MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU 1
1.2Cơ sở hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN 2
1.3 Mục tiêu của Cộng đồng kinh tế ASEAN 3
2. Liên minh kinh tế - tiền tệ Châu Âu (EMU) 3
II. So sánh mô hình liên kết của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và liên minh
kinh tế tiền tệ châu Âu (EMU) 5
1.Cấu trúc nội dung 5
2.Cấp độ liên kết 9
3.Triển vọng đến năm 2015 10
C. KẾT BÀI 14
A. MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, khi môi trường cạnh tranh kinh tế ngày
càng cao thì vấn đề liên kết về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng được chú trọng
hơn. Cộng đồng kinh tế ASEAN ( AEC ) và liên minh kinh tế - tiền tệ Châu Âu
(EMU) đều là hai tổ chức quốc tế liên minh về kinh tế. Đều là hai cộng đồng có
chung mục tiêu là liên kết kinh tế, tuy nhiên mô hình liên kết của Cộng đồng kinh
tế ASEAN và liên minh kinh tế-tiền tệ Châu Âu lại có những điểm giống và khác
nhau về cấu trúc nội dung, cấp độ liên kết cũng như triển vọng đến năm 2015. Để
phần nào hiểu rõ hơn về vấn đề này nhóm xin đi phân tích sâu hơn đề tài: So sánh
mô hình liên kết của Cộng đồng kinh tế ASEAN ( AEC) và liên minh kinh tế - tiền
tệ Châu Âu ( EMU ) dưới các góc độ:
1. Cấu trúc nội dung.
2. Cấp độ liên kết.
3. Triển vọng đến năm 2015
1
Trong quá trình tìm hiểu đề tài, bài làm của nhóm còn nhiều thiếu xót mong
thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để bài làm của nhóm được hoàn thiện hơn!!
B. NỘI DUNG
I. Khái quát về cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và liên minh kinh tế-tiền tệ
châu Âu ( EMU ).
1. Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
I.1. Khái niệm:
Cộng đồng kinh tế ASEAN được hình thành ý tưởng lần đầu tiên tại Hội nghị
cấp cao ASEAN 8 vào tháng 11 năm 2002. AEC là một trong ba trụ cột chính của
công đồng ASEAN.
Khái niệm “Cộng đồng kinh tế ASEAN” được hình thành và hoàn thiện qua
các văn bản pháp lý bao gồm: tuyên bố về Tầm nhìn ASEAN 2020, Tuyên bố hòa
hợp ASEAN II, Hiến chương ASEAN (mục 5,6 Điều 1 Hiến chương), Kế hoạch
tổng thế xây dựng AEC và Lộ trình chiến lược xây dựng AEC. Trong đó đặc biệt
phải nhắc tới Tuyên bố hòa hợp ASEAN II (Tuyên bố Bali II): Cùng với việc quy
định thành lập Công đồng kinh tế ASEAN thì đây là văn bản pháp lí đầu tiên của
ASEAN chính thức đưa ra khái niệm “Cộng đồng kinh tế ASEAN” và định dạng
về mô hình của nó. Theo đó, AEC là hình thức liên kết kinh tế tiếp nối cao hơn các
chương trình hợp tác toàn diện có của ASEAN. Theo đó, định dạng của AEC sẽ
bao gồm 1) Thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất; 2) khu vực kinh tế cạnh tranh;
3) khu vực phát triển kinh tế đồng đều; 4) khu vực hội nhập hoàn toàn vào nền
kinh tế toàn cầu.
Như vậy, qua các văn bản pháp lí của ASEAN, có thể hiểu Cộng đồng kinh
tế ASEAN là liên kết kinh tế của ASEAN, hình thành trên cơ sở hệ thống thể chế và
thiết chế pháp lí, nhằm xây dựng ASEAN trở thành một thị trường và cơ sở sản
xuất thống, có tính cạnh tranh cao, phát triển đồng đều giữa các nền kinh tế thành
viên và hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu.
1.2Cơ sở hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN.
AEC được hình thành cơ sở là tiền đề kinh tế và dựa trên bối cảnh quốc tế.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển ASEAN thì kinh tế là một tiền đề
quan trọng để hình AEC, vấn đề liên kết kinh tế cũng là một trong những mục tiêu
hàng đầu của cộng đồng ASEAN. Ngoài ra thì bối cảnh quốc tế cũng là cơ sở để
2
hình thành AEC, trong bối cảnh thế giới khi mà xu thế toàn cầu hóa và sự chuyển
dịch sang nền kinh tế tri thức của kinh tế thế giới; tiến trình hợp tác kinh tế ở Đông
Á và Châu Á Thái Bình Dương; xu hướng bùng nổ của các hiệp định tự do cùng
với sức ép của nền kinh tế Trung Quốc đã phần nào thúc đẩy việc hình thành cộng
đồng kinh tế ASEAN.
1.3 Mục tiêu của Cộng đồng kinh tế ASEAN.
AEC được thành lập cùng với Cộng đồng chính trị-an ninh và Cộng đồng
văn hóa-xã hội. Việc xây dựng thành công mỗi cộng đồng là điều kiện quan trong
cho viêc xây dựng thành công cộng đồng khác. Vì vậy AEC, không những chỉ có
các mục tiêu kinh tế cụ thể mà còn mang các mục tiêu chính trị với tính chất “một
quyết tâm chính trị cả gói trong Cộng đồng ASEAN”. Mục tiêu tổng thể của AEC
là tạo ra “một khu vực kinh tế ASEAN phát triển ổn định, thịnh vượng, đồng đều,
có tính cạnh tranh cao và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu”.
2. Liên minh kinh tế - tiền tệ Châu Âu (EMU).
2.1 Khái niệm.
Liên minh kinh tế tiền tệ châu Âu (EMU) là sản phẩm trực tiếp của hiệp ước
Maastrich ký ngày 7-2-1992, giai đoạn mới của tiến trình liên kết châu Âu. Liên
minh kinh tế - tiền tệ Châu Âu là một trong ba nội dung chính của Hiệp ước
Maastricht -một trong ba trụ cột chính của Liên minh châu Âu (EU). Trong số các
mục đích mà hiệp ước đưa ra là Thành lập liên minh kinh tế và tiền tệ vào
cuối thập niên 1990, với một đơn vị tiền tệ chung và một ngân hàng trung ương
độc lập.
Liên minh kinh tế - tiền tệ Châu Âu là liên kết kinh tế và tiền tệ của các quốc
gia thành viên của EU mà trong đó xác lập một thị trường với sự dịch chuyển tự do
của các yếu tố hàng hoá, vốn dịch vụ, lao động, đồng thời thống nhất các chính
sách tài chính và tiền tệ và chính sách kinh tế xã hội của họ.
2.2. Cơ sở hình thành.
3
Trước đó quá trình liên kết kinh tế tiền tệ của EU trải qua rất nhiều khó khăn
và trở ngại. Hệ thống tiền tệ châu Âu bộc lộ những hạn chế trong lúc cục diện thế
giới 2 cực đã chấm dứt, vấn đề chính trị đã gác lại, các thế lực đều dồn sức chuẩn
bị lực lượng để giành địa vị tối ưu trong tương lai, chủ yếu là chạy đua xây dựng
củng cố thế lực và kinh tế, cục diện 2 cực chấm dứt, những trật tự mới đang dần
hình thành xu hướng hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ hình thành
các khu vực kinh tế. Trong bối cảnh đó, Cộng đồng châu Âu tuy đã đạt được
những thành tựu nhất định trong quá trình liên kết, song hầu hết các mặt Cộng
đồng châu Âu còn thua kém Mỹ, Nhật. Trong cuộc cạnh tranh quyết liệt với các
trung tâm, khu vực kinh tế trong giai đoạn mới. Trước hết các nước châu Âu phải
thống nhất chặt chẽ hơn để tạo ra một sức mạnh tổng hợp, đáp ứng những cơ hội
và thách thức mới. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế thế giới và nhất thể hóa kinh tế khu
vực Trước tình hình đó, vào năm 1989 báo của J.Delors - Chủ tịch uỷ ban châu Âu
lúc đó đã ra đời, và vạch ra những điều kiện và chương trình cụ thể của một liên
minh kinh tế - tiền tệ. Hiệp ước Maastricht ra đời chính thức hoá dự án về đồng
tiền chung. Khẳng định quá trình xây dựng liên minh kinh tế - tiền tệ (EMU) gồm
3 giai đoạn chính. Và đến giai đoạn 3 là từ 1-1-1999 đến 30-6-2002 với nội dung
cho ra đời đồng EURO, công bố tỷ giá chuyển đổi chính thức giữa đồng EURO và
các đồng tiền quốc gia. Ngân hàng ECB chính thức vận hành và chịu trách nhiệm
điều hành chính sách tiền tệ của liên minh.
2.3. Mục tiêu.
Liên minh kinh tế-tiền tệ châu Âu xây dựng với mục tiêu thống nhất xây
dựng một chính sách tiền tệ chung, phát hành đồng tiền chung để thị trường chung
châu Âu thực sự thống nhất, đồng thời tạo thế đối trọng về tài chính với các khu
vực khác chủ yếu là Nhật, Mỹ từ việc thống nhất tiền tệ.
4
II. So sánh mô hình liên kết của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và liên
minh kinh tế tiền tệ châu Âu (EMU).
1. Cấu trúc nội dung.
Cấu trúc nội dung của AEC: Theo các văn bản pháp lý của ASEAN, trong Hiến
chương ASEAN tại khoản 5, khoản 6 Điều 1 Hiến chương ASEAN quy định
“5. Xây dựng một thị trường và cơ sở sản xuất duy nhất với sự ổn định, thịnh
vượng, khả năng cạnh tranh và liên kết kinh tế cao, tạo thuận lợi cho thương mại
và đầu tư, bao gồm sự chu chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ và dòng đầu tư; di
chuyển thuận lợi các doanh nhân, những người có chuyên môn cao, những người
có tài năng và lực lượng lao động, và sự chu chuyển tự do hơn các dòng vốn;
6. Giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN thông qua
hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau;”
Đồng thời tại kế hoạch tổng thể xây dựng ASEAN cũng quy định cấu trúc nội
dung của ASEAN gồm có 4 nội dung cơ bản sau:
• Thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất:
Một thị trường và cơ sở sản xuất của ASEAN bao gồm 5 yếu tố cốt lõi: Tự do
thương mại hàng hóa; tự do thương mại dịch vụ; tự do đầu tư; tự do dòng vốn và tự
do di chuyển lao động lành nghề. Ngoài ra thị trường và cơ sở sản xuất cũng bao
gồm 2 thành phần quan trọng là: Các lĩnh vực hội nhập ưu tiên; thực phẩm, nông
nghiệp và lâm nghiệp.
Dưới góc độ tiêu dùng, AEC sẽ là một thị trường thống nhất. Thông qua tự do
hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ, người tiêu dùng sẽ được tự do lựa chọn các
loại hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong khu vực cũng như sản xuất trong
nước mình. Dưới góc độ sản xuất AEC là một cơ sở sản xuất đơn nhất, thông qua
việc tự do di chuyển các yếu tố sản xuất vốn và người lao động, ASEAN sẽ là một
khu vực sản xuất thống nhất đối với các nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa và dich
vụ.
5
Để trở thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất thì ASEAN đã tiến
hành một số hoạt động như tự do hóa thuế quan, các biện pháp phi thuế quan, tự do
hóa thương mại dịch vụ, tự do hóa đầu tư, tự do hóa dòng vốn, tự do di chuyển lao
động ngành nghề, đẩy mạnh hợp tác, chuyển giao công nghệ, xây dựng các phương
pháp tiếp cận chung về lương thực, nông lâm nghiệp cho các nước thành viên và
với các nước khác…
• Khu vực kinh tế cạnh tranh cao:
Xây dựng ASEAN thành một khu vực kinh tế có khả năng cạnh tranh cao là nhu
cầu bức thiết trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt, đồng thời việc xây dựng
ASEAN thành khu vực kinh tế cạnh tranh cao là một hệ quả của nội dung “ một thị
trường và cơ sở sản xuất thống nhất”
Có 6 yếu tố chủ yếu trong khu vực kinh tế cạnh tranh của ASEAN: Chính
sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ
tầng, thuế và thương mại điện tử.
•Một khu vực phát triển kinh tế đồng đều: Phát triển khu vực kinh tế đồng đều
của AEC tập trung vào 2 nội dung chính: phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
(SME) và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các quốc gia thành viên. Bởi
ASEAN bao gồm các quốc gia thành viên có sự chênh lệch về điều kiện kinh tế là
rất lớn do vậy mục tiêu của việc phát triển kinh tế là phải thu hẹp khoảng cách giữa
các quốc gia thành viên.
• Một khu vực hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu: trong bối cảnh
thế giới hiện nay để ASEAN có thể cạnh tranh với các quốc gia trên thế giới thì
ASEAN phải trở thành một khu vực năng động,và mạnh mẽ thu hút đầu tư của
nước ngoài. Để làm được điều đó, cần phải tiếp cận thống nhất đối với các quan hệ
kinh tế đối ngoại; tăng cường sự tham gia của ASEAN vào mạng lưới cung ứng
toàn cầu.
Cấu trúc nội dung của liên minh kinh tế - tiền tệ châu Âu:
6
Một thị trường chung thống nhất trên cơ sở các chính sách tiền tệ chung và
phát hành đồng tiền chung. Ngoài ra, còn thống nhất trên các mặt về thuế quan,
vốn và lao động nhưng không phải là chủ yếu.
Một khu vực có sự đối trọng về tài chính với các khu vực khác, chủ yếu là Mỹ
từ việc thống nhất tiền tệ.
Nội dung chủ yếu và quan trọng nhất của cấu trúc liên minh kinh tế - tiền tệ là
việc cho thống nhất cho ra đời một đồng tiền chung thống nhất trong toàn khối.
bên cạnh việc lưu thông đồng tiền chung thì còn có cả nội dung đưa ra các chính
sách tiền tệ thống nhất.
Việc thống nhất tiền tệ được thực hiện thông qua ngân hàng trung ương là bộ
máy điều hành thống nhất tiền tệ. Mục tiêu của chính sách tiền tệ thống nhất được
xác định rõ ràng là ổn định giá cả, thúc đẩy việc phát triển kinh tế của cả khối.
Các nhà hoạch định chính sách kinh tế của EU cũng đưa ra những cơ chế pháp
lý khá rõ ràng quy định về việc thực thi chính sách tiền tệ chung thống nhất như
một số cơ chế về thanh toán, cơ chế giám sát tài chính công…tạo ra một thị trường
chung giữa các nền kinh tế (không còn hàng rào kinh tế nào nữa) với một đơn vị
tiền tệ chung. Ví dụ rõ nhất về cấp độ liên minh này là Khu vực đồng Euro. Với
một đơn vị tiền tệ chung, các nước thành viên sẽ phải từ bỏ quyền thực thi chính
sách tiền tệ riêng của mình, mà thay vào đó là một chính sách tiền tệ chung của
toàn khối do một ngân hàng trung ương chung của khối đó thực hiện, như trường
hợp của Ngân hàng Trung ương Châu Âu. Khi mà ngay cả chính sách tài chính
cũng được thực hiện chung, hội nhập kinh tế đạt đến độ hoàn toàn.
Như vậy, từ những phân tích ở trên ta có thể đưa ra một số điểm giống
nhau và khác nhau giữa AEC và EMU như sau:
a) Giống nhau: Cộng đồng kinh tế ASEAN và liên minh kinh tế - tiền tệ
Châu Âu đều đưa ra các nội dung tạo nên sự liên kết, chung và thống nhất về kinh
tế trong các nước thành viên ASEAN và các nước thành viên EMU, hướng tới thì
mục tiêu chung hình thành lên một khu vực có khả năng cạnh tranh cao về kinh tế
trên thế giới.
7
b) Khác nhau:
Đối với cộng đồng kinh tế ASEAN thì ngoài việc tạo ra một thị trường thống
nhất và có tính cạnh tranh cao thì cấu trúc nội dung của cộng đồng kinh tế ASEAN
còn rất chú trọng tới việc phát triển kinh tế khu vực đồng đều, cùng với đó là hội
nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu. Bởi lẽ ASEAN các quốc gia thành viên
vẫn có sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển kinh tế. Bên cạnh đó thì nhìn chung
ASEAN không phải là một tổ chức có tiềm lực kinh tế mạnh do vậy mà vấn đề hòa
nhập hoàn toàn vào toàn cầu được đặt ra. Trong khi đó, liên minh kinh tế - tiền tệ
Châu Âu thì lại khác, xuất phát từ một xuất phát điểm tương đối cao giữa các thành
viên trong khối, kinh tế có sự đồng đều giữa các nước thành viên do vậy mà đối
với EMU thì nội dung phát triển kinh tế khu vực đồng đều không được đề cập tới,
bởi khi các nước thành viên tham gia vào khối cần đáp ứng các tiêu chuẩn về kinh
tế. EMU chỉ chú trọng tới tới việc phát hành đồng tiền chung cũng như các chính
sách tiền tệ nhằm đưa khối phát triển kinh tế lên một tầm cao mới có đủ khả năng
đối trọng với các khu vực khác chứ không phải như AEC là sự hội nhập hoàn toàn
vào nền kinh tế toàn cầu.
Cả liên minh kinh tế - tiền tệ châu Âu và Cộng đồng kinh tế ASEAN đều có
mục tiêu chung là tạo ra một thị trường thống nhất và một khu vực có tính cạnh
tranh cao nhưng cách thức thực hiện để đạt được mục tiêu này lại khác nhau. Đối
với AEC thì thực hiện thông qua việc thống nhất các chính sách về thuế quan, mở
rộng thị trường, hợp tác phát triển,…từ đó tạo được sức mạnh chung của khu vực
còn EMU lại hướng đến việc tạo ra một đồng tiền chung – đồng tiền mà các nước
trong khu vực (có thể cả ngoài khu vực) sử dụng thống nhất để từ đó xóa bỏ tất cả
các hàng rào kinh tế.
Đối với cộng đồng kinh tế ASEAN do chưa đạt được tới việc lưu hành được
đồng tiền chung do đó chưa xây dựng một hệ thống ngân hàng trung ương để lưa
hành cũng như kiểm soát đồng tiền chung, trong khi đó thì EMU do đã lưu hành
đồng tiền chung EURO từ đó xây dựng hệ thống ngân hàng trung ương- thống nhất
tiền tệ.
8
Từ những khác biệt giữa AEC và EMU ta có thể thấy, đối với AEC thì nội
dung của cộng đồng kinh tế được thể hiện ở hầu hết các phương diện kinh tế tuy
nhiên đối với EMU lại khác, EMU chú trọng tới việc nhất thể hóa đồng tiền chung
trong khối.
2. Cấp độ liên kết.
AEC có cấp độ liên kết là FTA+/CM- có sự tự do hóa trong thương mại hàng
hóa, tự do đầu tư và tự do lao động, tự do hóa dịch vụ, bỏ qua biểu thuế quan
chung. Còn liên minh kinh tế-tiền tệ châu Âu thì có cấp độ liên kết là EMU là
chính sách tiền tệ chung, phối hợp chính sách kinh tế chung, tự do đầu tư, tự do lao
động, có sự thống nhất biểu thuế xuất nhập khẩu hàng hóa qua lại giữa các thành
viên và thống nhất biểu thuế quan chung đối với hàng hóa bên ngoài, tự do thương
mại hàng hóa, tự do dịch vụ, đặc biệt là có đồng tiền chung EURO.
Có thể thấy khác biệt lớn nhất giữa cộng đồng kinh tế ASEAN và liên minh
kinh tế - tiền tệ châu Âu có đó là: đối với cộng đồng kinh tế ASEAN thì cấp độ
liên kết của AEC vẫn chưa đạt tới cấp độ cao nhất của liên kết kinh tế khu vực đó
là liên minh về tiền tệ - chính là việc lưu hành đồng tiền chung trong khối, tuy
nhiên đối với liên minh kinh tế-tiền tệ châu Âu thì đã đạt đến hình thức liên kết này
khi mà cho ra đời đồng tiền chung EURO vào ngày 1/1/2002 sử dụng cho toàn
khối EMU.
Đối với liên minh kinh tế - tiền tệ châu Âu, việc ban hành và cho lưu thông
đồng tiền chung trong khối liên minh châu Âu tạo điều kiện cho các nước sẽ sử
dụng đồng tiền chung loại bỏ được nhiều rủi ro về tiền tệ cũng tháo rỡ mọi rào cản
về kinh tế giữa các nước trong khối. Trong khi đó, AEC với mục tiêu trở thành
“một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất ” chỉ đáp ứng được hai yếu tố là sự tự
do hoá thương mại và tự do di chuyển yếu tố sản xuất.
AEC không thuộc bất kì hình thức hội nhập kinh tế khu vực nào. Sự liên kết
của AEC cao hơn một FTA nhưng chưa thể là một CM. Như vậy theo quan điểm
phổ biến có thể coi AEC là một thị trường chung trừ (CM- trừ đi hai yếu tố thuế
quan chung và hài hoà chính sách kinh tế) hay là một FTA+ (cộng thêm tự do di
9
chuyển các yếu sản xuất). Có thể thấy so với Liên minh kinh tế - tiền tệ của EU
hiện nay (EMU) thì mức độ liên kết kinh tế của Asean còn thấp hơn rất nhiều.
Sự khác biệt khác có thể thấy giữa AEC và EMU là mức độ liên kết nội
Khối của ASEAN thấp hơn rất nhiều so với sự liên kết nội Khối của EMU. Tuy có
sự liên kết kinh tế theo hướng ngày càng chặt chẽ hơn, nhưng quan hệ nội Khối
vẫn còn hạn chế. Trong nhiều năm nay, buôn bán nội Khối của ASEAN vẫn chỉ
dừng lại ở mức trên 20%, các nước thành viên của ASEAN chủ yếu buôn bán với
bên ngoài, không phải buôn bán nội Khối, thu hút đầu tư cũng từ bên ngoài. Trái
lại, ở các nước EU, buôn bán nội Khối là chủ yếu lên đến 50%, có những nước
thành viên con số này lên đến 80%.
Có thể thấy tầm cao hơn và sâu hơn trong liên kết kinh tế của EU là hiển
nhiên, bởi 27 nước thành viên của EU là 27 nền kinh tế phát triển ràng buộc với
nhau với nền kinh tế thế giới bằng những quan hệ thị trường.
Cộng đồng kinh tế ASEAN là nền kinh tế “cộng” của các quốc gia thành
viên chứ không phải một thực thể kinh tế đơn nhất giống như liên minh kinh tế -
tiền tệ châu Âu. Trong cộng đồng kinh tế ASEAN thì các quốc gia tập hợp lại với
nhau nhưng lại không hợp định chính sách kinh tế chung mà có biểu thuế quan
riêng và chính sách kinh tế riêng, các quốc gia có nền kinh tế riêng biệt tách rời với
nhau. Còn liên minh kinh tế tiền tệ châu Âu các quốc gia liên kết ở mức độ cao
giống như nền kinh tế của một quốc gia.
Như vậy, so sánh về cấp độ liên kết giữa liên minh kinh tế- tiền tệ Châu âu
EMU với cộng đồng kinh tế ASEAN thì ta thấy rõ liên minh kinh tế- tiền tệ Châu
Âu đã đạt tới cấp độ liên kết cao nhất đó là việc sử dụng đồng tiền chung và chính
sách tiền tệ chung- cấp độ liên kết cao hơn nhiều so với cộng đồng kinh tế AEC.
3.Triển vọng đến năm 2015.
Trong thời gian tới cộng đồng kinh tế ASEAN vẫn tiếp tục thực hiện với
những mục tiêu của mình đề ra đó là xây dựng một cộng đồng kinh tế Với số dân
600 triệu người, GDP 2.178 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 2.389 tỷ USD
và đầu tư FDI vào khu vực đạt 114 tỷ USD, ASEAN là một thị trường lớn và giàu
10
tiềm năng. Đến nay, ASEAN đã hoàn thành 74,5% mục tiêu của lộ trình tổng thể
xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) với mốc hình thành vào năm 2015.
AEC sẽ hội nhập như kế hoạch đặt ra là trở thành một khu vực thương mại tự do
(FTA) vào năm 2015. AEC cũng có thể tiến hơn nữa là đạt được tự do hoàn toàn
trong di chuyển hàng hóa, dịch vụ, vốn lao động.
Xây dựng AEC đã thể hiện quyết tâm, nỗ lực của ASEAN trong việc thực
hiện mục tiêu hội nhập kinh tế của khu vực. Tuy nhiên, để thực hiện quyết tâm
này, các nước ASEAN đang đối mặt với không ít thách thức, khó khăn. Đó là sự
phát triển không đồng đều giữa các nước trong khu vực.
Trong bối cảnh này, Sáng kiến hội nhập kinh tế ASEAN (IAI) - một sáng kiến
hợp tác khu vực - đã tập trung tăng cường phát triển kinh tế-xã hội thông qua các
chiến lược thúc đẩy phát triển cân bằng, giảm nghèo và khắc phục sự chênh lệch
trong phát triển.
Với những kết quả đạt được và nỗ lực hôm nay của các nước ASEAN, Cộng
đồng kinh tế ASEAN với thái độ là một FTA+ sẽ được hoàn thành vào năm 2015
và có thể còn tiến xa hơn nữa. Bởi vì các nhân tố khách quan cũng như chủ quan
đều ủng hộ cho hướng phát triển này, vì suy cho cùng sự hợp tác cho FTA trước
đây vẫn còn khá hẹp thì trong tương lai sự phát triển này sẽ được mở rộng và hoàn
thiện hơn. Tuy nhiên với xu thế hợp tác Đông Á đang diễn ra mạnh mẽ như hiện
nay, một khu vực thương mại tự do toàn Đông Á hoặc hơn nữa là một cộng đồng
kinh tế Đông Á có khả năng hình thành trong nay mai. Vì thế AEC sẽ buộc phảo
phát triển liên minh thuế quan và thị trường chung để không hòa bị tan song lộ
trình như thế nào và thời điểm nào mới chính là bài toán đặt ra cho chính AEC.
Có thể thấy, hiện nay các nước ASEAN đang vận động theo hướng quan tâm
nhiều hơn đến vấn đề phát triển bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển, tạo cơ
hội tốt hơn cho khu vực kém cạnh tranh, kém điều kiện hơn; huy động sự tham gia,
ủng hộ, đồng thuận của Cộng đồng, đặc biệt là doanh nghiệp trong quá trình thực
hiện Lộ trình hội nhập AEC.
11
Bên cạnh đó thì liên minh kinh tế châu Âu đang trong tình trạng khó khăn EU
đang phải đối mặt với những thách thức, do đó EMU cần được củng cố để đảm
bảo ổn định về kinh tế, xã hội và duy trì thịnh vượng. Tiến trình này sẽ được bắt
đầu bằng việc củng cố quyền điều hành, thực thi cơ chế giám sát chung về những
nguyên tắc mới về phục hồi, giải quyết và bảo đảm tiền gửi. Trong năm 2013, Ủy
ban châu Âu (EC) cần đưa ra đề xuất về cơ chế giải quyết chung cho tất cả các
nước thành viên tham gia hệ thống giám sát ngân hàng. EC cũng phải đưa ra một
thời gian biểu để đạt được thỏa thuận nhằm chứng tỏ rằng các nghị sỹ châu Âu và
các nước thành viên nỗ lực xử lý vấn đề này. Tuy nhiên các nhà lãnh đạo EU cũng
thừa nhận rằng vẫn còn những khó khăn to lớn ở phía trước trong quá trình thiết
lập Liên minh ngân hàng. Các nhà lãnh đạo EU cho biết còn một loạt vấn đè quan
trọng khác cũng sẽ được xem xét từ nay đến tháng 6/2013, chẳng hạn như sự phối
hợp cải cách của các quốc gia, khía cạnh xã hội của EMU, cơ chế đoàn kết và các
biện pháp củng cố thị trường chung. Các nhà lãnh đạo EU cũng nói rõ sẽ tiếp tục
chú trọng giải quyết tình trạng thất nghiệp và những hậu quả của cuộc khủng
hoảng nợ, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng và tính cạnh trang của liên minh.
Như vậy có thể thấy nếu như cộng đồng kinh tế ASEAN đang có triển vọng
cũng như mục tiêu phấn đấu đến năm 2015 trở thành một FTA+ xóa bỏ thuế quan
đối với hầu hết các loại hàng hóa và hạn chế phi thuế quan đối với thương mại
hàng hóa qua lại giữa các nước này nhưng vẫn giữ nguyên thuế quan đối với các
nước khác. Trong khi đó thì vấn đề của EMU hiện nay lại là củng cố cũng như tìm
ra những chính sách cho đồng tiền chung EURO có thể phát huy hết các lợi thế của
mình để đưa EU thoát khỏi tình trạng khủng hoảng nợ của một số nước thành viên
tác động lớn đến liên minh châu Âu.
Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về mô hình liên kết của AEC và EMU
Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về cấp độ liên kết, cấu trúc nội dung cũng
như triển vọng giữa cộng đồng kinh tế ASEAN và Liên minh kinh tế tiền tệ châu
Âu xuất phát từ sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, về chế độ chính trị ở các
nước thành viên giữa hai khu vực. Ở Liên minh kinh tế - tiền tệ châu Âu, trước khi
được phép gia nhập Liên minh châu Âu, một nước phải hoàn tất các điều kiện
12
chính trị và kinh tế, từ đó, có thể thấy, trình độ phát triển của các nước này là
tương đối đồng đều, chế độ chính trị tương đồng trong khi đó việc gia nhập
ASEAN lại tương đối dễ dàng, điều kiện về các nước thành viên khi tham gia
không đòi hỏi điều kiện về kinh tế chính vì vậy ở các nước Đông Nam Á có sự
chênh lệch về kinh tế cũng như sự khác biệt về chế độ chính trị khá rõ ràng: có
những quốc gia rất phát triển như Singapore, Brunay…, nhưng cũng có những
nước nghèo như Lào, Campuchia … điều kiện kinh tế còn rất thấp, thêm vào đó,
trong khu vực còn tồn tại những chế độ chính trị khác nhau như xã hội chủ nghĩa
và tư bản chủ nghĩa. Chính những nguyên nhân đó đã tạo nên sự khác biệt lớn giữa
hai khu vực. Ngoài ra, thời gian hình thành và phát triển cũng góp phần tạo thêm
sự khác biệt này.
Ngoài ra thì AEC là một cộng đồng kinh tế mở và các nước thành viên AEC
cò phụ thuộc nhiều vào thị trường xuất khẩu, vốn và công nghệ ở bên ngoài. CÒn
EU vẫn luôn là một trong những trung tâm kinh tế, khoa học kĩ thuật lớn nhất thế
giới do đó mô hình liên kết kinh tế- tiền tệ trong EU cao và sâu hơn so với AEC là
điều dễ hiểu. EU có 4 thành viên thuộc nhóm G8, có thị trường rộng lớn…Sự hội
nhập kinh tế của châu Âu ở 4 chính sách chung là chính sách thương mại chung,
chính sách ngu nghiệp chung, chính sách giao thông vận tải chung và chính sách
nông nghiệp chung. Trong khi cộng đồng kinh tế ASEAN thì các nước thành viên
nhìn chung thì tiềm lực kinh tế còn thấp.
Thực tế liên minh châu Âu đã có thị trường chung về hàng hoá và dịch vụ, đã
có sự liên kết, hợp tác trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Song để thị trường chung
thực sự trở nên thống nhất thì các rào cản tiền tệ phải được loại bỏ hoàn toàn. Điều
này chỉ có được khi có duy nhất một đồng tiền chung được lưu hành và được điều
hành thống nhất bằng một chính sách tiền tệ chung. Chính vì vậy mà liên minh tiền
tệ châu Âu (EMU) được ra đời mà nội dung chính của nó là cho ra đời và vận hành
đồng tiền chung trong toàn khối. Trong khi đó cộng đồng kinh tế ASEAN chưa có
sự liên kết về tài chính.
13
C. KẾT BÀI
Qua những tìm hiểu ở trên, ta có thể thấy mô hình liên minh kinh tế - tiền tệ
châu Âu (EMU) và cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) có nhiều điểm tương đồng
cũng như khác biệt lớn trong cấu trúc nội dung, cấp độ liên kết cũng như triển
vọng của hai liên kết kinh tế đến năm 2015. Qua đó ta có thể hiểu rõ hơn về hai mô
hình liên kết này, từ đó có thể đưa ra những định hướng, hướng đi đúng đắn cho
một cộng đồng, một khu vực.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tập bài giảng môn Pháp luật cộng đồng Asean, Trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Nguyễn Thu Trang, Cộng đồng kinh tế ASEAN –
từ tầm nhìn tới hành động .Hà Nội, khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2011.
3. Từ điển Tiếng Việt.
4.http: //www aseansec.org
5. mofa.gov.vn
6.
14