Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Chuyên đề chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.15 KB, 28 trang )

CHUN ĐỀ:

CHÍNH SÁCH TÀI KHĨA VÀ CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH VÀ CSTK TRONG KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1 Chính sách tài khóa

1). Khái quát CSTK
Trong bất kỳ một xã hội nào, nhà nước muốn thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của mình để đạt được các mục tiêu kinh tế-xã hội nhất định đều phải sử dụng cơng cụ
tài chính. Vai trị quan trọng việc thực hiện các mục tiêu nói trên thuộc về CSTK.
CSTK là một phạm trù kinh tế học dùng để chỉ các hành động của Chính phủ
quyết định mức chi tiêu cơng và cách thức có đủ nguồn tài chính để đảm bảo mức chi
tiêu cơng đó. Chính phủ phải chi tiêu cho nhiều nhiệm vụ rất đa dạng, từ quân sự, cảnh
sát, đến các dịch vụ như giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội. Có nhiều nguồn để đảm bảo cho
các khoản chi trên, trong đó quan trọng nhất là thu thuế từ người dân và vay nợ để bù
đắp thâm hụt ngân sách.
CSTK là một cơng cụ của chính sách kinh tế vĩ mơ được Chính phủ sử dụng để
huy động, phân phối và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia.
Nội dung của CSTK thông thường chứa đựng các yếu tố sau:
- Mục tiêu của chính sách: thể hiện phương hướng, đường lối, chủ trương của
nhà nước về sử dụng chính sách huy đơng, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài
chính.
- Các cơng cụ của chính sách
- Cơ chế chuyển tải của chính sách, bao gồm cách thức hay phương thức huy
động, phân phối, sử dụng các nguồn lực tài chính và các chế tài đảm bảo thực hiện


phương thức đó.

2). Phân loại CSTK
Căn cứ vào tác dụng điều tiết chu kỳ kinh tế có thể chia CSTK thành CSTK tự
động ổn định và CSTK có sự điều chỉnh của nhà nước.

1


CSTK tự động ổn định là loại CSTC dựa trên cơ sở sự biến động của nền kinh tế
quốc dân mà tự động phát sinh tác dụng thay đổi tình hình kinh tế mà khơng cần dựa
vào sự tác động của phía Chính phủ.
Loại hiệu quả ổn định tự động này sinh ra từ nội tại của CSTC, tự mình phát huy
tác dụng điều tiết, khơng cần có bất kỳ hành động can thiệp nào của chính quyền.
Tính tự động ổn định của CSTC được thực hiện bởi sự hoạt động của cơ chế thị
trường. Chính nhờ cơ chế đó mà tạo ra khả năng phân phối lại một cách tự do và nhanh
chóng các nguồn tài chính giữa các chủ thể kinh tế khác nhau.
Tuy nhiên, trong một vài trường hợp cơ chế thị trường cũng thể hiện sự kém hiệu
qủa trong việc phân phối nguồn tài chính và sự phân phối đó bị ngáng trở bởi các tổ
chức độc quyền. Nói cách khác, cơ chế thị trường khơng đảm bảo sự phân phối thu
nhập phù hợp với mục tiêu của một xã hội dân chủ. Bởi vậy, nẩy sinh sự cần thiết phải
thực hiện cơ chế điều chỉnh của nhà nước.
CSTK có sự điều chỉnh của nhà nước là một loại CSTC mà bản thân nó khơng
có tác dụng tự động ổn định mà cần nhờ tác động bên ngồi mới có thể phát sinh tác
dụng điều tiết đối với nền kinh tế.
Sự cần thiết xuất hiện vai trò của nhà nước can thiệp vào nền kinh tế căn cứ vào
việc giải quyết những nhiệm vụ, gắn liền với sự thỏa mãn nhu cầu của xã hội về phát
triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Tuy nhiên cũng cần phải khẳng định rằng, sự điều chỉnh của nhà nước cũng có
những gianh giới qui định hình thành một cách khách quan. Nếu can thiệp qúa mức sẽ

làm suy yếu những đòn bẩy kinh tế và hạ thấp hiệu qủa hoạt động của cơ chế thị
trường.
Nếu căn cứ vào tính chất điều tiết mặt lượng của tài chính đối với nền kinh tế
thì CSTK được chia thành: CSTK mở rộng, CSTK thu hẹp và CSTK trung tính.
CSTK mang tính chất mở rộng là CSTC mà thơng qua phân phối và sử dụng các
nguồn tài chính nhà nước thực hiện kích thích tăng tổng nhu cầu xã hội.
Trong điều kiện nền kinh tế thiếu hụt về tổng cầu, nhà nước thực hiện CSTK mở
rộng để thu hẹp khoản chênh lệch giữa tổng cầu và tổng cung. Khi tổng cầu và tổng
cung đã cân đối thì thơng qua CSTK mang tính chất mở rộng nhà nước sẽ làm cho tổng
nhu cầu vượt qúa tổng cung cấp.
Công cụ thực hiện CSTK mang tính chất mở rộng chủ yếu là giảm thuế và tăng
quy mô chi tiêu ngân sách. Nếu thực hiện song song việc giảm thuế với việc tăng chi
tiêu ngân sách, CSTK mở rộng sẽ dẫn đến bội chi ngân sách. Bởi vậy,CSTK mang tính
chất mở rộng thường được gọi là CSTC bội chi.
2


CSTK mang tính chất thắt chặt là CSTC thơng qua phân phối và sử dụng nguồn
tài chính, nhà nước thực hiện giảm bớt và hạn chế tổng nhu cầu. Trong điều kiện tăng
tổng nhu cầu qúa mức của nền kinh tế, nhà nước thông qua CSTK thắt chặt thực hiện
kiềm chế lạm phát để cân đối cung và cầu. Trong điều kiện tổng cung cầu đã cân đối,
nhà nước có thể thi hành CSTK thắt chặt để tạo ra thiếu hụt nhu cầu hữu ích. Biện pháp
thực hiện mục tiêu của CSTK mang tính chất thắt chặt chủ yếu là tăng thuế và giảm bớt
chi tiêu ngân sách. Nếu trong điều kiện vừa tiến hành tăng thuế, vừa thực hiện giảm chi
thì có thẻ phát sinh khả năng kết dư ngân sách. Bởi vậy, CSTK mang tính chất thắt chặt
thường được gọi là CSTC kết dư.
CSTK trung tính ln ln thể hiện sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu trong
hoạt động phân phối và sử dụng nguồn tài chính. Vì thế, hoạt động thu chi tài chính
khơng thể sinh ra hiệu ứng mở rộng, cũng như không thể sinh ra hiệu ứng thắt chặt. Nói
chung, CSTK trung tính ln ln u cầu thu chi tài chính giữ vững được sự cân đối.

1.2 Các công cụ của CSTK
Các công cụ của CSTK thường được sử dụng như sau:

1). Thuế
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà
nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật qui định nhằm sử dụng cho mục đích
cơng cộng.
Thuế có những đặc điểm riêng để phân biệt với các cơng cụ tài chính khác như
sau:
- Thuế là một khoản đóng góp thu nhập của các tầng lớp trong xã hội cho nhà
nước mang tính bắt buộc. Đây là một thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt
thuế với các hình thức huy động tài chính khác.
- Việc đóng góp thu nhập dưới hình thức thuế khơng mang tính chất hồn trả
trực tiếp.
- Việc đóng góp thu nhập dưới hình thức thuế được quy định trước bằng luật
pháp.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự thay đổi phương thức can thiệp
của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế trở thành cơng cụ quan trọng để huy động
nguồn lực tài chính cho Chính phủ và thực hiện điều tiết vĩ mơ nền kinh tế.
Sử dụng công cụ thuế để huy động nguồn lực tài chính có ưu điểm:
- Thuế là một cơng cụ phân phối có lĩnh vực và phạm vi rộng lớn. Đối tượng
nộp thuế bao gồm toàn bộ thể nhân và pháp nhân hoạt động kinh tế và phát sinh nguồn
3


thu nhập nộp thuế. Vì thế, thuế trở thành cơng cụ huy động nguồn lực chủ yếu của
Chính phủ.
- Phương thức huy động tập trung nguồn lực của thuế sử dụng phương pháp
chuyển giao thu nhập bắt buộc. Do vậy nhà nước đảm bảo thực hiện sự công bằng trong
việc phân bố gánh nặng của các khoản chi tiêu công cộng, mặt khác việc động viên

thơng qua thuế mang tính pháp lý cao.
- Nguồn huy động tập trung thông qua thuế là tổng sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc nội, nhờ đó mà một bộ phận đáng kể thu nhập của xã hội được tập trung vào trong
tay nhà nước một cách nhanh chóng, thường xuyên và ổn định để đảm bảo nhu cầu chi
tiêu cho các biện pháp kinh tế -xã hội.
- Tính ưu thế của động viên thơng qua thuế so với các cơng cụ tài chính khác ở
chỗ: Thuế kết hợp giữa phương thức cưỡng bức, được qui định dưới hình thức pháp
luật cao với kích thích vật chất nhằm tạo ra sự quan tâm của các chủ thể kinh tế đến
chất lượng và hiệu qủa kinh doanh.
Nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực cũng chứa đựng những
khuyết tật vốn có. Mục tiêu can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế thị
trường là nhằm:
- Đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển có hiệu qủa. Chính phủ phải cố
gắng duy trì mơi trường cạnh tranh thuận lợi và sửa chữa những khuyết tật của thị
trường như độc quyền.
- Đảm bảo yêu cầu công bằng xã hội bằng biện pháp phân phối lại thu thập
- Đảm bảo cho nền kinh tế phát triển trong thế ổn định theo hướng làm giảm tính
chu kỳ của nền kinh tế, giảm thất nghiệp, kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Để thực hiện được các mục tiêu đó, nhà nước cần phải sử dụng công cụ thuế để
thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đối tượng điều tiết thông qua công cụ thuế là các
lĩnh vực, các ngành, các vùng, cũng như các mặt hoạt động khác nhau của đời sống
kinh tế xã hội, nơi phát sinh những khó khăn hay những vấn đề về thuế mà nó khơng
thể tự động điều tiết, cần phải có sự can thiệp của nhà nước để hiệu chỉnh cho phù hợp
với hoạt động bình thường của xã hội.
Trên cơ sở mục tiêu và đối tượng kể trên, nội dung điều tiết của thuế đối với nền
kinh tế quốc dân bao gồm: điều chỉnh chu kỳ kinh tế; cơ cấu ngành, khu vực và từng
vũng lãnh thổ; tích lũy tư bản; lạm phat; việc làm; lưu thông tiền tệ; giá cả; tiền lương;
phân phối thu nhập; các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, bảo vệ môi trường... Như vậy,
nội dung của điều chỉnh của thuế đối với nền kinh tế quốc dân rất rộng, nó bao hàm các

qúa trình điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
4


2). Chi tiêu chính phủ
Chi tiêu của chính phủ nhằm thỏa mãn nhu cầu của Nhà nước đối với việc thực
hiện các mục tiêu chung toàn xã hội. Chi tiêu chính phủ bao gồm hai loại: chi tiêu cơng
cộng (hoặc gọi là các khoản chi thường xuyên) và chi đầu tư XDCB.
Đối với các nhu cầu chi tiêu công cộng thơng thường bao gồm hai bộ phận: chi
tiêu mang tính chất mua sắm và chi tiêu mang tính chất chuyển dịch.
Chi tiêu mang tính chất mua sắm, bao gồm chi tiêu mua hàng hóa và dịch vụ là
một loại chi tiêu dùng trực tiếp của chính phủ.
Chi tiêu mang tính chất chuyển dịch là thông qua chi tiêu nhằm thực hiện
chuyển dịch thu nhập tiền tệ của một bộ phận này chuyển dịch cho một bộ phận khác.
Loại chi tiêu này của chính phủ khơng ảnh hưởng nhiều đến tiêu dùng của dân cư nên
không gây ra các biến động về kinh tế - xã hội. Trợ cấp tài chính là một hình thức chi
tiêu chuyển dịch.
Đầu tư XDCB của chính phủ là khoản chi nhằm hình thành các loại tài sản cố
định, cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, đầu tư của
chính phủ chủ yếu cho những ngành nghề, những lĩnh vực có hiệu ứng bên ngồi lớn,
có tác dụng châm ngòi cho đầu tư của khu vực tư nhân. Vì vậy, năng lực đầu tư và
phương hướng đầu tư của chính phủ có tác dụng then chốt đối với sự điều chỉnh cơ cấu
huy động nguồn lực tài chính của xã hội để ĐTPT nền kinh tế quốc dân.

3). Tín dụng nhà nước
Khi chi tiêu của chính phủ lớn hơn mức thuế thu được, Chính phủ phải vay nợ
từ trong nước và ngoài nước để trang trải phần thâm hụt ngân sách hình thành nợ chính
phủ và gọi là Tín dụng nhà nước. Tín dụng nhà nước được thực hiện bằng nhiều hình
thức khác nhau: cơng trái, tín phiếu, trái phiếu quốc tế, TPCP.
Lúc đầu tìn dụng nhà nước chỉ được dùng để bù đắp bội chi tài chính. Theo đà

phát triển của kinh tế, Tín dụng nhà nước đã trở thành CSTC quan trọng điều tiết quan
hệ cung cầu tiền tệ và điều tiết mối quan hệ tài chính với tiền tệ - tín dụng.
Tác dụng điều tiết của Tín dụng nhà nước chủ yếu thể hiện trên 3 mặt như sau:
Thứ nhất, Tín dụng nhà nước đã thu hút một nguồn lực tài chính đáng kể từ dân
cư cho nhà nước, làm cho đầu tư và tiêu dùng của dân cư giảm đi. Do đó, tín dụng của
nhà nước có tác dụng điều tiết đối với một bộ phận nguồn lực tài chính sử dụng cho
mục đích đầu tư và tiêu dùng của nền kinh tế.
Thứ hai, Tín dụng nhà nước có tác động đến cung cầu tiền tệ. Nhờ có Tín dụng
nhà nước mà một bộ phận tiền tệ nhàn rỗi, nằm im biến thành tiền tệ lưu thông và đưa

5


vào ĐTPT kinh tế. Sự biến động về số lượng tiền tệ do Tín dụng nhà nước đưa đến gọi
là "hiệu ứng tiền tệ" của Tín dụng nhà nước.
Thứ ba, do nguồn trả nợ của Tín dụng nhà nước chủ yếu dựa vào gia tăng thu
thuế ở các năm sau. Đối với những người cho nhà nước vay, khi Tín dụng nhà nước
đến hạn, họ không chỉ thu hồi được vốn mà còn nhận được lợi tức. Nhà nước phát hành
Tín dụng nhà nước chủ yếu dùng cho các nhu cầu chung của xã hội, mọi người dân đều
được hưởng. Như vậy sẽ sinh ra vấn đề chuyển dịch thu nhập giữa những người nộp
thuế với những người cho nhà nước vay. Ngồi ra, vấn đề trả nợ do tín dụng nhà nước
đưa đến, không chỉ ảnh hưởng đến những người đương thời, mà còn tồn tại cái gọi là
vấn đề chuyển dịch thu nhập và gánh vác của "các đời". Điều đó gọi là hiệu ứng thu
nhập, có tác động điều tiết nguồn lực tài chính của khu vực dân cư.
Tác dụng của tín dụng nhà nước chủ yếu thơng qua quy mơ tín dụng nhà nước,
cơ cấu người mua, cơ cấu về kỳ hạn, lãi suất tín dụng nhà nước. Nhà nước thông qua
việc điều chỉnh quy mô tín dụng nhà nước, lựa chọn đối tượng mua, phân chia kỳ hạn
hồn trả tín dụng nhà nước, xây dựng lãi suất tín dụng nhà nước khác nhau, để thực
hiện mục tiêu điều tiết của CSTC.
Trong điều kiện thực thi CSTC gắn với CSTT, thơng qua thị trường tín dụng

nhà nước, Chính phủ có thể điều hành được hai hệ thống chính sách lớn: một mặt, tín
dụng nhà nước có thể làm nhẹ bớt hậu qủa lạm phát do bội chi ngân sách, việc huy
động vốn từ tín dụng nhà nước để bù đắp bội chi ngân sách so với bù đắp bằng phát
hành tiền có ảnh hưởng nhỏ hơn tới sự biến động của tiền tệ và lạm phát; mặt khác, cịn
có thể gia tăng khả năng linh hoạt điều tiết việc cung ứng tiền tệ của ngân hàng trung
ương.
1.3 Vai trò của CSTK trong kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, tài chính chỉ phát huy được vai trị tích cực của
mình khi nhà nước xây dựng và thực hiện CSTK phù hợp. Nếu CSTK được xây dựng
đúng đắn, hợp lý thì có thể bảo đảm cho nền kinh tế phát triển liên tục, ổn định, nhịp
nhàng. Ngược lại, khi CSTK không được hoạch định phù hợp quy luật khách quan thì
nền kinh tế có thể phát triển mất cân đối và kém hiệu qủa.
CSTK với tư cách là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách phát
triển kinh tế- xã hội của nhà nước, có vai trị nổi bật trên các mặt sau đây:

1. Hướng dẫn
Một trong những nội dung quan trọng của CSTC là huy động, phân phối, sử
dụng các nguồn tài chính và mối quan hệ cân đối của nó, mà loại quan hệ này lại đụng
chạm đến lợi ích vật chất và khống chế hoạt động kinh tế của các chủ thể trong xã hội.
CSTK phát huy vai trò hướng dẫn thơng qua việc điều chỉnh lợi ích vật chất để hướng
6


mọi hoạt động kinh tế của chủ thể kinh doanh đi vào quỹ đạo quản lý của nhà nước,
phù hợp với phương hướng phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Vai trò hướng dẫn của CSTK thể hiện ở hai mặt: Trực tiếp và gián tiếp.
Trực tiếp hướng dẫn là sự thể hiện vai trò phát huy tác dụng trực tiếp của CSTK
đối với đối tượng điều chỉnh.
Gián tiếp hướng dẫn là ảnh hưởng của CSTK đối với đối tượng điều tiết thơng
qua các cơng cụ và địn bẩy khuyến khích khác của cơ chế thị trường.


2. Điều tiết
CSTK có vai trị điều tiết xuất phát từ chính chức năng của bản thân tài chính
quyết định - chức năng điều chỉnh.
Vai trò này được phát huy nhờ vào việc vận dụng chức năng phân phối nguồn
lực của tài chính trong hoạt động thực tiễn. Bằng việc tạo lập, phân phối và sử dụng
một cách đúng đắn và hợp lý các nguồn lực tài chính, Nhà nước đã tác động tới việc
phân phối và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính của tồn xã hội,
từ đó tác động tới sự phát triển kinh tế-xã hội.
Vai trò điều tiết của CSTK chủ yếu biểu hiện ở sự điều chỉnh một số mặt mất
cân đối nào đó trong qúa trình phát triển kinh tế xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, sự
phát triển kinh tế theo chu kỳ là điều khó tránh khỏi. CSTC, thơng qua phân phối và sử
dụng các nguồn lực tài chính có thể tác động một cách thích hợp vào các giai đoạn của
chu kỳ kinh tế, nhằm rút ngắn thời gian nền kinh tế bị khủng hoảng tiêu điều, kéo dài
thời kỳ nền kinh tế phục hồi hưng thịnh. Đồng thời, thông qua việc phân phối và phân
phối lại thu nhập mà CSTC có thể điều hịa các mối quan hệ lợi ích và thực hiện sự cân
đối giữa các khu vực, các ngành nghề và các tầng lớp dân cư.

3. Kiềm chế
CSTK thông qua phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính mà tác động ảnh
hưởng đến quy mơ hoạt động của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Thơng qua đó,
CSTC thực hiện vai trị kiềm chế hoặc thúc đẩy sự phát triển toàn bộ nền kinh tê quốc
dân.
Sở dĩ CSTK có vai trị khơng chế, chủ yếu là do các thuộc tính bên trong của
chính sách quyết. Bất kể CSTK thuộc loại hình nào đều mang yếu tố khơng chế nào đó
ở bên trong. Các chính sách này đều thông qua các chế tài nhất định để bắt buộc các
chủ thể kinh tế phải thực hiện các quy định của chính sách.
Đặc trưng nổi bật về vai trị khơng chế của CSTC là tính chất gián tiếp, vì rằng
cái mà CSTK cung cấp là một phương thức hay áp lực điều hòa kinh tế.


7


4. Ổn định
CSTK thông qua điều chỉnh tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế, làm cho tổng
mức chi tiêu tiền tệ cân bằng với sản lượng sản xuất và thu nhập, từ đó thực hiện phát
triển ổn định nền kinh tế quốc dân.
CSTK thực hiện vài trò ổn định thơng qua các cơng cụ của mình. Nhà nước sử
dụng thuế, chi tiêu ngân sách, bảo hiểm xã hội và trợ cấp thất nghiệp là những công cụ
chủ yếu của CSTK và được coi là "công cụ ổn định bên trong" của nền kinh tế. Việc sử
dụng đúng đắn và hợp lý các công cụ của CSTC vào những thời điểm thích hợp của
chu kỳ kinh tế sẽ tạo ra tiền đề để thực hiện ổn định nền kinh tế xã hội.
Chẳng hạn, trong thời kỳ phồn thịnh, thu nhập quốc dân tăng lên, do đó cần phải
tăng thuế để điều tiết thu nhập và đầu tư của các chủ thể kinh doanh, áp lực của lạm
phát sẽ được giảm nhẹ. Trong thời kỳ suy thoái, mức thu nhập quốc dân xuống thấp,
thuế sẽ giảm đi, còn chi tiêu cơng cộng cần phải tăng lên, thu nhập có thể chi phối của
dân cư tăng lên một cách tương tối, do đó tổng cầu của xã hội cũng tăng lên. Vai trị của
CSTK mang tính chất phản chu kỳ.
Mặt khác, trong điều kiện mất cân đối giữa tắc tổng cung và tổng cầu, có thể
thơng qua CSTKh để gia tăng chi tiêu công cộng, hoặc là giảm bớt thu nhập của chính
phủ từ thuế khóa để duy trì sự khơng thay đổi về tổng nhu cầu. Ngược lại, nếu chi tiêu
của các tổ chức tư nhân quá nhiều, có nguy cơ gây ra lạm phát, CSTK, một mặt cần
giảm bớt chi tiêu công cộng, mặt khác cần tăng gia thu thuế để thu hút sức mua dư thừa
của xã hội. Vai trị đó của CSTK mang tính chất ổn định.
Trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát, để khống chế và đẩy lùi lạm phát, các
biện pháp của tài chính thường được sử dụng như: Cắt giảm chi tiêu Ngân sách, tăng
thuế tiêu dùng, giảm thuế đối với đầu tư; vay dân qua con đường phát hành cơng trái,
tín phiếu Kho bạc nhà nước hoặc sử dụng công cụ tín dụng và lãi suất để thu hút lượng
tiền mặt trong lưu thông làm giảm sự căng thẳng trong quan hệ tiền - hàng ...


2.

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA HỘI NHẬP
2.1 CSTT, mục tiêu và nội dung của CSTT

1). CSTT
Tiền tệ là sản phẩm của quan hệ trao đổi hàng hóa. Có thể nói bất cứ vật gì được
chấp nhận chung để đổi lấy hàng hóa, dịch vụ hoặc để thanh toán các khoản nợ đều
được gọi là tiền tệ.
8


Tiền tệ có vai trị quan trọng trong kinh tế thị trường. Để phát huy được vai trị
đó, nhà nước phải hoạch định CSTT theo những định hướng nhất định, hình thành
CSTT.
Như vậy, CSTT là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô do NHTW soạn
thảo và tổ chức thực hiện nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một
thời kỳ nhất định.
Trong tác phẩm “Tiền tệ, ngân hàng và TTTC”, F.S. Miskin đã đưa ra quan điểm
về CSTT theo nghĩa rộng: “CSTT là một trong các chính sách vĩ mơ, trong đó ngân
hàng Trung ương thơng qua các cơng cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết
khối lượng tiền cung ứng nhằm tác động tới các mục tiêu cơ bản của nền kinh tế trên
cơ sở đó đạt được những mục tiêu cuối cùng của mình là cơng ăn việc làm cao, tăng
trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định TTTC và ổn định tỷ giá hối
đoái”.
Bất kỳ nền kinh tế nào, ổn định tiền tệ và nâng cao sức mua đồng tiền trong nước
ln được coi là mục tiêu có tính chất dài hạn. NHTW điều hành CSTT phải kiểm soát
được tiền tệ, làm sao cho phù hợp giữa khối lượng tiền với mức tăng tổng sản phẩm
quốc dân danh nghĩa, giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng, không gây

thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu của lưu thơng.
Xét cho cùng, CSTT có thể được xác định theo một trong hai hướng sau:
- CSTT mở rộng là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, nhằm khuyến khích
đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo cơng ăn việc làm. Trong trường hợp này, chính sách
nhằm vào chống suy thoái.
- CSTT thắt chặt là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế, nhằm hạn chế đầu
tư, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế, trường hợp này CSTT nhằm vào
việc kiềm chế lạm phát.
Bằng cách NHTW tác động đến cung ứng tiền (money supply) làm thay đổi
cung ứng tiền để tác động đến lãi suất, từ đó ảnh hưởng đến chi tiêu của các khu vực
nền kinh tế, cuối cùng CSTT có tác động quan trọng đến GDP (thực, tiềm năng) và lạm
phát. Trong dài hạn, CSTT xác định giá trị danh nghĩa hay giá trị tiền tệ của hàng hóa
và dịch vụ - đó chính là mức giá chung hay CSTT chính là yếu tố quyết định mức giá
chung trong dài hạn. Tuy nhiên, những thay đổi của CSTT cũng có ảnh hưởng nhất
định đến hoạt động kinh tế trong ngắn hạn và trung hạn. CSTT là cách thức hay tổng
thể các biện pháp, cơng cụ của NHTW nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của chính
sách kinh tế, thơng qua việc chi phối, điều tiết quá trình cung ứng tiền và tín dụng, tức
là thơng qua chi phối dịng chu chuyển tiền và khối lượng tiềni.
Qui trình hoạt động của CSTT có thể tóm tắt như sau:
9


Cơng cụ của
CSTT

Mục tiêu
hoạt động

Mục tiêu
trung gian


Mục tiêu
cuối cùng

Qui trình này thực hiện thông qua một cơ chế truyền dẫn tiền tệ

2). Hệ thống mục tiêu CSTT
Để đạt được cái đích cuối cùng của CSTT, trong q trình điều hành CSTT,
NHTW phải theo đuổi những đích trực tiếp và gián tiếp khác. Các đích này có sự liên
kết lẫn nhau và liên kết với cái đích cuối cùng của CSTT, từ đó hình thành “ hệ thống
mục tiêu” của CSTT. Nhiều nghiên cứu thực tế đã chỉ ra rằng, CSTT chỉ đạt được hiệu
quả cao khi NHTW lựa chọn được hệ thống mục tiêu CSTT phù hợp với thực trạng của
nền kinh tế và hệ thống tài chính.

Mục tiêu cuối cùng
Mục tiêu cuối cùng của CSTT thường là mục tiêu trung hạn, vì tác động trễ của
tiền tệ đến sản lượng và lạm phát. CSTT là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, nên mục
tiêu CSTT theo đuổi khơng ngồi mục tiêu của kinh tế vĩ mơ là “ mức sản lượng cao và
tăng trưởng nhanh; mức công ăn việc làm hữu hiệu với mức thất nghiệp tự nguyện thấp
nhất; ổn định giá cả”. Trên thực tế NHTW các nước điều hành CSTT đều theo đuổi
mục tiêu trên. Tuy nhiên, CSTT không phải là duy nhất để nền kinh tế đạt được sự ổn
định kinh tế vĩ mô với mức tăng trưởng bền vững, công ăn việc làm cao và lạm phát
thấp, mà để đạt được điều đó phải phối hợp đồng bộ với nhiều chính sách khác như
chính sách tài khố, chính sách thu nhập, chính sách đối ngoại...Có thể khái qt hố
mục tiêu cuối cùng của CSTT thường là ổn định hệ thống tiền tệ, hỗ trợ sự phát triển
kinh tế bền vững, ổn định giá cả hay là kiểm soát được lạm phát ở mức mong muốn.
Trong từng thời kỳ, mục tiêu cuối cùng được lượng hoá cụ thể phù hợp với diễn biến
kinh tế và diễn biến tiền tệ.

Mục tiêu trung gian

Mục tiêu trung gian là những biến số tiền tệ mà có thể đo lường được, NHTW có
thể kiểm sốt được và phải có tác dụng dự báo được mục tiêu cuối cùng. Điều đó có
nghĩa rằng biến số tiền tệ đó có mối liên kết với mục tiêu hoạt động và có thể tác động
đến mục tiêu cuối cùng của CSTT.
Qua đúc kết kinh nghiệm của các nước, IMF đã chia mục tiêu trung gian được
chia thành 3 loại: Mục tiêu trung gian là tổng tiền, thường là lượng chọn M2 và/hoặc là
tổng tín dụng nền kinh tế. Mục tiêu trung gian là tổng tiền, hoặc tỷ giá hối đoái, hoặc lãi
suất thị trường đã được áp dụng trong nhiều thập kỷ qua, qua đó cho thấy mỗi một mục
tiêu được lựa chọn gắn liền với những diễn biến kinh tế và TTTC trong từng giai đoạn
10


phát triển, gắn liền với mục tiêu và giải pháp đảm bảo sự ổn định vĩ mô. Như vậy, để
lựa chọn được mục tiêu trung gian thích hợp, địi hỏi sự phân tích kỹ lưỡng về các diễn
biến kinh tế, tiền tệ hiện tại và dự báo trong tương lai, và xác định rõ định hướng phát
triển kinh tế trong ngắn hạn cũng như dài hạn.

Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động là những biến tiền tệ mà NHTW có thể tác động hay kiểm
soát một cách trực tiếp bằng các công cụ CSTT nhằm thay đổi mục tiêu trung gian, qua
đó tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT. Mục tiêu hoạt động có vai trị quan
trọng đối với việc điều hành CSTT, đây là điểm khởi đầu trong cơ chế truyền tải tiền tệ,
là biến số chủ yếu để NHTW thực thi CSTT.
IMF đã chia mục tiêu hoạt động thành hai loại là mục tiêu hoạt động giá cả hay
lãi suất ngắn hạn và mục tiêu hoạt động là khối lượng (tiền cơ bản), cụ thể như sau:
+ Gắn với mục tiêu hoạt động là giá cả nghĩa là NHTW kiểm soát lãi suất ngắn
hạn trên thị trường liên ngân hàng. Thông thường NHTW qui định lãi suất trần và lãi
suất sàn của NHTW trên thị trường liên ngân hàng nhằm tạo ra hành lang dao động cho
lãi suất ngắn hạn trên thị trường theo mức mong muốn của NHTW, thông qua sự tác
động của công cụ CSTT như nghiệp vụ thị trường mở v.v. Trong trường hợp việc chỉ

đạo CSTT hầu hết thông qua sự can thiệp của NHTW trên thị trường ngoại hối hơn là
việc điều chỉnh lãi suất thì tỷ giá được xem như là mục tiêu hoạt động.
+ Gắn với mục tiêu hoạt động là khối lượng tiền tệ nghĩa là NHTW kiểm sốt
tiền cơ bản (MB), hoặc các cấu thành của nó, chẳng hạn như Dự trữ quốc tế ròng, Dự
trữ của các NHTM, hoặc tài sản có trong nước rịng trên bảng cân đối của NHTW.
+ Đối với mục tiêu giá cả tiền tệ, việc kiểm sốt lãi suất sẽ có hiệu quả trong điều
kiện thị trường tiền tệ phát triển- thị trường liên ngân hàng có tính thanh khoản cao và
hiệu quả, hệ thống NHTM tồn tại sự cạnh tranh, NHTW phải có sự tín nhiệm với thành
viên thị trường. Sở dĩ phải có điều kiện như vậy là do lãi suất chỉ có tính nhạy cảm cao
trong mơi trường như vậy, khi đó bất cứ sự thay đổi nhỏ trong cung tiền của NHTW sẽ
tác động đến sự biến động của lãi suất. Đối với mục tiêu là khối lượng điều kiện áp
dụng có phần ngược lại, tức là có thể áp dụng trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa
phát triển, kém hiệu qủa, khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng là thấp, nhất là trong
điều kiện mơi trường lạm phát cao. Tuy nhiên trong tình hình như vậy, một điều kiện
tiên quyết là giữa hệ số tạo tiền và hàm cầu tiền phải có sự liên hệ chặt chẽ với nhauii,
và gắn với nó là mục tiêu trung gian là tổng tiền (tổng phương tiện thanh tốn hoặc
tổng tín dụng nền kinh tế). Sở dĩ mục tiêu khối lượng có hiệu quả trong điều kiện như
vậy là do, khi đó chỉ có sự thay đổi khối lượng tiền mới tạo ra sức đẩy tiền tệ trong cơ
chế truyền tải tiền tệ trong môi trường thị trường tiền tệ kém phát triển.
11


3). Nội dung cơ bản của CSTT
Trong cơ chế thị trường, CSTT bao gồm 3 chính sách cơ bản. Đó là chính sách
tín dụng; chính sách ngoại hối; chính sách đối với NSNN.

Chính sách tín dụng
Thực chất của chính sách tín dụng là cung ứng phương tiện thanh tốn cho nền
kinh tế quốc dân, thơng qua các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quĩ cho vay
được tạo lập từ các nguồn tiền của xã hội và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo, phù

hợp với sự vận động của cơ chế thị trường.
Khi các TCTD thiếu phương tiện thanh tốn thì họ đến NHTW xin tái cấp vốn.
NHTW ln là người cho vay cuối cùng, đóng vai trị chủ nợ với các tổ chức tín dụng.

Chính sách ngoại hối
Nhằm đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các tài sản có giá trị thanh tốn đối
ngoại, phục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và gia
tăng việc làm trong xã hội.
Chính sách ngoại hối được thể hiện trên các phương diện: (i) Chính sách hối
đối; (ii) Dự trữ ngoại hối và (iii) Tỷ giá hối đối.
Chính sách hối đối: Chính sách hối đối thường hướng vào việc ngăn chặn tích
trữ ngoại hối trong các pháp nhân và thế nhân, quản lý việc mua bán ngoại tệ, thu hút
các nguồn ngoại tệ vào NHTW.
Dự trữ ngoại hối: Mỗi nước đều có dự trữ ngoại hối tùy thuộc vào khả năng của
nền kinh tế đó. Dự trữ ngoại hối phục vụ cho nhu cầu thanh toán quốc tế và điều chỉnh
khối lượng tiền trong nước. Khi NHTW mua ngoại tệ sẽ làm gia tăng dự trữ ngoại tệ,
gia tăng khối lượng tiền tệ và ngược lại. Qua việc mua bán ngoại hối, NHTW can thiệp
vào thị trường, chủ động tác động vào tỷ giá hối đoái theo ý muốn nhất định.
Tỷ giá hối đoái: Phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ. Tỷ giá hối
đoái ảnh hưởng trực tiếp đến xuất nhập khẩu. Nếu tỷ giá hối đối q thấp sẽ khuyến
khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu. Ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái quá cao sẽ
bất lợi cho nhập khẩu. Do tầm quan trọng của nó, nên NHTW rất quan tâm và khi cần
thiết dùng nhiều biện pháp để ổn định tỷ giá hối đối.

Chính sách đối với ngân sách
Ngân sách cân bằng hay khơng cân bằng có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực với
những mức độ khác nhau đối với lưu thông tiền tệ.
Trường hợp ngân sách cân bằng. Vẫn có thể tác động mạnh tới CSTT. Nếu
CSTT nhằm chống lạm phát, thì ngân sách thăng bằng vẫn có thể làm tăng giá. Nếu
12



CSTT nhằm chống suy thoái, ngân sách thăng bằng vẫn có thể chuyển dịch thu nhập
tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng mức tiêu thụ.
Trường hợp ngân sách thiếu hụt sẽ có 4 cách để tài trợ thiếu hụt. Đó là: vay dân;
vay hệ thống TCTD và TTTC trong nước; vay NHTW; vay ở nước ngồi. Trong đó
vay của NHTW sẽ làm tăng mạnh khối lượng tiền tệ, gây áp lực lạm phát tiềm tàng về
sau. Nhưng trong trường hợp cần thiết, NHTW phải đảm bảo cung ứng phương tiện
thanh tốn cho Chính phủ.
2.2 Các công cụ của CSTT và sự lựa chọn
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn sử dụng các công cụ CSTT trong điều hành
CSTT của các NHTW trên thế giới, IMF đã tổng kết và phân chia các công cụ CSTT
thành 2 loại chủ yếu: Công cụ tiền tệ trực tiếp và công cụ tiền tệ gián tiếp.

4). Công cụ trực tiếp
Là cách thức mà NHTW trực tiếp tác động thông qua các quy định để giới hạn
mục tiêu giá cả (hoặc mục tiêu khối lượng) thường nhằm vào các chỉ tiêu trên bảng cân
đối của ngân hàng thương mại. Các công cụ này thường được áp dụng trong điều kiện
thị trường tiền tệ chưa phát triển, khả năng sử dụng các điều kiện thị trường để điều tiết
tiền tệ của NHTW cịn hạn chế, như: kiểm sốt trực tiếp lãi suất của nền kinh tế, hạn
mức tín dụng, tín dụng chỉ định.

 Ấn định lãi suất tiền gửi và tiền vay
Nếu lãi suất qui định cao, sẽ thu hút được nhiều tiền gửi, làm gia tăng nguồn vốn
cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín
dụng.
Nhược điểm của biện pháp này là làm cho các TCTD mất đi tính linh hoạt và
quyền tự chủ kinh doanh, nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng nhưng lại
thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ ngoại tệ, bất động sản,
trong khi ngân hàng bị hụt hẫng về tiền mặt cũng như nguồn vốn cho vay.


 Ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay
NHTW có thể qui định khung lãi suất (giới hạn tối đa và tối thiểu về lãi suất) bắt
buộc các TCTD phải thực hiện.
Biện pháp này có ưu điểm là giúp ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để
cho vay, loại bỏ những dự án kinh tế kém hiệu quả. Nhìn chung việc ấn định khung lãi
suất tiền gửi và cho vay ngày càng ít được áp dụng ở các nước theo cơ chế thị trường.
Bởi vì, trong cơ chế thị trường, lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó phải được vận động
theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
13


 Ấn định hạn mức tín dụng đối với các TCTD
Đây là biện pháp mà NHTW khống chế mức cho vay tối đa đối với các TCTD.
Trên cơ sở qui mơ, tình hình hoạt động cũng như khả năng huy động vốn của từng
TCTD, NHTW tiến hành phân chia hạn mức tín dụng cho từng TCTD, đó chính là mức
tối đa mà mỗi TCTD được phép vay từ NHTW. Với việc sử dụng biện pháp này tạo
cho NHTW dễ đạt được các mục tiêu trung gian của CSTT. Tuy nhiên trong điều kiện
kinh tế thị trường, với sự biến động thường xuyên của cung và cầu tiền vay, biện pháp
này bỏ ra khơng cịn phù hợp vì khơng điều chỉnh kịp thời với sự biến động của nền
kinh tế.
Bên cạnh việc qui định hạn mức tín dụng đối với các TCTD, NHTW cịn qui
định hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong trường hợp này, NHTW có thể qui
định giới hạn khối lượng tín dụng mà các TCTD có thể cung cấp cho nền kinh tế. Nó
được sử dụng để kiểm sốt chặt chẽ sự mở rộng tín dụng khi NHTW thực hiện chính
sách chặt tiền tệ.

 Phát hành tín phiếu ngân hàng trung ương
Trong một số trường hợp, NHTW có thể phát hành tín phiếu để giảm khối lượng
tiền trong lưu thơng. Việc phân bổ tín phiếu mang tính chất bắt buộc đối với TCTD.

Việc phát hành tín phiếu NHTW thường áp dụng trong trường hợp lạm phát cao, hoặc
được sử dụng để hỗ trợ một số công cụ khác.

 Phát hành trực tiếp cho NSNN và cho đầu tư
Trong điều kiện NSNN bị thiếu hụt, NHTW phát hành tiền để bù đắp sự thiếu
hụt ấy. Biện pháp này làm gia tăng khối lượng trong lưu thông, hậu quả là gia tăng lạm
phát.
Phát hành trực tiếp cho đầu tư có thể qua NSNN hoặc qua con đường tín dụng
ngân hàng. Biện pháp này cần thiết trong điều kiện nền kinh tế suy thoái, dư thừa tiềm
năng kinh tế. Nó sẽ mang lại hiệu quả tích cực, nếu phát hành này được sử dụng để
khơi tăng tiềm năng về tài nguyên và con người.

5). Công cụ gián tiếp
Các công cụ gián tiếp là các công cụ mà sự tác động của chúng vào các mục tiêu
trung gian được thông qua một biến số khác thuộc về sự kiểm sốt của NHTW và phải
thơng qua cơ chế tự điều tiết của các lực lượng thị trường. Thuộc về nhóm công cụ này
bao gồm:

14


 Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các TCTD phải duy trì theo qui định của NHTW.
Nó được xác định bằng tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi trong một
khoảng thời gian nhất định.
Dự trữ bắt buộc được xác định bằng cách:

DTBB  TTGBB xTLDTBB
Trong đó:
o DTBB: Tiền dự trữ bắt buộc

o TTGBB : Tổng số tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc
o TLDTBB : Tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Về nguyên tắc, các khoản tiền gửi dự trữ bắt buộc gửi trên tài khoản chuyên
dùng tại NHTW và không được NHTW trả lãi.
Tuỳ theo điều kiện của từng nước, trong từng thời kỳ, có nhiều qui định về việc
xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau. Dự trữ bắt buộc có thể qui định cho tất cả các
TCTD hoặc có thể chỉ tính cho một số các TCTD. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể được qui
định chung cho toàn bộ các nguồn vốn huy động được của các TCTD hoặc có thể chỉ
được qui định đối với tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi ngắn hạn dưới một năm.
Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của các
TCTD và quan trọng hơn là để NHTW kiểm sốt q trình tạo tiền của hệ thống
TCTD. Sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động tới sự thay đổi số nhân tiền và qua đó
tác động đến mức cung tiền.
Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng, các yếu tố khác không đổi, làm giảm khả năng
cho vay và đầu tư của TCTD, do đó làm giảm tiền trong lưu thông. Ngược lại, NHTW
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mở rộng cho vay và đầu tư của các TCTD, dẫn đến tăng
mức cung ứng tiền.
Như vậy thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động cả về khối lượng
và giá cả tín dụng của các ngân hàng thương mại:
Về số lượng: Tăng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng có nghĩa là thắt chặt hay nới
lỏng khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại.
Về chi phí: Tăng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng có nghĩa là làm tăng hoặc giảm
cho phí tín dụng của các ngân hàng thương mại.

15


Do đó dự trữ bắt buộc tạo ra tác động kép (vừa tác động về khối lượng, vừa tác
động về chi phí) để buộc các ngân hàng thương mại có thể mở rộng hay hạn chế tín
dụng.


 Tái cấp vốn
Tái cấp vốn là cách để NHTW đưa tiền ra lưu thông, đồng thời khống chế về số
lượng và chất lượng tín dụng của các TCTD.
Nếu căn cứ vào mục đích, các khoản tái cấp vốn của NHTW đối với TCTD bao
gồm: Cho vay thanh toán đối với các ngân hàng thiếu hụt tạm thời; cho vay bổ sung
nguồn vốn tín dụng ngắn hạn; cho vay thời vụ để đáp ứng nhu cầu thời vụ của một số
ngân hàng.
Thông qua việc ấn định lãi suất tái cấp vốn, NHTW tác động đến chi phí vay
mượn của các TCTD tại NHTW. Nếu lãi suất tái cấp vốn tăng lên, chi phí các khoản
tiền vay từ NHTW tăng lên, các TCTD sẽ bất lợi trong vay vốn. Trong điều kiện đó,
các TCTD khơng có khả năng bành trướng tín dụng. Nếu lãi suất tái cấp vốn giảm
xuống, các TCTD có khả năng bành trướng tín dụng. do được lợi trong việc vay vốn
của NHTW.
Điều kiện để NHTW tái cấp vốn là:
- Còn hạn mức tín dụng dành cho TCTD đó.
- Các khoản tín dụng đem đến tái chiết khấu phải lành mạnh và đảm bảo khả
năng thu hồi nợ.
Ở các nước công cụ tái cấp vốn được sử dụng một cách phổ biến để tác động đến
cơ số tiền và cung ứng tiền tệ và qua đó thực hiện các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế
và ổn định tiền tệ. Qua công cụ tái cấp vốn, NHTW là người cho vay cuối cùng. Tái cấp
vốn được thực hiện trên nền các giấy tờ có giá, nên thời hạn vay mượn là rõ ràng, việc
hoàn trả nợ tương đối chắc chắn, tiền vay vận động phù hợp với sự vận động của quy
luật cung cầu thị trường.
Mặc dù công cụ tái cấp vốn có nhiều cơng dụng trong việc thực hiện CSTT,
nhưng việc kiểm soát cơ số tiền và mức tiền cung ứng thường kém chặt chẽ. Sự thay
đổi của lãi suất tái cấp vốn có thể làm tăng hay giảm khối lượng vay mượn của TCTD,
nhưng mức độ thay đổi là bao nhiêu lại phụ thuộc phần lớn vào hoạt động của TCTD.
Vì vậy, đơi khi khối lượng tiền vay mượn của TCTD nằm ngồi ý định của NHTW, do
vậy NHTW khơng thể kiểm soát chặt chẽ sự thay đổi của mức cung ứng tiền.


 Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán các chứng khoán ngắn hạn của
NHTW trên thị trường tiền tệ.
16


Ở các nước phát triển, nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ quan trọng trong
việc thực hiện CSTT của NHTW nhằm đạt được mục đích là điều tiết mức dự trữ của
TCTD, điều tiết mức cung tiền.
Nếu ý muốn gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông, mở rộng tín dụng, NHTW
thực hiện nghiệp vụ mua các giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ. Ngược lại, khi muốn
giảm mức cung ứng tiền thu hẹp tín dụng, NHTW bán các giấy tờ có giá đang nắm giữ.
Qua nghiệp vụ mua bán này, NHTW làm tăng hay giảm dự trữ của ngân hàng
thương mại, tác động tới khả năng tín dụng của ngân hàng này và từ đó làm tăng hay
giảm khối lượng tiền tệ.
Công cụ thị trường mở có ưu điểm là nó trực tiếp tác động ngay đến dự trữ của
các TCTD và buộc các ngân hàng này phải gia tăng tín dụng hoặc giảm tín dụng đối
với nền kinh tế. Nếu khơng có sự tham gia mua bán của NHTW trên thị trường tiền tệ
mà chỉ có việc mua bán tín phiếu kho bạc giữa các TCTD với nhau thì khối lượng tiền
tệ sẽ khơng thay đổi. Bởi vì một TCTD này bán tín phiếu cho TCTD thì chỉ là sự
chuyển dịch tín phiếu và một phần dự trữ dư thừa từ TCTD này qua TCTD khác mà
thôi.
Công cụ tiền tệ gián tiếp là cách tác động thông qua thị trường dưới những điều
kiện về cung cầu vốn, và hầu hết các công cụ này nhằm vào bảng cân đối tiền tệ của
NHTW. Các công cụ tiền tệ gián tiếp (dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường
mở…) không ngừng phát triển cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ, hệ thống
thanh tốn. Đến nay, cơng cụ dự dữ bắt buộc ít được sử dụng hơn ở những nước phát
triển,mà dự trữ bắt buộc chủ yếu được sử dụng ở những nước đang phát triển và những
nước chuyển đổi. Còn công cụ tái cấp vốn cũng được mở rộng thêm, đến nay NHTW

nhiều nước đã thực hiện nghiệp vụ thấu chi cung cấp nguồn vốn qua đêm cho các
NHTM do thiếu hụt khả năng thanh toán khi tham gia hệ thống thanh toán của NHTW
và thực hiện nghiệp vụ gửi tiền (deposit facility) để thu hút vốn khả dụng thừa của các
NHTM nhằm ngăn chặn lãi suất thị trường hạ xuống mức quá thấp. Nghiệp vụ tiền gửi
thường được kết hợp với nghiệp vụ lombard hoặc cho vay qua đêm tạo ra một hành
lang dao động cho lãi suất thị trường liên ngân hàng.
Nghiệp vụ thị trường mở ngày nay đã trở thành công cụ CSTT chủ yếu ở những
nước phát triển. Từ nghiệp vụ thị trường mở truyền thống (mua bán hẳn chứng khốn
chính phủ) đến nay nghiệp vụ này đã phát triển dưới nhiều hình thức, như nghiệp vụ
mua – bán có kỳ hạn giấy tờ có giá (Repo); nghiệp vụ mua – bán có kỳ hạn ngoại tệ
(nghiệp vụ Swap); bán tín phiếu của NHTW trên thị trường sơ cấp.
Ngoài nghiệp vụ tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở là những công cụ tiền tệ
gián tiếp chủ yếu được áp dụng trong điều hành CSTT của NHTW các nước, cịn một
số cơng cụ khác được áp dụng trong những điều kiện nhất định và chỉ có một vài nước
17


áp dụng. Chẳng hạn như nghiệp vụ tiền gửi của khu vực công – là sự phân bổ lại tiền
gửi chính phủ giữa NHTW với các NHTM để bù đắp sự thiếu hụt ngắn hạn vốn khả
dụng của các NHTM. Sử dụng cơng cụ này địi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa NHTW
và Kho bạc…
Như vậy, để điều hành CSTT, NHTW đã sử dụng rất nhiều các công cụ tiền tệ,
mỗi cơng cụ đều có những vai trị nhất định trong việc tác động đến cung, cầu vốn trên
thị trường. Tùy theo các điều kiện của thị trường tiền tệ, mức độ phát triển của thị
trường tiền tệ, mục tiêu và khuôn khổ CSTT của NHTW mà mỗi công cụ khi áp dụng
có thể mang lại những hiệu quả tối đa.

6). Lựa chọn sử dụng các cơng cụ CSTT
Có thể đưa ra nét chung nhất mà IMF đã tổng kết làm cơ sở tham khảo để lựa
chọn công cụ CSTT cho phù hợp với mục tiêu điều hành của NHTW như sau:

- Cơng cụ dự phịng: Tạo hành lang lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, do
vậy phù hợp với mục tiêu hoạt động là lãi suất ngắn hạn hơn là với mục tiêu hoạt động
là tiền cơ bản.
- Nghiệp vụ thị trường mở: Mục tiêu điều tiết của nghiệp vụ thị trường mở là giá
cả (lãi suất) hay khối lượng tiền tùy thuộc vào việc lựa chọn phương thức đấu thầu là
đấu thầu khối lượng hay đấu thầu lãi suất trong các giao dịch mua bán hẳn hoặc mua
bán có kỳ hạn các giấy tờ có giá.
Khi thực hiện nghiệp vụ Swap, NHTW không tác động được đến tỷ giá hối đoái,
mà tác động đến khối lượng tiền. Nhưng khi thực hiện mua – bán đứt ngoại tệ, NHTW
vừa tác động đến tỷ giá hối đoái vừa tác động đến khối lượng tiền cơ bản.
- Công cụ dự trữ bắt buộc: Là công cụ không hiệu quả để định hướng lãi suất
ngắn hạn, mà cũng như tác động đến khối lượng tiền cơ bản. Tuy nhiên, với việc áp
dụng dự trữ bình qn, cơng cụ dự trữ bắt buộc có thể đóng góp vào sự ổn định của lãi
suất ngắn hạn, về khía cạnh nào đó tạo thuận lợi cho hệ thống thanh toán và hỗ trợ việc
ổn định hệ số tạo tiền, qua đó góp phần cho cơ chế truyền dẫn tiền tệ thực hiện trôi
chảy.
Việc lựa chọn các cơng cụ CSTT có vị trí quan trọng trong việc nâng cao hiệu
quả điều hành, việc áp dụng các công cụ CSTT gắn liền với khuôn khổ CSTT nhất
định. Trong một khuôn khổ CSTT, mỗi một công cụ có một vai trị nhất định trong điều
tiết tiền tệ, như có cơng cụ giữ vị trí chủ yếu để cung ứng vốn khả dụng, tạo tín hiệu
CSTT, điều chỉnh lãi suất; có cơng cụ thì có vai trị hạn chế sự biến động của lãi suất,
hoặc cung ứng dài hạn vốn khả dụng cho các NHTM... Ngoài ra, với cùng một cơng cụ,
kỹ thuật áp dụng cũng có sự khác nhau giữa các nước, giữa các thời kỳ phát triển, điều
đó thể hiện tính đa năng, linh hoạt của các cơng cụ chính sách. Để phát huy hết tính đa
18


năng và hiệu quả của các cơng chính sách phụ thuộc nhiều vào kỹ năng điều hành và
các điều kiện thực thi CSTT của NHTW.


7). Cơ chế truyền tải tác động của CSTT
Cơ chế truyền tải tiền tệ là tuyến đường, hay những kênh tác động mà NHTW có
thể sử dụng các công cụ CSTT làm thay đổi các điều kiện tiền tệ trên thị trường, qua đó
tác động đến tổng cầu của nền kinh tế làm thay đổi sản lượng, giá cả và việc làm (mục
tiêu cuối cùng của CSTT). Trong nhiều thập kỷ qua, NHTW đã có những kênh khác
nhau làm thay đổi tổng cầu và hoạt động kinh tế. Sự hình thành và phát triển cơ chế
truyền tải CSTT được bắt đầu từ lược đồ đơn giản của Keynes để xem xét sự thay đổi
trong cung tiền, lãi suất của NHTW ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động kinh tế.
Kênh lãi suất trực tiếp: Kênh lãi suất là đặc trưng cơ bản của mơ hình Keynes
truyền thống áp dụng cho nền kinh tế đóng. CSTT thắt chặt làm tăng lãi suất danh nghĩa
ngắn hạn trên thị trường tiền tệ (thị trường liên ngân hàng) và tiếp đến tăng lãi suất tiền
gửi và cho vay của các ngân hàng. Sự gia tăng lãi suất của các ngân hàng tác động tới
các khoản chi nhạy cảm với lãi suất và thu nhập theo các cách khác nhau.
+ Tác động lãi suất tới chi tiêu: Sự thay đổi lãi suất của NHTW tác động đến cầu
thực và sản lượng thực của nền kinh tế, vì xét về mặt ngắn hạn, với kỳ vọng về lạm phát
khơng thay đổi thì sự thay đổi lãi suất danh nghĩa dẫn đến sự thay đổi lãi suất thực, qua
đó sẽ có tác động nhạy cảm đến sản lượng và giá cả.
+ Tác động tới thu nhập: Lãi suất tăng hơn sẽ phân phối lại thu nhập từ người
vay tiền sang người gửi tiền.
- Kênh tỷ giá hối đoái: Kênh truyền tải qua tỷ giá hối đối của CSTT được xây
dựng từ mơ hình Mundell-Fleming áp dụng cho nền kinh tế mở có chế độ tỷ giá linh
hoạt. Lãi suất tăng dẫn đến giá nội tệ tăng có thể làm cho giá cả hàng hoá sản xuất trong
nước tăng so với hàng hoá của nước ngoài, đưa tới giảm nhu cầu đối với hàng hoá trong
nước, tăng nhu cầu hàng nhập làm suy yếu cán cân thương mại, giảm tổng cầu và sản
lượng. Tỷ giá khơng chỉ tác động tới tổng cầu, mà cịn có thể tác động tới tổng cung.
Như vậy, ngược với tổng cầu, tổng cung có thể tăng lên khi đồng nội tệ lên giá.
Ở những nước có chế độ tỷ giá cố định hoặc bị kiểm sốt chặt, CSTT có thể tác
động tới tỷ giá thực thông qua giá cả trong nước và do vậy vẫn có thể tác động tới xuất
khẩu ròng mặc dù với mức độ thấp hơn và chậm hơn.
- Kênh giá cả tài sản: Sự thay đổi của của CSTT tác động tới giá cả của cổ

phiếu, trái phiếu và bất động sản. Sự thay đổi về giá cả các tài sản này tác động tới tổng
cầu qua các kênh: tác động Tobin, thực trạng tài chính và năng lực tài sản rịng.
- Kênh tín dụng ngân hàng: CSTT thắt chặt làm giảm tiền gửi ngân hàng. Để cân
đối giữa cung và cầu tín dụng, các ngân hàng khơng chỉ tăng lãi suất mà cịn áp dụng
19


hạn mức tín dụng thơng qua tăng các chuẩn mực về uy tín tín dụng. Sự giảm sút của
vốn tín dụng sẽ hạn chế đầu tư và sản lượng của doanh nghiệp.
2.3 Chính sách và chế độ điều hành tỷ giá

8). Khái niệm và thước đo tỷ giá
Tỷ giá hối đối là giá cả của ngoại tệ tính bằng đồng bản tệ hoặc tỷ giá là giá cả
của đồng bản tệ tính bằng đồng ngoại tệ. Vịêt Nam hiện nay sử dụng cách yết giá thứ
nhất, đó là giá cả của đồng đơ la Mỹ (USD) tính bằng đồng Việt Nam (VND). Trong
nghiên cứu này, nói đến sự tăng tỷ giá đồng nghĩa với VND giảm giá.
Các thước đo tỷ giá bao gồm:
- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (NER) là giá của một đơn vị ngoại tệ tính theo nội
tệ và chưa tính đến sức mua của đồng tiền.
-Tỷ giá hối đoái thực (RER) là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh theo giá
tương đối giữa các nước (nghĩa là tỷ giá danh nghĩa đã loại trừ yếu tố giá cả trong nước
và ngoài nước). Tương quan giữa tỷ giá thực E(r) và tỷ giá danh nghĩa E được biểu diễn
như sau:
E(r) = EP*/P
Trong đó:: P* là mức giá cả nước ngoài
P là mức giá ở trong nước
Tỷ giá thực là thước đo đầy đủ sức cạnh tranh hàng hóa của một nước so với
hàng hóa nước ngồi xét về phương diện giá cả.
- Tỷ giá hối đoái thực hiệu quả (REER) là tỷ giá được điều chỉnh theo các tỷ giá
thực của các nước có giao dịch với một nước theo tỷ trọng thương mại của nước đó với

các nước bạn hàng. REER là một thước đo hiệu quả về tính cạnh tranh của một nước
trong quan hệ thương mại với nước khác.
Tỷ giá thực cân bằng (RERE) là mức tỷ giá mà tại đó nền kinh tế đồng thời đạt
cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài.

9). Các chế độ tỷ giá
Chế độ tỷ giá đóng vai trị quan trọng trong phân tích và hoạch định chính sách.
Một khi Chính phủ đã lựa chọn một chế độ tỷ giá cụ thể thì mọi phân tích và đề xuất
chính sách dựa trên cơ sở chế độ tỷ giá đó. Có 3 chế độ tỷ giá điển hình:
- Chế độ tỷ giá cố định: Chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ giá trong đó Ngân
hàng Trung ương ấn định tỷ giá danh nghĩa giữa đồng nội tệ và một đồng ngoại tệ ở
một mức cố định. Thông thường, đồng ngoại tệ trong trường hợp này là đồng tiền của
20


một quốc gia lớn hoặc một nhóm các quốc gia (đồng tiền chung) có quan hệ thương
mại chặt chẽ hoặc có mức lạm phát thấp hoặc cả hai. Trong trường hợp cầu ngoại tệ lớn
hơn cung ngoại tệ tại mức tỷ giá cố định, NHTW phải bán dự trữ ngoại hối của mình để
cân bằng cung cầu và ngược lại, trong trường hợp cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ,
NHTW phải mua lại số ngoại tệ dư thừa. Để thực hiện được chế độ tỷ giá này, đương
nhiên NHTW phải có một lượng ngoại tệ đủ lớn để sẵn sàng can thiệp thị trường.
Tại một số quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, do nhiều lý do mà NHTW quyết
định cố định tỷ giá tại một mức nhất định cho dù là khơng có đủ dự trữ ngoại tệ cần
thiết để can thiệp thị trường. Trong trường hợp này sẽ hình thành 2 thị trường về ngoại
tệ: Thị trường chính thức sẽ giao dịch với mức tỷ giá chính thức do NHTW quyết định
và thị trường phi chính thức sẽ giao dịch với mức tỷ giá do cung cầu ngoại tệ quyết
định và đôi khi mức tỷ giá này được bị chi phối bởi yếu tố đầu cơ.
Dưới chế độ tỷ giá cố định, Chính phủ quyết định tỷ giá theo một mục tiêu và sử
dụng các công cụ để bảo vệ mức tỷ giá này. Các loại tỷ giá thuộc vùng cố định như chế
độ tỷ giá bò trườn, chế độ neo tỷ giá, tỷ giá neo có khả năng điều chỉnh.

+ Chế độ tỷ giá bị trườn là chế độ tỷ giá trong đó NHTW cố định tỷ giá trong
một khoảng thời gian nhất định thông thường là một tháng hoặc một quý. Trong cơ chế
này, tỷ giá có thể được cố định với một ngoại tệ hoặc một rổ tiền tệ. NHTW sẽ thông
báo khi nào họ sẽ thay đổi tỷ giá hoặc thậm chí cơng khai về cơng thức tính tỷ giá.
+ Chế độ neo tỷ giá là chế độ cho phép gắn đồng nội tệ theo một đồng tiền mạnh
hoặc rổ tiền tệ. Thường thì một nước neo đồng nội tệ của mình theo một loại ngoại tệ
mạnh nhất. Trong một số trường hợp, tỷ giá bị gắn chặt với một rổ tiền tệ tính theo bình
qn gia quyền của các bạn hàng. Biên độ dao động cho phép của tỷ giá dưới chế độ
này nằm trong khoảng từ 2-3%, đủ để các tổ chức kinh doanh tiền tệ không thể chủ
động điều tiết được. Biên độ này được phép thay đổi khi có quyết định của NHTW.
+ Chế độ neo có thể điều chỉnh là chế độ mà trong đó giá đồng nội tệ bị neo theo
một đồng tiền khác mạnh hơn một rổ tiền tệ nhưng với biên độ dao động nới rộng hơn
(khoảng từ 5%-10%). Dưới chế độ này, các nhà kinh doanh tiền tệ có thể chủ động điều
tiết tỷ giá trong hoạt động kinh doanh của mình.
+ Một hình thức khá phổ biến của chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ giá gắn với
dự trữ ngoại hối (Currency Board). Trong cơ chế này, NHTW cam kết chuyển đổi bất
kỳ một lượng bản tệ nào thành ngoại tệ với một tỷ giá cố định. Đương nhiên trong
trường hợp này, việc phát hành đồng bản tệ của NHTW phụ thuộc chặt chẽ vào lượng
dự trữ ngoại hối. Vì vậy, về bản chất, đây là chế độ phát hành tiền lấy ngoại tệ làm đảm
bảo của NHTW.
- Chế độ tỷ giá thả nổi: Chế độ tỷ giá thả nổi là chế độ tỷ giá mà trong đó tỷ giá
danh nghĩa hoàn toàn được quyết định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại tệ và
21


NHTW không thực hiện bất kỳ sự can thiệp nào vào thị trường. Xét về mặt lý thuyết,
khi thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi, NHTW khơng cần có dự trữ ngoại tệ. Tuy nhiên,
trên thực tế gần như khơng quốc gia nào thả nổi hồn tồn tỷ giá mà ln có những biện
pháp can thiệp khi cần thiết để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của mình.
- Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là chế độ tỷ

giá hỗn hợp giữa chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi. Tỷ giá được tự do biến
động trong phạm vi giới hạn cao nhất và giới hạn thấp nhất do NHTW ấn định. NHTW
cũng có thể can thiệp khi tỷ giá có xu hướng vượt ra khỏi phạm vi cho phép. Hình thức
phổ biến nhất của chế độ tỷ giá này là việc NHTW quy định tỷ giá chính thức và biên
độ dao động tính bằng tỷ lệ phần trăm của tỷ giá chính thức. Chính vì vậy, cơ chế này
cịn được gọi là chế độ tỷ giá quy định biên độ dao động.

10).

Chính sách tỷ giá

Tỷ giá hối đối là nhân tố quan trọng tác động đến giá cả của hàng hố và dịch
vụ xuất nhập khẩu, đến chi phí đối với hoạt động đầu tư nước ngoài và lợi nhuận từ
hoạt động đầu tư đó. Nhiều quốc gia đã có những biện pháp nhằm kiểm sốt tỷ giá danh
nghĩa. Các biện pháp này, cùng với những công cụ được sử dụng để đạt được mục tiêu
tỷ giá đề ra được gọi là chính sách tỷ giá.
Nội dung của chính sách tỷ giá được thể hiện ở 3 khía cạnh sau đây:
- Lựa chọn chế độ tỷ giá phù hợp với điều kiện phát triển của quốc gia trong nền
kinh tế toàn cầu;
- Xác định một mức tỷ giá hối đối áp dụng cho các hoạt động kinh tế có liên
quan nhằm đạt được mục tiêu của chính sách tỷ giá;
- Xác định phương pháp và công cụ điều hành tỷ giá. Thơng qua đó, nhà nước
thực hiện vai trị điều tiết lưu thông ngoại hối để đạt được mức tỷ giá đã xác định.
3.

PHỐI HỢP ĐỒNG BỘ CSTK VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG
ĐIỀU TIẾT KINH TẾ VĨ MƠ
3.1 Các quan điểm lý thuyết về sự phối hợp giữa CSTK và CSTT trong
điều tiết kinh tế vĩ mô.


1). Lý thuyết tài chính nhà nước của J.M.Keynes
Nhà kinh tế lỗi lạc người Anh Kenyes đã đặt nền móng về ký luận và thực tiễn
cho tư tưởng sử dụng tài chính nhà nước để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Lý thuyết của
Ông đã đưa ra một quan niệm mới về vị trí và vai trị của tài chính nhà nước trong nền
sản xuất xã hội, đồng thời bắt đầu thời kỳ đoạn tuyệt với những trào lưu cũ trong lý
thuyết kinh tế về sự không can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh tế.
22


Trong cuốn sách “Lý thuyết chúng về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (1936), các
quan điểm về CSTC điều tiết kinh tế của Kenyes được xuất phát từ các luận điểm sau:
Thứ nhất, tất cả những vấn đề quan trọng của nền kinh tế phải được nghiên cứu
với quan điểm cầu. Sự khủng hoảng của sản xuất là xuất phát từ cầu tiêu dùng. Bởi vậy,
vấn đề cân bằng trong nền kinh tế cần được giải quyết với quan điểm cầu. Ông sử dụng
thuật ngữ “cầu hiệu qủa” để biểu hiện sự cân bằng giữa nhu cầu và sản xuất, thu nhập
và việc làm.
Thứ hai, công cụ quan trọng để thực hiện điều chỉnh nền kinh tế là CSTK, cịn
chính cách tiền tệ - tín dụng bị ơng đưa xuống hàng thứ yếu. Ông viết: “Nhà nước cần
phải thực hiện sự lãnh đạo của mình ảnh hưởng đến giới hạn tiêu dùng bằng cách sử
dụng hệ thống thuế phù hợp, lãi suất tín dụng và cả các phương pháp nữa”iii.
Ơng coi chi tiêu nhà nước là một cơng cụ cơ bản của Chính phủ để can thiệp
vào sự phát triển có tính chất chu kỳ của nền kinh tế và vượt qua khủng hoảng. Bởi vậy,
sự hình thành, cơ cấu và tốc độ của chi tiêu nhà nước được ông coi là yếu tố quan trọng
và không thể tách rời để đạt được "cầu hiệu qủa". Tốc độ chi tiêu nhà nước theo ông
cần phải thúc đẩy tăng thu nhập quốc dân và cuối cùng phải nhằm vào mục tiêu đảm
bảo việc làm. Để thực hiện được điều đó, nhà nước phải tác động đến các tác nhân của
cầu là: tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng đầu tư. Theo quan điểm của Kenyes, tốc độ đầu
tư nhà nước có vai trị hỗ cho các biện pháp của chính phủ để kích thích "giới hạn đối
với đầu tư".
Bên cạnh chi tiêu nhà nước, ông coi thuế là một công cụ quan trọng của tài chính

nhà nước trong việc điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế và cho rằng sự thay đổi trong chính
sách thuế có thể tác động đến "giới hạn tiêu dùng" và cầu của Chính phủ được đảm bảo
bằng thuế sẽ khuấy động hoạt động kinh doanh để làm tăng thu nhập quốc dân và việc
làm.
Ngoài ra, một điểm đáng chú ý trong học thuyết của ông là cần tăng chi tiêu nhà
nước bằng nguồn vay nợ. Những người ủng hộ ông đã gọi nguyên tắc này là “cấp phát
tài chính thiếu hụt". Kenyes khẳng định rằng, sự đầu tư của nhà nước và chi tiêu hiện tại
của Nhà nước có thể được đảm bảo từ nguồn vay nợ. Đầu tư của chính phủ được đảm
bảo bằng vay nợ sẽ đưa đến mở rộng “khuynh hướng đối với đầu tư", cịn đảm bảo tài
chính cho chi tiêu hiện tại của chính phủ sẽ mở rộng “khuynh hướng đối với tiêu dùng".
Tốc độ nợ nhà nước được coi là một bộ phận khăng khít của chính sách điều chỉnh của
nhà nước để đạt được “cầu hiệu qủa". Sự thiếu hụt ngân sách trở thành một trong những
phương thức điều chỉnh nền kinh tế.
Sau này những nhà kinh tế khác như: A.Han Xen, P. Sammuelson, A.Lerher,
R.Makgreiv, G.Ekkli, U.Kheller, J.Pecman (Mỹ), J.Khics (Anh) đã bổ sung những cơ
23


cấu mới cho lý thuyết của Kenyes về điều chỉnh tài chính nhà nước khơng chỉ trong giai
đoạn khủng hoảng mà còn cả trong giai đoạn phát triển kinh tế theo chu kỳ.

2). Lý thuyết tài chính nhà nước của trường phái Trọng cung
Sự khủng hoảng của điều chỉnh nhà nước nền kinh tế thị trường dựa trên cơ sở
học thuyết kinh tế của Kenyes diễn ra sau những năm 1970 đã dẫn đến sự tìm kiếm tích
cực của các nhà kinh tế phương Tây một quan điểm mới làm lành mạnh hóa nền kinh
tế. Khoảng những năm 1980 ở Mỹ và Anh đã ra đời một học thuyết kinh tế mới dựa
trên cơ sở luận điểm của các nhà kinh tế Trọng cung, mà các đại biểu của trường phái
này là Arthur Laffer, Jude Winniski, Norman Ture.
Một trong những luận điểm cơ bản của thuyết Trọng cung là giảm bớt sự can
thiệp của nhà nước đến các qúa trình kinh tế và kích thích sự phát triển kinh doanh của

tư nhân. Mặc dù vai trị cơ bản trong chính sách kinh tế của nhà nước thuộc vẫn về tài
chính nhà nước và công cụ chủ yếu trong việc điều hành CSTC vẫn là các đòn bẩy;
thuế, chi tiêu nhà nước và vay nợ chính phủ, nhưng những biện pháp của thuyết Trọng
cung lại hoàn toàn đối lập với thuyết Trọng cầu của Kenyes.
Thuyết Trọng cung đưa ra những đề nghị cơ bản là: thứ nhất, cắt giảm thuế; thứ
hai, cắt giảm chi tiêu nhà nước; thứ ba, giảm số lượng tiền trong lưu thông với sự trợ
giúp của các chính sách vay nợ của chính phủ và tiến hành định mức tốc độ phát hành
tiền trong lưu thông.
Các đại biểu của trường phái này cho rằng, tốc độ tăng trưởng kinh tế được xác
định bởi mức tiết kiệm và tích lũy đủ đến mức độ nhất định. Theo họ, mức tiết kiệm từ
những khoản thu nhập cao sẽ hình thành nguồn tài chính để mở rộng ĐTPT kinh
doanh. Vì vậy, chính phủ cần tích cực sử dụng các biện pháp tín dụng để kích thích
tăng trưởng kinh tế, đồng thời thông qua hệ thống thuế, cần tạo ra những điều kiện cần
thiết để hình thành mức tiết kiệm đủ để đảm bảo đầu tư trong các thành phần tư nhân.
Laffer – một đại biểu chính của trường phái Trọng cung đã đưa ra đề nghị bãi bỏ biểu
thuế suất luỹ tiến và hạ thấp thuế lợi nhuận công ty, coi đó như một trong những biện
pháp quan trọng nhằm tăng tích luỹ tư bản, mở rộng ĐTPT kinh tế.
Friedman lại cho rằng chính sách phục hồi kinh tế bằng ngân sách thực chất
cũng là CSTT nhằm tăng thêm khối lượng tiền tệ trong lưu thơng mà đó lại là một
yếu tố đảm bảo cho sự phục hồi phát triển kinh tế.

3). Lý thuyết tài chính nhà nước của kinh tế học hiện đại
Từ sau những năm 1970 hình thành một trào lưu hậu Kenyes, được phát triển
trên cơ sở phê phán các học thuyết cổ điển mới và học thuyết Kenyes chính thống.
Những đại biểu của trường phái hậu Kenyes ở Anh là Robinson, Kando, Sekl, Arestic.

24


Trong các tác phẩm về tài chính của các nước phương Tây đã giành sự chú ý đến

việc giải quyết một mâu thuẫn vĩ đại giữa trường phái kinh tế của Kenyes và trường
phái tân cổ điển. Một trong những nhà nghiên cứu lịch sử các học thuyết về tài chính
Kindlebege đã nhận xét rằng, những người tân cổ điển thường coi trọng các vấn đề lạm
phát, giá cả và số lượng tiền tệ trong lưu thơng, cịn Kenyes - việc làm và sản xuất. Ông
đưa ra kết luận rằng, kể cả tân cổ điển và kể cả Kenyes cũng không thể giải quyết
những vấn đề phức tạp của xã hội tư sản, bởi vì họ đã khơng tính hết các yếu tố kinh tế
khác nhau và sự thay đổi q trình chính trị . Về bản chất, CSTC của hai trường phái
này là hai phương thức khác nhau để điều tiết nền kinh tế TBCN. Sự khác nhau và mâu
thuẫn giữa chúng có tính chất đối kháng.
Hiện nay đang diễn ra xu hướng xích lại gần nhau giữa hai trường phái tư tưởng
tài chính phương Tây: tư tưởng Trọng cung được lồng trong lý thuyết của Kenyes còn
tư tưởng của Kenyes lại được đưa vào trong lý thuyết Trọng cung để hình thành lý
thuyết kinh tế học hiện đại. Biểu hiện rõ nét nhất là sự cần thiết kết hợp chính sách tài
khố và CSTT. Cịn các nhà tân cổ điển thì cho rằng hiệu quả áp dụng lý thuyết Trọng
cung sẽ cao hơn nếu như bao hàm trong đó một vài cơ cấu của Kenyes.
Cũng cần phải thừa nhận rằng, tư tưởng hịa hợp và xích lại gần nhau giữa hai
trường phái lý thuyết nổi tiếng nhất trong lịch sử các học thuyết kinh tế đã góp phần
làm thay đổi tư duy lý luận trong khoa học tài chính và việc vận dụng các cơng cụ tài
chính nhà nước vào hoạt động thực tiễn. Điều đó được thể hiện rõ nét trong việc soạn
thảo các chính sách kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong dài hạn cũng như ngắn hạn để
đối phó với nền kinh tế chu kỳ, mức thất nghiệp ngày càng tăng cao, tình trạng lạm phát
đang đe doạ và mức tiết kiệm tư nhân ngày càng giảm sút trong các nước phát triển
hiện nay.
Có thể khẳng định rằng, Mỹ là nước đi đầu trong việc vận dụng thành cơng lý
thuyết về tài chính nhà nước hiện đại để điều tiết nền kinh tế trong thập kỷ cuối cùng
của thế kỷ XX. Chính sách tài khoá được thực hiện trên cơ sở kiên quyết cắt giảm thâm
hụt ngân sách làm cho lãi suất thấp được duy trì, thực hiện chính sách lấy kiềm chế lạm
phát làm ưu tiên số một sang cân bằng giữa kiềm chế lạm phát, góp phần kích thích nền
kinh tế phục hồi và phát triển. Các biện pháp tài chính cứng rắn cũng đã được áp dụng
nhằm điều tiết và chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ sản xuất sang dịch vụ để làm giảm tính

chu kỳ của nền kinh tế và kéo dài thời kỳ ổn định để tăng trưởng nhiều hơn. CSTT linh
hoạt cũng đã được áp dụng bằng cách chuyển hướng CSTC từ trung lập sang thắt chặt
trên cơ sở tăng lãi suất tín dụng. Ngồi ra, nhà nước cịn có vai trị quan trọng trong việc
tạo ra nhiều cơ chế tự động điều chỉnh để hình thành quỹ phúc lợi làm xoa dịu sức ép
giảm thu nhập khi thất nghiệp gia tăng, quỹ bảo hiểm chống lại nguy cơ khủng hoảng
ngân hàng.

25


×