Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.58 KB, 33 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN
MẶT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. SỰ CẦN THIẾT VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN
MẶT:
1.1.1. Sự cần thiết của thanh toán không dùng tiền mặt:
Cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, Ngân hàng ra đời
với nghiệp vụ truyền thống là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ
thanh toán. Ngày nay khi nền kinh tế chuyển sang một giai đoạn phát triển
mạnh mẽ thì tiền mặt không thể đáp ứng được nhu cầu thanh toán của toàn
bộ nền kinh tế, do đó đòi hỏi phải có hình thức thanh toán phù hợp đáp ứng
nhu cầu lưu thông hàng hoá nền kinh tế. Hình thức thanh toán không dùng
tiền mặt ra đời một mặt khắc phục được những hạn chế của thanh toán bằng
tiền mặt như chi phí in ấn, bảo quản, vận chuyển và không an toàn, đồng thời
có vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá
của nền kinh tế. Thanh toán bằng tiền mặt là việc thanh toán trực tiếp bằng
tiền mặt trong quan hệ chi trả lẫn nhau về hàng hoá, lao vụ, được thực hiện
trực tiếp giữa người mua và người bán không thông qua trung gian nào khác.
Người mua phải có trong tay một lượng tiền mặt tương đương với giá trị
hàng hoá, lao vụ thì mới phát sinh quan hệ mua bán trao đổi giữa người mua
và người bán. Thanh toán bằng tiền mặt tuy có một số ưu điểm như tiện lợi thì
bên cạnh đó còn gặp một số hạn chế như : độ an toàn trong thanh toán bằng
tiền mặt không cao vì thanh toán bằng tiền mặt luôn có sự xuất hiện của tiền
mặt nên trong quá trình thanh toán giữa bên mua và bên bán phải có sự vận
chuyển, kiểm đếm, bảo quản tiền mặt…do đó dễ dẫn đến mất mát và nhầm lẫn.
Hơn nữa thanh toán bằng tiền mặt làm cho vốn bị ứ đọng và chi phí lưu thông
tiền tăng.
Do tính chất của công việc trao đổi, thanh toán bằng tiền mặt có những
nhược điểm trên nên thanh toán không dùng tền mặt ra đời một mặt khắc
phục được những nhược điểm trên, mặt khác thúc đẩy lưu thông trao đổi hàng
hoá phát triển hơn không chỉ thanh toán trong cùng một quốc gia mà còn
thanh toán ra các quốc gia khác trên thế giới.


Thanh toán không dùng tiền mặt được coi là phương thức thanh toán
mang lại nhiều hiệu quả kinh tế. Vì đặc trưng của thanh toán không dùng tiền
mặt là trong quá trình thanh toán không có sự xuất hiện của tiền mặt mà
thanh toán bằng việc trích tiền từ tài khoản của người chi trả chuyển vào tài
khoản tiền gửi của người thụ mở tại Ngân hàng hoặc bằng cách thanh toán bù
trừ lẫn nhau thông qua vai trò tung gian của Ngân hàng.
Do tính ưu việt như vậy nên hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
không ngừng hoàn thiện và ngày càng phát triển, không thể thiếu được trong
nền kinh tế thị trường. Thanh toán không dùng tiền mặt ra đời là một tất yếu
khách quan.
1.1.2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt:
1.1.2.1. Khái niệm:
Thanh toán không dùng tiền mặt: Là cách thanh toán không có sự xuất
hiện của tiền mặt và được tiến hành bằng cách trích tiền từ tài khoản của
người chi trả để chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng mở tại Ngân hàng,
hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của Ngân hàng.
1.1.2.2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt:
Thanh toán không dùng tiền mặt ra đời và phát triển trên cơ sở nền sản
xuất hàng hoá, sản xuất hàng hoá càng phát triển thì nhu cầu về thanh toán
không dùng tiền mặt ngày càng tăng, điều này được thể hiện qua vai trò trung
gian của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế.
- Thanh toán không dùng tiền mặt góp phần thúc đẩy sự phát triển của
sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thanh toán vừa là khâu mở đầu và cũng vừa
là khâu kết thúc của một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Do đó nếu tổ chức tốt
trong khâu thanh toán thì sẽ tăng nhanh vòng quay của vốn giúp doanh nghiệp
thu hồi vốn nhanh để phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất sau.
Qua nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt đã rút ngắn được thời
gian thanh toán, tiết kiệm vốn tăng nhanh tốc độ quay vòng của vốn góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Thanh toán không dùng tiền mặt làm giảm khối lượng tiền mặt trong

lưu thông, làm giảm chi phí trong việc in ấn, bảo quản, vân chuyển tiền mặt.
Lưu thông tiền tệ bao gồm hai bộ phận là thanh toán bằng tiền mặt và
thanh toán không dùng tiền mặt.
Thanh toán không dùng tiền mặt tạo khả năng tập chung nguồn vốn tín
dụng cho Ngân hàng để đầu tư sản xuất cho kinh doanh, tạo điều kiện phát
triển nền kinh tế. Để thực hiện việc thanh toán không dùng tiền mặt quy định
các đơn vị sản xuất kinh doanh, các cá nhân phải mở tài khoản tiền gửi thanh
toán tại Ngân hàng, trên tài khoản luôn có một số tiền nhất định để tiến hành
chi trả trong trường hợp khách hàng có nhu cầu. Trong một số trường hợp khi
khách hàng này có nhu cầu thanh toán thì khách hàng khác lại gửi tiền vào tài
khoản, do đó trên tài khoản tiền gửi của khách hàng luôn tồn tại số dư nhất
định. Đây là nguồn vốn lớn nếu Ngân hàng có kế hoạch sử dụng hợp lý sẽ đem
lại hiệu quả lớn không chỉ cho Ngân hàng mà còn cho cả khách hàng. Vì khách
hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán Ngân hàng sẽ trả cho khách hàng số lãi
nhất định.
Thanh toán không dùng tiền mặt là công cụ thanh toán có hiệu quả
nhằm thu hút khách hàng đến với Ngân hàng của mình. Nếu Ngân hàng làm
tốt công tác thanh toán, thì chính nó là nguồn vốn tiềm tàng chảy vào Ngân
hàng. Nguồn vốn này Ngân hàng huy động được với chi phí thấp hơn nhiều vì
lãi suất tiền gửi thanh toán thấp hơn nhiều so với các hình thức huy động
khác như tiền gửi tiết kiệm..
Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt đối với quản lý vĩ mô của
Ngân hàng Nhà nước nói riêng và của Nhà nước nói chung: Ngân hàng là tổ
chức kinh tế của Nhà nước, thực hiện các chính sách tiền tệ, tín dụng, thanh
toán. Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nướcqua ngân hàng chỉ thực sự phát huy
có hiệu quả khi phần lớn khối lượng thanh toán tập chung qua Ngân hàng. Mở
rộng thanh toán không dùng tiền mặt do điều kiện của Ngân hàng nhà nước
quản lý một cách tổng thể quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, mặt khác
kiểm soát được mức tạo tiền và tăng tín dụng, thực hiện tốt chính sách tiền tệ.
Thanh toán không dùng tiền mặt giúp hệ thông Ngân hàng thương mại

thực hiện chức năng tạo tiền. Như đã biết nếu thanh toán bằng tiền mặt khi
khách hàng đã lĩnh tiền mặt khỏi Ngân hàng thì số tiền đó không nằm trong
khâu thanh toán của Ngân hàng. Nếu thanh toán không dùng tiền mặt với hệ
thống thanh toán liên hàng, khách hàng chỉ cần trích tài khoản tiền gửi thanh
toán của mình tại Ngân hàng trả cho khách hàng, như vậy trong quá trình đó
thì nguồn vốn vẫn nằm trong Ngân hàng và có thể sinh lời đồng thời khi khách
hàng gửi tiền vào Ngân hàng thương mại phát sinh quá trình tạo ra bội số
tiền gửi.
1.2. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Ở VIỆT
NAM:
1.2.1. Thanh toán không dùng tiền mặt trước thời kỳ đổi mới:
- Ngày 6/5/1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập Ngân
hàng quốc gia Việt Nam. Trong giai đoạn này nền kinh tế nước ta đang vận
hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp do vậy thanh toán không dùng
tiền mặt không phát huy được vai trò của nó.
- Thời kỳ kỹ thuật thanh toán còn lạc hậu chủ yếu làm bằng thủ công
gây ra sai sót và thời gian thanh toán không kịp thời, thanh toán chủ yếu là
phục vụ các cơ quan đoàn thể, xí nghiệp pquốc doanh…Vì vận hành trong cơ
chế bao cấp cho nên họ không quan tâm đến chất lượng phục vụ, vốn bị ứ đọng
dẫn đến cửa quyền trong giao dịch, không phát huy được chức năng của Ngân
hàng là quay vòng vốn nhanh thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Thủ tục thanh toán thì phức tạp rườm rà thời gian thanh toán thì
chậm.
- Các hình thức thanh toán không linh hoạt.
1.2.2. Thanh toán không dùng tiền mặt ở thời kỳ đổi mới đến nay:
- Trước tình hình kinh tế của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều
giải pháp nhằm giải quyết tình trạng trên là chuyển từ cơ chế quản lý tập
chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ
chế thi trường có sự quản lý của Nhà nước. Kể từ khi ra đời hai pháp lệnh
Ngân hàng ngày 23 tháng 5 năm 1990 và đặc biệt sự ra đời của thể lệ thanh

toán không dùng tiền mặt vào tháng 7 năm 1991, thanh toán không dùng tiền
mặt ở nước ta đã có sự thay đổi đáng kể để phù hợp với cơ chế thị trường.
- Hình thành các hệ thống thanh toán của Ngân hàng thương mại quốc
doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng Nhà nước, thủ tục thanh
toán đơn giản hơn, đảm bảo an toàn…
- Phát triển nhiều công cụ thanh toán phù hợp với điều kiện Việt Nam
hiện nay và giảm bớt thanh toán bằng tiền mặt.
- Bên cạnh đó từng bước nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên Ngân
hàng, đáp ứng được với yêu cầu tiếp cận các phương tiện thanh toán hiện đại
trong khu vực cũng như trên thế giới.
- Từng bước xoá bỏ tập quán thích tiêu tiền mặt trong đại bộ phận dân
chúng, đồng thời tạo thói quen sử dụng các công cụ thanh toán không dùng
tiền mặt.
Công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam đòi hỏi nghành Ngân hàng phải có
những nỗ lực vượt bậc, đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán để dần hoà chung
vào mạng lưới thanh toán quốc tế, rút ngắn được khoảng cách về trình độ
nghiệp vụ thanh toán so với Ngân hàng nước ngoài. Do vậy việc đầu tư trang
thiết bị hiện đại, đào tạo các chuyên gia kỹ sư giỏi về thanh toán và tin học là
điều tất yếu phải làm song song với việc khai thác các ưu thế về hình thức
thanh toán đang được áp dụng và đưa ra các hình thức thanh toán mới nhằm
mở rộng phạm vi và khối lượng thanh thanh toán qua Ngân hàng.
1.3. CÁC QUY ĐỊNH TRONG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT:
- Để thống nhất các tổ chức thanh toán, đảm bảo quyền lợi cho các bên
cũng như thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã có những quy định về thanh toán không dùng tiền mặt. Đây là những
quy định chung giúp cho quá trình thanh toán diễn ra thông suốt đồng thời
thực hiện tốt chức năng kiểm soát bằng đồng tiền của hệ thống Ngân hàng đối
với các hoạt động của các tổ chức kinh doanh và các cơ quan có hiệu quả.
Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã ban hành một số nghị định, quyết định
của thanh toán không dùng tiền mặt. Ngày 25/11/1993 Chính phủ ra nghị

định số 91/CP về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt, ngày 01/02/1994
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 22/QĐ-NH về thể
lệ thanh toán không dùng tiền mặt ngày 09/05/1996 Chính phủ ra nghị định
số 30/CP về hình thức thanh toán séc. Và gần đây ngày 20/09/2001 Chính phủ
đã ra nghị định số 64/2001/NĐ-CP về hoạt động thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán thay thế cho nghị định 91, 30 của Chính phủ
trước đây.
1.3.1. Quy định chung:
Các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể, đơn vị vũ trang, công dân
Việt Nam và người nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam được quyền
lựa chọn Ngân hàng để mở tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Quy
định này thay đổi mang tính chất tiền đề cho quá trình đổi mới nghiệp vụ
thanh toán qua Ngân hàng. Trước đây, khách hàng chỉ có thể mở tài khoản
giao dịch tại Ngân hàng địa phương nơi đóng trụ sở chính, giờ đây họ được
phép tự do lựa chọn Ngân hàng để mở tài khoản.
Về phía khách hàng quy dịnh này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng
thực hiện các giao dịch một cách nhanh chóng và thuận tiện. Việc gò ép mở tài
khoản giao dịch tại Ngân hàng địa phương nơi đóng trụ sở chính không đáp
ứng được yêu cầu của khách hàng và cản trở quá trình sản xuất kinh doanh.
Về phía Ngân hàng, quy định này tạo ra sự cạnh tranh giữa các Ngân
hàng. Các Ngân hàng phải không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng
dịch vụ thanh toán để hấp dẫn khách hàng, nhằm lôi kéo khách hàng đến với
Ngân hàng mình.
1.3.2.Quy định đối với bên chi trả (bên mua):
Để đảm bảo khả năng chi trả đầy đủ kịp thời tiền hàng hoá dịch vụ cho
bên thụ hưởng, bên chi trả phải có đủ tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán
tại Ngân hàng. Các trường hợp thanh toán vượt quá số dư trên tài khoản tiền
gửi tại Ngân hàng, kho bạc Nhà nước là phạm pháp, chịu phạt về vật chất và bị
sử lý theo pháp luật.
Mục đích của quy định này là nhằm đẩy nhanh tốc độ thanh toán. Bên

mua sau khi đã nhận hàng hoá, dịch vụ phải có trách nhiệm thanh toán tiền
hàng hoá dịch vụ cho bên bán, nếu thanh toán qua Ngân hàng thì phải đảm
bảo cho bên bán chứng từ hợp lệ tới Ngân hàng sẽ được thanh toán ngay,
tránh tình trạng chờ đợi lâu ngày ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
1.3.3. Quy định đối với bên thụ hưởng:
Người thụ hưởng sau khi nhận được các chứng từ thanh toán tiền hàng
hoá dịch vụ thì phải kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của các giấy tờ đó (Giấy tờ
phải ghi đầy đủ các yếu tố quy định, không sửa chữa, tẩy xoá…) đồng thời giao
hàng hoá dịch vụ cho bên mua theo giá trị chứng từ thanh toán. Nếu thiếu một
trong các yếu tố đó thì sẽ không được thanh toán.
Mục đích của quy định này nhằm tránh hiện tượng séc giả, ghi man…
giúp bên thụ hưởng tránh được thiệt hại.
1.3.4. Các quy định đối với Ngân hàng:
Ngân hàng và kho bạc Nhà nước phải chịu trách nhiệm:
- Thực hiện các uỷ nhiệm thanh toán của chủ tài khoản đảm bảo chính
xác, an toàn, thuận tiện. Các Ngân hàng và kho bạc có trách nhiệm chi trả bằng
tiền mặt hoặc chuyển khoản trong phạm vi số dư trên tài khoản tiền gửi theo
yêu cầu của chủ tài khoản.
- Kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản trước khi thực hiện
thanh toán, Ngân hàng được quyền từ chối thanh toán nếu chủ tài khoản
không đủ tiền thanh toán đồng thời không chịu trách nhiệm liên đới của hai
bên khách hàng.
- Nếu do thiếu sót trong quá trình thanh toán thì Ngân hàng và kho bạc
Nhà nước phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng và tuỳ theo mức độ vi
phạm có thể bị xử lý theo pháp luật.
- Ngân hàng có trách nhiệm kiểm soát các giấy tờ thanh toán của khách
hàng và đảm bảo lập đúng thủ tục quy định.
Ngân hàng được quyền từ chối thanh toán nếu các giấy tờ thanh toán
không đủ các yêu cầu trên, cũng như các chứng từ không hợp lệ.
1.4.CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT:

1.4.1. Pháp luật:
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh hàng hoá đặc biệt – tiền tệ do đó
chịu tác động trực tiếp của pháp luật. Hiện nay Ngân hàng đã có luật riêng
cho mình như luật Ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, luật doanh
nhiệp… là những hành lang pháp lý tạo đà cho hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng.
Thanh toán không dùng tiền mặt là một loại hình cung cấp dịch vụ tiện
ích cho khách hàng, nó chịu ảnh hưởng rất lớn của pháp luật. Chỉ một thay đổi
nhỏ của pháp luật sẽ tạo cơ hội và thách thức lớn cho Ngân hàng, nếu như
Ngân hàng không kịp thay đổi sẽ dễ mất uy tín với khách hàng, hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng cũng sẽ bị ảnh hưởng và kém hiệu quả.
Khách hàng sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt nhờ vào
tính hiệu quả của nó là nhanh chóng, thuận tiện, chính xác… nhưng đôi khi
chính những thủ tục, chế độ quá cứng nhắc sẽ gây trở ngại cho khách hàng
trong công tác thanh toán.
Thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho Nhà nước thực hiện vai trò
quản lý tiền tệ. Khi một quy định nào đó được đưa ra kịp thời với sự biến động
của nền kinh tế trong nước và thế giới thì nó sẽ thúc đẩy công tác thanh toán
không dùng tiền mặt phát triển tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển
theo kịp và hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
1.4.2. Khoa học và công nghệ:
Công nghệ Ngân hàng là một yếu tố vô cùng quan trọng không thể
thiếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Việc áp dụng khoa học công
nghệ góp phần thúc đẩy nhanh quy trình chu chuyển vốn, giảm thiểu thời gian
thanh toán, độ chính xác và an toàn cao. Hiện nay với sự tiến bộ của khoa học
công nghệ hiện đại vào công tác thanh toán đã dần dần cải tiến và hoàn thiện
với mục đích thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Như vậy, khoa học công nghệ
là một yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của công tác
thanh toán không dùng tiền mặt. Khoa học công nghệ có tiên tiến hiện đại thì
thanh toán không dùng tiền mặt mới phát huy được vai trò của nó.

1.4.3. Tâm lý:
Yếu tố tâm lý có ảnh hưởng rất lớn đến thanh toán không dùng tiền mặt.
Nếu trình độ dân trí thấp, lạc hậu người dân không nắm được những tiện ích
của thanh toán không dùng tiền mặt, họ chỉ có thói quen thanh toán bằng tiền
mặt. Để các hình thức thanh toán được phổ biến trong dân cư thì Ngân hàng
phải chú ý đến yếu tố con người như nâng cao chất lượng cán bộ công nhân
viên, quảng cáo tuyên truyền cho người dân biết về tiện ích của thanh toán
này, có như vậy mới dần dần xoá bỏ được tâm lý chuộng tiện mặt và thúc đẩy
thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phát triển.
1.5. NỘI DUNG CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT:
Hiện nay trên thế giới đã nghiên cứu và đưa áp dụng nhiều hình thức
thanh toán không dùng tiền mặt đa dạng và phong phú. Nhưng tuỳ theo mô
hình kinh tế, trình độ quản lý, mức độ hoàn thiện hệ thống Ngân hàng của mỗi
nước để lựa chọn một số hình thức cụ thể vào áp dụng cho phù hợp với điều
kiện của mỗi nước sao cho có hiệu quả nhất. Hiện nay ở Việt Nam các đơn vị và
cá nhân thanh toán qua Ngân hàng áp dụng năm hình thức thanh toán không
dùng tiền mặt sau:
* Uỷ nhiệm chi chuyển tiền.
* Uỷ nhiệm thu.
* Séc các loại.
* Thư tín dụng.
* Thẻ thanh toán.
1.5.1.Uỷ nhiệm chi – chuyển tiền:
Uỷ nhiệm chi: Là lệnh chi tiền của chủ tài khoản được lập theo mẫu in
sẵn của Ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản của mình trả cho bên thụ
hưởng.
Uỷ nhiệm chi được dùng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc
chuyển tiền của người sử dụng dịch vụ thanh toán trong cùng một tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán.

Phạm vi thanh toán của lệnh uỷ nhiệm chi khá rộng đó là:
+ Thanh toán trong cùng một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
+Thanh toán giữa hai tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cùng hệ
thống.
+ Thanh toán giữa hai tổ chức cung ứng dịch vụ thnah toán khác hệ
thống có tham gia thanh toán bù trừ.
+Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước.
Thời hạn thực hiện lệnh chi hay Uỷ nhiệm chi do tổ chức cung ứng dịch
thanh toán thoả thuận với người sử dụng dịch vụ thanh toán. Khi kiểm soát,
hạch toán lệnh chi, các bên phải thực hiện dúng thời hạn đã quy định để đảm
bảo thanh toán nhanh lệnh chi.
Lệnh chi hay Uỷ nhiệm chi dùng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ nên
khi thực hiện lệnh chi được chuyển thẳng vào tài khoản thanh toán của người
thụ hưởng. Trường hợp dùng lệnh chi để chuyển tiền đứng tên người thụ
hưởng thì chuyển qua hệ thống bưu điện hoặc qua mạng nội bộ (chuyển tiền
điện tử) hay chuyển bằng séc chuyển tiền cầm tay. Số tiền chuyển đứng tên cá
nhân người thụ hưởng được hạch toán vào tài khoản có tên gọi “ chuyển tiền
phải trả” taị tổ chức nhận chuyển tiền.
Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước phục vụ bên bán (bên thụ hưởng) khi
nhận được chứng từ thanh toán hợp lệ phải ghi có ngay vào tài khoản của
khách hàng và báo có cho khách hàng biết.
Quy trình thanh toán lệnh chi hay ủy nhiệm chi:
+ Thanh toán cùng tổ chức cung ứng dịch vụ:

(1)
(3) (2) (4)

Người thụ
hưởng
(người bán)

Người chi trả
(người phát
lệnh hay người
mua)
Tổ chức cung
ứng dịch vụ
thanh toán
(1)- Người bán giao hàng cho người mua.
(2)- Người mua gửi lệnh chi cho tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
(3)- Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán gửi báo cáo Nợ cho người
mua ( trích TK của người mua )
(4)- Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán gửi báo Có cho người bán.
+ Thanh toán khác tổ chức cung ứng dịch vụ:

(1)

(3) (2) (5)
(4)
(1)- Người thụ hưởng giao hàng hoá, dịch vụ cho người mua.
(2)- Người chi trả gửi lệnh chi cho tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
(3)- Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán gửi báo Nợ cho người chi trả.
(4)- Chuyển tiền sang tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ
người thụ hưởng.
(5)- Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán gửi báo Có cho người thụ
hưởng.
* Quy trình hạch toán:
Người thụ
hưởng
Người chi trả
(người phát

lệnh)
Tổ chức cung
ứng DVTT phục
vụ người chi
trả
Tổ chức cung
ứng DVTT phụ
vụ người thụ
hưởng
- Trường hợp cả bên mua và bên bán cùng mở tài khoản tại một Ngân
hàng:
Người chi trả sau khi hoàn thành nhận hàng hoá, dịch vụ sẽ lập ngay
lệnh chi gửi tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đề nghị thanh toán.
Nhận uỷ nhiệm chi, kế toán kiểm soát tính hợp lệ, hợp pháp của lệnh chi,
khả năng chi trả của tài khoản thanh toán. Nếu lệnh chi đủ điều kiện thanh
toán, kế toán vào sổ tài khoản chi tiết hoặc nhập dữ liệu vào máy tính ( lệnh chi
không đủ điều kiện thanh toán được trả lại người chi trả ngay khi kiểm soát,
xử lý lệnh chi)
Nợ: TK thanh toán người chi trả
Có: TK thanh toán người thụ hưởng
- Trường hợp thanh toán uỷ nhiệm chi khác Ngân hàng nhưng trong
cùng một địa bàn và có tham gia thanh toán bù trừ:
Tại Ngân hàng phụ vụ bên mua thì:
Trình tự nộp, kiểm soát, vào sổ kế toán giống hệt lệnh chi thanh toán
cùng tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
Nợ: TK thanh toán người chi trả
Có: TK thanh toán vốn các Ngân hàng thích hợp
Tại Ngân hàng phục vụ bên bán:
Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ người thụ hưởng khi nhận
chuyển tiền hạch toán

Nợ: TK thanh toán vốn giữa các Ngân hàng thích hợp
Có: TK thanh toán người thụ hưởng
+ Hoặc TK chuyển tiền phải trả ( chuyển tiền cá nhân )
Việc thu phí chuyển tiền và thuế GTGT do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán phục vụ người chi trả thực hiện.
- Trường hợp thanh toán uỷ nhiệm chi khác Ngân hàng, khác địa bàn
nhưng cùng hệ thống:

×