Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Biến đổi khí hậu và tình hình sức khỏe của người dân tại một số xã ven biển tỉnh Bến Tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (664.6 KB, 23 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ

Đề tài:
Biến đổi khí hậu và tình hinh sức khỏe của
người dân tại một số xã ven biển tỉnh Bến Tre
Sinh viên thực hiện: Trần Thị Mỹ Trân
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Chí Thắng
Cần Thơ, ngày 23 tháng 10 năm 2014
Phục lục
2
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ TÌNH HÌNH SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI DÂN TẠI MỘT
SỐ XÃ VEN BIỂN TỈNH BẾN TRE
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trong các thập kỷ gần đây, các thiên tai như bão, lụt, xâm nhập mặn
xảy ra thường xuyên hơn và khó dự đoán. Trong đó, Bến Tre được đánh giá là một
trong những tỉnh bị ảnh hưởng nặng và người dân tại các vùng ven biển sẽ chịu ảnh
hưởng trực tiếp và nặng nề nhất. Do đó, nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu,
cụ thể là tác động lên tình trạng sức khỏe của người dân hiện đang sinh sống trên khu
vực ven biển là một điều hết sức cần thiết để từ đó có thể đưa ra các chính sách chiến
lược phù hợp nhằm ứng phó kịp thời với những thay đổi trên.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá mức độ biến đổi thời tiết và tình trạng sức khoẻ
của người dân tại các huyện ven biển tỉnh Bến Tre.
Phương pháp nghiên cứu: Phỏng vấn thông qua bảng câu hỏi kết hợp với thu thập số
liệu tại trạm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre.
Kết quả nghiên cứu: Số liệu cung cấp từ trạm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre
cho thấy mức nhiệt trung bình của tỉnh Bến Tre hiện nay cao hơn 5 năm trước từ 0,2
– 0,5
0
C. Mực nước tại 2 khu vực sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên đang có khuynh


hướng dâng lên và mức độ nhiễm mặn gia tăng rõ rệt. Tỷ lệ mắc các bệnh có liên
quan hay chịu ảnh hưởng do tình trạng biến đổi khí hậu tại các xã đều chiếm trên
80%, đặc biệt ở một số bệnh như tiêu chảy, cảm và tai mũi họng.
Kết luận: Kết quả phân tích khí tượng thủy văn cho thấy diễn biến của khí hậu thời
tiết có sự thay đổi qua các năm, tỷ lệ mắc các bệnh có liên quan hay chịu ảnh hưởng
do tình trạng biến đổi khí hậu tại các xã ven biển tại đây khá cao.
Từ khoá: biến đổi khí hậu, tình hình sức khoẻ, vùng ven biển

ĐẶT VẤN ĐỀ
Biến đổi khí hậu ngày càng trở thành vấn đề thách thức to lớn được toàn cầu quan
tâm, các nhà khoa học đã tìm ra mối liên quan chặt chẽ giữa khí hậu địa phương ảnh
hưởng đến sự xuất hiện hay mức độ nghiêm trọng của một số bệnh và các mối đe dọa
khác đối với sức khỏe con người. Tổ chức Y Tế Thế Giới ước tính rằng 1/4 gánh nặng
bệnh tật của thế giới là do ô nhiễm không khí, đất, nước và thực phẩm, các khu vực bị
ảnh hưởng nặng nề nhất bao gồm châu Phi, tiểu lục địa Ấn Độ và tại Đông Nam Á
[1]
.
Tại Việt Nam trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng lên khoảng
3
0,3-0,5
0
C, mực nước biển đã dâng lên khoảng 20cm
[2]
. Biển đổi khí hậu đã làm cho
các thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt. Những yếu tố đó sẽ làm gia
tăng ngập lụt, xâm nhập mặn, lan tràn chua phèn… và dẫn tới những hệ lụy khác như
làm gia tăng các rủi ro về sức khỏe do các đợt nắng nóng gay gắt. Một nghiên cứu cho
thấy nếu mực nước biển dâng cao 1m sẽ ảnh hưởng khoảng 5% diện tích đất của Việt
Nam và 11% dân số cả nước
[3]

. Trong các thập kỷ gần đây, yếu tố khí tượng thủy văn
tại vùng đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục thay đổi theo chiều hướng xấu. Các thiên
tai như bão tố, lụt lội, xâm nhập mặn xảy ra thường xuyên hơn và khó dự đoán
[4]
.
Khảo sát của Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và môi trường cho biết tại Bến Tre
mực nước biển đã dâng lên khoảng 20cm, ô nhiễm mặn đã tăng lên khoảng 20% so
với trước đó 10 năm (năm 1990) và hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện ngày càng
nhiều
[2]
. Nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu, cụ thể là tác động lên tình trạng
sức khỏe của người dân hiện đang sinh sống trên khu vực ven biển là một điều hết sức
cần thiết, từ đó có thể đưa ra các chính sách chiến lược phù hợp để có thể ứng phó kịp
thời với những thay đổi trên.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu tổng quát: Đánh giá mức độ biến đổi thời tiết và tình trạng sức khoẻ của
người dân tại các huyện ven biển tỉnh Bến Tre.
Mục tiêu cụ thể:
− Đánh giá mức độ biến đổi thời tiết thay đổi trong 5 năm từ 2006-2010.
− Khảo sát tình trạng sức khoẻ của người dân tại 4 xã ven biển thuộc huyện Thạnh
Phú và Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
− Khảo sát tình hình thực hành vệ sinh giúp phòng ngừa bệnh của người dân tại 4 xã
ven biển thuộc huyện Thạnh Phú và Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm nghiên cứu:
− Huyện Ba Tri: Xã Huyện Thạnh Phú: xã Thạnh Hải và Thạnh Phong.
− Huyện Ba Tri: xã Bảo Thuận và An Thuỷ
Phỏng vấn trực tiếp người dân thuộc 4 xã ven biển của 2 huyện Ba Tri và Thạnh Phú
tỉnh
Bến Tre. Đối tượng phỏng vấn là những người hiện đang sinh sống tại tỉnh Bến

Tre từ 16 tuổi trở lên, ưu tiên phụ nữ có tuổi nhằm cung cấp đầy đủ thông tin về
tình hình sức khoẻ của các thành viên trong gia đình.

4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
1. Tình hình khí tượng thủy văn:
Số liệu cung cấp từ trạm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre cũng cho thấy tình
hình diễn biến thay đổi của khí hậu thời tiết qua các năm. So sánh với nhiệt độ tối cao
trung bình từ 2001 đến 2005 thì mức nhiệt tối cao trung bình trong khoảng thời gian từ
2006 đến 2010 đã cao hơn 6,4
0
C. Mức nhiệt trung bình của tỉnh Bến Tre cao hơn
trước từ 0,2 – 0,5
0
C. Đặc biệt vào cuối mùa khô 2009, nhiệt độ tăng cao đến 36,5
0
C.
Đồng thời một diễn biến bất thường khác vào giữa mùa mưa năm 2010 nhiệt độ cao
nhất là 36,2
0
C, đây là mức nhiệt cao nhất vào những tháng mùa mưa trong 5 năm từ
2006 đến 2010.

Hình 1: Biến thiên nhiệt độ trung bình tháng trong 5 năm từ 2006 – 2010 tại tỉnh Bến
Tre
Tháng 3 năm 2006 huyện Ba Tri chịu ảnh hưởng của cơn bão số 9 hoạt động
trên biển Đông gây ra mưa to nên đã làm tăng lượng mưa vào thời điểm này lên đến
92,8 mm. Các tháng còn lại trong mùa khô hầu như không có mưa. Theo số liệu báo
cáo của các trạm y tế xã, tại xã Bảo Thuận của huyện Ba Tri từ năm 2007 đến 2009
đều bị thiệt hại về người do thiên tai. Cụ thể, trong năm 2006 tại xã có 11 người bị

thương, 1 người chết. Năm 2007 là 36 người bị thương và 4 người chết. Năm 2008 có
12 người bị thương và 1 người chết và trong năm 2009 là 4 người bị thương và 2
người chết
[5]
.
Mùa mưa năm 2009 và năm 2010 huyện Ba Tri có lưu lượng mưa thấp nhất
trong 5 năm từ 2006 – 2010 chỉ có 78,5 mm. Trong thời điểm giữa mùa mưa từ 2006 –
2009 (từ tháng 5 đến tháng 9 hằng năm), lưu lượng mưa thấp nhất đo được là 200 mm
và cao nhất là 358 mm. Tuy nhiên trong năm 2010 lượng mưa diễn biến có phần bất
5
thường hơn, cụ thể là vào thời điểm giữa mùa mưa, lượng mưa đo được thấp nhất là
78,5 mm và cao nhất 288,2 mm.
Huyện Ba Tri
Hình 2: Biến thiên lượng mưa tại 2 huyện từ 2006 – 2010
Kết quả thu được tại trạm quan trắc Hàm Luông và Cổ Chiên cho thấy mực
nước bình quân từ năm 2006 đến 2010 có khuynh hướng tăng dần và biên độ dao động
trong năm ngày càng giảm dần. Tại trạm quan trắc Cổ Chiên (huyện Thạnh Phú), mực
nước trung bình thấp nhất trong năm 2006 là -23cm và cao nhất là 36cm; đến năm
2010 mực nước thấp nhất là -10 cm và mực nước cao nhất trong năm là 42 cm. Tương
tự, tại trạm quan trắc Hàm Luông, từ năm 2006 đến năm 2010 mực nước thấp nhất là
đã tăng lên đáng kể từ -25cm lên -8cm và mực nước trung bình cao nhất tăng ít hơn, từ
41cm lên 43cm. Điều này cho thấy mực nước tại 2 khu vực sông Hàm Luông và sông
Cổ Chiên đang có khuynh hướng dâng lên, gây nguy cơ xâm lấn ảnh hưởng đến đời
sống của người dân tại huyện Ba Tri nói riêng và người dân tại các vùng ven lưu vực
sông nói chung.

6

Huyện Thạ nh Phú Huy ệ n Ba Tri
0

5
10
15
20
25
30
35
7 2 3 4 5 6

Tháng
Huyện Thạnh Phú Huyện Ba Tri
Hình 3: Mực nước bình quân tại 2 huyện từ năm 2006 đến 2010
Tại huyện Thạnh Phú, độ mặn cao nhất xảy ra vào khoảng từ tháng 3 và tháng 4 mỗi
năm, dao động từ 26,1‰ (năm 2009) đến 29,6‰ (năm 2007). Đặc biệt trong năm 2010
mức độ nhiễm mặn có khuynh hướng tăng vượt trội từ tháng 5 đến tháng 7 trong khi mực
nước sông giảm không đáng kể so với các năm trước đó. So với huyện Thanh Phú, tại Ba
Tri mức độ nhiễm mặn tại đây khá cao và cũng tăng dần rõ rệt theo các năm. Trong đó độ
mặn đạt đỉnh cao nhất trong suốt 5 năm khảo sát là 30‰ vào tháng 3 năm 2010, tăng
6,1‰ so với tháng nhiễm mặn cao nhất của năm 2006. Với tình hình tiếp diễn như trên sẽ
gây ảnh hưởng khá nghiêm trọng đối với hệ sinh thái động thực vật, đồng thời bên cạnh
đó sẽ ảnh hưởng đến đời sống kinh tế của người dân tại đây. Chính vì vậy người dân và
các cấp chính quyền cần có các biện pháp khắc phục phù hợp, thay đổi cơ cấu sản xuất
kinh tế, hệ sinh thái động thực vật nhằm thích ứng và giảm thiểu tác hại với tình hình
biến đổi như trên.
2. Tình hình bệnh tật:
Tiến hành đánh giá chất lượng nguồn nước ngầm tại xã Thạnh Hải và Thạnh
Phong có dấu hiệu ô nhiễm asen. Cụ thể, xã Thạnh Hải có 5 mẫu nước ngầm được
người dân sử dụng cho mục đích sinh hoạt bị nhiễm asen với hàm lượng thấp nhất là
0,086 mg/l, cao nhất là 0,267 mg/l và xã Thạnh Phong có 1 mẫu nước ngầm bị nhiễm
asen với hàm lượng là 0,061 mg/l. Trong khi đó, giới hạn cho phép sự hiện diện của

asen trong nước sinh hoạt theo QCVN 02:2009/BYT là dưới 0,05 mg/l. Bên cạnh đó,
nguồn nước ngầm dùng cho mục đích sinh hoạt có hàm lượng nitrit và nitrat là khá
cao, hai chất nitrat và nitrit đều có khả năng tạo hợp chất Methaemoglobin, tác nhân
gây bệnh thiếu máu, xanh xao. Tại xã Thạnh Phong có 15/20 mẫu nước ngầm có giá
trị
7
0.17
0
7.83
19.67
87.5
11.33
0.17
11.5
713.6
85.67
0
20
40
60
80
100
Nước máy Nước mư Na ước giếng Nước uống Nước ao. hồ
%
Thạnh Phú
Ba Tri
C
nitrat
/GHTĐ
nitrat

+ C
nitrit
/GHTĐ
nitrit
> 1, trong đó giá trị này thấp nhất là 1,08 và cao nhất là
9,70. Xã An Thủy là 8/20 mẫu, xã Thạnh Hải 7/20 mẫu và xã Bảo Thuận là 5/20 mẫu.
Tuy nhiên, thói quen trong sử dụng nước ăn uống của người dân nguồn nước
mưa vẫn đóng vai trò chủ yếu, tỷ lệ hộ chỉ sử dụng nước giếng cho mục đích ăn uống
chiếm 8,8% tại huyện Thạnh Phú và 5,8% tại huyện Ba Tri.
đóng bình
Hình 4: Tình hình sử dụng nước cho mục đích ăn uống
Đối với tình hình bệnh tật, nhìn chung số lượng người dân mắc bệnh tại các xã
ven biển của huyện Thạnh Phú cao hơn đáng kể so với huyện Ba Tri. Cụ thể, tỷ lệ mắc
bệnh cảm tại huyện Thạnh Phú cao gấp 1,6 lần, tai mũi họng cao gấp 1,8 lần và tiêu
chảy gấp 1,9 lần so với Ba Tri (hình 6). Số người mắc các bệnh về đường hô hấp như
cảm và tai mũi họng chiếm khá lớn trên mô hình bệnh, các bệnh liên quan đến tim
mạch như cao huyết áp và các chứng bệnh tim khác cũng chiếm tỷ lệ tương đối lớn
trên mô hình bệnh thu thập được tại đây. Theo các chuyên gia nghiên cứu, các đợt
nắng nóng kéo dài, nhiệt độ không khí tăng gây nên những tác động tiêu cực đối với
sức khoẻ con người, tạo cơ hội cho chứng hen suyễn, các bệnh về đường hô hấp tấn
công và bên cạnh đó còn gia tăng một số nguy cơ ảnh hưởng đến tình trạng của người
bệnh tim mạch
[6], [7]
. Kết quả khí tượng thủy văn thu được ở trên cũng cho thấy rằng
qua các năm nhiệt độ đang tăng lên rõ rệt, tổng lượng mưa trong những năm từ 2006
đến 2008 đã tăng cao và giảm xuống đột ngột trong năm 2009 và 2010. Như vậy, với
diễn biến thời tiết năng nóng gia tăng kết hợp với sự thay đổi về lượng mưa tăng vào
mùa mưa và giảm vào mùa khô sẽ tác động đến sức khỏe của con người. Nhất là tại
các khu vực ven biển, tác động của biến đổi khí hậu sẽ gây ảnh hưởng lớn hơn nữa
đến các đối tượng này, đặc biệt là hạn chế về mặt dinh dưỡng và điều trị ở các đối

tượng có điều kiện kinh tế thấp.
8
28
24
86
85
7
38
203
22
54
25
55
25
2
21
122
0
50
100
150
200
250
Cảm Tai mũi Tiêu chảy Da liễ Viêmu Cơ xương Huyế Tim t áp
Thạ nh Phú
Ba Tri
43
0.67
19.83
17.00

0.33
57.17
13.50
58.83
24.33
18.67
11.67
0
20
40
60
80
Không có Bỏ đi Cho súc vật ăn Hâm lại vào Ăn lại không
%
Th

nh Phú
Ba Tri
họngxoang khớp

\
thức ăn thừa buổi kế tiếp cần hâm

Hình 7: Thói quen xử trí thức ăn thừa hằng ngày của người dân


Từ bảng 1 cho thấy trên ¾ số người dân sống tại các xã ven biển trên 2 huyện
chọn lựa đến khám chữa bệnh là trạm y tế, mặc dù là nơi được trang bị máy móc thiết
bị nhiều hơn nhưng tỷ lệ đến khám tại trung tâm y tế huyện và bệnh viện lại khá thấp.
9

Nguyên nhân do đây là các xã ven biển cách xa trung tâm huyện cũng như thị xã, đối
với người dân tại huyện Thạnh Phú để có thể đến bệnh viện hay trung tâm y tế huyện
khám chữa bệnh phải di chuyển qua phà gây khó khăn trong việc đi lại. Việc người
dân tập trung đến khám tại trạm y tế bên cạnh việc giúp quản lý được tình hình bệnh
tật của địa phương, giảm được hiện tượng quá tải cho các cơ sở tuyến trên nhưng mặt
khác đặt ra yêu cầu cần phải nâng cao năng lực chuyên môn tại tuyến xã để có thể tầm
soát chuẩn đoán bệnh kịp thời.

Bảng 1: Tình hình chọn lựa loại hình khám chữa bệnh của người dân
Loại hình khám chữa bệnh
Thạnh Phú Ba Tri
Tần số
(n= 600)
Tỷ lệ (%)
Tần số
(n= 600)
Tỷ lệ (%)
− Bệnh viện
− Trung tâm y tế huyện
− Trạm y tế xã
− Phòng khám tư
− Khác
32
44
513
29
1
5,33
7,33
85,5

4,83
0,17
92
35
459
72
5
15,33
5,83
76,5
12
0,83

Tại huyện Thạnh Phú, đa số các hộ đều có ít nhất một thành viên trong gia đình
mắc bệnh và khoảng 1/6 trên tổng số hộ khảo sát tại cả 2 xã có ít nhất 2 người trong
cùng một nhà mắc bệnh trong năm. Đối với huyện Ba Tri, nhìn chung tình trạng sức
khỏe của người dân tại đây khá tốt, có khoảng 60% hộ chỉ có 1 thành viên trong gia
đình mắc bệnh và khoảng 11-15% hộ có từ 2 thành viên trong nhà mắc bệnh. Tình
hình bệnh tật tại các xã của huyện Thạnh Phú cao gấp 1,3 lần so với tại Ba Tri, trong
đó tỷ lệ mắc các bệnh có liên quan hay chịu ảnh hưởng do tình trạng biến đổi khí hậu
chiếm trên 80%, chưa kể đến số lần mắc của cùng một loại bệnh đã xảy ra trong năm.
Như vậy từ đây có thể phần nào thấy được nguy cơ cũng như ảnh hưởng của tình trạng
biến đổi khí hậu lên sức khỏe của người dân tại đây.

Bảng 2: Tình hình bệnh tật của hộ gia đình tại các xã ven biển của 2 huyện Thạnh Phú,
Ba Tri


Thạnh
Hải


Thạnh
Phong
Huyện
Thạnh
Phú
Xã Bảo
Thuận
Xã An
Thuỷ
Huyện
Ba Tri
Tổng số người mắc
bệnh trong năm
360 374 734 266 291 557
Tổng số người các mắc
10
Bệnh Không bệnh

p

PR

KTC 95%

bệnh có liên quan/ảnh
hưởng do biến đổi khí
hậu
309
(85,83%)

320
(85,56%)
629
(85,69%)
215
(80,83%)
240
(82,47%)
455
(81,69
% )

Xét mối liên quan giữa tình trạng mắc các bệnh có liên quan đến tình trạng biến
đổi khí hậu (cảm, tai mũi họng và các bệnh khác như tiêu chảy, da liễu và viêm
xoang), so với nhóm dưới 40 tuổi, tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm trên 40 đến 60 tuổi cao gấp
1,16 lần và tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm trên 60 tuổi cao gấp 1,85 lần nhưng sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê. Có sự khác biệt giữa tình trạng kinh tế gia đình và tình
hình mắc bệnh, ở nhóm cận nghèo có tỷ lệ mắc bệnh cao gấp 1,84 lần và nhóm hộ
nghèo có tỷ lệ mắc bệnh cao gấp 1,16 lần so với nhóm có điều kiện kinh tế từ trung
bình trở lên. Điều này có thể do những người thuộc nhóm cận nghèo ít được hỗ trợ về
mặt chăm sóc sức khoẻ hơn so với các nhóm còn lại. Tuy nhiên những sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê (p> 0,05).
Bảng 3: Các yếu tố liên quan với tình trạng các mắc bệnh có liên quan đến tình trạng
biến đổi khí hậu
Tần số (%) Tần số (%)
Tuổi

- Từ 16 – 40 tuổi
- Từ 41 – 60 tuổi
- Trên 60 tuổi

177 (36,12%)
183 (37,20%)
76 (34,86%)
313 (63,88%)
309 (62,80%)
142 (65,14%)

0,26
0,16
1
1,16
1,85

0,89-
1,52
0,79-
4,32
Tình trạng kinh tế gia đình

- Từ trung bình trở lên
- Cận nghèo
- Nghèo
299
(35,09%)
11 (50%)
126
(38,65%)
553 (64,91%)
11 (50%)
200 (61,35%)


0,156
0,256
1
1,84
1,16

0,79-
4,32
0,89-
1,52
Tình hình thực hành vệ sinh

11

- Tốt
- Chưa tốt
207
(35,84%)
229
(36,90%)
354 (63,10%)
410 (64,16%)

0,7

1,024

0,90-
1,16


KẾT LUẬN
− Mức nhiệt trung bình của tỉnh Bến Tre hiện nay cao hơn 5 năm trước từ 0,2 – 0,5
0
C.
Có những diễn biến bất thường vào cuối mùa khô 2009 và giữa mùa mưa năm 2010.
− Từ năm 2006 đến năm 2008, lượng mưa của huyện Thạnh Phú và huyện Ba Tri
năm sau đều nhiều hơn năm trước. Tại huyện Thạnh Phú, lượng mưa năm 2009
nhiều hơn so với năm 2010 tuy nhiên tại huyện Ba Tri thì lượng mưa diễn biến
ngược lại.
− Mực nước tại 2 khu vực sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên đang có khuynh
hướng dâng lên, mức độ dao động giữa mực nước bình quân của tháng cao nhất và
tháng thấp nhất giảm dần qua các năm khảo sát.
− Mức độ nhiễm mặn thu được tại trạm quan trắc Hàm Luông và Cổ Chiên khá cao và
tăng dần rõ rệt theo các năm.
− Phần lớn nguồn nước sử dụng cho mục đích ăn uống tại các xã đều là nước mưa hoặc
nước giếng.
Tỷ lệ uống nước đun sôi tại các xã khá cao (chiếm trên 90%).
− Loại hình khám chữa bệnh thường được đa số người dân lựa chọn là trạm y tế xã.
− Tình hình bệnh tật:
• Tỷ lệ mắc các bệnh có liên quan hay chịu ảnh hưởng do tình trạng biến đổi khí hậu tại
các xã đều chiếm trên 80%. Số lượng người dân mắc bệnh tại các xã ven biển của
huyện Thạnh Phú cao đáng kể so với huyện Ba Tri (gấp 1,3 lần). Đặc biệt ở một số
bệnh như tiêu chảy, cảm và tai mũi họng.
• Không có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình hình mắc bệnh với các yếu tố
như nhóm tuổi, tình trạng kinh tế gia đình và tình hình thực hành vệ sinh.
12
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ TÌNH HÌNH SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI DÂN TẠI MỘT
SỐ XÃ VEN BIỂN TỈNH BẾN TRE
TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Trong các thập kỷ gần đây, các thiên tai như bão, lụt, xâm nhập mặn
xảy ra thường xuyên hơn và khó dự đoán. Trong đó, Bến Tre được đánh giá là một
trong những tỉnh bị ảnh hưởng nặng và người dân tại các vùng ven biển sẽ chịu ảnh
hưởng trực tiếp và nặng nề nhất. Do đó, nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu,
cụ thể là tác động lên tình trạng sức khỏe của người dân hiện đang sinh sống trên khu
vực ven biển là một điều hết sức cần thiết để từ đó có thể đưa ra các chính sách chiến
lược phù hợp nhằm ứng phó kịp thời với những thay đổi trên.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá mức độ biến đổi thời tiết và tình trạng sức khoẻ
của người dân tại các huyện ven biển tỉnh Bến Tre.
Phương pháp nghiên cứu: Phỏng vấn thông qua bảng câu hỏi kết hợp với thu thập số
liệu tại trạm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre.
Kết quả nghiên cứu: Số liệu cung cấp từ trạm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre
cho thấy mức nhiệt trung bình của tỉnh Bến Tre hiện nay cao hơn 5 năm trước từ 0,2
– 0,5
0
C. Mực nước tại 2 khu vực sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên đang có khuynh
hướng dâng lên và mức độ nhiễm mặn gia tăng rõ rệt. Tỷ lệ mắc các bệnh có liên
quan hay chịu ảnh hưởng do tình trạng biến đổi khí hậu tại các xã đều chiếm trên
80%, đặc biệt ở một số bệnh như tiêu chảy, cảm và tai mũi họng.
Kết luận: Kết quả phân tích khí tượng thủy văn cho thấy diễn biến của khí hậu thời
tiết có sự thay đổi qua các năm, tỷ lệ mắc các bệnh có liên quan hay chịu ảnh hưởng
do tình trạng biến đổi khí hậu tại các xã ven biển tại đây khá cao.
Từ khoá: biến đổi khí hậu, tình hình sức khoẻ, vùng ven biển

ĐẶT VẤN ĐỀ
Biến đổi khí hậu ngày càng trở thành vấn đề thách thức to lớn được toàn cầu quan
tâm, các nhà khoa học đã tìm ra mối liên quan chặt chẽ giữa khí hậu địa phương ảnh
hưởng đến sự xuất hiện hay mức độ nghiêm trọng của một số bệnh và các mối đe dọa
khác đối với sức khỏe con người. Tổ chức Y Tế Thế Giới ước tính rằng 1/4 gánh nặng
bệnh tật của thế giới là do ô nhiễm không khí, đất, nước và thực phẩm, các khu vực bị

ảnh hưởng nặng nề nhất bao gồm châu Phi, tiểu lục địa Ấn Độ và tại Đông Nam Á
[1]
.
Tại Việt Nam trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng lên khoảng
0,3-0,5
0
C, mực nước biển đã dâng lên khoảng 20cm
[2]
. Biển đổi khí hậu đã làm cho
13
các thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt. Những yếu tố đó sẽ làm gia
tăng ngập lụt, xâm nhập mặn, lan tràn chua phèn… và dẫn tới những hệ lụy khác như
làm gia tăng các rủi ro về sức khỏe do các đợt nắng nóng gay gắt. Một nghiên cứu cho
thấy nếu mực nước biển dâng cao 1m sẽ ảnh hưởng khoảng 5% diện tích đất của Việt
Nam và 11% dân số cả nước
[3]
. Trong các thập kỷ gần đây, yếu tố khí tượng thủy văn
tại vùng đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục thay đổi theo chiều hướng xấu. Các thiên
tai như bão tố, lụt lội, xâm nhập mặn xảy ra thường xuyên hơn và khó dự đoán
[4]
.
Khảo sát của Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và môi trường cho biết tại Bến Tre
mực nước biển đã dâng lên khoảng 20cm, ô nhiễm mặn đã tăng lên khoảng 20% so
với trước đó 10 năm (năm 1990) và hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện ngày càng
nhiều
[2]
. Nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu, cụ thể là tác động lên tình trạng
sức khỏe của người dân hiện đang sinh sống trên khu vực ven biển là một điều hết sức
cần thiết, từ đó có thể đưa ra các chính sách chiến lược phù hợp để có thể ứng phó kịp
thời với những thay đổi trên.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu tổng quát: Đánh giá mức độ biến đổi thời tiết và tình trạng sức khoẻ của
người dân tại các huyện ven biển tỉnh Bến Tre.
Mục tiêu cụ thể:
− Đánh giá mức độ biến đổi thời tiết thay đổi trong 5 năm từ 2006-2010.
− Khảo sát tình trạng sức khoẻ của người dân tại 4 xã ven biển thuộc huyện Thạnh
Phú và Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
− Khảo sát tình hình thực hành vệ sinh giúp phòng ngừa bệnh của người dân tại 4 xã
ven biển thuộc huyện Thạnh Phú và Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm nghiên cứu:
− Huyện Ba Tri: Xã Huyện Thạnh Phú: xã Thạnh Hải và Thạnh Phong.
− Huyện Ba Tri: xã Bảo Thuận và An Thuỷ
Phỏng vấn trực tiếp người dân thuộc 4 xã ven biển của 2 huyện Ba Tri và Thạnh Phú
tỉnh
Bến Tre. Đối tượng phỏng vấn là những người hiện đang sinh sống tại tỉnh Bến
Tre từ 16 tuổi trở lên, ưu tiên phụ nữ có tuổi nhằm cung cấp đầy đủ thông tin về
tình hình sức khoẻ của các thành viên trong gia đình.

14
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
3. Tình hình khí tượng thủy văn:
Số liệu cung cấp từ trạm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre cũng cho thấy tình
hình diễn biến thay đổi của khí hậu thời tiết qua các năm. So sánh với nhiệt độ tối cao
trung bình từ 2001 đến 2005 thì mức nhiệt tối cao trung bình trong khoảng thời gian từ
2006 đến 2010 đã cao hơn 6,4
0
C. Mức nhiệt trung bình của tỉnh Bến Tre cao hơn
trước từ 0,2 – 0,5
0

C. Đặc biệt vào cuối mùa khô 2009, nhiệt độ tăng cao đến 36,5
0
C.
Đồng thời một diễn biến bất thường khác vào giữa mùa mưa năm 2010 nhiệt độ cao
nhất là 36,2
0
C, đây là mức nhiệt cao nhất vào những tháng mùa mưa trong 5 năm từ
2006 đến 2010.

Hình 1: Biến thiên nhiệt độ trung bình tháng trong 5 năm từ 2006 – 2010 tại tỉnh Bến
Tre
Tháng 3 năm 2006 huyện Ba Tri chịu ảnh hưởng của cơn bão số 9 hoạt động
trên biển Đông gây ra mưa to nên đã làm tăng lượng mưa vào thời điểm này lên đến
92,8 mm. Các tháng còn lại trong mùa khô hầu như không có mưa. Theo số liệu báo
cáo của các trạm y tế xã, tại xã Bảo Thuận của huyện Ba Tri từ năm 2007 đến 2009
đều bị thiệt hại về người do thiên tai. Cụ thể, trong năm 2006 tại xã có 11 người bị
thương, 1 người chết. Năm 2007 là 36 người bị thương và 4 người chết. Năm 2008 có
12 người bị thương và 1 người chết và trong năm 2009 là 4 người bị thương và 2
người chết
[5]
.
Mùa mưa năm 2009 và năm 2010 huyện Ba Tri có lưu lượng mưa thấp nhất
trong 5 năm từ 2006 – 2010 chỉ có 78,5 mm. Trong thời điểm giữa mùa mưa từ 2006 –
2009 (từ tháng 5 đến tháng 9 hằng năm), lưu lượng mưa thấp nhất đo được là 200 mm
và cao nhất là 358 mm. Tuy nhiên trong năm 2010 lượng mưa diễn biến có phần bất
15
thường hơn, cụ thể là vào thời điểm giữa mùa mưa, lượng mưa đo được thấp nhất là
78,5 mm và cao nhất 288,2 mm.
Huyện Ba Tri
Hình 2: Biến thiên lượng mưa tại 2 huyện từ 2006 – 2010

Kết quả thu được tại trạm quan trắc Hàm Luông và Cổ Chiên cho thấy mực
nước bình quân từ năm 2006 đến 2010 có khuynh hướng tăng dần và biên độ dao động
trong năm ngày càng giảm dần. Tại trạm quan trắc Cổ Chiên (huyện Thạnh Phú), mực
nước trung bình thấp nhất trong năm 2006 là -23cm và cao nhất là 36cm; đến năm
2010 mực nước thấp nhất là -10 cm và mực nước cao nhất trong năm là 42 cm. Tương
tự, tại trạm quan trắc Hàm Luông, từ năm 2006 đến năm 2010 mực nước thấp nhất là
đã tăng lên đáng kể từ -25cm lên -8cm và mực nước trung bình cao nhất tăng ít hơn, từ
41cm lên 43cm. Điều này cho thấy mực nước tại 2 khu vực sông Hàm Luông và sông
Cổ Chiên đang có khuynh hướng dâng lên, gây nguy cơ xâm lấn ảnh hưởng đến đời
sống của người dân tại huyện Ba Tri nói riêng và người dân tại các vùng ven lưu vực
sông nói chung.

16
Huyện Thạnh Phú Huyện Ba Tri
Hình 3: Mực nước bình quân tại 2 huyện từ năm 2006 đến 2010
Nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre
Tại huyện Thạnh Phú, độ mặn cao nhất xảy ra vào khoảng từ tháng 3 và tháng 4
mỗi năm, dao động từ 26,1‰ (năm 2009) đến 29,6‰ (năm 2007). Đặc biệt trong năm
2010 mức độ nhiễm mặn có khuynh hướng tăng vượt trội từ tháng 5 đến tháng 7 trong
khi mực nước sông giảm không đáng kể so với các năm trước đó. So với huyện Thanh
Phú, tại Ba Tri mức độ nhiễm mặn tại đây khá cao và cũng tăng dần rõ rệt theo các
năm. Trong đó độ mặn đạt đỉnh cao nhất trong suốt 5 năm khảo sát là 30‰ vào tháng
3 năm 2010, tăng 6,1‰ so với tháng nhiễm mặn cao nhất của năm 2006. Với tình hình
tiếp diễn như trên sẽ gây ảnh hưởng khá nghiêm trọng đối với hệ sinh thái động thực
vật, đồng thời bên cạnh đó sẽ ảnh hưởng đến đời sống kinh tế của người dân tại đây.
Chính vì vậy người dân và các cấp chính quyền cần có các biện pháp khắc phục phù
hợp, thay đổi cơ cấu sản xuất kinh tế, hệ sinh thái động thực vật nhằm thích ứng và
giảm thiểu tác hại với tình hình biến đổi như trên.
4. Tình hình bệnh tật:
Tiến hành đánh giá chất lượng nguồn nước ngầm tại xã Thạnh Hải và Thạnh

Phong có dấu hiệu ô nhiễm asen. Cụ thể, xã Thạnh Hải có 5 mẫu nước ngầm được
người dân sử dụng cho mục đích sinh hoạt bị nhiễm asen với hàm lượng thấp nhất là
0,086 mg/l, cao nhất là 0,267 mg/l và xã Thạnh Phong có 1 mẫu nước ngầm bị nhiễm
asen với hàm lượng là 0,061 mg/l. Trong khi đó, giới hạn cho phép sự hiện diện của
asen trong nước sinh hoạt theo QCVN 02:2009/BYT là dưới 0,05 mg/l. Bên cạnh đó,
nguồn nước ngầm dùng cho mục đích sinh hoạt có hàm lượng nitrit và nitrat là khá
cao, hai chất nitrat và nitrit đều có khả năng tạo hợp chất Methaemoglobin, tác nhân
gây bệnh thiếu máu, xanh xao. Tại xã Thạnh Phong có 15/20 mẫu nước ngầm có giá
trị
C
nitrat
/GHTĐ
nitrat
+ C
nitrit
/GHTĐ
nitrit
> 1, trong đó giá trị này thấp nhất là 1,08 và cao nhất là
9,70. Xã An Thủy là 8/20 mẫu, xã Thạnh Hải 7/20 mẫu và xã Bảo Thuận là 5/20 mẫu.
Tuy nhiên, thói quen trong sử dụng nước ăn uống của người dân nguồn nước
mưa vẫn đóng vai trò chủ yếu, tỷ lệ hộ chỉ sử dụng nước giếng cho mục đích ăn uống
chiếm 8,8% tại huyện Thạnh Phú và 5,8% tại huyện Ba Tri.
17
0.17
0
7.83
19.67
87.5
11.33
0.17

11.5
713.6
85.67
0
20
40
60
80
100
Nước máy Nước mư Na ước giếng Nước uống Nước ao. hồ
%
Thạnh Phú
Ba Tri
đóng bình
Hình 5: Tình hình sử dụng nước cho mục đích ăn uống
Đối với tình hình bệnh tật, nhìn chung số lượng người dân mắc bệnh tại các xã
ven biển của huyện Thạnh Phú cao hơn đáng kể so với huyện Ba Tri. Cụ thể, tỷ lệ mắc
bệnh cảm tại huyện Thạnh Phú cao gấp 1,6 lần, tai mũi họng cao gấp 1,8 lần và tiêu
chảy gấp 1,9 lần so với Ba Tri (hình 6). Số người mắc các bệnh về đường hô hấp như
cảm và tai mũi họng chiếm khá lớn trên mô hình bệnh, các bệnh liên quan đến tim
mạch như cao huyết áp và các chứng bệnh tim khác cũng chiếm tỷ lệ tương đối lớn
trên mô hình bệnh thu thập được tại đây. Theo các chuyên gia nghiên cứu, các đợt
nắng nóng kéo dài, nhiệt độ không khí tăng gây nên những tác động tiêu cực đối với
sức khoẻ con người, tạo cơ hội cho chứng hen suyễn, các bệnh về đường hô hấp tấn
công và bên cạnh đó còn gia tăng một số nguy cơ ảnh hưởng đến tình trạng của người
bệnh tim mạch
[6], [7]
. Kết quả khí tượng thủy văn thu được ở trên cũng cho thấy rằng
qua các năm nhiệt độ đang tăng lên rõ rệt, tổng lượng mưa trong những năm từ 2006
đến 2008 đã tăng cao và giảm xuống đột ngột trong năm 2009 và 2010. Như vậy, với

diễn biến thời tiết năng nóng gia tăng kết hợp với sự thay đổi về lượng mưa tăng vào
mùa mưa và giảm vào mùa khô sẽ tác động đến sức khỏe của con người. Nhất là tại
các khu vực ven biển, tác động của biến đổi khí hậu sẽ gây ảnh hưởng lớn hơn nữa
đến các đối tượng này, đặc biệt là hạn chế về mặt dinh dưỡng và điều trị ở các đối
tượng có điều kiện kinh tế thấp.
18
28
24
86
85
7
38
203
22
54
25
55
25
2
21
122
0
50
100
150
200
250
Cảm Tai mũi Tiêu chảy Da liễ Viêmu Cơ xương Huyế Tim t áp
Thạ nh Phú
Ba Tri

43
0.67
19.83
17.00
0.33
57.17
13.50
58.83
24.33
18.67
11.67
0
20
40
60
80
Không có Bỏ đi Cho súc vật ăn Hâm lại vào Ăn lại không
%
Th

nh Phú
Ba Tri
họngxoang khớp

Hình 6: Tình hình mắc bệnh của của người dân tại huyện Thạnh Phú và Ba Tri
Tuy nhiên tỷ lệ mắc tiêu chảy trong vòng 1 năm trước thời điểm khảo sát ở cả 2
huyện tương đối thấp (chiếm 2,27% tại Thạnh Phú và 3,67% tại Ba Tri), điều này một
phần do tình hình sử dụng nước dùng cho mục đích ăn uống đều là nước mưa hoặc
nước giếng đã qua đun nấu. Thêm vào đó, các thói quen xử trí thức ăn thừa hằng ngày
của người dân (hình 7) cho thấy rằng đa số đều tuân thủ khá tốt, phần lớn thức ăn thừa

được hâm nóng trước khi ăn hoặc không để thức ăn thừa vào các ngày kế tiếp, riêng
chỉ có 2 hộ tại mỗi xã Thạnh Phong, Bảo Thuận và An Thuỷ chưa đảm bảo được vấn
đề trên.
19
thức ăn thừa buổi kế tiếp cần hâm

Hình 7: Thói quen xử trí thức ăn thừa hằng ngày của người dân


Từ bảng 1 cho thấy trên ¾ số người dân sống tại các xã ven biển trên 2 huyện
chọn lựa đến khám chữa bệnh là trạm y tế, mặc dù là nơi được trang bị máy móc thiết
bị nhiều hơn nhưng tỷ lệ đến khám tại trung tâm y tế huyện và bệnh viện lại khá thấp.
Nguyên nhân do đây là các xã ven biển cách xa trung tâm huyện cũng như thị xã, đối
với người dân tại huyện Thạnh Phú để có thể đến bệnh viện hay trung tâm y tế huyện
khám chữa bệnh phải di chuyển qua phà gây khó khăn trong việc đi lại. Việc người
dân tập trung đến khám tại trạm y tế bên cạnh việc giúp quản lý được tình hình bệnh
tật của địa phương, giảm được hiện tượng quá tải cho các cơ sở tuyến trên nhưng mặt
khác đặt ra yêu cầu cần phải nâng cao năng lực chuyên môn tại tuyến xã để có thể tầm
soát chuẩn đoán bệnh kịp thời.

Bảng 1: Tình hình chọn lựa loại hình khám chữa bệnh của người dân
Loại hình khám chữa bệnh
Thạnh Phú Ba Tri
Tần số
(n= 600)
Tỷ lệ (%)
Tần số
(n= 600)
Tỷ lệ (%)
− Bệnh viện

− Trung tâm y tế huyện
− Trạm y tế xã
− Phòng khám tư
− Khác
32
44
513
29
1
5,33
7,33
85,5
4,83
0,17
92
35
459
72
5
15,33
5,83
76,5
12
0,83

Tại huyện Thạnh Phú, đa số các hộ đều có ít nhất một thành viên trong gia đình
mắc bệnh và khoảng 1/6 trên tổng số hộ khảo sát tại cả 2 xã có ít nhất 2 người trong
cùng một nhà mắc bệnh trong năm. Đối với huyện Ba Tri, nhìn chung tình trạng sức
khỏe của người dân tại đây khá tốt, có khoảng 60% hộ chỉ có 1 thành viên trong gia
đình mắc bệnh và khoảng 11-15% hộ có từ 2 thành viên trong nhà mắc bệnh. Tình

hình bệnh tật tại các xã của huyện Thạnh Phú cao gấp 1,3 lần so với tại Ba Tri, trong
đó tỷ lệ mắc các bệnh có liên quan hay chịu ảnh hưởng do tình trạng biến đổi khí hậu
chiếm trên 80%, chưa kể đến số lần mắc của cùng một loại bệnh đã xảy ra trong năm.
Như vậy từ đây có thể phần nào thấy được nguy cơ cũng như ảnh hưởng của tình trạng
biến đổi khí hậu lên sức khỏe của người dân tại đây.

20
Bệnh Không bệnh

p

PR

KTC 95%

Bảng 2: Tình hình bệnh tật của hộ gia đình tại các xã ven biển của 2 huyện Thạnh Phú,
Ba Tri


Thạnh
Hải

Thạnh
Phong
Huyện
Thạnh
Phú
Xã Bảo
Thuận
Xã An

Thuỷ
Huyện
Ba Tri
Tổng số người mắc
bệnh trong năm
360 374 734 266 291 557
Tổng số người các mắc
bệnh có liên quan/ảnh
hưởng do biến đổi khí
hậu
309
(85,83%)
320
(85,56%)
629
(85,69%)
215
(80,83%)
240
(82,47%)
455
(81,69
% )

Xét mối liên quan giữa tình trạng mắc các bệnh có liên quan đến tình trạng biến
đổi khí hậu (cảm, tai mũi họng và các bệnh khác như tiêu chảy, da liễu và viêm
xoang), so với nhóm dưới 40 tuổi, tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm trên 40 đến 60 tuổi cao gấp
1,16 lần và tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm trên 60 tuổi cao gấp 1,85 lần nhưng sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê. Có sự khác biệt giữa tình trạng kinh tế gia đình và tình
hình mắc bệnh, ở nhóm cận nghèo có tỷ lệ mắc bệnh cao gấp 1,84 lần và nhóm hộ

nghèo có tỷ lệ mắc bệnh cao gấp 1,16 lần so với nhóm có điều kiện kinh tế từ trung
bình trở lên. Điều này có thể do những người thuộc nhóm cận nghèo ít được hỗ trợ về
mặt chăm sóc sức khoẻ hơn so với các nhóm còn lại. Tuy nhiên những sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê (p> 0,05).
Bảng 3: Các yếu tố liên quan với tình trạng các mắc bệnh có liên quan đến tình trạng
biến đổi khí hậu
Tần số (%) Tần số (%)
Tuổi

- Từ 16 – 40 tuổi
- Từ 41 – 60 tuổi
- Trên 60 tuổi
177 (36,12%)
183 (37,20%)
76 (34,86%)
313 (63,88%)
309 (62,80%)
142 (65,14%)

0,26
0,16
1
1,16
1,85

0,89-
1,52
0,79-
4,32
Tình trạng kinh tế gia đình


21
- Từ trung bình trở lên
- Cận nghèo
- Nghèo
299
(35,09%)
11 (50%)
126
(38,65%)
553 (64,91%)
11 (50%)
200 (61,35%)

0,156
0,256
1
1,84
1,16

0,79-
4,32
0,89-
1,52
Tình hình thực hành vệ sinh



- Tốt
- Chưa tốt

207
(35,84%)
229
(36,90%)
354 (63,10%)
410 (64,16%)

0,7

1,024

0,90-
1,16

KẾT LUẬN
− Mức nhiệt trung bình của tỉnh Bến Tre hiện nay cao hơn 5 năm trước từ 0,2 – 0,5
0
C.
Có những diễn biến bất thường vào cuối mùa khô 2009 và giữa mùa mưa năm 2010.
− Từ năm 2006 đến năm 2008, lượng mưa của huyện Thạnh Phú và huyện Ba Tri
năm sau đều nhiều hơn năm trước. Tại huyện Thạnh Phú, lượng mưa năm 2009
nhiều hơn so với năm 2010 tuy nhiên tại huyện Ba Tri thì lượng mưa diễn biến
ngược lại.
− Mực nước tại 2 khu vực sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên đang có khuynh
hướng dâng lên, mức độ dao động giữa mực nước bình quân của tháng cao nhất và
tháng thấp nhất giảm dần qua các năm khảo sát.
− Mức độ nhiễm mặn thu được tại trạm quan trắc Hàm Luông và Cổ Chiên khá cao và
tăng dần rõ rệt theo các năm.
− Phần lớn nguồn nước sử dụng cho mục đích ăn uống tại các xã đều là nước mưa hoặc
nước giếng.

Tỷ lệ uống nước đun sôi tại các xã khá cao (chiếm trên 90%).
− Loại hình khám chữa bệnh thường được đa số người dân lựa chọn là trạm y tế xã.
− Tình hình bệnh tật:
• Tỷ lệ mắc các bệnh có liên quan hay chịu ảnh hưởng do tình trạng biến đổi khí hậu tại
các xã đều chiếm trên 80%. Số lượng người dân mắc bệnh tại các xã ven biển của
22
huyện Thạnh Phú cao đáng kể so với huyện Ba Tri (gấp 1,3 lần). Đặc biệt ở một số
bệnh như tiêu chảy, cảm và tai mũi họng.
• Không có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình hình mắc bệnh với các yếu tố
như nhóm tuổi, tình trạng kinh tế gia đình và tình hình thực hành vệ sinh.
23

×