Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Nghiên cứu nấm Fusarium spp. gây hại trên cây hồ tiêu ở Quảng Trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.16 KB, 36 trang )



1

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1.Đặt vấn đề
Hồ tiêu có danh pháp hoa học là Pipernigrum thuộc họ hồ tiêu (Piperaceae), trồng
chủ yếu để dùng làm gia vị dưới dạng khô hoặc tươi. Hiện nay hồ tiêu là cây công
nghiệp lâu năm, có giá trị kinh tế và giá trị xuất khẩu cao được trồng ở nhiều nơi trên thế
giới như Ấn Độ, Indonesia, Mã Lai, Thái Lan, Sri Lanka, Brazli, Trung Quốc và Việt
Nam (Nair 2004). Cây tiêu dù có mặt tại Việt Nam từ thế kỷ 18, được trồng nhiều ở Phú
Quốc và Vĩnh Linh nhưng ít được biết đến. Cả trăm năm Việt Nam hầu như không có tên
trên bản đồ cây gia vị của thế giới. Mãi đến thế kỷ 20, khoảng năm 1986, khi Việt Nam
thực hiện chính sách đổi mới với cơ chế thị trường, cây tiêu bắt đầu được phát triển
mạnh. Mạnh nhưng không ào ạt như cà phê vì không biết do điều kiện thổ nhưỡng hay
khả năng chăm sóc kém mà những hộ trồng tiêu thường chỉ trồng vài sào hay nhiều lắm
là 1-2 hécta. Tuy nhiên, với năng suất ngày càng cao, từ 5 - 7 tạ/ha nay đạt 3 tấn/hécta, cá
biệt hộ kỹ thuật canh tác tốt có thể đạt 5 tấn/hécta; và chi phí giá thành khoảng 15.000 -
20.000đ/kg nhưng giá bán khoảng 40.000 - 50.000đ/kg, có lúc lên tới 60.000đ/kg đến
75.000đ/kg nên những nguời trồng tiêu có thể yên tâm vì giá cả hồ tiêu trên thị trường
khá ổn định. Có thể khẳng định rằng tiêu là loại nông sản phụ nhưng có giá trị kinh tế
cao, lúc nào cũng có thị trường tiêu thụ. Hạt tiêu là sản phẩm gia vị quý, được sử dụng
với khối lượng lớn trong công nghiệp chế biến đồ hộp và thực phẩm và được sử dụng
rộng rãi trong bửa ăn hàng ngày của nhiều nơi, ngoài ra hạt tiêu còn được dùng trong
công nghiệp hương liệu và dược liệu. [3]. Mặt khác, hạt tiêu khô có thể bảo quản ở trong
kho nhiều năm mà không giảm chất lượng, người trồng tiêu có thể giữ lại sản phẩm của
mình để bán khi giá cả phù hợp.
Ở nước ta, từ sau năm 1995 trở lại đây, cây tiêu được phát triển với tốc độ lớn.
Trong những năm qua nhà nước ta chủ trương sản xuất nông nghiệp hàng hóa, vì vậy
viêc xác định và chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp đang được chú trọng. Phát huy thế


mạnh của những cây trồng có tiềm năng và đưa lại hiệu quả kinh tế cao đồng thời gắn với
việc bảo vệ môi trường thì cây tiêu ở nước ta có thế mạnh to lớn vì nhiều địa phương có
điều kiện thuận lợi về khí hậu, đất đai. Hiện nay tiêu được trồng nhiều ở các tỉnh Bình
Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Gia Lai, Đắc Lắc, Quảng Trị…


2

Quảng Trị là vùng trồng tiêu nổi tiếng, nằm ở phía nam của Bắc Trung Bộ, trọn
vẹn trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, là vùng chuyển tiếp giữa 2 miền khí hậu: Mùa
đông lạnh ở phía Bắc và nóng ẩm quanh năm ở phía Nam. Ở vùng này khí hậu khắc
nghiệt, chịu hậu quả nặng nề của gió tây nam khô nóng, bão, mưa lớn, khí hậu biến động
mạnh theo mùa. Nằm trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu, cũng như cả nước, Quảng Trị
được thừa hưởng một chế độ bức xạ dồi dào do độ cao mặt trời và độ dài ban ngày quyết
định. Kết quả điều tra đánh giá phân hạng tài nguyên đất tỉnh Quảng Trị năm 2001 của
Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp đã chỉ rõ: tổng diện tích đất thích nghi phát triển
cây hồ tiêu là 46.824 ha. Trong đó, mức độ thích nghi nhất có 18.039 ha thuộc các vùng đất
đỏ bazan ở Cồn Tiên - Dốc Miếu (thuộc huyện Gio Linh), Khe Sanh (huyện Hướng Hóa),
huyện Cam Lộ và huyện Vĩnh Linh. Kết quả đánh giá đất đai chỉ ra các xã: Gio An, Gio Sơn,
Hải Thái (Cồn Tiên - Dốc Miếu) huyện Gio Linh; các xã Vĩnh Hòa, Vĩnh Hiền, Vĩnh Nam
huyện Vĩnh Linh và các xã Cam Thành, Cam Nghĩa, Cam Chính huyện Cam Lộ có mức độ
thích nghi đối với tiêu là cao nhất.
Vì khí hậu thời tiết của tỉnh Quảng Trị rất khắc nghiệt mùa đông khí hậu ẩm ướt,
nhiệt độ thấp, nhưng mùa hè nhiệt độ cao, khô nóng là điều kiện thuận lợi để nhiều dịch
hại phát sinh. Bên cạnh đó biện pháp của nông hộ chưa hợp lý, hiểu biết về bảo vệ thực
vật cho cây tiêu còn bị hạn chế, là những yếu tố làm cho dịch hại phát triển trầm trọng
hơn. Sâu bệnh hại đã và đang là nguyên nhân chính gây gây giảm năng suất và suy thoái
nhiều vườn tiêu tại Quảng Trị.
Theo Nguyễn Ngọc Châu (1995) ở Tân Lâm – Quảng Trị có khoảng 36 loài sâu
bệnh hại tiêu [2]. Trong những năm cùng với sự mở rộng không ngừng diện tích cây hồ

tiêu thì tình hình sâu bệnh phá hại ngày càng trở nên nghiêm trọng như bệnh chết nhanh
(Phytopthora), chết chậm (Fusarium.spp), bệnh khô đầu ngọn (Collectotrichum sp), bệnh
khô vằn (Rhizoctonia sp), sâu đục thân, tuyến trùng, rệp sáp…gây thiệt hại nhiều vùng
sản xuất tiêu trên cả nước. Trong năm 2005, 2006 và đầu năm 2007 dịch hại trên cây hồ
tiêu phát sinh và gây hại đáng kể cho nhiều vùng sản xuất hồ tiêu tập trung. Một trong
những bệnh nguy hiểm làm giảm năng suất cây tiêu trên diện rộng đó là bệnh chết chậm.
Bệnh chết chậm ở cây hồ tiêu do nấm Fusarium.spp gây ra. Cây tiêu có biểu hiện sinh
trưởng chậm, lá úa vàng. Lá, hoa, các đốt và trái cũng rụng dần từ dưới gốc lên ngọn, chứ
không rụng và héo từ đọt xuống như bệnh chết nhanh. Gốc thân cây bệnh có các vết nâu
đen, dần dần vết bệnh lan rộng làm thối lớp vỏ gốc, bó mạch của thân cây hóa nâu. Khi


3

bệnh nặng, toàn bộ gốc và rễ cây tiêu bị thâm đen, hư thối, sau đó cây chết khô. Cũng có
trường hợp làm cây chết chậm nhưng không phải do nấm Fusarium mà nguyên nhân là
sự kết hợp với các nấm khác như Lasiodiplodia, Pythium, Rhizoctonia cũng làm thối gốc
gây hiện tượng chết chậm cây tiêu.
Trước diễn biến phức tạp của sâu bệnh hại nói chung và bệnh chết chậm nói riêng
trên cây hồ tiêu, để có cơ sở cho việc phòng trừ và góp phần phục vụ tốt hơn cho sản
xuất, chúng tôi tiến hành đề tài: “ Nghiên cứu nấm Fusarium spp. gây hại trên cây hồ
tiêu ở Quảng Trị ”. Nhằm nghiên cứu đặc điểm sinh học, tính gây bệnh từ đó đưa ra
hướng phòng trừ và bảo vệ hiệu quả không những đối với cây tiêu mà còn đối với các
cây trồng có ích khác. Việc này là cần thiết và có ý nghĩa với sự phát triển của hồ tiêu tại
tỉnh Quảng Trị nói riêng và Việt Nam nói chung.
1.2. Mục đích của đề tài:
Nghiên cứu đặc điểm hình thái của nấm Fusarium spp.
Nghiên cứu tính gây bệnh của nấm Fusarium spp. trong điều kiện in vivo.
1.3. Yêu cầu của đề tài:
Thu thập mẫu đất và mẫu rễ ở các vùng trồng tiêu bị bệnh chết chậm tại Cam Lộ -

Quảng Trị.
Sơ bộ đánh giá và phân loại các chủng nấm Fusarium spp. thông qua hình thái
nấm.
Đánh giá tốc độ sinh trưởng của từng chủng nấm.
Đánh giá được tính gây bệnh của từng chủng Fusarium.







4

Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình nghiên cứu về bệnh hồ tiêu trong và ngoài nước .
2.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới .
Các nhà khoa học trên thế giới đã tiến hành nghiên cứu rất nhiều các vấn đề về
liên quan đến nấm Fusarium.spp. gây ra. Điển hình như:
Takayuki và cs (1999) đã nghiên cứu ảnh hưởng của các điều kiện chiếu sáng
khác nhau lên sự hình thành bào tử của F. globosum phân lập từ lúa mì ở vùng cận nhiệt
đới Nhật Bản, đồng thời cũng đưa ra điều kiện chiếu sáng tối ưu để phân lập Fusarium
[7].
Ellner (2002) đã nghiên cứu độc tố trong củ khoai tây gây độc bởi F. sambucinum.
Kết quả chỉ ra rằng không thể chỉ cắt bỏ phần mô thối khoai tây (chứa rất nhiều độc tố)
mà có thể loại hết độc tố của nó được [11].
Hussein và cs (2002) đã nghiên cứu sự xuất hiện và phân bố các loài Fusarium
trên ngô ở New Zealand. Bằng cách sử dụng 2 phương pháp pha loãng và cấy trực tiếp,
tác giả đã phân lập được 15 loài Fusarium spp. từ hạt và vỏ của 3 loài ngô ở vùng

Manawatu [16].
Ghiasian và cs (2005) đã nghiên cứu sự sản xuất Fumonisin từ các loài Fusarium
phân lập từ ngũ cốc tươi ở Iran. Kết quả đã phân lập được 3619 chủng F. verticillioides
và F. proliferatum từ 92 mẫu ngũ cốc mới thu hoạch tại 4 vùng địa lý khác nhau của Iran,
đồng thời cũng xác định được hàm lượng Fumonisin mà chúng tạo ra trên môi trường
ngũ cốc [14].
Ngoài ra, trong những năm qua tình hình bệnh hại xuất hiện hầu như khắp các
vùng trồng tiêu trên thế giới gây thiệt hại đáng kể và trở thành yếu tố quan trọng hạn chế
diện tích và sản lượng tiêu. Vì vậy diễn biến bệnh hại trên cây hồ tiêu đã được nghiên
cứu tại các nước sản xuất tiêu trên thế giới như sau:
Ở Ấn Độ, các báo cáo đầu tiên về bệnh hại rễ tiêu là do Barber công bố năm
1902, 1903, 1905. Butler (1906) đẫ tiến hành điều tra bệnh hại ở vùng Wynad (Tây Nam
Ấn Độ). Ông dẫ phát hiện ra tuyến trùng hại rễ là do nấm Fusarium oxysporium. Later
(1918) đã bác bỏ kết quả của Buler và cho rằng nguyên nhân gây bệnh là chưa rõ ràng.
Venkara Rau (1929) đã phân lập được Phytophthora sp. từ các mẫu tiêu bị chết héo chủ


5

yếu ở vùng mới khai hoang. Nhưng tiến sĩ Ramaskishen (1957) đã cho rằng không có
loài phytophthora nào được phân lập từ cây tiêu bị bệnh trong nước.
Ở Indonesia, tài liệu xuất bản về tình hình bệnh chết tiêu đã có từ năm 1885 ở phía
Nam đảo sumatra. Đến năm 1899, Zimmerman tường trình về một loại bệnh ở rễ có thể
làm chêt cả cây tiêu. Bệnh đã xuất hiện thành dịch ở Teluk Betong thuộc đảo sumatra.
Đến năm 1901 Zimmerman cũng thấy dạng bệnh tương tự xuât hiên ở Đông Java. Ông
tìm Được loài tuyến trùng Meloidogyne sp. Gây ra hiện tượng bệnh lý trên. Một số tác giả
nghiên cứu bệnh tiêu ở Java sau đó cũng cho rằng tuyến trùng gây bướu ở rễ là nguyên
nhân chính gây bệnh. Một số tác giả khác lưu ý rằng các điều kiên canh tác kém cũng có
thể gây ra bệnh cho tiêu. Tình hình bệnh tương tự cũng thấy ở Lampong, phía Nam đảo
Sumatra. Còn ở đảo Bangka, giáp bờ phía đông Sumatra ngay từ năm 1916, Rutger đã

phát hiện thấy hiện tượng suy thoái dần trên cây tiêu, sau này được gọi là bênh vàng cây
tiêu, do tuyến trùng Radôphlus similis gây ra. Bệnh này phát triển rất mạnh năm 1937.
Năm 1936, Muller cho rằng hiện tượng chết rũ cây tiêu ở Java và sumatra nói trên có liên
quan đến bệnh thối gốc tiêu mà ông đã tìm thấy nấm gây bệnh là Phytophthora palmivora
var.piperis.
Vào những năm 1962-1964, sản lượng tiêu hàng năm ở Indonesia đạt khoảng
50.000 tấn. Nhưng tình hình dịch bệnh phát triển rất mạnh mấy năm sau đó làm tiêu chết
hàng loạt, sản lượng tiêu tụt xuống chỉ còn trên dưới 15.000 tấn. Chỉ sau khi có những
nghiên cứu về giống, phân bón và phòng trừ sâu bệnh cho tiêu cùng với việc tổ chức một
số hợp tác xã trồng tiêu và các biên pháp hỗ trợ tích cực của nhà nước, sản lượng tiêu ở
đây mới dần dần được phục hồi và đạt mỗi năm khoảng 30.000 tấn trong những năm gần
đây.
Ở Malaysia, bệnh chết tiêu được phat hiện ở Sarawak từ những năm 1952-1953
Holiday và Mowat đã xác định nguyên nhân gây bệnh là do nấm Phytophthora
palmivora. Hiên tượng bệnh cũng tương tự như đã phát hiện ở Sumatranawm 1952 mà
Muller gọi là bênh thối gốc. Bệnh này phát triển mạnh trong những năm 1953-1956 gây
thiệt hại khoảng 7.000 tấn tiêu, trị giá 1,7 triệu bảng Anh theo thời giá lúc đó.
Blacklock (1954) cũng đã ghi nhận một số loại sâu bệnh khác phát hiện được ở Sarawak
như các nấm gây thối gốc, rễ Fomes lignosus, Ganoderma lucidum; bệnh rỉ lá do tảo
Cephaleuros parasiticus, tuyến trùng rễ heterodera sp


6

Các nước khác, ngoài các vùng Tây Nam Ấn Độ, Sumatra và Banka còn có một số
vùng trồng tiêu khác cũng nổi tiếng như ở Brazil và các nước bán đảo Đông Dương.
Barat (1952) là người đầu tiên nghiên cứu về bệnh thối rễ hồ tiêu ở các vùng này. Ông
cũng giống như Muller, các nghiên cứu của ông là nghiên cứu về tuyến trùng
Meloidogyne sp. Barat cũng đã phân lập được nấm Phytophthora sp. từ cây tiêu bị bệnh
nhưng ông không xem đây là nguyên nhân gây bệnh chính.

Ở Sarawak có rất ít báo cáo về bệnh thối rễ trước khi có các điều tra được tiến
hành ở Newman (1941), mẫu rễ bệnh được gởi đến Malaysia để phân lập và phân lập
được nấm Phytophthora sp. Điều này cho thấy nguyên nhân gây bệnh là do nấm nhưng
các nghiên cứu sâu hơn vẫn chưa được tiến hành.
Từ các kết quả nghiên cứu ở các vùng trồng tiêu khác nhau của các tác giả, duy nhất chỉ
có Muller là người chứng minh được tác nhân gây bệnh hang loạt là do nấm
Phytophthora palmivora var. piperis; tuyến trùng Meloidogyne Jamaica được xem là tác
nhân tạo ra vết thương tạo điều kiện cho nấm xâm nhập.
Các nghiên cứu gần đây của Tsao (1991) đã kết luận nguyên nhân gây bệnh thối
chết gốc tiêu là do nấm Phytophthora palmivora MF4 và được xác định lại bằng công
nghệ sinh học hiện đại nấm này là Phytophthora capsici. Ewin và Ribiro (1996) cho rằng
nấm Phytophthora capsici rất khó phân lập từ cây bệnh. Tuy nhiên, với môi trường chọn
lọc chúng ta có thể phân lập được nấm này từ cây bị bệnh.
2.1.2. Tình hình nghiên cứu hồ tiêu ở Việt Nam
Vấn đề làm giảm năng suất, diện tích và chất lượng hồ tiêu đối với nước ta hiện
nay là sâu bệnh, đặc biệt là bệnh hại tiêu.
Theo CABI có khoảng 44 loài dịch hại cây hồ tiêu, riêng Việt Nam theo nghiên cứu của
Diệp Hồ Tùng và CTV (1999) có 22 loài sâu bệnh hại tiêu ở Phú Quốc.
Theo nghiên cứu của Võ Mai và Nguyễn Hữu Huân (1987) ở huyện Đức Linh - Thuận
Hải có 10 giống tuyến trùng hại rễ hồ tiêu, trong đó có tuyến trùng Meloidogyne
incognita gây hiện tượng sần rễ hồ tiêu là phổ biến nhất; có 12 loại bệnh trên thân, lá và
gốc tiêu như thán thư (Gloosporium sp.), rụng đốt (Điploia sp.), thối gốc (Fusarium sp.,
Sclorofium sp…)
Hồ Ngọc Thành đã tiến hành nghiên cứu xác định tác nhân gây bệnh chết nhanh
hồ tiêu ở Xuân Lộc- Đồng Nai là do nấm Phytophthora sp. Gây ra. Ông đã phân lập nấm


7

này từ cây tiêu bị bệnh và lây bệnh nhân tạo cho tiêu trong vườn ươm và tiêu sản xuất thì

cả hai trường hợp đều bị chết nhanh sau 7-9 ngày.
Theo Nguyễn Ngọc Châu (1995) thì thành phần bệnh hại hồ tiêu ở Tân Lâm-
Quảng Trị có tới 65 loài, trong đó tuyến trùng 49 loài, nấm bệnh 7 loài. Trong số 49 loài
tuyến trùng ký sinh có 4 loài ký sinh gây hại nặng trên cây hồ tiêu là Meloidogyne
incognita gây sần rễ có khả năng gây thành dịch trên diện rộng, loài Radôphlus
reniformis gây đen nụ, loài Xyphenema amenicanum mang virus gây vàng lá tiêu, loài
Pratrichodorus nanus mang virus gây bệnh xắn lá tiêu.
Trong 7 loài nấm bệnh có các loại gây bệnh chủ yếu là thán thư (Collectotrium
goeosprioides), đen lá (Lasiodiplodia theobromae), thối rễ (Fusarium solani)
Theo Nguyễn Vĩnh Trường và cộng tác viên (2001) khi phân tích mẫu đất bị bệnh
chết héo hồ tiêu ở Tân Lâm- Quảng trị và Long Khánh- Đồng Nai xác định nấm gây chết
héo là Phytophthora capsicil.
Một số nghiên cứu về tuyến trùng hại rễ hồ tiêu của Vũ Thị Nga ở Bình Long cũng cho
thấy các giống Meloidogyne encognita, Criconemoides sp., helicotylenchus sp.,
Tylencherhynchus sp. đều có tỷ lệ xuất hiện 100% trong các mẫu đất phân lập.
Nhìn chung tình hình bệnh hại hồ tiêu ở Việt Nam cũng có diễn bến tương tự trong
khu vực và thế giới, đôi lúc còn phức tạp hơn. Đó là những khó khăn, thách thức đòi hỏi
chúng ta phải có những nghiên cứu chắc chắn và xây dựng được một chiến lược về phòng
trừ bệnh hại hồ tiêu có hiệu quả.
2.2. Giới thiệu chung về bệnh chết chậm
Việt Nam là một đất nước có 2 vùng khí hậu khác biệt. Vùng khí hậu Á nhiệt đới
từ phía Bắc của đèo Hải Vân với 4 mùa rõ rệt và vùng khí hậu nhiệt đới ở phía Nam đèo
hải Vân với 2 mùa là: mùa khô và mùa mưa. Sự có mặt của những dãy núi ở miền Trung
và miền Bắc Việt Nam làm gia tăng sự khác nhau giữa các vùng khí hậu, điều đó cho
phép trồng nhiều loại cây khác nhau. Những vùng khác nhau của Việt Nam cũng đem lại
khí hậu lý tưởng cho những loài Fusarium phát triển mạnh và những dòng Fusarium gây
thiệt hại kinh tế lớn cho hàng loạt các cây trồng khác nhau trên cả nước, bao gồm cây ăn
quả, cây rau, cây công nghiệp và cây nông nghiệp khác.
Hồ tiêu là cây thân thảo, bộ rễ rất mềm yếu và phản ứng nhạy bén với điều kiện
môi trường và chế độ chăm sóc, bón phân nên dễ bị các loại bệnh hại như: bệnh tuyến

trùng, bệnh chết nhanh, bệnh chết chậm, bệnh thán thư, bệnh khô vằn, bệnh virus (bệnh


8

tiêu điên, bệnh xoắn lùn), bệnh thiếu dinh dưỡng… Bệnh chết chậm do nấm
Fusarium.spp nhưng trong nhiều trường hợp là sự kết hợp với các nấm khác như
Lasiodiplodia, Pythium, Rhizoctonia cũng làm thối gốc gây hiện tượng chết chậm cây
tiêu. Trong đó bệnh chết chậm do nấm Fusarium gây ảnh hưởng nhiều đến sinh trưởng và
phát triển.
2.2.1 Triệu chứng

Hình 2.1: Cây tiêu bị bệnh chết chậm
Bệnh chết chậm thường có triệu chứng vàng lá từ từ, thời gian từ khi có biểu hiện
bị bệnh đến khi chết có thể kéo dài cả năm. Bệnh làm chết cả khóm hoặc chỉ chết 1-2
dây.[8]
Cây bị bệnh kém phát triển, năng suất thấp, bộ rễ cây thường bị hủy hoại. Quan sát
thấy trên rễ có nhiều mụn u sưng, vết thâm đen trên rễ do tập đoàn tuyến trùng gây ra.
Gốc thân, cổ rễ bị thâm đen, thối khô. Các bó mạch trong thân bị chuyển màu thâm
đen.[Báo cáo dịch hại chính trên hồ tiêu và biện pháp phòng trừ. Viện Bảo vệ thực vật.
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam]
Do bộ rễ bị tổn hại, quá trình thoát nước, vận chuyển muối khoáng bị gián đoạn
nên cây mới bị bệnh có biểu hiện sinh trưởng kém, lá bị vàng và rụng dần dần, cây còn
nhỏ có thể bị chết khô hoàn toàn. Trường hợp cây tiêu bị bệnh nhẹ thì dây tiêu không
chết nhưng sinh trưởng không bình thường và cằn cỗi.
2.2.2. Nguyên nhân gây bệnh.
Có nhiều tác nhân tham gia gây bệnh chết chậm như tuyến trùng vùng rễ, rệp sáp,
mối, nấm Fusarium spp, Phytophthora, Pythium….Một số nghiên cứu cho rằng, tuyến



9

trùng ký sinh gây thương tổn cho bộ rễ, sau đó nấm Fusarium và các loại nấm khác ký
sinh theo là nguyên nhân gây hiện tượng chết chậm. Ở những vùng có mật độ rệp sáp hại
rễ cao và mối gây hại sẽ làm cho triệu chứng của bệnh thêm rõ ràng và phát triển nhanh
hơn.[Báo cáo dịch hại chính trên hồ tiêu và biện pháp phòng trừ. Viện Bảo vệ thực vật.
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam].
2.2.3. Biện pháp phòng trừ
Các bệnh héo Fusarium nói chung và chết chậm hồ tiêu nói riêng rất khó phòng
trừ do bào tử hậu tồn tại qua thời gian dài trong đất, do đó phải:
Luân canh các cây trồng có khả năng kháng bệnh ít nhất 2 năm trước khi trồng lại
các cây trồng mẫn cảm có thể giúp làm giảm nguồn bệnh.
Bón nhiều phân hữu cơ và bón đủ phân NPK và bón thêm vôi cho các gốc tiêu.
Đồng thời không để gốc tiêu đọng nước trong mùa mưa.
Tiêu hủy các cây bị bệnh và rắc vôi vào gốc diệt mầm bệnh.Tuy nhiên, loại nấm
này vẫn có thể tồn tại bằng cách xâm nhiễm vào vỏ rễ các cây trồng không phải là kí chủ
và không biểu hiện triệu chứng. Việc này nêu ra sự cần thiết nghiên cứu đặc tính sinh học
của loại nấm này ở từng quốc gia, từng vùng, từng địa phương nhằm xác định vai trò của
những cây trồng không phải là kí chủ và thời gian tồn tại của bào tử hậu trong đất.Có
những giống cây trồng có khả năng kháng bệnh héo Fusarium. Tuy nhiên một giống
kháng bệnh không có nghĩa là có khả năng kháng với tất cả các chủng của một dạng loài
nào đó.Một số bệnh héo Fusarium đã được phòng trừ thành công bằng phương pháp sử
dụng gốc ghép có khả năng kháng bệnh. Ví dụ, phương pháp này đã được áp dụng để
phòng trừ bệnh héo Fusarium trên dưa hấu.
Hiện nay chưa có thuốc trừ nấm hữu hiệu để phòng trừ.
2.3. Giới thiệu chung về nấm Fusarium spp.
Nấm Fusarium spp. Thuộc:
Ngành Ascomycota
Lớp Deuteromycetes
Họ Tuberaulariaceae

Bộ Moniliales
Chi Fusarium


10

Chi Fusarium bao gồm nhiều loài gây bệnh cho cây như héo do tắc bó mạch, thối
rễ, thân và bắp, thối cổ rễ cây con và thối củ. Một số loài gây bệnh cũng sản sinh độc tố
nấm lẫn tạp trong hạt ngũ cốc.
Nhiều loài Fusarium khác là hoại sinh phổ biến trong đất. Các loài hoại sinh
thường có mặt trên rễ và thân cây bệnh. Những loài hoại sinh này mọc nhanh trên môi
trường và được phân lập dễ dàng từ rễ và thân bị bệnh, khiến cho việc phân lập các tác
nhân gây bệnh chính trở nên khó khăn. Vì vậy việc lây bệnh nhân tạo các mẫu Fusarium
phân lập từ rễ bệnh là rất cần thiết. Đây là phần quan trọng trong quá trình chẩn đoán, và
là một trong những lí do tại sao chẩn đoán một
bệnh rễ lại khó khăn. Ví dụ, Fusarium oxysporum bao gồm nhiều dạng loài gây các
bệnh héo do tắc bó mạch và một số bệnh thối rễ. Tuy nhiên, F. oxysprorum cũng
bao gồm nhiều dạng hoại sinh có mặt phổ biến trên rễ cây bệnh sau khi tác nhân
gây bệnh đã làm thối mô rễ. Một số loài hoại sinh này cũng có thể sống nội sinh
trong các tế bào lớp ngoài của rễ mà không làm tổn thương rễ.
Theo các nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học, các bệnh héo Fuasarium là
vấn đề quan trọng ở Việt Nam. Những bệnh héo này do các dạng loài của F.oxysporum
gây ra. Một vài dạng F.oxysporum cũng có thể gây thối dưa hấu và củ khoai tây đã bị sâu
hoặc dụng cụ gặt hái làm tổn thương.
Thối bắp ngô, chủ yếu do F.graminearum và F. verticilliodes gây ra, ngày càng trở nên
nghiêm trọng ở Việt Nam. Cả hai loài đều sản sinh độc tố nấm tồn tại trong hạt.
Một số dạng Fusarium solani gây thối cổ rễ cây con họ đậu như đậu Hà Lan, đậu
cô ve, và thối rễ ở các cây trưởng thành. Các dạng khác có thể gây hại ở khu vực gố than
cây lớn, như cây vải, bị yếu đi do yếu tố môi trường làm stress và do các bệnh khác.
Fusraium decemcellulare đã được phân lập từ cành nhãn bị thối ở miền bắc Việt

Nam ( L. Burgess, thong tin chưa xuất bản) và từ cà phê ơ tỉnh Đắc Lắc (TS. Trần Kim
Loang).
Nghiên cứu sinh địa lý học chỉ ra rằng, các loài Fusarium khác nhau sẽ phân bố ở
các vùng địa lý khác nhau. Sự thay đổi trong cấu trúc và đa dạng của nấm có thể do kết
hợp với các vùng khí hậu đặc biệt trên thế giới [19].
Phổ kí chủ: Mỗi dạng loài thường chỉ gây héo do tắc bó mạch trên một loài kí chủ
nhất định. Chẳng hạn như F. oxysporum f. sp. Niveum chỉ gây héo trên dưa hấu.


11

Thời tiết : Các bệnh héo Fusarium thường nghiêm trọng hơn trong điều kiện thời
tiết ấm và ẩm ướt.
Bảo tồn : Các tác nhân gây bệnh héo Fusarium tồn tại dưới dạng bào tử hậu trong
đất qua thời gian dài. Bào tử hậu có hình tròn, là các bào tử một tế bào với vách tế bào
dày và có sức chống chịu cao, được hình thành trong mô bệnh.
Các tác nhân gây bệnh héo Fusarium cũng có thể có mặt ở vỏ rễ một số cây không
phải là kí chủ, kể cả cỏ dại và cây trồng. Bào tử hậu hình thành trong vỏ rễ khi cây chết.
Như vậy những cây trồng không phải là kí chủ phải được kiểm tra trước khi được khuyến
cáo là cây trồng luân canh để phòng trừ héo Fusarium.
Xâm nhiễm: Sợi nấm và bào tử vô tính nảy mầm trong tàn dư cây bệnh và đất xâm
nhiễm vào rễ con còn non và lan dần vào các mạch xylem. Nấm bệnh sau đó sẽ phát triển
trong mạch xylem và lan lên hệ thống mạch dẫn trong thân. Quá trình này gây phản ứng
của cây, tạo ra các hợp chất phenol và thể sần có màu nâu. Những hợp chất này gây hiện
tượng hóa nâu của mạch dẫn, một dấu hiệu dễ nhận thấy của bệnh héo khi cắt ngang thân.
Hiện tượng tắc mạch xylem làm giảm lượng nước di chuyển lên cây, khiến cho cây bệnh
bị héo rồi chết.
Bệnh héo Fusarium thường liên hệ với tuyến trùng nốt sưng.
Nấm Fusarium xâm nhiễm vào cây qua vết thương do tuyến trùng gây ra.
2.3.1. Đặc điểm của nấm Fusarium spp.

Fusarium.spp là chi lớn nhất trong Tuberculariaceae, chúng hoại sinh hoặc ký sinh
trên nhiều cây trồng, cây ăn trái và rau. Nó là nguyên nhân chính làm héo rũ cây chủ. Hệ
sợi nấm lan toả khắp mô mạch và lấp kín mạch gỗ. Sự lấp mạch gỗ sẽ cản trở quá trình
chuyển vận nước làm héo cây, Fusarium.spp cũng sản xuất một số chất độc tiết vào mạch
dẫn cây chủ cũng có thể gây héo rũ, nhiều loài thực vật bị Fusarium.spp tấn công
Hệ sợi nấm phân nhánh, có vách ngăn, sợi nấm thường không màu, chuyển màu
nâu khi già. Hệ sợi nấm sản sinh độc tố tiết vào hệ mạch gây héo cây chủ.
Cơ thể dinh dưỡng dạng sợi đa bào, phân nhánh phức tạp, vách ngăn có lỗ thủng đơn giản
ở giữa. Trong một tế bào có một nhân hoặc nhiều nhân. Vách tế bào bằng chitin, glucan.
Nấm sống hoại sinh hoặc ký sinh trên thực vật, gặp phổ biến trong đất, cũng gặp
trên các vật liệu cellulose.[Nguyễn Lân Dũng, Bùi Xuân Đồng, Lê Đình Lương. 1982. Vi
nấm. NXB Khoa học và kỹ thuật. Hà Nội]
Nhiệt độ thích hợp cho nấm phát triển là 25 – 30
0
C.


12



Hình thái và màu sắc tản mấm trên môi trường nuôi cấy.
Nấm Fusarium phát triển nhanh chóng trên môi trường PDA ở nhiệt độ 25
0
C và
hình thành tản nấm có hình thể tơi xốp như bông hoặc bằng phẳng hoặc lan rộng trên môi
trường nuôi cấy.
Mặt trên của tản nấm có thể có màu trắng, kem, vàng, vàng cam, đỏ, tím hồng
hoặc tím.
Mặt dưới nó có thể không màu, vàng cam, màu đỏ, màu tía sẫm, hay màu nâu.

[18].
Nghiên cứu về phân loại Fusarium bắt đầu từ năm 1809 nhưng việc xác định số
loài Fusarium luôn thay đổi trên một phạm vi rộng lớn: từ 9 loài theo Snyder và Hansen
(1945) đến 44 loài và 7 giống theo Booth (1971) [8], 65 loài và 55 giống theo
Wollenweber và Reinking (1935) [20], hơn 70 loài và hơn 55 giống theo Gerlach và
Nirenberg (1982) [13]. Cho đến bây giờ, hệ thống phân loại Fusarium vẫn còn mơ hồ và
không chắc chắn nên không cho phép giải thích sự phát sinh loài một cách phù hợp [15].
2.3.2. Hình thức sinh sản.
Fusarium có 2 hình thức sinh sản: sinh sản sinh dưỡng và sinh sản vô tính. Do
thiếu giai đoạn sinh sản hữu tính trong vòng đời nên người ta gọi chung là nấm không
hoàn chỉnh hay nấm bất toàn.[6].
2.3.2.1. Sinh sản sinh dưỡng
Sợi nấm : Từ 1 sợi nấm riêng rẽ, khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ sinh trưởng và
phân nhánh thành hệ sợi nấm.
Bào tử hậu (bào tử màng dày, bào tử áo : Bào tử hậu là những tế bào hơi tròn, có
tế bào chất được cô đặc lại [17], có màng dày bao bọc [5], thỉnh thoảng có bào tử hậu với
vách tế bào xù xì hoặc có sắc tố [18].
Ở bào tử này, chất dinh dưỡng được chuyển từ tế bào kề bên sang tế bào ưu tiên
làm tế bào này phồng lên, chứa nhiều chất dự trữ và có thể chịu đựng những điều kiện bất
lợi trong một thời gian khá dài. Khi gặp điều kiện thuận lợi, chúng sẽ nảy mầm và phát
triển thành sợi nấm mới.
Bào tử hậu có thể nằm ở giữa sợi nấm hoặc ở đầu tận cùng của nó [5], [17]; có thể
ở dạng đơn lẻ, dạng cặp đôi, dạng chuỗi hay dạng cụm. Ở các loài như F. solani và F.


13

oxysporum, bào tử hậu thường ở dạng đơn, đôi, thỉnh thoảng dạng ba và ít khi có dạng
cụm. Tuy nhiên, có một số loài (đặc biệt là F. proliferatum) có sợi nấm khí sinh với chuỗi
những tế bào phình to, rất dễ bị nhầm là bào tử hậu [18].

Bào tử hậu có thể quan sát dưới kính hiển vi sau 10-14 ngày. Nhưng nhiều loài
Fusarium có thời gian hình thành bào tử hậu chậm hơn (20- 42 ngày) và có khi không tạo
ra chúng [12], [18].
Một số loài Fusarium có tạo bào tử hậu như F. chlamydosporum, F. napiforme, F.
oxysporum, F. semitectum, F. solani, F. sporotrichoides, F. equiseti, F. tricinctum.[12],
[18].
2.3.2.2. Sinh sản vô tính
Bào tử đính thường được hình thành ở các loài nấm bất toàn. Đa số bào tử đính
thường sắp xếp thành chuỗi, có khi thành từng khối. Một số bào tử đính nằm đơn độc
từng cái một trên cuống bào tử đính. Cuống bào tử đính có thể đơn bào hoặc đa bào,
không phân nhánh hoặc phân nhiều nhánh, mọc riêng lẻ hay sắp xếp từng cụm [1].
Ở các loài Fusarium thì bào tử đính thường là bào tử ngoại sinh, có 2 loại: bào tử
đính lớn và bào tử đính nhỏ.
Bào tử đính lớn ( bào tử lớn) : Bào tử trong suốt, được hình thành từ thể bình trên
cành bào tử có nhánh hay không có nhánh [9].
Bào tử lớn có kích thước 3 - 8 x 11 - 70 µm. Kích thước bào tử thường dùng để
phân biệt giữa các loài Fusarium quá dài (F. avenaceum, F. coccophilum, F.
decemcellulare ) và quá ngắn (F. xylarioides, F. larvarum, F. poae ).
Hầu hết các loài Fusarium có bào tử lớn từ 3 - 7 vách ngăn, tuy nhiên có nhiều
loài có từ 1 - 3 vách ngăn (F. dimerum, F. dlamini, F. poae ) hoặc nhiều hơn 7 vách ngăn
(F. decemcellulare, F. coccophilum ). Bào tử lớn có hình lưỡi liềm hay hình trụ.
Các loài Fusarium khác nhau có thể phân biệt được tùy theo mức độ cong của bào
tử lớn (thẳng ở bên phải và cong rõ ràng ở bên trái); tỷ lệ giữa chiều dài và chiều rộng
của bào tử (thon nhọn ở đầu và to ở giữa). Phần to nhất của bào tử lớn cũng có thể là một
đặc điểm để nhận dạng các loài Fusarium. Ví dụ như F. culmorum và F. sambucinum có
phần đầu bào tử to nhất, giống hình cái nêm còn F. acuminatum có phần cuối bào tử to
nhất [18].
Phần đầu và phần cuối bào tử lớn có nhiều hình dạng và kích thước khác nhau.
Phần đầu bào tử có thể có dạng: cái móc, hình núm vú, hình đầu tù, hình nón. Phần cuối



14

bào tử có thể có dạng: hình đầu tù, hình núm vú, hình bàn chân, hình bàn chân được kéo
dài, hình thon dài với vết khía hình chữ V [12], [18].
Bào tử đính nhỏ ( bào tử nhỏ) : Kích thước 2-4 x 4-8 µm, được hình thành từ cành
bào tử phân sinh phân nhánh hoặc không phân nhánh, mọc trực tiếp từ sợi nấm hoặc tụ
lại thành dạng bọc giả trên đầu cành hoặc hình thành dạng chuỗi [4].
Bào tử có 0-1 vách ngăn (đặc biệt có loài có 2-3 vách ngăn). Bào tử có nhiều hình
dạng khác nhau như: hình cầu, hình gần cầu, oval, hình cầu với một đầu nhọn, hình thoi,
hình quả thận, hình hạt chanh, hình liềm, hình trứng, hình trứng ngược, hình chùy [12].
Các loài Fusarium khác nhau thì có hình dạng bào tử nhỏ khác nhau. Tuy nhiên, có
những loài Fusarium mà bào tử nhỏ của chúng có nhiều hơn một hình dạng. Sự có mặt
bào tử nhỏ hình cầu là đặc điểm để nhận dạng F. poae cũng như để phân biệt F.
sporotrichioides và F. chlamydosporum. Còn bào tử nhỏ hình hạt chanh được tạo ra với
số lượng lớn thì chỉ có thể là bào tử của F. tricinctum [18].
2.3.3. Chu kỳ sống của Fusarium
Nấm Fusarium có 2 giai đoạn tồn tại trong đất: giai đoạn sinh trưởng tích cực và
giai đoạn tiềm sinh (giai đoạn ngủ nghỉ).
Ở điều kiện thích hợp, môi trường có đầy đủ chất dinh dưỡng, nấm sẽ
sinh trưởng tích cực. Ngược lại, khi gặp điều kiện bất lợi, lượng dinh dưỡng trong đất còn
rất ít thì nấm sẽ chuyển sang giai đoạn tiềm sinh. Lúc này, các loài Fusarium sẽ hình
thành cấu trúc tiềm sinh là bào tử hậu. Cũng trong giai đoạn này, cường độ hô hấp và
nguồn dinh dưỡng dự trữ được tích lũy trong hệ sợi nấm sẽ được các loài Fusarium sử
dụng ở mức thấp nhất, nhằm đảm bảo sự tồn tại của chúng trong thời gian dài. Một số
loài Fusarium không sản sinh bào tử hậu thì chúng sẽ tiếp tục tồn tại bằng cách làm chậm
lại các hoạt động hoại sinh hay ký sinh trong cơ thể vât chủ. Vì thế, sau khi thu hoạch vụ
mùa với các cây bị bệnh do Fusarium thì khả năng trong đất còn sót lại Fusarium là rất
cao.
2.3.4. Cơ sở lý luận và thực tiễn

2.3.4.1. Cơ sở lý luận.
Trong sản xuất nông nghiệp, con người luôn tìm cách để nâng cao năng suất cây
trồng tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng đáp ứng ngày càng nhiều, càng tố hơn nhu cầu của
con người. Khi con người tiến hành các hoạt động sản xuất nông nghiệp đã tác động vào
tự nhiên, rõ hơn là tác động vào hệ sinh thái nông nghiệp bằng nhiều biện pháp như: canh


15

tác, hoá học, sinh học,… nhằm tạo ra nhiều sản phẩm thu lợi theo ý muốn chủ quan của
mình. Làm cho sâu bệnh gây hại cây trồng cũng tăng lên không kém, phát sinh nhiều loại
sâu bệnh mới nguy hiểm hơn, nhiều loại đã xuất hiện hiện tượng kháng thuốc, quen thuốc
bảo vệ thực vật. Nếu không có một phương thức canh tác hợp lý, khoa học thì chính hoạt
động sản xuất đó rất dễ dàng làm phá vỡ cân bằng vốn rất mỏng manh của hệ sinh thái
nông nghiệp. Sự phát sinh thành dịch của một số dịch hại tàn phá mùa màng, cây trồng
chính là biểu hiện của sự mất cân bằng trong hệ sinh thái nông nghiệp, là hậu quả của
một quá trình sản xuất “thiếu nhìn xa trông rộng của con người”. Hướng phát triển của
một nền nông nghiệp hàng hoá bền vững là không làm phá vở mối cân bằng đó mà lợi
dụng nó để tác động theo hướng có lợi cho con người.
Khả năng gây bệnh của ký sinh vật lên cây trồng là do các đặc tính như: tính xâm
lược, tính gây bệnh và tính độc quyết định. Bình thường mổi loại ký sinh vật có một phổ
ký chủ, một môi trường sống nhất định nhưng chúng cũng có khả năng tiến hoá để thích
ứng khi môi trường thay đổi, thức ăn thay đổi.Do đó khả năng gây bệnh của chúng cũng
sẻ thay đổi theo, phổ ký chủ có thể mở rộng hay thu hẹp. Sự xuất hiện những bệnh hại
mới trên cây trồng cũng là vì thế.
Hiện nay, trái đất đang chịu sự thay đổi bất thường của khí hậu, kéo theo sự thay
đổi của hệ sinh thái, đồng thời nhu cầu của con người với nông nghiệp là rất lớn và thực
tế sản xuất luôn đi trước khoa học. Chính vì vậy công tác điều tra, kiểm soát và quản lý
dịch hại trên cây trồng phải được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục. Mặt khác,
cây tiêu là loại cây lâu năm, sâu bệnh hại tiêu mà đặc biệt là bênh hại diễn biến rất phức

tạp, nguy cơ phát sinh bênh mới và bùng phát dịch bệnh là rất cao. Vì vậy công tác điều
tra, thu thập số liệu, thông tin về bệnh hại tiêu là cần thiết để làm cơ sở cho những cải
thiện về kỷ thuật sản xuất, đề ra biện pháp phòng trừ và có hướng quản lý thích hợp hơn
để từ đó nâng cao năng suất, tăng thu nhập cho người trồng tiêu.
Ở Quảng trị cần phải thực hiện nghiên cứu này bởi nơi đây tiềm năng cho cây tiêu
phát triển là rất lớn, cho chất lượng hạt tiêu cao.Đồng thời tại đây đang gặp phải một số
trở ngại về kinh tế, điều kiện tự nhiên, đặc biệt là phương thức sản xuất hồ tiêu của nông
dân ở đây còn lạc hậu,chưa lien kết lại với nhau, phần lớn sản xuất theo kiểu truyền
thống, kinh nghiệm, điều đó đã không đáp ứng được nhu cầu sản xuất hàng hoá và làm
cho bênh hại tiêu có diễn biến phức tạp hơn.



16


2.3.4.2. Cơ sở thực tiễn.
Từ xa xưa, hạt tiêu đã được xem là một sản phẩm quý dung làm lễ vật triều cống,
bồi thường chiến tranh trong thời La Mã cổ đại. Thời nay hạt tiêu lại càng khẳng định
hơn nữa giá trị của nó. Là một loại gia vị quan trọng trong công nghệ thực phẩm, công
nghệ chế biến đồ hộp, dược sử dụng trong y dược, trong công nghệ hương liệu, ngoài ra
còn được dùng để phòng trừ côn trùng gây hại,…
Trong phong tục ẩm thực của người phương Đông hạt tiêu là gia vị không thể
thiếu được trong việc bêp núc, làm tăng thêm hương vị thơm ngon của món ăn, là bí
quyết thành công của những người nội trợ.
Trong y dược, do hạt tiêu có chứa chất Piperin, tinh dầu và nhựa nên kích thích
được tiêu hoá, chữa đau bụng, ói mữa khi ăn nhầm món lạ,… Trong công nghiệp, chất
Piperin là nguyên liệu để sản xuất Piperonal cùng với tinh dầu và sản xuất được chiết
xuất từ nhựa hạt tiêu được sử dụng trong kỹ nghệ sản xuất nước hoa, dầu xoa bóp,…
Trong phòng trừ côn trùng, người ta lấy dịch chiết từ hạt tiêu để tổng hợp các chế phẩm

có khả năng ngăn côn trùng phá hại đồ gia dụng.
Việc phát triển nhanh chóng cây hồ tiêu cần phải tiến hành song song với công tác
bảo vệ. Điều quan trọng là phải tiến hành điều tra tình hình sâu bệnh hại ở mổi địa
phương, xác định các đối tượng gây hại chính và có biện pháp phòng trừ hiệu quả nhằm
góp phần nâng cao năng suất sản lượng hồ tiêu.
Tuy nhiên trong những năm qua công tác phòng trừ bệnh hại tiêu nói chung và
bệnh chết chậm hồ tiêu nói riêng chưa được chú trọng. Kiến thức về bệnh này của đội
ngủ cán bộ kỹ thuật cũng như nông dân còn nhiều mặt hạn chế nhất là việc phát hiện
sớm và đưa ra phương pháp phòng trừ kịp thời, có hiệu quả, đây là một vấn đề khó khăn
cho sản xuất hiên nay. Bệnh chết chậm hồ tiêu là một loại dịch hại khó phòng trừ, vì vậy
cho đến nay chưa có biện pháp nào có thể phòng trừ bệnh một cách có hiệu quả để và
triệt để có thể sử dụng rộng rãi trong sản xuất.







17

Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Nấm Fusarium. spp gây bệnh chết chậm trêm cây tiêu.
3.2.Phạm vi nghiên cứu.
Địa điểm: Huyện Cam Lộ - Tỉnh Quảng Trị.
Thời gian: Từ tháng 1/2009 – 5/2010
3.3. Nội dung nghiên cứu.
Phân lập nấm Fusarium. spp từ rễ cây hồ tiêu bị bệnh

Phân loại các chủng nấm Fusarium spp. dựa vào hình thái và màu sắc tản nấm.
Đánh giá tốc độ sinh trưởng của các chủng nấm Fusarium spp.
Kiểm tra tính gây bệnh của các chủng nấm đại diện trong điều kiện in vivo.
3.4. Phương pháp nghiên cứu.
3.4.1. Phân lập nấm Fusarium spp. từ rễ cây hồ tiêu bị bệnh.
3.4.1.1.Phương pháp lấy mẫu bệnh.
Tiến hành thu thập mẫu rễ ở các vườn tiêu có triệu chứng bị bệnh chết chậm tại
các vùng trồng tiêu ở các xã Cam Chính , Cam nghĩa huyện Cam Lộ - Quảng Trị .
Cách lấy mẫu
Đào vùng đất ở gần gốc tiêu cách gốc khoảng 20 – 30cm, chọn những rễ tơ có triệu
chứng bị, bệnh biểu hiện là các chấm đen và vết thối trên rễ và đầu mút của rễ, ghi ngày
lấy, địa điểm, ký hiệu mẫu.
Mẫu lấy về phân lập càng sớm càng tốt, trong trường hợp nếu không phân lập được thì
bảo quản trong điều kiện khô ráo ở nhiệt độ 14 – 20
o
C.
3.4.1.2. Phương pháp phân lập mẫu rễ bị nhiễm bệnh
Sau khi thu mẫu về, tiến hành phân lập mẫu rễ trong phòng thí nghiệm.
Trong quá trình phân lập không khử trùng bề mặt các rễ con quá mức bởi vì chất khử
trùng có thể tiêu diệt tất cả các nấm ký sinh trong rễ con, bao gồm cả nấm gây bệnh.
Các bước phân lập:
1. Lau chùi bàn làm việc bằng cồn 70%.
2. Chọn những rễ con có cả phần khỏe (không triệu chứng) và phần bị bệnh, rửa
chúng dưới vòi nước đang chảy để loại sạch đất và bụi bấn.
3. Nhúng dụng cụ (kẹp và dao mổ) trong cồn l 96% và hơ khô trên


18

ngọn lửa.

4. Nhúng qua các rễ con trong cồn 70%, rửa nhanh trong nước vô trùng 3 lần và để
khô trên giấy thấm đã khử trùng.
5. Dùng dụng cụ đa khử trùng cắt rễ thành từng miếng dài 1-2 mm ở phần ranh
giới giữa mô khỏe và mô bệnh sau đó cấy lên môi trường chọn lọc PPA có chứa kháng
sinh để hạn chế vi khuẩn phát triển.
6. Ấn nhẹ các miếng cấy lên mặt thạch sao cho chúng tiếp xúc tốt với môi trường
phân lập.
7. Đặt đĩa cấy vào tủ định ôn 28
0
C trong 3-5 ngày cho đến khi các tản nấm phát
triển.
3.4.1.3. Phương pháp cấy truyền từ các đĩa phân lập.
Cấy truyền là bước trung gian giữa phân lập từ mẫu bệnh và làm thuần vi sinh vật gây
bệnh. Giai đoạn này giúp xác định vi sinh vật nào đã được phân lập.


Sơ đồ 3.1: Sơ đồ phân lập nấm Fusarium từ rễ và cấy truyền (Cẩm nang chẩn đoán
bệnh cây ở Việt Nam)
Các bước cấy truyền:
1. Kiểm tra các đĩa cấy hàng ngày và đánh giá sự phát triển của sợi nấm từ các
miếng cấy.
2. Xác định xem có nhiều hơn một loài nấm mọc lên hay không.
3. Cấy truyền khi sợi nấm mọc được khoảng 5mm từ miếng cấy.
4. Cắt một miếng thạch nhỏ (2 × 2 mm) từ rìa mỗi tản nấm và cấy sang môi trường
PDA.



19



3.4.1.4.Phương pháp làm thuần mẫu nấm.
Sử dụng phương pháp cấy đơn bào tử bằng phương pháp pha loãng. Cấy đơn bào
tử là quá trình cấy truyền một bào tử đã nảy mầm để tạo một mẫu nấm thuần.



Sơ đồ 3 2: Quy trình cấy đơn bào tử, thao tác chọn lựa một bào tử đúng cách. (Cẩm
nang chẩn đoán bệnh cây ở Việt Nam)
3.4.2. Sơ bộ quan sát và đánh giá các chủng nấm Fusarium spp. thông qua hình thái
nấm.
3.4.2.1.Quan sát màu sắc tản nấm Fusarium spp.
Thành phần môi trường: Sử dụng môi trường PSA
Cắt miếng thạch (2 x 2 mm) chứa sợi nấm và áp lên đĩa môi trường PSA
Nuôi 12 ngày, ở 28
0
C trong điều kiện chiếu sáng
Quan sát màu sắc tản nấm ở mặt trên, mặt dưới
3.4.2.2. Quan sát tốc độ sinh trưởng của hệ sợi nấm
Môi trường nuôi cấy: Sử dụng môi trường PDA
Cắt miếng thạch (2 x 2mm) chứa sợi nấm và áp lên đĩa môi trường PDA
Nuôi ở 28
0
C
Đo tốc độ sinh trưởng của hệ sợi nấm sau 24h, 48h, 72h, 96h.
3.4.2.3. Quan sát hình thái bào tử nấm dưới kính hiển vi.
Môi trường nuôi cấy: Sử dụng môi trường PDA
Cắt miếng thạch (2 x 2mm) chứa sợi nấm và áp lên đĩa môi trường PDA
Nuôi ở 28
0

C


20

Làm tiêu bản để quan sát bào tử dưới kính hiển vi. Có thể quan sát bào tử lớn và
bào tử nhỏ sau 4 ngày nuôi cấy. Bào tử hậu có thể quan sát sau 10 ngày.
3.4.3. Phương pháp lây bệnh nhân tạo
Các bước lây bệnh nhân tạo được tiến hành theo quy tắc Koch
Tiến hành thí nghiệm bằng cách sử dụng phương pháp đưa bào tử nấm vào đất.
Chuẩn bị cây tiêu con:
Dây tiêu lươn được lấy từ vườn sạch bệnh tại Quãng Trị và được trồng vào
ngày: 20 / 9 / 2009
Chọn những dây lươn chắc mập, chiều dài lóng đồng đều. Cắt hom tiêu với độ
dài 25 – 30cm, mỗi hom có từ 2 – 3 mắt. Xử lý qua cồn 70
0
.
Hỗn hợp đất trồng tiêu được trộn theo tỷ lệ : 2 đất + 1 cát + 1 phân chuồng hoai mục +
vôi bột ( tỷ lệ : 15g vôi cho 10kg hỗn hợp trên) đảm bảo pH trung tính. Hỗn hợp đất được
phơi nắng 3 ngày để tiêu diệt nguồn bệnh trong đất.
Chuẩn bị dịch bảo tử nấm.
Chọn lọc những chủng nấm đại diện nuôi cấy trong môi truờng lỏng ½ PDA
đến khi sinh bào tử. Sau đó tiến hành thu dịch bào tử và tiến hành tưới trực tiếp vào cây
tiêu con. Mổi công thức tưới 250 ml bào tử với nồng độ 10
5
bào tử/ml.
Tiến hành lây bệnh.
Chọn 8 chủng nấm đại diện và 1 công thức đối chứng. Mổi công thức được nhắc
lại 3 lần.
3.4.4. Xử lý thống kê

Số liệu thí nghiệm là kết quả trung bình cộng của 4 lần lặp lại. Kết quả thí nghiệm
được xử lý để thu giá trị trung bình và phân tích Duncan’s test với p<0,05 bằng chương
trình SAS.










21

Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Kết quả phân lập nấm Fusarium spp. từ rễ cây hồ tiêu bị bệnh
4.1.1. Kết quả phân lập nấm Fusarium spp.
Tiến hành phân lập các chủng nấm Fusarium từ 14 vườn tiêu có triệu chứng bị
bệnh chết chậm tại Cam Chính, Cam Thành - Cam Lộ - Quảng Trị dựa vào các đặc điểm
nhận dạng hình thái thông qua màu sắc tản nấm và hình dạng các loại bào tử, đã xác định
được 22 chủng là Fusarium spp Kết quả được trình bày ở bảng 4.1.
Qua bảng 4.1, cho thấy hầu hết các mẫu rễ thu thập từ các vườn tiêu có triệu
chứng bị bệnh chết chậm đều có sự hiện diện của nấm Fusarium.spp. Riêng các chủng
nấm phân lập từ các mẫu rễ ở các vườn CC3, CC5, CC6 và CT4 không phải là nấm
Fusarium spp. dựa trên các đặc điểm hình thái (hình dạng, kích thước bào tử lớn, bào tử
nhỏ). Điều này cho thấy không chỉ có nấm Fusarium spp. trên mẫu rễ mà còn có sự hiện
diện của rất nhiều loài nấm khác. Các nấm này có thể là Rhizoctonia, Pythium,
Sclerotium, Phytophthora…[9], chúng cùng với Fusarium spp. xâm nhập vào các tế bào

ngoài của vỏ rễ mà các tế bào này có thể bị tổn thương do tuyến trùng ký sinh trước đó
[10]. Có thể vì nguyên nhân đó nên không thu được Fusarium spp. trong những lần phân
lập đầu tiên.
Mặt khác, khi phan lập trên môi trường PPA mô có bổ sung thêm chất kháng sinh
để ức chế hầu hết các vi khuẩn, cho phép Fusarium mọc chậm, tạo thành các tản nấm nhỏ
đường kính 5 - 10 mm sau 5 - 7 ngày. Tuy nhiên một số loài vi khuẩn và loài nấm có khả
năng phát triển cạnh tranh với Fusarium spp. trên môi trường phân lập, khiến Fusarium
spp. vốn mọc chậm trên môi trường PPA bị các loài này lấn át nên không biểu hiện sự có
mặt của chúng. Từ đó có thể giải thích tại sao các mẫu rễ thu thập từ các vườn tiêu có
triệu chứng bị bệnh chết chậm (CC3, CC5, CC6, CT4) phân lập được không thành công
Fusarium spp.







22

Bảng 4.1. Số chủng Fusarium phân lập từ các mẫu rễ tiêu bị bệnh chết chậm ở Cam
Lộ - Quảng Trị
STT
Địa điểm lấy mẫu
Số mẫu lấy
Số chủng Fusarium phân lập
được
Ký hiệu chủng
1
CC1

6
3
CC1.1
CC1.2
CC1.3
2
CC2
2
1
CC2.4
3
CC3
2
0

4
CC4
2
2
CC4.5
CC4.6
5
CC5
2
0

6
CC6
2
0


7
CT1
9
6
CT1.7
CT1.8
CT1.9
CT1.10
CT1.11
CT1.12
8
CT2
2
1
CT2.13
9
CT3
2
1
CT3.14
10
CT4
2
0

11
CT5
6
4

CT5.15
CT5.16
CT5.17
CT5.18
12
CT6
2
2
CT6.19
CT6.20
13
CT7
3
1
CT7.21
14
CT8
2
1
CT8.22
Tổng cộng
22



23


Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, sự phân bố nấm Fusarium spp. tập trung nhiều
ở Cam Thành (Cam Thành phân lập được 16 chủng, Cam Chính phân lập được 6 chủng).

Trong đó nhiều nhất là CT1, CT5 và CC1. Những vườn này phân lập được nhiều chủng
Fusarium do nhiều nguyên nhân như thành phần cơ giới đất nặng ; độ pH đất thấp, mật
độ tuyến trùng, mối và rệp sáp hại rễ có thể cao hơn cao hơn những vườn khác. Ngoài ra,
qua đánh giá chung của chúng tôi thì những hộ nông dân ở Cam Thành có chế độ chăm
sóc cây tiêu chưa hợp lý như bón quá nhiều phân hóa học không bổ xung phân xanh hay
phân chuồng, một số hộ hầu như không quan tâm chăm sóc, có một số vườn bón quá sát
gốc làm đứt nhiều rễ dẫn đến hậu quả cây sinh trưởng yếu, tạo điều kiện cho Fusarium
spp. xâm nhiễm dễ dàng.
Ngày lấy mẫu rễ củng ảnh hưởng nhiều đến số chủng Fusarium phân lập được.
Phần lớn các chủng Fusarium phân lập từ mẫu rễ lấy ngày 20/01/2010 (15 chủng). Có thể
là do thời điểm lấy mẫu rễ là khoảng thời gian này có nhiều đợt mưa gây nên tình trạng ứ
nước tạm thời, làm cho hoạt động sinh lý của cây bị thay đổi đột ngột, cây bị suy yếu tạo
điều kiện cho các chủng Fusarium xâm nhiễm dễ dàng và sinh trưởng mạnh trong rễ cây.
4.1.2. Làm thuần mẫu nấm bằng cấy đơn bào tử


Hình 4.1. Làm thuần bằng pha loãng và cấy đơn bào tử
Các rễ con mảnh, nhỏ, và các rễ phụ làm nhiệm vụ hấp thụ dinh dưỡng cho sự phát
triển của cây và quan trọng cho sức khỏe của cây. Các tác nhân gây bệnh trong đất
thường gây bệnh ở những bộ phận này.
Trên mẫu rễ phân lập không chỉ có 1 chủng nấm Fusarium mà có thể có sự hiện
diện của một số chủng khác nên việc phân lập Fusarium bằng phương pháp pha loãng và
cấy đơn bào tử nhằm mục đích chọn được 1 chủng duy nhất trên mẫu. Kết quả đã làm


24

thuần được 22 chủng Fusarium phân lập từ các mẫu rễ tiêu bị bệnh chết chậm ở Cam Lộ
- Quảng Trị.
4.2. Đặc điểm hình thái các chủng nấm Fusarium spp. phân lập được

4.2.1. Đặc điểm hình thái nấm Fusarium spp.
Sau khi phân lập thành công 22 chủng nấm Fusarium, tiến hành kiểm tra sự hình
thành bảo từ của từng chủng. Tiếp tục quan sát dưới kính hiển vi để xem hình thái của
chúng, những hình ảnh về bảo tử nhỏ, bào tử lớn cũng như bào tử hậu được thấy rõ qua
hình 4.2


























25

Bảng 4.2. Sự hình thành bào tử nấm Fusarium spp. phân lập được tại Cam Lộ -
Quảng Trị
Nhóm
Phân nhóm
Kí hiệu chủng
Bào tử lớn
Bào tử nhỏ
Bào tử hậu
+/-
số vách ngăn
+/-
số vách ngăn
I

CT5.15
+
2 - 3
+
0 - 1
+
CT5.16
+
3
+
0 - 1
+
II
A

CT2.13
+
3 – 4
+
0 – 2
-
B
CT3.14
+
4 - 5
+
0 - 3
+
III
A
CC1.3
+
1 - 2
+
0
+
CC2.4
-
-
+
0
+
B
CT1.7
-

-
+
0
+
IV
A
CT5.18
+
3
+
1
+
CT6.20
+
2
-
-
+
B
CT1.10
+
3 - 5
+
2 - 3
+
V

CC1.2
+
2 -4

+
0 - 1
-
VI

CC1.1
+
2 - 4
+
0 - 1
+
CC4.6
+
4 - 5
+
0 - 3
-
VII
A
CT1.9
+
3 - 4
+
0 - 2
+
CT1.11
+
2 - 4
+
0 - 1

-
CT7.21
+
2 - 3
+
0 - 1
-
B
CT1.8
+
2 - 4
+
0 - 1
-
CT6.19
+
2 -3
+
0 - 1
-
CT8.22
+
2 - 3
+
0 - 1
+
C
CT5.17
+
1 - 4

+
0 - 1
+
CC4.5
+
2 - 4
+
0 - 1
-
VIII

CT1.12
+
3 -5
+
1 - 2
-
Ghi chú: +: có bào tử
- : không có bào tử



×