Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được chuyên đề thực tập này, em xin chân thành cảm ơn sự
hướng dẫn và giúp đỡ của các thầy cô giáo trường đại học kinh tế quốc dân và viện
Ngân hàng Tài chính đã trang bị cho em những kiến thức cơ bản để lựa chọn và
hoàn thành tốt chuyên đề thực tập này.
Ngoài ra, em cũng chân thành cảm ơn các anh chị trong công ty Cổ phần Du
lịch và Truyền thông quốc tế VietlinkVN đã nhiệt tình chỉ bảo giúp đỡ em tiếp xúc
và tìm hiểu thực tế về nghiệp vụ trong suốt thời gian thực tập tại công ty.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Giáo viên hướng dẫn
TS.Nguyễn Thị Minh Huệ đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề thực
tập này.
Hà Nội ngày 17 tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Đỗ Thị Anh
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Những nội dung trong báo cáo này do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn trực
tiếp của cơ TS.Nguyễn Thị Minh Huệ , giảng viên Viện Ngân hàng Tài chính
Mọi tài liệu tham khảo dung trong chuyên đề này đều được trích dẫn rõ ràng.
Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy chế đào tạo hay gian trá, tôi xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm
Hà Nội ngày 17 tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Đỗ Thị Anh
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế của các Công ty Cổ phần ,
chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đã được nhìn nhận như động lực tăng
trưởng kinh tế quan trọng của Việt Nam. Số lượng các doanh nghiệp Cổ
phần hiện nay của Việt Nam lên tới hàng trăm nghìn, đóng góp lớn vào
GDP cũng như giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động. Tuy nhiên,
theo nhận định của nhiều nhà kinh tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay
chưa phát huy được hết tiềm năng của mình, còn gặp nhiều khó khăn.
Nguyên nhân một phần do bản thân doanh nghiệp chưa có nhiều kinh
nghiệm nhất định trong nền kinh tế thị trường, chưa đủ năng động sáng tạo
trong kinh doanh. Một phần khác là do khả năng tài chính của doanh
nghiệp đó còn yếu hay nói cách khác đó là nguồn vốn của doanh nghiệp đó.
Khả năng tự chủ về tài chính cao đồng nghĩa với việc cơ hội kinh doanh
của doanh nghiệp cũng lớn hơn.
Khi muốn khởi tạo doanh nghiệp, điều kiện cần đầu tiên là phải có
vốn. Trong quá trình hoạt động, sự biến động của vốn cũng là cơ sở và dấu
hiệu cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để tiếp tục phát triển và
đứng vững doanh nghiệp không những phải duy trì số vốn bỏ ra ban đầu
mà còn phải tìm kiếm đến những khoản vốn bổ sung từ nhiều nguồn khác
nhau. Chính vỡ lẽ đóhuy động vốn trong doanh nghiệp luôn được coi là
một trong những ưu tiên hàng đầu. Thực hiện tốt huy động vốn cũng là
đồng nghĩa với thành công trong xây dựng một cơ cấu vốn hợp lý với chi
phí thấp, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cạnh tranh với các chủ
thể kinh tế khác trên thương trường.
Chính vì vậy, việc tăng cường huy động vốn ở các doanh nghiệp là
một vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Để làm được điều này, phải xem
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
1
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
xét tới rất nhiều yếu tố. Mỗi một yếu tố có vai trò và mức độ ảnh hưởng
khác nhau tới doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động, mục tiêu khi thành lập,
Qua quá trình học tập ở trường và thời gian thực tập tại công ty Cổ
phần Quốc tế Truyền thông và Du lịch Vietlinkvn em đã chọn đề tài nghiên
cứu : “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại công ty Cổ phần
Quốc tế Truyền thông và Du lịch Vietlinkvn” để làm báo cáo chuyên đề
thực tập.
Kết cấu của báo cáo gồm 3 chương cơ bản:
Chương 1: : Vốn và huy động vốn của trong doanh nghiệp trong cơ
chế thị trường
Chương 2: Thực trạng huy động vốn của Công ty Cổ phần Du lịch và
Truyền thông Quốc tế Vietlinkvn
Chương 3 Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn của Công ty Cổ
phần Du lịch và Truyền thông Quốc tế Vietlinkvn
Em xin gửi lời cám ơn chân thành tới cô giáo hướng dẫn TS: Nguyễn
Thị Minh Huệ đã hướng dẫn em và giúp em hoàn thành báo cáo chuyên đề
thực tập này.
Hà Nội, ngày… tháng… năm 2012
Sinh viên thực hiện
Đỗ Thị Anh
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
2
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
CHƯƠNG I
VỐN VÀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Vốn của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về vốn của doanh nghiệp
Có nhiều định nghĩa khác nhau về vốn. Theo Samuelson, vốn là hàng
hoá được sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản xuất mới, là đầu vào
cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Trong cuốn "Kinh tế học" của
D.Begg, tác giả đã đưa ra hai định nghĩa: vốn hiện vật và vốn tài chính của
doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất ra để sản
xuất các hàng hoá khác; vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá của
doanh nghiệp. Như vậy, D.Begg đã bổ sung vào định nghĩa vốn của
Samuelson.
Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp, việc huy động vốn,
quyết định đầu tư là theo định hướng và theo kế hoạch của nhà nước. Các
doanh nghiệp không được quyền tự chủ huy động vốn và ra các quyết định
đầu tư. Vốn của các doanh nghiệp chủ yếu do ngân sách Nhà nước cấp
hoặc vay ngân hàng với lãi suất rất thấp.
Với chế độ cấp phát vốn và giao nộp sản phẩm, các doanh nghiệp luôn
ỷ lại cho trung ương về các nguồn tài trợ, luôn đòi hỏi rút vốn, tăng đầu tư
như một điều kiện bảo đảm thực hiện kế hoạch, pháp lệnh. Các doanh
nghiệp tìm cách xin thêm vốn càng nhiều càng tốt, còn hiệu quả sử dụng
không được chú ý đến. Nhu cầu vốn của các doanh nghiệp rất lớn trong khi
nguồn vốn của Nhà nước có giới hạn. Chính vì vậy, có nhiều người có vốn
nhàn rỗi, dư thừa lại không có thị trường để lưu thông.
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
3
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
Cơ chế bao cấp đã làm cho vốn không được lưu thông và sử dụng có
hiệu quả vì không có nơi giao dịch mua bán trên thị trường đồng thời làm
mất đi vai trò và tác dụng khách quan, đặc biệt là một đặc trưng của vốn
"tính hàng hoá"
Chuyển sang nền kinh tế thị trường với chính sách phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế
tự bỏ vốn đầu tư. Vốn trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu, là điều kiện
tiên quyết của mọi quá tình đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Thông qua thị trường, vốn lưu thông rộng rãi và thể hiện đầy đủ bản
chất, vai trò của nó. Các Mác đã khái quát hoá vốn qua phạm trù “Tư bản”:
Tư bản là giá trị mang lại "giá thị thặng dư". Định nghĩa cô đọng này đã
phản ánh được nội dung, các đặc trưng và vai trò, tác dụng của vốn. Tuy
nhiên do hạn chế của trình độ phát triển kinh tế lúc bấy giờ, Mác quan
niệm chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền
kinh tế.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học tư bản thì không những khu
vực sản xuất vật chất tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế mà còn phải kể
đến cả khu vực dịch vụ
Tóm lại, có thể đưa ra một khái niệm khái quát về vốn của doanh
nghiệp như sau:
"Vốn của doanh nghiệp là các quĩ tiền, vốn mà các doanh nghiệp dựng
vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Vốn thực chất là một số tiền mà
các doanh nghiệp ứng ra trước một chu kỳ sản xuất kinh doanh và nó phải được
thu hồi đầy đủ(bảo toàn về giá trị) sau mỗi chu kỳ sản xuất, kinh doanh."
1.1.2. Vai trò của vốn trong doanh nghiệp
Hoạt động của công ty đòi hỏi phải có vốn, đầu tiên là nó giúp cho
hoạt động kinh doanh được thực hiện (xảy ra hoạt động), sau đó là duy trì
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
4
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
hoạt động và xây dựng kế hoạch kinh doanh cụ thể và chắc chắn. Khi vốn
phát triển, nó sẽ giúp doanh nghiệp mở rộng được sản xuất về cả chiều
rộng và chiều sâu, qua đó lại tác động ngược lại làm tăng lượng vốn sẵn có
của doanh nghiệp. Trong kinh doanh vốn là công cụ cần thiết hàng đầu để
doanh nghiệp thực hiện ý định kinh doanh của mình. Rất nhiều người đã
không thể tham gia kinh doanh vì không đủ vốn. Nói cách khác nó là
"chiếc rìu" của ông tiều phu. Do đó doanh nghiệp phải tổ chức huy động,
sử dụng vốn sao cho có hiệu quả cao nhất, muốn vậy phải xem xét, cân
nhắc phương thức huy động vốn, cơ cấu vốn hợp lý với chi phí sử dụng
vốn vay thấp nhất và làm gia tăng lợi ích của vốn chủ sở hữu. Nền kinh tế
thị trường với chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Nhà
nước khuyến khích các thành phần kinh tế tự bỏ vốn đầu tư. Vốn trở thành
yếu tố quan trọng hàng đầu, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình đầu t-
ư sản xuất, kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ
hoá, do vậy, bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào, dự ở bất cứ cấp
độ nào doanh nghiệp hay quốc gia luôn luôn cần có một lượng vốn nhất
định. Đối với doanh nghiệp, vốn là điều kiện đầu tiên, là điểm xuất phát để
chuyển hoá thành các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn phải
có trước khi diễn ra hoạt động sản xuất kinh doanh, sau đó được sử dụng
vào kinh doanh, và sau một chu kỳ hoạt động, nó phải được thu về để tiếp
ứng cho chu kỳ hoạt động sau. Vốn của doanh nghiệp không thể bị mất đi,
vì đồng nghĩa với mất vốn là nguy cơ phá sản
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, mọi hoạt động từ việc xác định
mục tiêu cho đầu tư dài hạn, tìm nguồn tài trợ cho đến việc đưa ra các
quyết định tài chính ngắn hạn - tức là ba vấn đề quan trọng đầu tiên của
doanh nghiệp, đều gắn liền tới các hoạt động có liên quan đến vốn. Như
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
5
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
vậy rõ ràng, vốn là bộ phận không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và do đó việc huy động, đảm bảo đầy đủ kịp thời
vốn cho nhu cầu sản xuất có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Việc huy động đủ vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh
được diễn ra liên tục từ khâu mua sắm vật tư, sản xuất, cho đến tiêu thụ sản
phẩm. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, các doanh
nghiệp muốn tồn tại phải có được các bí quyết, các công nghệ tiên tiến để
nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao,
hạ giá thành sản phẩm. Để thực hiện được điều này, doanh nghiệp cần phải
có vốn để hoạt động và đầu tư.
Huy động vốn có ý nghĩa quyết định đến quy mô hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh nhất là trong thời đại bùng nổ khoa học và công nghệ như ngày
nay thì nhu cầu vốn lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết và có xu
thế tăng không ngừng. Nó giúp doanh nghiệp có thể chớp được thời cơ
kinh doanh và tạo lợi thế trong cạnh tranh.
Huy động vốn còn ảnh hưởng đến phạm vi hoạt động hay việc đa dạng
hoá ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường, khi muốn tham
gia kinh doanh vào một lĩnh vực mới nào, doanh nghiệp cũng phải có một
lượng tiền lớn cho việc đầu tư máy móc sản xuất, dây chuyền công nghệ, xây
dựng hệ thống phân phối sản phẩm. Nếu không có khả năng tài chính mạnh
doanh nghiệp khó có thể thực hiện được hoạt động này dù là ngay ở những
bước đầu tiên như phân tích thị trường, xây dựng phương án kinh doanh.
Cuối cùng, việc đảm bảo nguồn vốn kinh doanh còn giúp doanh
nghiệp chống đỡ được những tổn thất, rủi ro trong quá trình hoạt động, đặc
biệt là những lĩnh vực kinh doanh nhiều rủi ro như ngân hàng.
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
6
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
Như vậy, có thể thấy, huy động vốn là hoạt động có ý nghĩa đối với
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tiễn nền kinh tế
trong những năm qua cũng cho thấy doanh nghiệp nào có lượng vốn càng
lớn thì càng có thế chủ động trong kinh doanh và có thể thắng được trong
cạnh tranh. Ngược lại doanh nghiệp nào thiếu vốn kinh doanh, không có
chiến lược tài trợ trước mắt cũng như lâu dài thường đánh mất vai trò của
mình trên thị trường, mất bạn hàng thường xuyên ổn định, không tạo ra sức
mạnh và hiệu quả tổng hợp trong kinh doanh.
Tuy nhiên, đối với mỗi doanh nghiệp, để có được lượng vốn mong
muốn không phải là điều đơn giản và trong quá trình xây dựng kế hoạch tài
trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải cân
nhắc xem sẽ huy động vốn từ những nguồn nào, với chi phí tương ứng là
bao nhiêu, để có được cơ cấu hợp lý đó công ty cần phải có một đội ngũ
nhân viên thật sự nhanh nhạy và nắm bắt được xu thế của nền kinh tế thi
trường như hiện nay.
1.2. Các hình thức huy động vốn của doanh nghiệp .
Việc huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp chịu tác động bởi nhiều yếu tố. Về cơ bản như đã xem xét ở trên thì
vốn của doanh nghiệp khi xem xét theo tính chất sở hữu thì có thể chia làm
2 và tương ứng như vậy là có 2 nhóm hình thức huy động vốn cho doanh
nghiệp theo tiêu chí này. Trên cơ sở các nguồn vốn trên, công ty đã sử
dụng các phương thức huy động vốn chủ yếu sau:
1.2.1. Hình thức huy động vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu ban đầu, như đã nói ở trên được hình thành từ việc
đóng góp của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi chạm tới ngưỡng tăng trưởng chín
muồi thì vốn chủ sở hữu ban đầu không đủ đáp ứng cho các hoạt động tài
chính, để tiếp tục phát triển, doanh nghiệp thường tiến hành các hoạt động đầu
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
7
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
tư chiến lược mở rộng đáng kể năng lực sản xuất hoặc bước sang lĩnh vực hoạt
động mới và đi cùng với nó là việc huy động thêm vốn chủ sở hữu.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào từ khi đuợc pháp luật cho phép hoạt
đông đều phải có trong tay một lượng vốn nhất định để đảm bảo cho viêc
kinh doanh của mình không bị găp rủi ro. Đây là nguồn vốn có độ an toàn
cao nhất đối với hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Đồng thời nó
cũng là tiêu thức để các chủ nợ thể hiện mức độ tin tưởng và sự đảm bảo an
toàn cho các món nợ. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng
góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro trong sản xuất kinh doanh
chủ yếu sẽ do các chủ nợ gánh chịu. Như vậy, nguồn vốn chủ sở hữu cũng
là một yếu tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn từ nợ vay của công ty.
Các loại hình doanh nghiệp khác nhau thì vốn chủ sở hữu có nguồn
gốc khác nhau:
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, vốn đầu tư ban đầu là vốn đầu
tư của ngân sách Nhà nước, nên Nhà nước là người nắm quyền lãnh đạo.
Trong doanh nghiệp tư nhân, vốn đầu tư ban đầu là vốn của chủ sở
hữu duy nhất của doanh nghiệp bắt buộc phải có khi thành lập doanh
nghiệp, gọi là vốn pháp định. Tùy từng ngành nghề kinh doanh mà Nhà
nước quy định một mức vốn riêng. Chẳng hạn, theo điều 9 khoản 2 Luật
doanh nghiệp Tư nhân (1994) quy định: “ Có đủ vốn đầu tư ban đầu phù
hợp với quy mô và ngành nghề kinh doanh. Vốn đầu tư ban đầu không
được thấp hơn vốn pháp định do Chính phủ quy định ”.
Đối với Công ty cổ phần, nguồn vốn này được biểu hiện dưới hình
thức vốn cổ phần, vốn này do những người sáng lập công ty cổ phần phát
hành cổ phiếu để huy động thông qua việc bán những cổ phiếu đó.
Đối với doanh nghiệp liên doanh: vốn đầu tư ban đầu được biểu hiện
dưới hình thức vốn liên doanh, vốn này được hình thành do sự đóng góp giữa
các chủ đầu tư hoặc các doanh nghiệp để hình thành một doanh nghiệp mới.
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
8
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
Bên cạnh nguồn vốn đầu tư ban đầu, công ty có thể bổ sung nguồn vốn
của mình bằng một số phương thức sau:
- Huy động nội bộ: Theo phương thức này công ty sẽ tăng nguồn vốn
của mình bằng cách trích một phần lợi nhuận thu được trong năm vào quỹ
đầu tư phát triển. Để làm được điều này, trước tiên công ty phải làm ăn có
lãi. Sau đó, công ty có thể giảm tỷ lệ trích lập các quỹ dự phòng, quỹ khen
thưởng, quỹ phúc lợi hoặc thay đổi chính sách phân chia lợi nhuận cho các
cổ đông . Đây là một phương thức huy động vốn quan trọng đối với doanh
nghiệp cũng như đối với công ty cổ phần phát triển thương mại và du lịch
quốc tế ngôi sao. Tuy nhiên, việc thực hiện có đạt hiệu quả hay không còn
phụ thuộc vào lợi nhuận thu được và hiệu qủa của việc tái đầu tư.
- Phát hành thêm cổ phiếu mới (đối với công ty cổ phần): là một
phương thức huy động có hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh
tế nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng kinh doanh của công ty cổ phần. Cổ
phiếu là chứng khoán vốn và người nắm giữ cổ phiếu chính là người sở
hữu công ty. Tuỳ theo đặc điểm riêng mà các công ty có thể lựa chọn phát
hành một trong hai hoặc cả hai loại cổ phiếu cơ bản sau:
+ Cổ phiếu thường( còn gọi là cổ phiếu thông thường): Là loại cổ
phiếu thông dụng nhất vì đặc điểm của nó đáp ứng được cả hai phía là
người đầu tư và phía công ty phát hành. Phần lợi tức mà cổ đông nhận
được từ việc sở hữu loại cổ phiếu này phụ thuộc vào kết quả kinh doanh
của công ty trong từng năm. Các cổ đông có quyền tham gia vào kiểm soát
và điều khiển mọi hoạt động của công ty thông qua việc bỏ phiếu hoặc chỉ
định thành viên ban quản trị. Tuy nhiên, huy động vốn theo phương thức
này phải xét đến nguy cơ bị thôn tính. Do đó, phải xét đến tỷ lệ cố phần tối
thiểu mà mỗi cổ đông được phép nắm giữ để duy trì tỷ lệ cân đối về sở hữu
công ty.
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
9
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
+ Cổ phiếu ưu tiên: là loại cổ phiếu thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ
trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Cổ phiếu ưu tiên khác với cổ phiếu
thường ở chỗ người chủ cổ phiếu này được hưởng một tỷ lệ cổ tức cố định và
được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Tuy nhiên, những cổ đông này
lại không có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của công ty.
Số lượng cổ phiếu phát hành thêm được xác định không chỉ dựa trên
nhu cầu vốn bổ sung của công ty mà còn phụ thuộc vào số cổ phiếu tối đa
công ty được phép phát hành và số cổ phiếu đã phát hành trên thị trường.
Bên cạnh đó còn phải xem xét các nhân tố khác đặc biệt là “nhiệt độ” trên
thị trường chứng khoán.
1.2.2. Các hình thức huy động vốn nợ
- Nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng, các ngân hàng:
Trong nền kinh tế thị trường, hầu như không một doanh nghiệp hay
một công ty nào có thể hoạt động được mà không vay vốn ngân hàng. Việc
huy động vốn bằng hình thức này giúp doanh nghiệp, công ty tăng khả
năng tài trợ các nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng và phát triển sản xuất
kinh doanh, đồng thời tạo điều kiện linh hoạt trong việc thu hẹp quy mô
kinh doanh bằng việc hoàn trả các khoản nợ khi đến hạn và giảm số lượng
vốn vay.
Công ty có thể vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng
cho nhu cầu vốn cả trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, song phải đáp
ứng được những yêu cầu nhất định của ngân hàng và các tổ chức tín dụng
khác như phải có phương án kinh doanh khả thi, phải là đơn vị hạch toán
độc lập… và các yêu cầu về tài sản thế chấp, cầm cố. Trên cơ sở các điều
kiện xin vay được thực hiện đầy đủ, ngân hàng sẽ cấp vốn cho doanh
nghiệp dưới các hình thức chủ yếu sau:
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
10
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
- Tín dụng hạn mức là một hình thức cho vay được thực hiện trên cơ
sở hợp đồng tín dụng, trong đó công ty được phép sử dụng dư nợ trong một
giới hạn và thời hạn nhất định trên tài khoản vãng lai. Chỉ khi nào doanh
nghiệp hay công ty sử dụng mới được coi là tín dụng cấp phát và mới được
tính lãi.
- Chiết khấu thương phiếu là hình thức tín dụng ngắn hạn, trong đó
công ty chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân
hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu
và hoa hồng phí. Doanh nghiệp sử dụng hình thức vay vốn này khi có nhu
cầu tiền ngay mà không phải đợi đến ngày đáo hạn của thương phiếu. Tuy
nhiên việc vay được có thuận lợi hay không còn phụ thuộc vào chất lượng
của thương phiếu nên phương thức này không phải lúc nào cũng hiệu quả.
- Bao thuê là một dịch vụ do các công ty con của ngân hàng thực
hiện, là nghiệp vụ đi mua lại các yêu cầu chi trả của doanh nghiệp để rồi
sau đó nhận các khoản chi trả của yêu cầu đó. Thông thường các yêu cầu
chi trả ở đây là ngắn hạn. Các công ty mua nợ sẽ chịu trách nhiệm quản lý,
theo dõi, thu hồi và chịu rủi ro về các khoản chi trả của các yêu cầu chi trả
đó.
Ngoài các hình thức trên, ngân hàng còn cấp vốn cho doanh nghiệp
theo các hình thức khác như: tín dụng ứng trước, tín dụng bằng chữ ký.
Riêng trên lĩnh vực hoạt động kinh doanh du lịch, ngân hàng thực hiện
tài trợ cho các doanh nghiệp thông qua các hình thức tín dụng như sau:
- Tài trợ vốn lưu động để cho các công ty cổ phần hoạt động trên lĩnh
vưc du lịch cũng trên các lĩnh vực khác co liên quan đến thương mại, theo
đúng L/C quy định, hợp đồng ngoại thương đã ký kết, đơn đặt hàng. Hình
thức này được tiến hành trước khi giao hàng, thông thường được áp dụng
trong trường hợp Ngân hàng tài trợ vừa là Ngân hàng thanh toán cho L/C.
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
11
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
Để đảm bảo cho việc giám sát và kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay đúng
có mục đích hay không, thông thường Ngân hàng yêu cầu nhà các công ty
cũng như các doanh nghiệp phải có một số vốn nhất định cộng thêm với số
tiền vay ngân hàng để phục vụ cho việc hoạtđộng của mình. Các dịch vụ
mà công ty đưa ra sử dụng rộng rãi trên thi trường sẽ làm tài sản đảm bảo
cho công ty được tiếp tục vay và được kinh doanh trên lĩnh vực du lich này
- Ngân hàng sẽ là người đứng ra bảo lãnh cho công ty hoạt động, sau
đó công ty sẽ đứng ra chịu trách nhiệm trước ngân hàng khi công ty không
hoàn lại được số yiền mà ngân hàng đã bảo lãnh cho công ty hoạt động
kinh doanh. Công ty phải nộp bộ chứng từ vào ngân hàng thông báo L/C
cho đến khi được ghi có trên tài khoản phải trải qua một khoảng thời gian
nhất định để xử lý và luân chuyển chứng từ. Công ty cần tiền có thể thương
lượng bộ chứng từ để chiết khấu hoặc ứng trước tiền tại ngân hàng đã được
chỉ định rõ trong L/C hoặc ở bất kỳ ngân hàng nào.
Nói chung, hiện nay, các hình thức tài trợ vốn cho doanh nghiệp được
các ngân hàng sử dụng ngày càng phong phú nhằm tạo điều kiện cho doanh
nghiệp có đủ vốn cho hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, nguồn
vốn vay ngân hàng có đặc điểm là tương đối nhỏ, thời gian ngắn, thủ tục
phức tạp, điều kiện vay chặt chẽ, nên vẫn gây khó khăn cho doanh nghiệp
khi muốn vay vốn. Do đó thông thường khi thiếu vốn các doanh nghiệp
thường nghĩ đến nguồn vốn tự có trước khi nghĩ đến ngân hàng. .
- Phát hành trái phiếu công ty:
Như chúng ta đã xét ở trên, nguồn vốn vay ngân hàng mặc dù rất linh
hoạt song chỉ đáp ứng nhu cầu kinh doanh trong ngắn hạn của các daonh
nghiệp mà thôi, do vậy mà nó có rất nhiều nhược điểm đó là nó không đmr
bảo việc chi trả dài hạn cho công ty mà nó có thể đảm bảo sự an toàn cho
khách hàng khi khách hàng sử dung dich vụ của các doanh nghiệp. Để khắc
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
12
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
phục nhược điểm này doanh nghiệp có thể sử dụng phương thức huy động
vốn bằng cách phát hành trái phiếu công ty.
Trái phiếu công ty là công cụ nợ dài hạn được một doanh nghiệp phát
hành để huy động vốn của các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế nhằm phục
vụ nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Thời hạn của trái
phiếu công ty được xác định từ ngày phát hành đến ngày thanh toán lại cho
người mua. Khi huy động vốn bằng phương thức này, doanh ngiệp phải
chịu trách nhiệm về số vốn đã được huy động như một khoản nợ và phải trả
lãi vay theo một tỷ lệ nhất định mà ngân hàng đã quy định trong điều lệ của
ngân hàng.
Phương thức huy động vốn này chỉ đạt được hiệu quả khi doanh
nghiệp lựa chọn được loại hình trái phiếu phù hợp. Do đó, trước khi quyết
định phát hành, doanh nghiệp phải căn cứ vào khả năng tài chính của mình,
tình hình cụ thể của thị trường tài chính, cũng như cách thức trả lãi, chi phí
trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu đó. Nói chung,
doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong những loại trái phiếu khác nhau
dưới đây:
- Trái phiếu có lãi suất cố định: đây là loại trái phiếu được sử dụng
phổ biến nhất trong các loại trái phiếu công ty. Lãi suất của trái phiếu được
xác định ngay khi phát hành trái phiếu và có giá trị thực hiện cho đến khi
tới hạn thanh toán. Việc xác định lãi suất trái phiếu được đặt ra trong mối
tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt là phải tính
đến sự cạnh tranh với các trái phiếu của các công ty khác.
- Trái phiếu có lãi suất thả nổi: loại trái phiếu này có lãi suất biến
động theo sự biến động của thị trường vốn. Trong điều kiện nền kinh tế có
mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định thì các doanh
nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Tuy nhiên vệc
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
13
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
quản lý loại trái phiếu này gặp một số khó khăn do công ty không thể biết
chắc chắn về chi phí lãi vay và phải tốn thời gian cho việc thông báo các
lần điều chỉnh lãi suất.
- Trái phiếu có thể thu hồi: loại trái phiếu này cho phép công ty có thể
đIều chỉnh lượng vốn sử dụng bằng cách mua lại các trái phiếu đã phát
hành vào một thời gian nào đó trước ngày đáo hạn của trái phiếu. Loại trái
phiếu này phải được quy định công khai ngay khi phát hành để người mua
trái phiếu được biết. Thời hạn và giá cả khi chuộc lại cũng phải được quy
định rõ ngay từ lúc phát hành. Thông thường, người ta quy định thời hạn
tối thiểu mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi, ví dụ trong thời gian 36 tháng.
- Trái phiếu có thể chuyển đổi: là loại trái phiếu có thể chuyển đổi
thành một lượng nhất định các cổ phiếu thường. Việc huy động vốn bằng
hình thức này có ưu điểm là công ty có thể gắn bó người mua trái phiếu
một cách lâu dài và đến một thời gian thích hợp họ có thể mua cổ phiếu để
trở thành cổ đông của công ty. Hơn nữa, do hấp dẫn hơn, hình thức này có
thể huy động được nguồn vốn có chi phí thấp hơn các hình thức khác đồng
thời đa dạng hoá các công cụ huy động vốn.
Ngoài các trái phiếu chủ yếu trên, công ty còn có thể lựa chọn một số
loại khác như trái phiếu có bảo đảm (là trái phiếu được bảo đảm bằng tài
sản của công ty) hoặc trái phiếu không có bảo đảm (là loại trái phiếu không
được bảo đảm bằng một loại tài sản cụ thể nào).
Nói chung, huy động vốn cách phát hành trái phiếu công ty có ưu
điểm là tiết kiệm được chi phí đầu tư; kiềm chế được lạm phát (do không
làm tăng lượng tiền cung ứng cho lưu thông, chỉ nhằm sử dụng có hiệu quả
hơn lượng tiền sẵn có trong lưu thông); chủ động khai thác trực tiếp nguồn
vốn có sẵn và tiềm năng của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Nếu
tận dụng được những ưu điểm này thì đây sẽ là phương thức tối ưu và khả
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
14
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
thi cho giải pháp về vốn dài hạn của từng doanh nghiệp trong nước, đồng
thời có lợi cho tổng thể nền kinh tế nước nhà.
- Nguồn vốn tín dụng thương mại:
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có thể tăng nguồn vốn
của mình bằng cách khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay còn gọi
là tín dụng nhà cung cấp. Nguồn vốn này được khai thác một cách tự nhiên
trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp.
Tín dụng thương mại xuất hiện trên cơ sở sự cách biệt giữa sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm do đặc điểm thời vụ trong sản xuất và mua hoặc bán
sản phẩm, do vậy xảy ra hiện tượng có một số nhà doanh nghiệp có hàng
muốn bán, trong lúc đó có một số nhà doanh nghiệp khác muốn mua nhưng
không có tiền. Trong điều kiện này nhà doanh nghiệp với tư cách là người
cung cấp dịch vụ, muốn thực hiện được mục đích của mình , họ có thể bán
cho khách hàng chịu khi sử dụng dịch vụ của mình.
Tín dụng thương mại là một hình thức huy động rất được các doanh
nghiệp ưa dựng bởi tính tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh. Mặc khác
nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu
bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký hợp
đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế. Chi phí của việc sử dụng hình thức tín
dụng này thể hiện qua lãi vay được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch
vụ. Trong mua bán hàng hoá trả chậm chi phí này có thể ẩn dưới hình thức
nâng giá cao hơn so với bình thường để bao hàm luôn lãi suất tín dụng
trong đó. Qui mô của khoản tín dụng này phụ thuộc vào thời hạn mua chịu,
tình trạng tài chính người sử dụng dịch vụ, tình trạng tài chính người cung
cấp dịch vụ và giảm giá khi người sử dụng dịch vụ nhiều cho công ty.
Có rất nhiều công cụ được sử dụng trong hình thức tín dụng này.
Thông thường, khi sử dụng dịch vụ người ta thường sử dụng hoá đơn; hoá
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
15
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
đơn sẽ được gửi cùng với hàng chuyên chở cho công ty(dịchvụ chuyển phát
nhanh). Khi người sử dụng dịch vụ đã chấp nhận sử dụng dịch vụ của công
ty và ký vào hoá đơn thì lúc này hoá đơn đã có giá trị pháp lý về việc người
người sử dụng dịch vụ nợ tiền của công ty và các thủ tục sau đó chỉ còn là
việc chuyển tiền từ tài khoản của người sử dụng dịch vụ sang tài khoản của
công ty để thanh toán tiền.
Một công cụ tín dụng thương mại khác được sử dụng rộng rãi trên
thương trường là thương phiếu. Thương phiếu là sự cam kết tín dụng của
người mua trước khi hàng hoá được chuyển đến. Trong thương phiếu,
người bán ghi rõ số tiền và hạn trả tiền mà người mua phải thực hiện. Sau
đó, thương phiếu được gửi đến ngân hàng của người mua cùng với các hoá
đơn chứng từ về việc đó chuyển hàng cho người mua. Có hai loại thương
phiếu cơ bản là thương phiếu trả ngay (người bán yêu cầu bên mua trả tiền
ngay) và thương phiếu có thời hạn (người bán không yêu cầu người mua trả
tiền ngay). Khi thương phiếu đã được người mua hứa trả tiền vào một ngày
nào đó trong tương lai thì nó được gọi là chấp nhận thương mại. Người
mua sẽ gửi chấp nhận thương mại lại cho người bán. Người bán có thể giữ
chấp nhận thương mại để đợi đến ngày lấy tiền hoặc cũng có thể bán nó
cho một người khác hoặc đến chiết khấu ở ngân hàng thương mại trong
những trường hợp cần thiết.
Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng hợp đồng bán hàng có điều kiện
như là một công cụ tín dụng thương mại. Hợp đồng này đảm bảo cho doanh
nghiệp duy trì quyền sở hữu hợp pháp hàng hoá của mình cho đến khi
người mua trả hết tiền. Các hợp đồng bán hàng hoá có điều kiện thường
được trả làm nhiều lần và mỗi lần đều có một chi phí lãi suất tương ứng
trong mỗi lần chi trả.
- Nguồn vốn tín dụng thuê mua:
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
16
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
Tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua
việc cho thuê máy móc thiết bị, các động sản và bất động sản khác. Người
cho thuê (chủ sỡ hữu tài sản) chuyển giao tài sản cho người thuê (người sử
dụng tài sản) được sử dụng trong một thời gian nhất định và người thuê
phải trả cho chủ sở hữu tài sản một khoản tiền thuê tương xứng với quyền
sử dụng. Hình thức thuê mua giúp doanh nghiệp tránh được những sai lầm
khi tự đi vay và tự tìm mua sắm thiết bị vì các công ty thuê mua không chỉ
đơn thuần thay thế tín dụng ngân hàng mà còn cung cấp các dịch vụ hỗ trợ
doanh nghiệp mua sắm và thuê thiết bị như: chuyển giao công nghệ, đào
tạo công nhân kỹ thuật và bảo hành, bảo trì, tư vấn hợp lý hóa sản xuất và
hiện đại hóa hệ thông trang thiết bị kỹ thuật. Thuê tài chính là một hình
thức tài trợ tín dụng thông qua cho thuê các loại tài sản, máy móc, thiết bị,
phương tiện vận chuyển là nhu cầu mà các doanh nghiệp, các nhà đầu tư
mong muốn để đổi mới máy móc, thiết bị, hiện đại hóa công nghệ sản xuất
kinh doanh. Đặc trưng của phương thức này là đơn vị cho thuê là chủ sở
hữu tài sản sẽ chuyển giao tài sản cho người thuê, tức là người sử dụng tài
sản được quyền sử dụng và hưởng những lợi ích kinh tế mang lại từ các tài
sản đó trong một thời gian nhất định. Người thuê có nghĩa vụ trả một số
tiền cho chủ tài sản tương xứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng.
Điều này cũng nói lên việc cấp tín dụng dưới hình thức cho thuê tài chính
không đòi hỏi sự đảm bảo tài sản có trước, tạo cho doanh nghiệp tiếp cận
hình thức tín dụng mới, vừa giải tỏa được áp lực về tài sản đảm bảo nếu
phải vay từ ngân hàng. Ngoài ra, các công ty cho thuê tài chính có thể mua
tài sản của doanh nghiệp và cho thuê lại tài sản đó nếu doanh nghiệp thiếu
vốn lưu động do đó tập trung vốn để đầu tư mua sắm tài sản cố định. Như
vậy doanh nghiệp vừa có tài sản để sử dụng, vừa có vốn để kinh doanh.
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
17
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
Tín dụng thuê mua có hai phương thức giao dịch chủ yếu là thuê hoạt
động và thuê tài chính.
- Thuê hoạt động (Operating Lease).
Thuê hoạt động hoàn toàn phù hợp đối với những hoạt động có tính
chất thời vụ. Hình thức thuê hoạt động được coi là một loại hợp đồng để
chấp hành, tài sản đi thuê không được phản ánh trong sổ sách kế toán của
người thuê, số tiền thuê trả theo hợp đồng được ghi như một chi phí bình
thường khác.
Thuê hoạt động có hai đặc trưng chính:
- Thời hạn thuê thường rất ngắn so với toàn bộ thời gian tồn tại hữu
ích của tài sản, điều kiện chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước trong một
thời gian ngắn.
- Người thuê chỉ phải trả tiền thuê theo thỏa thuận, người cho thuê
phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí bảo trì, bảo hiểm,
thuế tài sản cùng với mọi rủi ro về hao mòn vô hình của tài sản.
- Thuê tài chính (Finance Lease)
Thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung hay dài hạn
theo hợp đồng. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản,
thiết bị mà người mua cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua
lại tài sản từ người cho thuê. Trong nhiều trường hợp, một công ty bán
ngay tài sản của mình cho người thuê rồi thuê lại. Trong hợp đồng thuê tài
chính thì thời hạn thuê tài sản của bên thuê phải chiếm phần lớn đời sống
hữu ích của tài sản và hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê phải
đủ để bù đắp những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng.
Thông thường hết giai đoạn thuê tài chính người cho thuê thường ủy
quyền cho người thuê làm đại lý bán tài sản. Nếu người thuê quản lý sử
dụng tài sản tốt thì giá trị thực tế của tài sản có thể lớn hơn nhiều so với giá
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
18
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
tiền còn lại dự kiến trong hợp đồng, họ có thể mua lại và cũng có thể bán
được giá cao hơn họ sẽ được hưởng phần chênh lệch.
Trong hợp đồng thuê tài chính, các loại chi phí bảo dưỡng, vận hành,
phí bảo hiểm, thuế tài sản cũng như những chi phí rủi ro khác đối với tài
sản do bên thuê phải chịu cũng như tương tự của công ty mua sắm.Cũng vì
lý do đó các khoản tiền thuê mà người cho thuê nhận được coi là giá trị
thừa của tài sản nên hình thức thuê này cũng được gọi là thuê mua thuần.
- Nguồn vốn liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau.
Khi một doanh nghiệp muốn thực hiện một dự án nào đó mà không có
đủ vốn hoặc không muốn bỏ toàn bộ vốn vào đó, doanh nghiệp có thể kêu
gọi vốn liên doanh từ bên ngoài. Đây là hình thức huy động vốn trung và
dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp có thể chọn
một trong hai hình thức liên doanh sau đây:
- Doanh nghiệp có thể cùng đối tác thành lập một pháp nhân để hoạt
động kinh doanh mà vốn thành lập là số vốn góp của mỗi bên. Các bên góp
vốn liên doanh có thể dựng một phần tài sản hoặc toàn bộ tài sản của mình
để góp vốn.
- Các bên ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, không hình thành một
pháp nhân mà trách nhiệm và quyền hạn của các bên chỉ giới hạn trong hợp
đồng đã ký kết.
Đối với cả hai hình thức trên, các bên tham gia liên doanh được chia
lãi hoặc chịu lỗ nhiều hay ít phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp. Các bên liên
doanh còn có quyền rút vốn của mình và trong nhiều trường hợp có thể làm
liên doanh tan rã.
Doanh nghiệp có thể liên doanh với các loại hình doanh nghiệp khác
nhau như doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân hoặc với các công
ty nước ngoài với hình thức này, doanh nghiệp không chỉ huy động đủ vốn
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
19
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
cho hoạt động kinh doanh của mình mà còn thu hút được công nghệ mới
hoặc kinh nghiệm của đối tác, đồng thời chia sẻ được rủi ro trong kinh
doanh, song nếu doanh nghiệp quá yếu kém thì rất dễ bị lợi dụng và thiệt
hại khi dự án đổ vỡ.
Nguồn vốn ODA (Official development assistance).
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ
nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các
hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn ODF
(Official development finance) – Tài trợ phát triển chính thức) nào khác.
Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối
lượng vốn vay tương đối lớn, bao giờ ODA cũng có yếu tố không hoàn lại
(còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%.
Yếu tố không hoàn lại (thành tố hỗ trợ) của từng khoản vay được xác
định dựa vào các yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời gian ân hạn, số lần
trả nợ trong các năm và tỷ suất chiết khấu.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm
các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục
chuyển giao vốn và thị trường ). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này
với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể.
Nếu không, việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài
cho nền kinh tế. Điều này còn hàm ý rằng, ngoài những yếu tố thuộc về nội
dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thỏa thuận, để vừa có thể nhận vốn,
vừa đảm bảo được các mục tiêu có tính nguyên tắc.
1.3.Hiệu quả huy động vốn của doanh nghiệp
1.3.1.Khái niệm hiệu quả huy động vốn
Hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Khi so
sánh giữa kết quả và chi phí thì cần phải so sánh dưới dạng thương số,
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
20
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
hoặc kết quả/chi phí hoặc chi phí /kết quả, mỗi cách so sánh đều cung cấp
các thông tin có ý nghĩa khác nhau.
Vì vậy, hiệu quả huy động vốn của doanh nghiệp được thể hiện ở khả
năng đáp ứng cao nhất nhu cầu cho hoạt động củadoanh nghiệp, khả năng
đú được thể hiện thông qua sự đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu sử dụng
vốn của doanh nghiệp. Đây chính là yếu tố đầu tiên quan trọng nhất để
đánh giá hiệu quả huy động vốn của doanh nghiệp, ngoài ra được thể hiện
ở cơ cấu vốn hợp lý, an toàn và chi phí vốn đảm bảo khả năng sinh lời của
doanh nghiệp.
1.3.2.Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả huy động vốn của doanh
nghiệp
1.3.2.1 Khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn
Nhu cầu về vốn của doanh nghiệp có thể là nhu cầu ngắn hạn như nhu
cầu thanh toán, hay nhu cầu dài hạn như đầu tư, cho vay vào các dự án dài
hạn. Đây là một chỉ tiêu khó tính toán cụ thể nên được xác định dựa trên cơ
sở so sánh nhu cầu vốn và tổng lượng vốn huy động được.
- Nhu cầu về dự trữ, thanh toán
- Nhu cầu cho hoạt động kinh doanh
- Các nhu cầu khác như nhu cầu mua sắm, nâng cấp tài sản cố định
1.3.2.2 Cơ cấu vốn hợp lý
Nói đến cơ cấu vốn tức là đề cập đến tỷ lệ giữa nợ và vốn chủ sở hữu
của doanh nghiệp. Do vậy, muốn đánh giá xem hoạt động huy động vốn là
hiệu quả và hợp lý không, cần phải xem xét đến cơ cấu vốn của doanh
nghiệp. Một trong những mục tiêu quan trọng của việc huy động là nhằm
hình thành lên cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp trong từng thời điểm cụ
thể. Giữa sự hợp lý của cơ cấu vốn và việc huy động vốn còn có mối quan
hệ tác động qua lại lẫn nhau: cơ cấu vốn sẽ góp phần quyết định đến hoạt
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
21
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
động huy động vốn và ngược lại hoạt động huy động vốn sẽ hình thành nên
cơ cấu vốn.
Để xây dựng một cơ cấu vốn hợp lý, nói cách khác là đảm bảo an toàn
nguồn vốn, trước hết doanh nghiệp cần có một chính sách quản lý điều
hành đúng đắn, phù hợp, thông qua việc chấp hành đầy đủ các tiêu chí về
an toàn vốn như: Hệ số an toàn của vốn tự có (Vốn tự có / Tổng số vốn huy
động), hệ số giữa vốn chủ sở hữu và các vốn dài hạn (VCSH / Vốn dài
hạn ), hệ số thanh toán . Một cơ cấu vốn được coi là hợp lý, tối ưu khi chi
phí sử dụng vốn trung bình ( WACC ) thấp nhất, và được xác định theo
công thức:
WACC = Wd.Kd.(1-t) + Ws.Ks + Wp.Kp
Kd.(1-t) là Chi phí nợ vay sau thuế
t là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp,
Kp là chi phí cổ phiếu ưu tiên
Ks là chi phí lợi nhuận giữ lại
Wd, Ws, Wp tương ứng là tỷ trọng của nợ vay, cổ phiếu thường và cổ
phiếu ưu tiên
1.3.2.3. Chi phí vốn hợp lý
Chi phí vốn nói chung được hiểu là chi phí cơ hội của việc sử dụng
vốn, phân chia theo nợ và vốn chủ sở hữu thì bao gồm có chi phí của nợ và
chi phí của vốn chủ sở hữu.
Chi phí của vốn chủ sở hữu coi bằng lợi nhuận kỳ vọng của chủ sở
hữu trên khoản đầu tư. Có ba cách để xác định mức lợi nhuận kỳ vọng này
là phương pháp CAPM, phương pháp luồng tiền chiết khấu và phương
pháp lấy lãi suất trái phiếu cộng phần bù rủi ro. Chi phí vốn chủ có thể xác
định dễ dàng hơn nếu như có một thị trường tài chính phát triển với đầy đủ
thông tin và công cụ. Còn đối với những nước có thị trường tài chính chưa
SV: Đỗ Thị Anh Lớp: TCDN K21B
22