gian. Phải chăng: “Thời gian là vàng, vì thế phải biết quý trọng
từng phút từng giây” hay “Thời gian không quan trọng, điều quan trọng là cách
con người sử dụng thời gian của bản thân mình”. (Trích từ bài làm của học
sinh)
3. Mở bài theo hướng phản đề:
a. Mở bài theo hướng phản đề:



Mở bài theo hướng phản đề hay còn gọi là mở bài theo hướng biện luận
phản bác từ vấn đề trái ngược. Mở bài phản đề thực chất cũng là một hình thức
của mở bài gián tiếp. Tuy nhiên, mở bài phản đề lại xuất phát từ những sự việc,
cách ứng xử trái ngược với vấn đề đặt ra. Từ đó mới lập luận để dẫn dắt vào yêu
cầu đề.
Cách mở bài này địi hỏi tính sáng tạo cao. Mở bài theo hướng phản đề lôi
cuốn, hấp dẫn, gợi sự tò mò cho người đọc. Mở bài theo hướng phản đề là sự
phát triển cao hơn của cách mở bài gián tiếp. Vì vậy, khi làm mở bài theo hướng
phản đề yêu cầu học sinh phải nắm vững hình thức mở bài gián tiếp Cách mở
bài này, ngay từ đầu học sinh có thể bộc lộ rõ quan điểm, cách đánh giá của
mình về vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, mở bài này thường khó, nếu học sinh khơng
nắm vững vấn đề đặt ra sẽ dễ dẫn đến mở bài lan man, xa yêu cầu đề.
b. Hướng dẫn học sinh cách viết mở bài theo hướng phản đề:
+ Xác định yêu cầu của đề bài. Mở bài theo hướng phản đề cũng cần thiết phải
xác định yêu cầu đề. Việc xác đnhị đúng yêu cầu đề giúp học sinh lựa chọn
những câu chuyện, sự việc, cách ứng xử trái ngược
+ Lựa chọn vấn đề đối lập hoặc trái ngược: Trong cuộc sống luôn tồn tại hai mặt
trái ngược nhau. Để đánh giá đúng sai, phải trái, tôt xấu phải xuất phát từ cách
nhìn nhận của mỗi người..
+ Lập luận để đặt lại vấn đề theo yêu cầu đề ra. Sau khi đưa ra vấn đề trái
ngược, học sinh phải đưa ra nhận định của mình, thái dộ, cách nhìn của mình về
vấn đề của đề ra.
c. Bài tập vận dụng:
Ví dụ 8: (Theo dề số 3 - Mở bài trực tiếp)
Các bước tiến hành viết mở bài:
+ Xác định yêu cầu của đề bài: Cách ứng xử của giới trẻ hiện nay.
+ Lựa chọn vấn đề đối lập hoặc trái ngược, khẳng định vấn đề đó trong cuộc
sống.

+ Lập luận để đặt lại vấn đề theo yêu cầu đề ra.


Viết mở bài :
Khi bà Tưng và người mẫu Ngọc Trinh đăng đàn trên báo chí quan niệm
sống của mình: “u khơng có tiền cạp đất mà ăn à”, “tơi cần những đại gia,
những người giàu có đến với mình”,… đã có nhiều ý kiến lên án quan niệm sống
thực dụng của giới trẻ. Thế nhưng, một bộ phận của giới trẻ hiện nay khơng chỉ
có sống thực dụng mà vơ cảm, thơ lỗ, thiếu văn hóa. Hai hình ảnh trái ngược của
nhóm phóng viên VTV và anh thanh niên cụt tay Nguyễn Xuân Nguyên trong
đám tang Đại tưỡng Võ Nguyên Giáp khiến ta phải suy nghĩ về cách ứng xử của
giới trẻ hiện nay. (Trích từ bài làm của học sinh)
Ví dụ 9: Đề số 8
Hãy viết bài văn trình bày quan điểm của anh (chị) về bản chất của thành
công.
Các bước tiến hành viết mở bài:
+ Xác định yêu cầu của đề bài: Quan điểm về thành công.
+ Lựa chọn vấn đề đối lập hoặc trái ngược, khẳng định vấn đề đó trong cuộc
sống: Sự hồn hảo trong cơng việc, thành đạt để có cuộc sống giàu sang,...
+ Lập luận để đặt lại vấn đề theo yêu cầu đề ra.
Viết mở bài :
Đã bao giờ bạn tự hỏi thành cơng là gì mà bao kẻ bỏ cả cuộc đời mình
theo đuổi? Phải chăng đó là kết quả hồn hảo trong cơng việc, sự chính xác đến
từng chi tiết? Hay đó là cách nói khác của từ thành đạt, nghĩa là có được một
cuộc sống giàu sang, được mọi người nể phục? Vậy thì bạn hãy dành chút thời
gian để lặng mình suy ngẫm. Cuộc sống sẽ chỉ cho bạn có những người đạt được
thành cơng theo một cách giản dị đến bất ngờ.(Trích từ bài làm của học sinh)
Ví dụ 10: (Theo dề số 7 - Mở bài gián tiếp)
Các bước tiến hành viết mở bài:
+ Xác định yêu cầu của đề bài: Cách sử dụng thời gian

+ Lựa chọn vấn đề đối lập hoặc trái ngược, khẳng định vấn đề đó trong cuộc
sống: Lời nói và cơ họi là quan trọng nhất.


+ Lập luận để đặt lại vấn đề theo yêu cầu đề ra.
Viết mở bài:
Khi trả lời cho câu hỏi: với con người thứ gì là quan trọng nhất có nhiều
quan niệm khác nhau. Có người cho rằng: tiền bạc là quan trọng nhất bởi có tiền
bạc sẽ có tất cả. Có người lại cho rằng sức khỏe mới quan trọng nhất có sức
khỏe sẽ có cả tiền bạc. Thực ra, thời gian mới là thứ quan trọng nhất. Thời gian
của cuộc đời thì vơ tận những thời của con người là thứ duy nhất mất đi không
thể lấy lại được. “Thời gian là vàng, vì thế phải biết quý trọng từng phút, từng
giây” thế nhưng vẫn có ý kiến trái ngược: “Thời gian không quan trọng, điều
quan trọng là cách con người sử dụng thời gian của bản thân mình” (Trích từ
bài làm của học sinh)
IV. Kết quả dạy học thể nghiệm
Tôi tiến hành dạy học thể nghiêm ở 4 lớp của khối 12 có chất lượng
ngang nhau
- Với 2 lớp 12A4, 12A5: không vận dụng hướng dẫn học sinh cách viết
mở bài.
- Với 2 lớp 12A6, 12A7: sau khi vận dụng hướng dẫn học sinh cách viết
mở bài.
Để đánh giá kết quả dạy học thể nghiệm, tôi sử dụng đề kiểm tra cho thời
gian làm bài 15 phút như sau:
Ví dụ 11: Đề số 9:
Hãy viết phần mở bài cho đề bài sau:
Có ý kiến cho rằng: “Giới trẻ hiện nay sống thực dụng, chỉ chạy
theo những giá trị vật chất mà bỏ quên những giá trị tinh thần”.
Từ ý kiến trên, anh/chị hãy bày tỏ quan điểm của mình về lối sống thực
dụng trong giới trẻ hiện nay.

Kết quả thu được:
Lớp

Điểm Tỉ lệ
0,1

%

Điểm

Tỉ lệ

Điểm

Tỉ lệ

Điểm

Tỉ lệ

Từ 2 đến > 5

%

từ 5 đến > 8

%

8 trở lên


%


12A4
12A5
12A6
12A7

13
14
5
6

32,5
35,0
12,5
15,0

21
22
9
13

52,5
55,0
22,5
32,5

5
2

19
12

12,5
5,0
47,5
30,0

2
1
7
9

5,0
2,5
17,5
22,5

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Để nâng cao hiệu quả bài làm văn nghị luận xã hội phải kết hợp nhiều yếu
tố khác nhau, từ xây dựng hệ thống luận điểm, lựa chọn dẫn chứng, sử dụng các
thao tác lập luận, viết các đoạn văn,... trong đó một mở bài hay, hấp dẫn có một
vai trị hết sức quan trọng. Có nhiều cách khác nhau để viết mở bài. Mỗi cách
mở bài đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Lựa chọn cách mở bài phù
hợp sẽ góp phần khơng nhỏ đến thành cơng của cả bài viết.
Một mở bài cho đề văn nghị luận xã hội đáp ứng được tiêu chí: đúng - đủ
- hay là đã khơng dễ dàng, dạy học để hình thành kỹ năng cho học sinh lại càng
khó khăn hơn. Trong 3 cách trên đều là những cách mở bài cơ bản nhất có thể
vận dụng vào dạy học cho nhiều đối tượng học sinh khác nhau, đáp ứng được

những yêu cầu khác nhau của mỗi kỳ thi. Mỗi cách mở bài đều có những ưu
điểm, hạn chế và yêu cầu riêng nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Để viết
được mở bài gián tiếp hay, học sinh phải nắm vững cách mở bài trực tiếp; để
viết được mở bài theo hướng phản đề có tính sáng tạo cao thì học sinh phải biết
cách viết mở bài theo hướng gián tiếp. Từ mở bài trực tiếp đến mở bài gián tiếp,
đến mở bài theo hướng phản đề đều có sự tăng dần về độ khó, về tính sáng tạo.
Vì vậy, giáo viên phải tùy thuộc vào đối tượng học sinh, tính chất kỳ thi để lựa
chọn dạy học và rèn luyện cách mở bài phù hợp nhất.
2. Kiến nghị
Việc lựa chọn cách mở bài trong dạy học, giáo viên phải nắm được đặc
điểm của đối tượng học sinh, tính chất kỳ thi để mang lại hiệu quả cao nhất. Để


học sinh có thể viết được một bài văn nghị luận xã hội hay, sáng tạo, cần kết hợp
hình thành các kỹ năng khác cho học sinh như xây dựng luận điểm, sử dụng dẫn
chứng, rút ra bài học,...
Việc sử dụng các dạng mở bài khác nhau trong quá trình dạy học cho học
sinh cần phải linh hoạt, điều quan trọng là từ kỹ năng học sinh đã có được, các
em có thể sáng tạo ra những mở bài hay, những cách mở bài mới. Khơng nên gị
bó khả năng sáng tạo của học sinh.
Trong quá trình dạy học các tiết làm văn, giáo viên khơng chỉ hình thành
cho học sinh kỹ năng viết phần mở bài của đề văn nghị luận xã hội mà còn cấn
thiết cả kỹ năng mở bài cho đề văn nghị luận văn học. Với thời lượng dạy học
trên lớp, giáo viên sẽ khơng có thời gian để hướng dẫn và hình thành kỹ năng
viết phần mở bài cho học sinh. Vì vậy, dạy học cách viết mở bài phải được vận
dụng thường xuyên trong thời gian dạy khối, dạy ôn thi tốt nghiệp, dạy học bài
luyện tập về thao tác luận,... đặc biệt là ở tiết trả bài.
Trước một vấn đề tưởng rằng “Biết rồi, khổ lắm nói mãi!” nhưng vào thực
tế dạy học lại gặp rất nhiều khó khăn. Trên đây là những trăn trở và tâm huyết
của bản thân trong thực tiễn dạy học nhưng chắc chắn sẽ còn nhiều hạn chế

mong được trao đổi cùng đồng nghiệp.



×