Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.27 KB, 8 trang )

Nguồn gốc
1. Tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam:
 Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ
nước;
 Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái;
 Truyền thống lạc quan, yêu đời;
 Cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo.
2. Tinh hoa văn hóa nhân loại:
 Tư tưởng văn hóa phương Đông: Nho giáo, Phật giáo;
 Tư tưởng và văn hóa phương Tây: thắng lợi của cuộc Đại cách mạng
Pháp 1789, Tuyên ngôn độc lập 1776 của Hoa Kỳ, tư tưởng dân
chủ phương Tây, ;
3. Chủ nghĩa Marx-Lenin: cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của Tư
tưởng Hồ Chí Minh;
4. Nhân tố chủ quan: phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.
[sửa]Những nội dung cơ bản trong Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tuyên truyền cho cuộc vận động "Học theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm các quan điểm cơ bản về giải phóng dân tộc, giai
cấp và con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của nhân dân và khối đại đoàn
kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự của dân,
do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; tư
tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân; tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư; tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; tư tưởng
về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên
vừa là người lãnh đạo, vừa là người công bộc thật trung thành của nhân dân.
[sửa]Về vấn đề dân tộc
 Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc.
"Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". - Hồ Chí Minh


Ngày 19 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, Hồ Chí
Minh đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An
Nam gồm 8 điểm để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng
của Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp
ở Đông Nam Á, trao tận tay tổng thống Pháp và các đoàn đại biểu đến dự hội
nghị
[5]
.
 Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực to lớn của đất
nước.
 Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
[sửa]Về chủ nghĩa xã hội
Khái niệm chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh mang nhiều ý nghĩa khác
nhau, chủ yếu tập trung vào các nội dung sau:
- Chủ nghĩa xã hội như là một phong trào lịch sử mang tính chính trị xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, ở đây, Hồ Chí Minh hiểu
chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa Marx-Lenin.
- Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là một chế độ xã hội đối lập với chế độ
tư bản mà hình thức xấu xa, tàn bạo nhất của nó là chủ nghĩa thực dân, cả chủ
nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới.
[6]
Định nghĩa chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh chủ yếu tập trung vào những nội
dung sau:
 Đó là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ.
 Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền
với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật.
 Chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người.

 Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức.
[7]
"Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động"
[8]
"Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân
dân"
[8]
"Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng,
ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những
phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ Tóm lại, xã hội ngày càng
tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội"
[8]
[sửa]Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam
 Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành
giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến
dần lên chủ nghĩa xã hội.
[9]
 Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải đi lên bằng
con đường gián tiếp.
 Phải thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc trước, sau đó mới từng
bước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
 Về thời gian của thời kỳ quá độ: xây dựng CNXH là một cuộc đấu tranh
cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài.
 Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
 Xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây
dựng tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã
hội.
 Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, trong đó xây dựng là trọng

tâm, là nội dung cốt lõi, lâu dài.
[10]
 Nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ:
 Chính trị: giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Củng cố và
mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công
nhân, nông dân và trí thức, do Đảng cộng sản lãnh đạo.
 Kinh tế: nhấn mạnh việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng
đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các
ngành sản xuất xã hội. Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát
triển kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
 Văn hóa - xã hội: nhấn mạnh vấn đề xây dựng con người mới.
[11]
[sửa]Về đại đoàn kết dân tộc
 Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết định thành công
của cách mạng.
 Đại đoàn kết là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
 Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
 Đại đoàn kết phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có
tổ chức thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
[sửa]Về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
 Đặt cách mạng Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới.
 Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng.
 Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ
của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời
không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.
 Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng là bạn với tất cả mọi

nước dân chủ.
[sửa]Về nông dân
Bài chi tiết: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân
Xem giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất của phong trào dân tộc, là cơ sở
cho các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, có gắn bó mật thiết với giai cấp công
nhân, chịu áp bức bởi thực dân Pháp và tay sai (phong kiến và địa chủ), sẵn sàng
đứng lên cùng công nhân trong cuộc cách mạng vô sản đang phát triển. Trong Sách
lược cách mạng của Đảng, Người viết: “ Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận
dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh trúc bọn đại
địa chủ và phong kiến. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày
(công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc
gia. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông”.
Tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trải qua các
thời kỳ, Đảng ta đã nắm vững và giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân, củng cố
được liên minh công nông. Đảng ta đấu tranh chống những xu hướng “hữu
khuynh” và “tả khuynh” đánh giá thấp vai trò của nông dân là quân chủ lực của
cách mạng, là bạn đồng minh chủ yếu và tin cậy nhất của giai cấp công nhân, là lực
lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
[sửa]Về công nhân
Bài chi tiết: Tư tưởng Hồ Chí Minh về công nhân
Tất cả những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động mà sống, bất
kỳ họ lao động trong công nghệp hay là trong nông nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì,
cũng đều thuộc giai cấp công nhân. Chủ chốt của giai cấp ấy, là những công nhân
tại các xí nghiệp như nhà máy, hầm mỏ, xe lửa v.v. Những công nhân thủ công
nghệ, những người làm thuê ở các cửa hàng, những cố nông v.v. cũng thuộc giai
cấp công nhân. Nhưng chỉ công nhân công nghệp là hoàn toàn đại biểu cho đặc
tính của giai cấp công nhân.
Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ
chức, kỷ luật. Công nhân là giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất, có trách
nhiệm đánh đổ chế độ của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, xây dựng một xã

hội mới. Vì những lẽ đó, giai cấp công nhân có thể lĩnh hội và thấm nhuần một tư
tưởng cách mạng nhất: chủ nghĩa Marx Lenin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của
họ ảnh hưởng và làm gương cho các tầng lớp khác. Do đó, về mặt chính trị, tư
tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo.
[12]
[sửa]Về quân sự
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là quan điểm và lý thuyết của Hồ Chí Minh về
việc xây dựng nền quốc phòng, lực lượng vũ trang, về những vấn đề có tính quy
luật của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, về chính trị và quân sự. Đó
là sự áp dụng lý thuyết quân sự của chủ nghĩa Marx Lenin vào thực tiễn Việt Nam,
kết hợp truyền thống quân sự, nghệ thuật binh pháp cổ truyền của dân tộc Việt
Nam, tiếp thu khoa học quân sự cổ kim của nhân loại.
Một trong các cơ sở quân sự của tư tưởng Hồ Chí Minh là lấy dân làm gốc theo
phương châm "quân với dân như cá với nước", tất cả sức mạnh đều từ dân mà ra.
Cơ sở tiếp theo của quân sự là chính trị. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, quân sự phục
vụ cho chính trị là một quan điểm cơ bản, đấu tranh chính trị và chiến tranh quân
sự luôn gắn bó với nhau. Do đó, trong Quân đội Nhân dân Việt Nam luôn có
những chính trị viên và chính ủy, họ có nhiệm vụ giáo dục chính trị trong quân đội.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chiến tranh ở Việt Nam là cuộc chiến của toàn dân
chống ngoại xâm, bao gồm cả ba thứ quân: quân chủ lực, quân địa phương và dân
quân tự vệ. Nguyên tắc "ba thứ quân" này là kế thừa từ truyền thống tổ chức quân
sự cổ truyền trong lịch sử Việt Nam, khi đó các thành phần hương binh, quân các
lộ và quân triều đình đều tham gia chiến sự. Chiến tranh du kíchlà nền tảng, kết
hợp với chiến tranh chính quy, lấy nhỏ quấy phá lớn, lấy thế thắng lực, áp dụng cơ
sở tinh thần chính trị khi cần, ứng dụng quân sự tiên tiến.
Chiến lược cơ bản chống đối phương xâm lược là bước đầu tiến hành quấy rối, làm
hao mòn lực lượng, đánh vào tâm lý, sau đó gây sức ép chính trị để đối phương tự
rút quân. Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu về Chiến tranh Đông Dương như sau:
“ Nó sẽ là một cuộc chiến giữa voi và hổ. Nếu hổ đứng yên thì sẽ bị
voi dẫm chết. Nhưng hổ không đứng yên. Ban ngày nó ẩn nấp

trong rừng và ra ngoài vào ban đêm. Nó sẽ nhảy lên lưng voi, xé
những mảnh da lớn, và rồi nó sẽ chạy trở lại vào rừng tối. Và dần
dần, con voi sẽ chảy máu đến chết. Cuộc chiến tranh ở Đông
Dương sẽ như vậy. ”
—Hồ Chí Minh
[13]
Phương pháp chiến tranh của tư tưởng này nhấn mạnh vào việc vận dụng hợp lý
việc xây dựng lực lượng và đánh tiêu hao đối phương, trong đó việc xây dựng lực
lượng, tích trữ lương thảo, vũ khí, và trường kỳ mai phục vào mùa khô, ẩn nấp vào
ban ngày, đánh tiêu hao địch vào mùa mưa và ban đêm.
[sửa]Về dân chủ
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ có nhiều nét tương tự với chủ nghĩa Marx
Lenin, tuy nhiên vẫn có những kiến giải riêng về cách vận dụng linh hoạt và phù
hợp với hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam. Theo ông, đặc điểm dân chủ tại Việt
Nam là:
 Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân, trên nền tảng
công nông liên minh, nhân dân lao động làm chủ nước nhà, xây dựng nhân
dân dân chủ chuyên chính, nghĩa là dân chủ với nhân dân, chuyên chính với
những người phản động.
 Tư tưởng của giai cấp công nhân (tư tưởng Marx Lenin) là tư tưởng lãnh
đạo, ngày càng phát triển và củng cố.
 Đảng Cộng sản lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng này, nhân dân có đoàn thể cách mạng chắc chắn của nó
như: Công đoàn, Nông hội, Hội thanh niên,Hội phụ nữ, thực hiện dân chủ,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
[14]
Về khái niệm "dân chủ tập trung", ông cho rằng các cơ quan chính quyền phải
thống nhất, tập trung. Từ Hội đồng nhân dân và Uỷ ban kháng chiến hành chính xã
đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới
phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương. Thế là vừa dân

chủ vừa tập trung.
[15]
Dân chủ là "của báu" vì đó không phải là thứ tự nhiên có sẵn mà đó là thành quả
của cách mạng, nhân dân Việt Nam đã phải đấu tranh, hy sinh gian khổ mới giành
được. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Thực hành
dân chủ có tác dụng giải phóng tiềm năng sáng tạo của người dân và trở thành
động lực của sự tiến bộ và phát triển. Trái lại, ông cho rằng, nếu trong cán bộ, nhân
dân "ít sáng kiến, ít hăng hái là vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì cách lãnh đạo của ta
không được dân chủ".
[16]
Hồ Chí Minh có quan điểm không khoan nhượng với những hành vi lợi dụng chiêu
bài dân chủ, nhân danh dân chủ để chống phá cách mạng. Theo ông thì dân chủ là
của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để phòng kẻ phá
hoại. Dân chủ và chuyên chính đi đôi với nhau. Muốn dân chủ thực sự phải chuyên
chính thực sự vì nếu không chuyên chính thực sự thì "bọn thù địch sẽ làm hại dân
chủ của nhân dân". Dân chủ và chuyên chính quan hệ mật thiết với nhau.
[17]
Hồ Chí Minh cho rằng dưới chế độ tư bản, phong kiến, chuyên chính là số ít người
chuyên chính với đại đa số nhân dân. Dưới chế độ dân chủ, chuyên chính là đại đa
số nhân dân chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân,
chống lại chế độ dân chủ của nhân dân.
[18]
[sửa]Về vấn đề giai cấp
Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức
lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển. Song đa số
người lao động thì suốt đời nghèo khó, mà thiểu số người không lao động thì lại
hưởng thụ thành quả lao động đó. Đó là do một số ít người đã chiếm làm tư hữu
những tư liệu sản xuất của xã hội. Họ có tư liệu sản xuất nhưng họ không làm lụng,
họ bắt buộc người khác làm cho họ hưởng. Do đó mà có giai cấp. Những người
chiếm tư liệu sản xuất không làm mà hưởng, là giai cấp bóc lột hay giai cấp tư sản.

Những người lao động mà không được hưởng giá trị thặng dư và thành quả lao
động là giai cấp bị bóc lột hay giai cấp công nhân.
[19]
[sửa]Nhận định từ bên ngoài
Vì tư tưởng Hồ Chí Minh chủ yếu được áp dụng ở cách mạng Việt nam, nên hệ tư
tưởng này không được nhiều các học giả Phương Tây nghiên cứu như đối với các
hệ tư tưởng khác. Một số nghiên cứu đánh giá tích cực về ý nghĩa của Tư tưởng Hồ
chí Minh đối với cách mạng giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa thực dân ở Việt
Nam và ở Đông dương. Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các vấn đề xã hội mang tính
nhân văn, vẫn mang tính thời sự.
Tháng 12 năm 2008, tại cuộc Hội thảo Việt Nam học tại Hà Nội, giáo sư
Yoshiharu Tsuboi, đại học Waseda, Nhật Bản, đã thu hút sự chú ý của hàng trăm
nhà nghiên cứu Việt Nam và nhiều nước với bài thuyết trình nhận định Hồ Chí
Minh là người theo chủ nghĩa cộng hòa chứ không phải cộng sản. Giáo sư cho
rằng: "Có lẽ giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng nhất trong suốt cuộc đời mình là
những giá trị của nền cộng hòa", "cơ sở lý luận là Tự do, Bình đẳng, Bác ái". Tóm
lược bài thuyết trình: Hồ Chí Minh coi mục tiêu cao nhất là giải phóng dân tộc,
giành độc lập cho đất nước; không chỉ xây dựng chế độ Dân chủ Cộng hòa mà còn
xây dựng những con người đóng vai trò gánh vác quốc gia độc lập; không chỉ đất
nước được độc lập, nhà nước có chủ quyền, mà phải thực hiện thứ tự do của mỗi
người dân. Người dân phải trở thành chủ thể xây dựng từ dưới lên trật tự của nền
cộng hòa. Từng cá nhân suy nghĩ, quyết định với tinh thần trách nhiệm cao. Hồ Chí
Minh cho rằng mỗi người dân đều có quyền mưu cầu hạnh phúc và phải chủ động,
tích cực tranh đấu để giành được hạnh phúc.
Khi là thành viên Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh vẫn cho rằng lúc đó cần ưu tiên
"đấu tranh giải phóng dân tộc giành lại độc lập cho Việt Nam chứ không phải là
vấn đề giai cấp. Về mặt này, Hồ Chí Minh không phải là một người cộng sản
'chính thống' theo chủ nghĩa Marx-Lenin".
Về huyền thoại "vị Thánh dân tộc", bà Quinn-Judge, hiện dạy ở đại học Temple
của Mỹ, nói ông Hồ không phải là đồ đệ một chiều của Quốc tế cộng sản. Quan hệ

của ông với phong trào này phức tạp và mong manh, và ông thường hành động
theo niềm tin của riêng mình
[20]
Nhà sử học Pháp ông Pierre Brocheux: ông Hồ Chí Minh về bản chất thực ra là
một người theo Khổng Giáo. Ông luôn cố gắng kết hợp những ý tưởng của Khổng
Giáo, một truyền thống ý thức hệ Đông Á với các dòng tư tưởng châu Âu, từ
Marxism đến Leninism. Theo tôi, trước sau ông là một người tốt, một người
Khổng Giáo. Những gì người ta nói về ông ở Việt Nam hiện nay chỉ đúng một
phần mà thôi. Theo tôi, ông đã cố gắng đưa vào thực tế tính nhân và tính công
bằng xã hội theo kiểu của Khổng Giáo."
Những câu nói nổi bật
 "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ."
 "Đảng phải gần dân, hiểu biết dân, học hỏi dân."
 "Đất có bốn phương Đông Tây Nam Bắc.
Trời có bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông.
Người có bốn đức Cần Kiệm Liêm Chính.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một đức thì không thành người."
 "Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp bể
Quyết chí ắt làm nên."
 "Thắng không kiêu, bại không nản."
 "Hoàn cảnh thế nào không quan trọng, quan trọng là đối phó thế nào."
[22]

×