Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Chiến lược kinh doanh cho ngành ngân hàng thương mại việt nam đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.3 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Bước vào thế kỷ 21, trong xu thế hội nhập khu vực và thế giới, ngành ngân
hàng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức hơn, đặc biệt là trong giai
đoạn hiện nay khi nền kinh tế thế giới đang từng bước vượt qua khủng hoảng. Mặc dù
kinh tế trong nước đã lạc quan hơn nhưng các ngân hàng thương mại vẫn không cảm
thấy “dễ thở” trước sức ép để tồn tại và phát triển. Tìm kiếm một chiến lược kinh
doanh phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, gia tăng tính cạnh tranh, nâng cao
vị thế quy mô của ngân hàng trong giai đoạn hiện nay trở thành nhu cầu cấp thiết của
mỗi ngân hàng.
Xuất phát từ thực tiễn đó, học viên đã chọn đề tài “Xây dựng chiến lược kinh
doanh cho ngành ngân hàng thương mại đến 2015”.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Làm rõ lỹ luận tổng quan về chiến lược kinh doanh và hoạch định chiến lược
kinh doanh
- Đánh giá năng lực hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng thông qua việc
phân tích các yếu tố môi trường ảnh hưởng
- Đề xuất hệ thống giải pháp chiến lược kinh doanh cho ngành ngân hàng
thương mại đến 2015.
1
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
1.1. Khái niệm chiến lược kinh doanh:
Thuật ngữ “chiến lược” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Strategos” dùng trong
quân sự và được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau do sự tiếp cận trong nghiên
cứu. Theo từ điển Larous: “Chiến lược là nghệ thuật chỉ huy các phương tiện để dành
chiến thắng”. Học giả Đào Duy Anh, trong từ điển tiếng Việt đã viết: “Chiến lược là
các kế hoạch đặt ra để dành thắng lợi trên một hay nhiều mặt trận”.
Từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX, chiến lược được ứng dụng vào lĩnh vực kinh
doanh và thuật ngữ “Chiến lược kinh doanh” ra đời. Quan niệm chiến lược kinh doanh
phát triển dần theo thời gian và người ta tiếp cận nó theo nhiều cách khác nhau.
Năm 1962, Chandler định nghĩa chiến lược kinh doanh là “việc xác định các


mục tiêu, mục đích cơ bản dài hạn của doanh nghiệp và việc áp dụng một chuỗi các
hành động cũng như việc phân bổ các nguồn lực cần thiết để thực hiện mục tiêu này”.
Đến những năm 1980, Quinn đã đưa ra định nghĩa có tính khái quát hơn “Chiến
lược là mô thức hay kế hoạch tích hợp các mục tiêu chính yếu, các chính sách, và
chuỗi hành động vào một tổng thể được cố kết một cách chặt chẽ”
Sau đó, Johnson và Scholes định nghĩa lại chiến lược trong điều kiện môi
trường có rất nhiều những thay đổi nhanh chóng: “chiến lược là định hướng và phạm
vi của một tổ chức về dài hạn nhằm giành lợi thế cạnh tranh cho tổ chức thông qua
việc định dạng các nguồn lực của nó trong môi trường thay đổi, để đáp ứng nhu cầu
thị trường và thoả mãn mong đợi của các bên hữu quan”.
Xuất phát từ cách tiếp cận cạnh tranh, giáo sư nổi tiếng về chiến lược kinh
doanh của trường Đại học Harvard Michael L. Porter cho rằng: “Chiến lược kinh
doanh là nghệ thuật xây dựng lợi thế cạnh tranh vững chắc và phòng thủ”.
Dù tiếp cận theo cách nào thì bản chất của chiến lược kinh doanh vẫn là phác
thảo hình ảnh tương lai của doanh nghiệp trong lĩnh vực hoạt động và khả năng khai
thác. Theo cách phát biểu này, thuật ngữ chiến lược kinh doanh được dùng theo 3 ý
nghĩa phổ biến nhất:
- Xác lập mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp
- Đưa ra các chương trình hành động tổng quát
- Lựa chọn các phương án hành động, triển khai phân bổ nguồn lực để thực hiện
mục tiêu đó.
2
Ngày nay, thuật ngữ chiến lược đã được sử dụng khá phổ biến ở Việt Nam
trong nhiều lĩnh vực ở cả phạm vi vĩ mô cũng như vi mô. Ở phạm vi doanh nghiệp ta
thường gặp thuật ngữ chiến lược kinh doanh hoặc chiến lược công ty, quản trị chiến
lược… Sự xuất hiện các thuật ngữ này không đơn thuần là sự vay mượn. Các khái
niệm chiến lược đều bắt nguồn từ sự cần thiết khách quan trong thực tiễn quản trị của
các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay.
Có thể nói việc xây dựng và thực hiện chiến lược thực sự đã trở thành một
nhiệm vụ hàng đầu và là một nội dung, chức năng quan trọng của quản trị doanh

nghiệp, nó đang được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp.
Quan điểm phổ biến hiện nay cho rằng: “Chiến lược kinh doanh là nghệ thuật
phối hợp các hoạt động và điều khiển chúng nhằm đạt tới mục tiêu dài hạn của
doanh nghiệp”.
Một chiến lược kinh doanh tốt là chiến lược trong đó công ty có thể chiếm được
lợi thế chắc chắn so với đối thủ với chi phí có thể chấp nhận được.
1.2. Qui trình xây dựng chiến lược kinh doanh:
1.2.1. Xác định mục tiêu
Mục tiêu chiến lược là những đích mong muốn đạt tới của doanh nghiệp. Nó là
sự cụ thể hóa mục đích của doanh nghiệp về hướng, quy mô, cơ cấu và tiến trình triển
khai theo thời gian. Trong cơ chế thị trường nhìn chung các doanh nghiệp theo đuổi ba
mục đích chủ yếu là sự tồn tại, phát triển và đa dạng hóa. Hệ thống mục tiêu chiến
lược còn thể hiện các mong muốn phải đạt tới các kết quả cụ thể nhất định trong thời
kỳ chiến lược. Thường có hai loại mục tiêu: ngắn hạn và dài hạn.
+ Mục tiêu dài hạn: là toàn bộ kết quả mong muốn cuối cùng mà doanh nghiệp
muốn đạt được trong khoảng thời gian dài hơn một năm, với các nội dung cụ thể: mức
lợi nhận, năng suất, vị thế cạnh tranh, phát triển việc làm, quan hệ cộng đồng, vị trí
công nghệ, trách nhiệm xã hội.
+ Mục tiêu ngắn hạn: là các kết quả cụ thể doanh nghiệp kỳ vọng đạt được
trong một chu kỳ, được lượng hóa thành con số.
Nguyên tắc khi xác định mục tiêu
+ Phải rõ ràng trong từng thời gian tương ứng và phải có mục tiêu chung cũng
như mục tiêu riêng cho từng lĩnh vực hoạt động
3
+ Các mục tiêu phải đảm bảo tính liên kết, tương hỗ lẫn nhau, mục tiêu này
không cản trở mục tiêu khác
+ Phải xác định được mục tiêu ưu tiên. Điều đó thể hiện tính thứ bậc của mục
tiêu, nhiệm vụ đề ra đối với doanh nghiệp trong từng giai đoạn.
1.2.2. Đánh giá các yếu tố tác động đến chiến lược kinh doanh:
Hình 1.1: Những cơ sở để xây dựng chiến lược kinh doanh

● Yếu tố kinh tế:
Thực trạng nền kinh tế và xu hướng trong tương lai có ảnh hưởng đến thành
công hay thất bại của một doanh nghiệp. Các nhân tố chủ yếu mà nhiều doanh nghiệp
thường phân tích là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ
lạm phát. Mỗi yếu tố trên đều có thể là cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp, cũng có
4
Môi trường vĩ mô
1. Các yếu tố kinh tế
2. Các
yếu tố
tự
nhiên,
xã hội
3. Các
yếu tố
chính trị
pháp lý
4. Các yếu tố về công nghệ
Môi trường vi mô
1. Các đối thủ cạnh tranh
2. Khách
hàng
3. Nhà
cung cấp
4. Các đối
thủ tiềm
ẩn
5. Hàng
hoá thay
thế

1. Nhân sự
2. Tài chính
3. Vận hành sản
xuất
4. Marketing
5. Hệ thống thông
tin
6. R&D
Môi trường nội bộ
thể là mối đe doạ đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Việc phân tích yếu tố môi
trường kinh tế giúp cho các nhà quản lý tiến hành các dự báo và đưa ra kết luận về
những xu thế chính của sự biến đổi môi trường tương lai, là cơ sở cho dự báo ngành và
dự báo thương mại.
● Yếu tố tự nhiên:
Các yếu tố tự nhiên như khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, nguồn năng lượng, môi
trường tự nhiên được coi là những yếu tố quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của nhiều ngành công nghiệp, nhiều doanh nghiệp. Đe dọa của những thay đổi không
dự báo được về khí hậu, sự khai thác tài nguyên bừa bãi, ô nhiễm môi trường đang đặt
ra nhiều vấn đề cần giải quyết ở cấp quốc gia và quốc tế, nên không thể coi là ngoài
cuộc đối với doanh nghiệp.
● Yếu tố xã hội:
Các yếu tố như dân số, cơ cấu dân cư, tỷ lệ tăng dân số, tôn giáo, chuẩn mực
đạo đức, phong tục tập quán, trình độ dân trí, thị hiếu… là những nhân tố chính trong
việc hình thành thị trường sản phẩm và thị trường các yếu tố sản xuất. Các yếu tố này
thường biến đổi chậm nên các doanh nghiệp thường dễ lãng quên khi xem xét những
vấn đề chiến lược.
● Yếu tố chính trị và pháp lý:
Các nhân tố chính phủ, luật pháp và chính trị tác động đến doanh nghiệp theo
các hướng khác nhau. Chúng có thể tạo ra cơ hội, trở ngại, thậm chí là rủi ro thật sự
cho doanh nghiệp. Chúng thường bao gồm: các chính sách nhà nước về phát triển kinh

tế, quy chế, luật lệ, chế độ tiền lương, thủ tục hành chính… do chính phủ đề ra cũng
như sự ổn định về chính trị, chi tiêu của chính phủ.
● Yếu tố công nghệ:
Đây là loại nhân tố có ảnh hưởng lớn, trực tiếp cho chiến lược kinh doanh của
các lĩnh vực, ngành cũng như nhiều doanh nghiệp. Thực tế trên thế giới đã chứng kiến
sự biến đổi công nghệ làm chao đảo, thậm chí mất đi nhiều lĩnh vực, nhưng đồng thời
cũng lại xuất hiện nhiều lĩnh vực kinh doanh mới, hoặc hoàn thiện hơn. Do đó, việc
phân tích và phán đoán biến đổi công nghệ là rất quan trọng và cấp bách hơn lúc nào
hết. Sự thay đổi công nghệ ảnh hưởng đến chu kỳ sống của một sản phẩm hay một
dịch vụ, đến các phương pháp sản xuất, nguyên vật liệu cũng như thái độ ứng xử của
người lao động.
5
Chương 2: THỰC TRẠNG KINH DOANH VÀ CÁC NHÂN TỐ CHIẾN LƯỢC
CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Tổng quan về ngành tài chính ngân hàng hiện nay:
Lịch sử ngành ngân hàng thế giới đã hình thành và phát triển từ rất sớm. Vào
khoảng 3.000 năm trước Công nguyên, hình thức ngân hàng sơ khai được nhiều nhà sử
học cho rằng đã hình thành trước khi phát minh ra tiền. Hoạt động của ngân hàng phát
triển mạnh mẽ trong thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên ở vùng Địa Trung Hải. Theo thời
gian, hệ thống Ngân hàng vẫn tiếp tục phát triển cùng với sự tiến bộ của xã hội loài
người với vai trò và ảnh hưởng ngày một quan trọng và sâu sắc hơn.
Sau chiến tranh thế giới, do nhu cầu tái thiết Châu Âu và xây dựng kinh tế tại
các nước tư bản, hàng loạt những Ngân hàng lớn ra đời. Tại Việt Nam, lịch sử hình
thành các Ngân hàng đã gắn liền với lịch sử đấu tranh chống kẻ thù xâm lược và xây
dựng đất nước của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.
Lịch sử thế giới đương đại đang chứng kiến những biến cố lớn về kinh tế, chính
trị và xã hội với căn nguyên sâu xa bắt đầu từ những trục trặc của hệ thống Ngân hàng
quốc tế.
Vậy Ngân hàng là gì? Trước tiên Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính
- tức là một tổ chức hỗ trợ các kênh luân chuyển vốn giữa người đi vay và người cho

vay theo phương thức gián tiếp. Xem xét trên phương diện những loại hình dịch vụ mà
chúng cung cấp thì: Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục
và dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh
toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.
Các dịch vụ chính của Ngân hàng là: huy động tiền gửi và cho vay, thanh toán
xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ, bảo lãnh tài trợ thương mại, dịch vụ thanh toán thẻ,
chuyển tiền… cho các cá nhân và tổ chức kinh tế.
6
Hình 2-1: Những chức năng cơ bản của Ngân hàng đa năng ngày nay
Trong 10 năm qua hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh về
số lượng và chất lượng. Sự phát triển của ngành Ngân hàng nằm trong bối cảnh chung
của nền kinh tế trong và ngoài nước và sự chuyển biến phức tạp của kinh tế thế giới.
Mặc dù trải qua nhiều thăng trầm, nhưng ngành Ngân hàng đã tận dụng tốt những thời
cơ, vượt qua không ít cam go trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để gặt hái được
những thành công to lớn, đóng góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của đất
nước trong những năm qua.
Tính đến thời điểm hiện nay, trong hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam có
5 Ngân hàng thương mại nhà nước (trong đó có Ngân hàng ngoại thương và Ngân
hàng Công thương Việt Nam chuyển sang mô hình cổ phần), 39 Ngân hàng thương
mại cổ phần, 40 Ngân hàng chi nhánh nước ngoài, 5 Ngân hàng liên doanh, 5 Ngân
hàng 100% vốn nước ngoài, 17 Công ty tài chính, 13 Công ty cho thuê tài chính, 53
Văn phòng đại diện Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và 965 quỹ tín dụng nhân
dân.
Lợi nhuận của các ngân hàng năm 2010 duy trì ở mức tốt bởi tăng trưởng tín
dụng cao và dự phòng thua lỗ các khoản vay thấp. Tỉ suất thu hồi trên bình quân tài
sản (ROA) của 6 ngân hàng lớn nhất theo tính toán của Fitch trong 3 tháng đầu năm
lên mức 1,9% (tính theo trung bình năm). Tỉ suất này năm 2010 là 1,5%.
Tuy nhiên, trong năm 2010, tăng trưởng tài sản các ngân hàng tụt lại so với tăng
trưởng các khoản vay bởi các ngân hàng Việt Nam chú trọng nhiều hơn đến tăng

trưởng tín dụng. Thay đổi này mang yếu tố hỗ trợ đối với một số tỷ suất quan trọng
như ROA và tỷ lệ vốn hữu hình/tổng tài sản, thế nhưng cũng khiến rủi ro tín dụng tăng
cao.
7
Chênh lệch giữa cho vay/vốn huy động trung bình đối với đồng nội tệ dành cho
doanh nghiệp giảm 220 điểm cơ bản trong năm 2010 bởi lãi suất cơ bản thay đổi liên
tục được giảm xuống, Chính phủ áp dụng lãi suất trần đối với các khoản vay và cạnh
tranh cấp vốn.
Năm 2010, tín dụng tại các ngân hàng Việt Nam tăng trưởng nóng, mức tăng
trưởng tín dụng lên tới 37,73% trong khi đó con số này năm 2009 chỉ là 25%, dù vậy
tăng trưởng tín dụng năm 2010 vẫn trong xu thế đi lên so với tăng trưởng tín dụng các
năm 2002 – 2004. Tăng trưởng tín dụng chững lại trong tháng 1/2011, mức tăng
trưởng chỉ đạt 1% trong khi đó tăng trưởng huy động tiền gửi là 0,3%. Tín dụng tại các
ngân hàng tư nhân tăng trưởng mạnh trong chương trình kích cầu kinh tế của Chính
phủ. Khả năng huy động vốn của các ngân hàng vẫn vững nhưng tăng trưởng tiền gửi
28,7% của năm 2010 không theo kịp tăng trưởng tín dụng. Tổng phương tiện thanh
toán tăng 28,67%, vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng tăng 31,9%,
tổng tài sản tăng 26,49%, chênh lệch thu chi tăng 53,09%, nợ xấu chiếm 2,2% tổng dư
nợ.
Hình 2-2: Biểu đồ tăng trưởng tín dụng và tài sản của 6 ngân hàng lớn
Nguồn: Theo Báo cáo “Outlook on Vietnamese Banks - Another year of high growth
adds to concern.” của Fitch
Dẫu năm 2010 đầy khó khăn đối với ngành tài chính ngân hàng, các tổ chức tín
dụng nước ngoài tại Việt Nam vẫn hoạt động an toàn, hiệu quả và làm tốt vai trò cầu
nối cho các nhà đầu tư nước ngoài đến với thị trường và doanh nghiệp Việt Nam. Đến
cuối tháng 10/2010, nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt
Nam tăng 17,8%, tổng dư nợ tín dụng tăng 14%, tổng tài sản có tăng 14,9% so với
năm 2009, tỷ lệ nợ xấu chiếm dưới 0,6% trong tổng dư nợ (năm 2009 là 0,47%) mặc
8
dù tăng so với năm 2009 nhưng vẫn ở mức thấp so với các nhóm ngân hàng khác. Hầu

hết các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động đều có lãi (chênh lệch thu chi luỹ kế
của các ngân hàng nước ngoài đến cuối tháng 10/2010 đạt 2.947,5 tỷ đồng).
Đối với các ngân hàng liên doanh, hoạt động của nhóm ngân hàng này tăng
trưởng khá ổn định, trong đó nguồn vốn huy động tăng 18,2%, dư nợ tín dụng tăng
34,3% so với cuối năm 2009, tỷ lệ nợ xấu chiếm 1,8% tổng dư nợ, tổng tài sản có tăng
18,3% thu nhập, thu nhập trước thuế đạt 477 tỷ đồng.
Tuy nhiên, nhìn chung ngành tài chính nước ta còn non yếu, năng lực tài chính
thấp thể hiện ở quy mô nguồn vốn của các ngân hàng thương mại (ngân hàng thương
mại nhà nước cao nhất là Agribank trên 21 ngàn tỷ đồng, ngân hàng nước ngoài là 45
triệu USD, ngân hàng liên doanh là 100 triệu USD), trong đó vốn của các ngân hàng
thương mại nhà nước (Agribank, BIDV, Vietcombank, Vietinbank) đã chiếm 60%
tổng vốn của toàn hệ thống. Và nhóm ngân hàng này tiếp tục thống trị hệ thống ngân
hàng Việt Nam, cung cấp tới 51% tổng số các khoản vay trong toàn hệ thống tính đến
hết tháng 9/2010 (con số này năm 2009 là 52% và năm 2008 là 54%). Nhóm ngân
hàng này cung cấp tới 2/3 trong số các khoản vay hỗ trợ lãi suất và vì thế bảo vệ được
thị phần.
Trong thời kỳ hậu WTO, lĩnh vực ngân hàng được xem là điểm nóng cả về phát
triển lẫn cạnh tranh, chưa bao giờ hoạt động và sự chuyển biến của các ngân hàng lại
diễn ra sôi động đến thế. Trong khi Ngân hàng nhà nước đang sửa đổi luật lệ cho phù
hợp với các thông lệ quốc tế, các Ngân hàng thương mại nhà nước và cổ phần đang
tranh thủ thời gian để đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu, xử lý dứt điểm nợ xấu, nợ tồn
đọng, cổ phần hoá, tăng vốn điều lệ, tìm kiếm và hợp tác với các nhà đầu tư chiến
lược, hiện đại hoá hệ thống…
Bên cạnh đó, viễn cảnh kinh tế thế giới cũng khá bi quan. Quỹ tiền tệ quốc tế đã
đưa ra dự báo ban đầu về mức tăng trưởng kinh tế thế giới trong năm 2011 sẽ là 3,9%
và 4,3% trong năm kế tiếp cao hơn mức giảm 1,1% của năm 2010. Tuy nhiên theo cơ
quan này, Mỹ và các nước phát triển khó đạt mức tăng trưởng GDP đủ mạnh để giảm
đáng kể tỷ lệ thất nghiệp. Mặc dù dự báo này vẫn kém xa so với mức tăng trưởng gần
5% của kinh tế thế giới trong thời kỳ 2004 - 2008, nhưng đây đã là một sự cải thiện
đáng kể so với mức suy giảm 0,8% năm 2009, năm mà sản lượng kinh tế toàn cầu lần

đầu tiên suy giảm kể từ chiến tranh thế giới thứ 2.
9
Đứng trong nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn khủng hoảng và chúng ta
lại đang trong lộ trình từng bước hội nhập quốc tế, ngành ngân hàng có nhiều cơ hội
hơn nhưng cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức hơn. Chính vì vậy,
nhiệm vụ của ngành ngân hàng trong giai đoạn này hết sức nặng nề, bởi lẽ để có thể
tồn tại và phát triển thì ngành ngân hàng phải xây dựng để mình trở thành một hệ
thống ngân hàng có uy tín, có khả năng cạnh tranh, hoạt động hiệu quả và an toàn.
2.2. Phân tích các nhân tố chiến lược tác động đến hoạt động kinh doanh của
ngành ngân hàng
2.2.1. Môi trường kinh tế:
Năm 2010 kinh tế nước ta phát triển trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn hơn các
năm trước. Ở trong nước, thiên tai xảy ra trên diện rộng với mức độ rất nặng nề. Cả
năm có 11 cơn bão tràn qua lãnh thổ, trong đó có những cơn gây lũ lụt, ngập úng sâu
và dài ngày tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, gây thiệt hại hết sức nghiêm
trọng. Dịch bệnh, nhất là cúm A/H1N1, sốt xuất huyết, sâu bệnh bùng phát ở nhiều
vùng và địa phương. Ở ngoài nước, thị trường giá cả thế giới biến động phức tạp.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động trực tiếp đến
nhiều ngành kinh tế nước ta như công nghiệp, xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư, du lịch.
Thuân lợi tuy có nhưng không nhiều.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ đã kịp thời đề ra các
quyết sách thích hợp và cụ thể bằng các chủ trương, chính sách kinh tế, tài chính nhằm
vượt qua khó khăn, phát huy thuận lợi, tập trung mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế,
đảm bảo an sinh xã hội. Tháng 12/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30 về
những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng, đảm
bảo an sinh xã hội. Gói kích cầu hỗ trợ các doanh nghiệp và hộ gia đình được thực
hiện với nhiều giải pháp thích ứng như giảm lãi suất cơ bản, hỗ trợ lãi suất vay vốn lưu
động 4%/năm, bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giãn thời gian nộp
thuế…. Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự nỗ lực cố gắng của các
bộ, ngành, địa phương, các cơ sở sản xuất và doanh nghiệp vẫn duy trì được tốc độ

tăng trưởng hợp lý. Năm 2010 được nhìn nhận là năm tăng trưởng khá và nhanh chóng
vượt qua khủng hoảng, là năm vượt kỷ lục về vốn ODA (hơn 8 tỷ USD) cũng như xuất
khẩu gạo (xuất khẩu được hơn 6 triệu tấn), là năm thị trường chứng khoán phục hồi
10
mạnh và thị trường bất động sản sôi động nhưng đây lại là năm có tỷ giá và giá vàng
tăng chóng mặt.
Bước sang năm 2011, Việt Nam đã tròn 4 năm gia nhập tổ chức thương mại thế
giới (WTO). Sau năm 2007 gia nhập WTO đến năm 2008 xuất khẩu đã tăng đáng kể,
tuy nhiên đến năm 2009 lại bị âm 9% do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới.
Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, năm 2007 có số vốn cam kết là 81 tỷ USD, năm
2008 vảo khoảng 60-71 tỷ USD, năm 2009 giảm xuống còn 20 tỷ USD do khủng
hoảng kinh tế. Đặc biệt, để hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã tạo ra sức ép buộc các
cơ quan Trung ương và địa phương phải giảm khoảng 30% các thủ tục hành chính.
Năm 2011 được dự báo là năm nền kinh tế thế giới phục hồi dù còn chật vật
khó khăn; kinh tế Việt Nam cũng trong quá trình vượt qua suy giảm. Năm 2011 là
ngưỡng cửa bước vào giai đoạn nước rút đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp
vào năm 2020, để Việt Nam bước từ nước thu nhập thấp thành nước có thu nhập trung
bình (thu nhập trên 1.000 USD/người).
Cũng trong năm mới này, Chính phủ đã đưa ra thông điệp kiểm soát tăng
trưởng tín dụng không vượt quá 25%, thấp hơn nhiều so với con số 38 – 39% của năm
2010.
Áp lực huy động vốn tiếp tục gia tăng, dẫn đến cho vay ra cũng phải thận trọng
và chọn lọc khách hàng tốt nhất để cho vay, người vay phải trả lãi suất cao. Đồng thời
các biện pháp thắt chặt tiền tệ sẽ làm cho lượng tiền cung ứng ra thị trường ít hơn, việc
huy động vốn sẽ khó khăn hơn so với năm 2010. Mặt khác, việc hạn chế mở rộng
mạng lưới hoạt động nếu tiếp tục kéo dài trong năm 2011 sẽ gây khó khăn cho các
ngân hàng trong việc tăng trưởng thị phần.
Tuy nhiên, với mức dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới khoảng 3,9% năm 2011
thì nó sẽ tác động tích cực đến kinh tế Việt Nam. Những nền kinh tế lớn như Mỹ,
Châu Âu, Nhật Bản bắt đầu tăng trưởng trở lại thì không ít thì nhiều nền kinh tế Việt

Nam cũng sẽ được hưởng lợi, dòng vốn FII và đặc biệt vốn FDI sẽ tốt hơn. Mãi lực
đầu tư vào thị trường tiêu thụ bắt đầu tăng trưởng trở lại sẽ tác động đến xuất khẩu.
Điều đó sẽ giúp các ngân hàng trong nước tận dụng cơ hội để tăng trưởng và phát
triển.
Mặt khác, theo cam kết WTO sau giai đoạn 2010 – 2012, các ngân hàng nước
ngoài không bị ràng buộc khi tham gia kinh doanh trên trị trường Việt Nam, nhiều
11
người dự báo trong năm 2010 – 2011 sẽ có nhiều ngân hàng con nước ngoài tham gia
hoạt động. Nhưng thực tế cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra và với diễn biến
thị trường hiện nay thì sự tham gia của ngân hàng con 100% vốn nước ngoài vào Việt
Nam sẽ chậm lại, đây là cơ hội để các ngân hàng trong nước tăng tốc.
● Tăng trưởng GDP:
Năm 2010 nền kinh tế Việt Nam tiếp tục chịu tác động nặng nề của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới nhưng cũng nhanh chóng vượt qua khó khăn để có những bước
đột phá trong những tháng cuối năm và là một trong số ít quốc gia Châu Á có tăng
trưởng dương. Tuy nhiên, những biến động nằm ngoài tầm kiểm soát của tín dụng, của
thị trường vàng, USD cũng như nhập siêu gia tăng nhanh chóng… đã trở thành điểm
tối trong bức tranh kinh tế Việt Nam năm vừa qua.
Kinh tế thế giới và Việt Nam cùng chịu tác động nặng nề từ cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu bắt đầu từ cuối năm 2008. Với Việt Nam, đáy của khó khăn rơi vào
quí I năm 2009 khi tăng trưởng GDP giai đoạn này chỉ đạt mức 3,1%, mức thấp nhất
trong hàng chục năm qua. Các hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ, xuất khẩu…
đồng loạt gặp khó khăn, rơi vào đình trệ.
Tuy nhiên, sau giai đoạn này, nhờ hàng loạt các giải pháp kích thích kinh tế của
Chính phủ như: cho vay hỗ trợ lãi suất; miễn, giảm, hoãn thuế với rất nhiều hàng hoá,
dịch vụ; nới lỏng chính sách tiền tệ…, kinh tế Việt Nam đã có bước chuyển nhanh
chóng, dần ổn định trong quý II (đạt 4,46%), và phục hồi nhanh chóng trong 2 quý còn
lại (quý III đạt 6,04%, quý IV đạt 6,9%) nên mức tăng trưởng GDP cả năm đạt tới
5,32%. Bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 1,83%; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ 6,63%.

Tuy đây là mức tăng trưởng kinh tế thấp nhất trong vòng 10 năm gần đây (năm
2008 tăng 6,18%, năm 2007 tăng 8,46%, năm 2006 tăng 8,23% ) nhưng Việt Nam
vẫn được thế giới đánh giá là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao trong
khu vực Châu Á (sau Trung Quốc tăng gần 7,8%).
Mức tăng trưởng như trên cho thấy, xu hướng phục hồi của nền kinh tế nước ta
năm 2009 là rõ nét. Kết quả đó đánh dấu sự thành công bước đầu của Chính phủ trong
chỉ đạo, điều hành vĩ mô nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế. Tổng sản phẩm trong nước
(GDP) quí I/2011 ước tính tăng 5,83% so với cùng kì năm 2010, bao gồm khu vực
12
nông lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,45%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng
5,65%, khu vực dịch vụ tăng 6,64%).
Hình 2-5: Biểu đồ tăng trưởng GDP của VN từ 2001 đến 2010
Nguồn: Theo số liệu của Tổng cục thống kê
● Yếu tố lạm phát:
Lạm phát là yếu tố nhạy cảm của nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lạm phát tăng dẫn đến bất lợi cho doanh
nghiệp. Yếu tố chính làm cho lạm phát tăng lên là do giá cả thị trường tăng lên.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, Việt Nam hai năm liền rơi
vào tình trạng giảm phát là năm 2000 và năm 2001. Lạm phát dần quay trở lại từ năm
2004 do các chính sách kích cầu mạnh mẽ cùng với sự leo thang của giá nhiều mặt
hàng trên thế giới. Năm 2007, lạm phát tăng lên 2 con số đã gây nên hoang mang cho
người dân. Lạm phát thực sự bùng nổ và gây nên những bất ổn vĩ mô vào năm 2008.
Lạm phát đỉnh điểm vào tháng 7/2008 khi lên tới trên 30%. Kết thúc năm 2008 thì lạm
phát lùi về còn 19,89%, đây là mức cao nhất trong vòng 17 năm qua. Lạm phát tăng
cao làm cho việc huy động và cho vay vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Nó
làm yếu và thậm chí còn phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến các hoạt động của
ngân hàng thương mại. Sự không ổn định của giá cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy
giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các
quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính tín dụng.
Sang năm 2011, do ngay từ đầu năm Chính phủ và các cấp, các ngành đã triển

khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp nhằm chủ động phòng ngừa tái lạm phát cao
trở lại, khôi phục và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nhất là tập trung phát triển thị
13
trường trong nước, chỉ đạo, điều hành tài chính, tiền tệ linh hoạt nên mức lạm phát
năm 2011 không cao.
Giá tiêu dùng năm 2010 tương đối ổn định, ngoài tháng 2 và tháng 12 chỉ số giá
tiêu dùng tăng trên 1% thì các tháng còn lại giảm hoặc tăng thấp nên chỉ số giá tiêu
dùng bình quân năm 2010 là 6,88% - là mức thấp nhất trong 6 năm trở lại đây. Chỉ số
giá tiêu dùng bình quân quí I/2011 tăng 4,12% so với cùng kỳ các năm gần đây. Chủ
yếu do nhu cầu tăng cao trong dịp tết, giá cả nhập khẩu tăng, nhà nước điều chỉnh một
số mặt hàng làm tăng giá thành sản phẩm.
Hình 2-6: Biểu đồ lạm phát của Việt Nam
Nguồn: Theo số liệu của Tổng cục thống kê
Trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chưa vững chắc, rủi ro hệ thống tài
chính vẫn có nguy cơ xảy ra. Mặc dù kinh tế trong nước phục hồi nhưng còn có nhiều
thách thức và khó khăn, áp lực đối với tín dụng ngân hàng còn lớn. Tâm lý người dân
lo ngại lạm phát nên vẫn chỉ gửi các kì hạn ngắn tại ngân hàng, bởi vậy các ngân hàng
vẫn phải thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để cạnh tranh giữ khách hàng và thu hút
khách hàng, đây cũng là nhân tố đẩy lãi suất huy động lên cao.
● Lãi suất, tỷ giá và giá vàng:
Lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ có tác động khá lớn đến lạm phát
và tăng trưởng. Nhìn vào cách thức một Ngân hàng trung ương thay đổi lãi suất, người
ta có thể đoán được chính sách tiền tệ đang thắt chặt hay đang nới lỏng.
Lãi suất tăng sẽ làm tăng giá người tiêu dùng và doanh nghiệp phải trả khi đi
vay tiền và vì vậy nhu cầu vay sẽ bị giảm, có nghĩa là lạm phát sẽ được kiềm chế.
Nhưng ở Việt Nam hiện nay, dù nguy cơ lạm phát năm 2010 bị cảnh báo sẽ tăng cao,
nhưng lãi suất cho vay bằng Việt Nam đồng vừa thả nổi trong khi mặt bằng lãi suất lại
14
đang được khuyến khích giảm khiến nhiều người băn khoăn chính sách tiền tệ đang
ngả theo hướng nào? Chúng ta hãy cùng nhìn lại thị truờng tiền tệ những năm qua.

Năm 2008 có thể nói là một năm “sóng gió” của ngành tài chính ngân hàng.
Tháng 12/2007 lãi suất cơ bản là 8,25% nhưng đến 19/5/2008 lãi suất cơ bản đã được
nâng lên thành 12%. Đến ngày 11/6/2008 lãi suất cơ bản lại một lần nữa được điều
chỉnh lên thành 14%. Thị trường ngân hàng nóng lên từng ngày khi các ngân hàng đua
nhau tăng lãi suất huy động vốn, mức lãi suất cho vay tối đa lên tới 21%/năm. Doanh
nghiệp “kêu trời” trong khi người dân kéo nhau đi gửi tiền.
Tuy nhiên, với việc hàng loạt các nước trên thế giới hạ lãi suất cơ bản để đối
phó với sự suy thoái, Ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh kịp thời các mức lãi suất để
kết thúc năm 2008, lãi suất trở về gần mức lãi suất đầu năm (8,5%), nới lỏng và tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với tín dụng dễ dàng hơn với lãi suất thấp
hơn.
Ngân hàng nhà nước đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ vào những tháng
đầu năm 2009 để thức đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động hạn chế tác
động của khủng hoảng tài chính, ngăn chặn nguy cơ suy giảm kinh tế. Tuy nhiên, với
đà tăng trưởng trở lại của kinh tế trong nước cũng như thế giới, càng về những tháng
cuối năm diễn biến thị trường tài chính tiền tệ càng trở nên phức tạp, áp lực lạm phát
trở lại đối với nền kinh tế ngày càng rõ nét. Với mục tiêu duy trì sự ổn định của kinh tế
vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010, chủ động đối
phó với diễn biến phức tạp của thị trường tài chính và kinh tế thế giới, Ngân hàng nhà
nước đã quyết định điều chỉnh lãi suất cơ bản là 8%.
Bên cạnh sự thay đổi một cách chóng mặt của lãi suất thì tỷ giá cũng thay đổi
không kém. Sau cơn sốt USD diễn ra vào giữa tháng 6/2008, giá USD “chợ đen” có
lúc leo lên tới 19.200 đ/USD buộc Ngân hàng nhà nước ra quyết định nới rộng biên độ
tỷ giá. Đến 25/12/2008 tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được
áp dụng là 16.989 đ/USD.
Suốt trong năm 2010 thị trường ngoại tệ căng thẳng và tăng giá chưa từng có,
giá USD trên thị trường tự do đã giao động trong khoảng 19.000 – 20.000 đ/USD,
trong khi giao dịch tại hệ thống ngân hàng cũng đã lên tới 18.500 đ/USD sau Quyết
định điều chỉnh của Ngân hàng nhà nước ngày 26/11/2009. USD tăng giá đã gây khó
15

khăn lớn cho các doanh nghiệp nhập khẩu, doanh nghiệp sản xuất, thương mại, ảnh
hưởng tới hàng loạt mặt hàng tiêu dùng.
Không kém phần tỷ giá, năm 2009 là năm chứng kiến sự hỗn loạn giá trên thị
trường vàng, đây là năm tăng giá thứ 9 liên tiếp của vàng. Từ mức giá 18 – 19 triệu
đồng/lượng hồi đầu năm 2009, tới cuối năm 2009 có thời điểm giá leo lên tới 29 triệu
đồng/lượng trước khi giao động 36 – 37 tr. đ/lượng như hiện nay. Bỏ qua sự tác động
của giá thế giới thì giá vàng Việt Nam vẫn cao hơn nhiều so với giá vàng thế giới. Đặc
biệt, cùng với tâm lý đám đông, những tin đồn đã đẩy vàng vào cơn sốt giá chóng mặt.
Sự lộn xộn cũng xảy ra trên thị trường vàng “ảo”, các sàn vàng đua nhau mọc lên.
Những cuộc tranh cãi về trục trặc hệ thống dẫn tới thiệt hại hàng tỷ đồng cho nhà đầu
tư vẫn kéo dài. Trước thực trạng này, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định chấm dứt
toàn bộ hoạt động của các sàn vàng trên cả nước.
2.2.2. Phân tích ảnh hưởng của chính sách luật pháp:
Pháp lệnh quản lý ngoại hối có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2006 và nghị
định số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
pháp lệnh ngoại hối đã khẳng định nguyên tắc tự do hoá đối với các giao dịch vãng lai,
từng bước nới lỏng, quản lý có chọn lọc đối với các giao dịch vốn, tạo cơ sở pháp lý
hết sức quan trọng cho công tác quản lý ngoại hối của ngân hàng trong điều kiện hội
nhập quốc tế đã tác động tích cực đến xuất nhập khẩu, dự trữ ngoại hối và đầu tư của
người nước ngoài vào Việt Nam.
Ngay từ cuối năm 2008 và đầu năm 2009, Chính phủ đã có Nghị quyết số
30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 với nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách là tập trung mọi
nỗ lực để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đẩy
mạnh xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đảm bảo an sinh xã hội.
Trong quý I/2011, Ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh giảm dự trữ bắt buộc tiền
gửi bằng ngoại tệ, điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn để hỗ trợ
thanh khoản cho các tổ chức tín dụng và nền kinh tế, giữ ổn định mức lãi suất cơ bản,
tái cấp vốn, tái chiết khấu, áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận đối với các khoản vay
trung và dài hạn bằng VND, điều chỉnh tỷ giá tăng cho phù hợp với cung cầu thị
trường và điều tiết kinh tế vĩ mô.

Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 về việc ban hành Quy chế
bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thương mại. Chính sách hỗ trợ lãi suất
16
được áp dụng theo cơ chế đã được quy định tại Quyết định số 443/QĐ-TTg ngày
4/4/2009 (đến 31/12/2009 thì dừng thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất này đối với vốn
lưu động ngắn hạn). Quyết định số 131/QĐ-TTCP về việc thu hẹp phạm vi áp dụng hỗ
trợ lãi suất đối với khoản vay trung và dài hạn đã phát huy tác dụng tích cực giúp Việt
Nam không những kiềm chế được khủng hoảng, suy thoái mà còn giữ ổn định kinh tế
vĩ mô, duy trì tăng trưởng… khiến nhiều nước trên thế giới phải khâm phục.
Thông tư số 07/2010/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước vào ngày 26/2/2010
và thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 cho phép các ngân hàng thương
mại thực hiện lãi suất thoả thuận đối với các khoản vay trung và dài hạn cũng như
ngắn hạn và có thể thoả thuận với khách hàng để cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất
trần. Sự thông thoáng về lãi suất này đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng cùng vốn cho
các doanh nghiệp với mục đích đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh.
Nghị định 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ về ban hành danh mục vốn pháp
định của các tổ chức tín dụng thì mức vốn điều lệ tối thiểu của các ngân hàng thương
mại cổ phần vào ngày 31/12/2008 ít nhất phải đạt 1.000 tỷ đồng, từ năm 2010 vốn điều
lệ tối thiểu mỗi ngân hàng được nâng lên 3.000 tỷ đồng để đảm bảo cho các ngân hàng
thương mại có đủ năng lực cạnh tranh trong bối cảnh mới.
Tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán của cả
nước giảm liên tục từ mức 23,7% năm 2001 xuống còn 14,6% năm 2008 và năm 2009
vẫn duy trì được xu hướng tích cực này. Như vậy là về đích sớm hơn so với đề án
không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến 2020 tại Việt Nam đã
được Thủ tướng phê duyệt.
2.2.3. Ảnh hưởng của thay đổi công nghệ:
Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, tạo lập được một nền tảng kỹ thuật, công
nghệ thông tin vững chắc luôn là một trong những chuẩn mực của một ngân hàng hiện
đại. Công nghệ kỹ thuật là một trong những yếu tố cốt lõi tạo nên toàn bộ hoạt động
cuả một ngân hàng, quyết định chất lượng dịch vụ của ngân hàng đó. Để nâng cao khả

năng cạnh tranh trong giai đoạn hội nhập, bất kỳ một ngân hàng nào cũng phải đặt ra
mục tiêu hiện đại hoá công nghệ, hệ thống thanh toán của mình lên hàng đầu.
Trong những năm vừa qua, hệ thống các ngân hàng nói chung không ngừng tiếp
tục có những nỗ lực mới nhằm hiện đại hoá công nghệ. Dự án hiện đại hoá ngân hàng
17
và hệ thống thanh toán đã cam kết với WB đang được khẩn trương thực hiện theo
đúng lộ trình và cơ bản đáp ứng đúng tiến độ.
Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng giai đoạn II được đưa vào vận hành
từ tháng 11/2008 với khả năng xử lý 2 triệu giao dịch mỗi ngày đã góp phần rất quan
trọng cho việc tăng cường khả năng cung cấp các dịch vụ thanh toán điện tử hiện đại,
tiện ích cao cho xã hội.
Với nỗ lực nâng cao khả năng cạnh tranh, nhiều ngân hàng đã chú trọng ứng
dụng công nghệ hiện đại vào việc thực hiện các dịch vụ của ngân hàng mình, một số
ngân hàng đã nối mạng trực tuyến trong nội bộ hệ thống nhằm phục vụ việc quản lý
tập trung và giao dịch trực tuyến. Bên cạnh dịch vụ thẻ, các nghiệp vụ mới đã được
các tổ chức tín dụng chú trọng phát triển mới như bao thanh toán, home banking,
internet banking, sản phẩm tiền gửi bảo toàn vốn bằng ngoại tệ gắn với biến động tỷ
giá, sản phẩm đầu tư gắn với rủi ro tín dụng và hoán đổi rủi ro tín dụng …
2.2. 4. Phân tích ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá xã hội:
Trong thời đại mở cửa, người dân ngày càng được nâng cao mức sống, giao lưu
học hỏi nhiều luồng văn hoá trên thế giới, nhờ đó nhận thức và thói quen tiêu dùng,
tích trữ cuả họ cũng thay đổi. Càng ngày nhu cầu và thói quen của dân chúng càng đa
dạng phong phú hơn nhằm đáp ứng phục vụ cuộc sống cuả họ. Do vậy, dịch vụ tài
chính ngân hàng cần nắm bắt kịp thời những nhu cầu mới trong xã hội ngày nay để
đáp ứng kịp thời và tạo ra thị phần vững chắc cho mình. Đó cũng là lý do để phát triển
thêm các tiện ích dịch vụ ngân hàng mới như: các loại hình tiết kiệm, đầu tư kinh
doanh trái phiếu chứng khoán, kinh doanh bất động sản, tiện ích ngân hàng online, thẻ
thanh toán … Tuy nhiên thói quen sử dụng tiền mặt trong lưu thông vừa không an toàn
vừa không tiện lợi vẫn còn tồn tại đặt ra thách thức cho các ngân hàng thương mại.
Cũng như việc chuộng vàng và ngoại tệ để tích trữ, mua bán giao dịch đang làm đô la

hoá nền kinh tế cần được khắc phục. Đó cũng là khó khăn mà nhà nước ta cần giải
quyết xoá bỏ, tạo ra một môi trường thanh toán văn minh để bắt kịp các nước trên thế
giới.
18
Chương 3: CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CHO NGÀNH NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2015
3.1. Các giải pháp thực hiện:
3.1.1. Nhóm giải pháp nhằm phát huy điểm mạnh:
● Giải pháp về nguồn nhân lực:
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên:
Cán bộ, nhân viên là khâu quyết định hiệu quả kinh doanh và nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngân hàng. Kết quả này phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, tính năng động sáng tạo, đạo đức nghề nghiệp, thái độ phục vụ của cán bộ
ngân hàng, đó cũng là những vấn đề mà khách hàng phàn nàn nhiều nhất và mong
muốn nhiều nhất từ ngân hàng. Do vậy, để góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm
dịch vụ ngân hàng và tạo được hình ảnh thân thiện trong lòng khách hàng thì việc nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên chính là một giải pháp rất quan trọng. Thực
hiện giải pháp này, ngành nên tập trung trên các phương diện sau:
+ Nên xây dựng một quy trình tuyển dụng nhân viên khoa học, chính xác, hợp
lý nhưng phải phù hợp với điều kiện riêng của từng ngân hàng nhằm tuyển chọn được
những nhân viên có trình độ và phù hợp với yêu cầu công việc.
+ Định kỳ tổ chức các khoá đào tạo kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ
cán bộ, nhân viên về khả năng thực hiện công việc với kỹ thuật công nghệ hiện đại,
khả năng ứng xử khi tiếp xúc khách hàng. Đồng thời lập kế hoạch cử các cán bộ trẻ có
năng lực đi đào tạo chuyên sâu ở các lĩnh vực kinh doanh chủ chốt, các dịch vụ mới
nhằm xây dựng được đội ngũ chuyên gia giỏi, làm nòng cốt cho nguồn nhân lực trong
tương lai.
+ Thuê công ty tư vấn nguồn nhân lực đánh giá lại trình độ của đội ngũ quản trị
điều hành cũng như đội ngũ cán bộ nhân viên để làm cơ sở cho việc đào tạo, bồi
dưỡng; xây dựng bảng lương cho đội ngũ quản trị trung cao cấp, đội ngũ cán bộ nhân

viên nhằm trả lương theo năng lực và hiệu quả, tránh hiện tượng cào bằng và giải
quyết dứt điểm việc trả lương theo thâm niên.
+ Tiếp tục nâng cao khả năng làm việc độc lập và làm việc theo nhóm
của cán bộ để có thể đảm nhận được những vấn đề trong thẩm quyền hoặc tư vấn
chính xác cho lãnh đạo những vấn đề vượt thẩm quyền.
19
- Nâng cao khả năng giao tiếp của cán bộ giao dịch khi tiếp xúc trực tiếp với
khách hàng:
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, nếu như chất lượng dịch vụ là mục tiêu
quan trọng mà mỗi ngân hàng hướng tới thì khả năng giao tiếp chính là những công cụ
đưa sản phẩm đó đến với khách hàng. Kỹ năng giao tiếp của cán bộ giao dịch là một
trong những yếu tố quan trọng tạo ấn tượng tốt đẹp, tạo nên sự tin tưởng nhất định của
khách hàng đối với ngân hàng, quyết định đến việc họ trở thành khách hàng của ngân
hàng. Để làm được điều này, cần thực hiện tốt các nguyên tắc sau:
+ Một là: nguyên tắc tôn trọng khách hàng
Tôn trọng khách hàng thể hiện ở việc cán bộ giao dịch biết cách cư xử công
bằng, bình đẳng giữa các loại khách hàng. Tôn trọng khách hàng còn biểu hiện ở việc
cán bộ giao dịch biết lắng nghe ý kiến phản hồi của khách hàng, biết khắc phục, ứng
xử khéo léo, linh hoạt và làm hài lòng khách hàng; biết cách sử dụng ngôn ngữ dễ
hiểu, có văn hoá, trang phục gọn gàng, đúng quy định ngân hàng, đón tiếp khách hàng
với thái độ tươi cười, niềm nở, nhiệt tình, thân thiện và thoải mái…
+ Hai là: nguyên tắc giao dịch viên góp phần tạo nên và duy trì sự khác biệt về
sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
+ Ba là: nguyên tắc lắng nghe hiệu quả và biết cách nói.
+ Bốn là: nguyên tắc trung thực trong giao dịch với khách hàng
+ Năm là: nguyên tắc kiên nhẫn, biết chờ đợi và tìm điểm tương đồng, mối
quan tâm chung để cung cấp dịch vụ, hợp tác hai bên cùng có lợi.
+ Sáu là: nguyên tắc gây dựng niềm tin và duy trì mối quan hệ lâu dài với
khách hàng.
- Tổ chức, sắp xếp lại cơ cấu các phòng ban:

Nội dung tổ chức mô hình phát triển theo hướng đẩy mạnh giao dịch một cửa,
quản lý ngân hàng theo nhóm khách hàng và loại dịch vụ thay thế cho việc quản lý
theo chức năng và nghiệp vụ như hiện nay. Đây cũng là cách quản lý mà các ngân
hàng trên thế giới áp dụng. Ưu điểm của nó là nâng cao khả năng phục vụ và chăm sóc
khách hàng, hơn nữa trình độ của nhân viên nghiệp vụ cũng phát triển sâu rộng hơn.
Tuy nhiên, hiện nay quá trình triển khai tại các ngân hàng còn chậm, chưa được hoàn
thiện, trong thời gian sắp tới các ngân hàng cần bố trí thêm các bộ phận và phòng ban
khác cần thiết như sau:
20
+ Phòng nghiên cứu và phát triển, marketing: nghiên cứu thị trường, phát triển
sản phẩm, thực hiện chính sách khách hàng…
+ Bộ phận tiếp tân: trực tiếp đón khách hàng và hướng dẫn khách hàng giao
dịch.
+ Bộ phận tư vấn, chăm sóc khách hàng.
Từ đó thực hiện điều chuyển, sắp xếp, luân chuyển cán bộ cho phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ trên cơ sở phát huy tốt nhất năng lực, sở trường của từng cá nhân theo đúng
quy định.
● Hoàn thiện công tác quản trị điều hành:
- Chuyển dần việc quản trị điều hành từ “cầm tay, chỉ việc” sang đặt yêu cầu,
mục tiêu, giành quyền chủ động, sáng tạo trong tổ chức thực hiện cho các bộ phận.
- Đổi mới quản trị kinh doanh - quản trị điều hành hướng tới các chuẩn mực và
thông lệ quốc tế của hệ thống ngân hàng thương mại hiện đại. Nghĩa là quản trị kinh
doanh theo nhóm khách hàng và loại hình sản phẩm, dịch vụ. Tạo điều kiện phục vụ
khách hàng, tăng cường khả năng tiếp cận và cung cấp sản phẩm chuyên biệt cho từng
loại đối tượng khách hàng, đưa ra chính sách phù hợp cho mỗi loại khách hàng. Đồng
thời, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, giảm bớt chi phí tăng hiệu quả kinh
doanh, tăng sức cạnh tranh.
- Nâng cao năng lực quản trị điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý: đủ về số
lượng, đảm bảo chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất cũng như hiểu biết
chuyên môn nghiệp vụ và năng lực quản lý. Đảm bảo việc quản trị, điều hành hoạt

động theo yêu cầu của ngân hàng hiện đại, rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, đảm bảo
tính độc lập của các bộ phận nghiệp vụ, đảm bảo thông tin thông suốt phục vụ quản trị
điều hành, phục vụ yêu cầu kinh doanh.
- Gia tăng hoạt động quản trị có tính chuyên nghiệp, đặc biệt là quản trị tài
chính, quản trị nhân viên, quản trị sự thay đổi và quản trị thời gian.
- Tiếp tục duy trì hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9000.
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ, công tác thẩm định.
● Quản lý tài sản:
- Thực hiện cơ cấu lại tài sản theo hướng tăng các khoản tài sản có có hệ số rủi
ro thấp, hiệu quả cao: tăng cường cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiêu
21
dùng, cho vay có đảm bảo, mở rộng hoạt động đầu tư trực tiếp, đầu tư trên thị trường
liên ngân hàng… giảm tỷ trọng cho vay dài hạn.
- Chú trọng phát triển hoạt động bán lẻ, các khách hàng ngoài quốc doanh.
Nghiên cứu phát triển sản phẩm dịch vụ tiện ích phù hợp với từng đối tượng khách
hàng.
- Phân tích đánh giá hiệu quả của từng sản phẩm dịch vụ ngân hàng cũng như
tại từng địa phương trong địa bàn tỉnh để có hướng phát triển và điều chỉnh hợp lý.
- Tạo lập cơ cấu nguồn vốn ổn định, bền vững với giá hợp lý thông qua việc
tăng cường marketing để mở rộng mạng lưới huy động vốn tại các địa bàn có tiềm
năng tăng trưởng huy động vốn, tăng tiền gửi thanh toán và tiền gửi của các tổ chức
kinh tế tài chính.
- Tăng cường hợp tác với giữa các ngân hàng , với các công ty chứng khoán, tổ
chức quản lý quỹ… hay các đối tác chiến lược để phát triển dịch vụ kinh doanh và mở
rộng khả năng huy động vốn.
● Hoàn thiện hoạt động tín dụng:
- Tiếp tục thực hiện tốt công tác kiểm soát tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý,
gắn chặt việc tăng trưởng các khoản vay mới với yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu
quả, đảm bảo an toàn hoạt động, tuân thủ điều hành kỷ cương, kỷ luật trong điều hành
hoạt động tín dụng.

- Xây dựng định hướng, mục tiêu hoạt động dài hạn trong đó tập trung các
ngành kinh tế mũi nhọn theo định hướng của Chính phủ, của Tỉnh.
- Dịch chuyển và hướng tới cơ cấu cho vay ngắn hạn phù hợp hơn, mở rộng cho
vay các khách hàng ngoài quốc doanh, khách hàng trong các Khu công nghiệp…
- Thực hiện phân tích khách hàng, khoản vay, tài sản đảm bảo một cách khách
quan nhất, yêu cầu đề xuất khách hàng hoàn chỉnh hồ sơ theo đúng qui trình thẩm định
để phối hợp với bộ phận tín dụng làm chủ được dư nợ, thực hiện chuyển đổi tài sản
thành tiền nhanh nhất khi có rủi ro.
- Định kỳ xây dựng, rà soát danh mục khách hàng (bán buôn, bán lẻ và ngành
nghề), xếp hạng khách hàng để đưa ra chính sách khách hàng trên quan điểm rủi ro và
hiệu quả.
22
- Rút ngắn thời gian nghiên cứu dự án, giải ngân sớm giúp doanh nghiệp giữ
được cơ hội kinh doanh bằng cách chủ động tiếp cận tham gia cùng doanh nghiệp ngay
từ khi xây dựng dự án, phương án sản xuất kinh doanh.
- Xây dựng và phát triển hệ thống bán lẻ (cho vay tiêu dùng, kinh doanh thẻ…),
đảm bảo tăng tài sản có an toàn.
● Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin:
- Tích luỹ và tập trung vốn cho việc đầu tư phát triển công nghệ thông tin bằng
cách nâng cao vốn tự có.
- Thiết lập chuẩn nhân sự và thiết kế các chương trình đào tạo tại chỗ để nhân
viên đạt chuẩn cả về lý thuyết lẫn thực hành, đáp ứng cả 3 kỹ năng: cứng, mềm và sử
dụng công cụ. Cần động viên nhân viên qua lương, thưởng và các chế độ khác.
- Trong quá trình đầu tư cho công nghệ, ngành ngân hàng cần quan tâm và nhất
thiết phải có giải pháp đảm bảo cho sự hoạt động liên tục, bảo vệ các tài nguyên quan
trọng và các hoạt động thiết yếu, đồng thời xây dựng kế hoạch phục hồi sự cố cho hệ
thống công nghệ thông tin vì hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày càng phụ thuộc
nhiều vào công nghệ thông tin, do đó sự ngưng trệ của hệ thống công nghệ thông tin
có thể gây ra những thiệt hại cho ngân hàng như giảm doanh thu, mất khách hàng và
các đối tác kinh doanh, hoặc làm giảm uy tín ngân hàng.

- Mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ nạp tiền điện thoại bằng SMS
(Vntopup), hoán đổi chéo tiền tệ (CCS), dịch vụ vấn tin tại quầy, thanh toán hoá đơn
với Viettel, thanh toán hoá đơn điện nước qua máy ATM…. Riêng hệ thống rút tiền tự
động ATM, chuẩn bị điều kiện để khai thác tiếp các chức năng còn lại của máy ATM
nhằm phát huy hiệu quả sử dụng máy và phát triển dịch vụ mới.
- Có kế hoạch trang bị thêm các máy ATM và hệ thống máy đọc thẻ thế hệ mới.
3.1.2. Nhóm giải pháp nhằm khắc phục điểm yếu:
● Nâng cao chất lượng dịch vụ:
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, các ngân hàng thương mại đều
lựa chọn dịch vụ ngân hàng bán lẻ là mục tiêu đầu tư, tuy nhiên các ngân hàng thương
mại Việt Nam cần có các giải pháp sau nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ:
- Xây dựng kế hoạch cụ thể công tác nghiên cứu thị trường để từ đó xây dựng
định hướng phát triển dịch vụ cho phù hợp.
23
- Tạo sự khác biệt và vượt trội trong chất lượng các sản phẩm dịch vụ so với
các ngân hàng nước ngoài, xem việc không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ là
trọng tâm trong kế hoạch hoạt động của ngành.
- Tăng cường cung cấp thẻ tín dụng cho khách hàng. Liên kết với các nhà cung
cấp dịch vụ như điện, điện thoại, cấp nước, các siêu thị… để đặt các điểm chấp nhận
thanh toán thẻ (POS), từ đó tạo ra một vòng khép kín đem tiện ích đến khách hàng.
- Tiếp tục nghiên cứu và triển khai các dịch vụ mới như: tư vấn về quản trị tiền
mặt cho khách hàng, quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và
doanh nghiệp theo sự uỷ thác của khách hàng…
- Tiếp tục nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán quốc tế, đảm bảo có khả năng
xử lý các trường hợp phức tạp, tư vấn giúp đỡ khách hàng trong nghiệp vụ cũng như
giải quyết các tranh chấp về xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế.
- Nghiên cứu xây dựng các cơ chế chính sách phí dịch vụ hợp lý thu hút khách
hàng.
- Tiếp tục củng cố và mở rộng các loại hình giao dịch kinh doanh ngoại tệ và đa
dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh (nghiệp vụ Options…)

- Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện và nâng cao chất lượng, tạo các tiện ích mới
cho các sản phẩm hiện có, đảm bảo đáp ứng yêu cầu của từng nhóm khách hàng như:
tạo, in, gửi email/swift sao kê tài khoản Vostro…. Đồng thời triển khai mở rộng phạm
vi hoạt động sản phẩm dịch vụ hiện có như: thanh toán hoá đơn với Viettel, thanh toán
lương, homebanking… và đẩy mạnh dịch vụ tư vấn đầu tư.
- Thành lập bộ phận dịch vụ ngân hàng qua điện thoại để giải đáp thắc mắc, tư
vấn cho khách hàng về các sản phẩm, dịch vụ .
● Quản lý rủi ro và kiểm toán nội bộ:
Kinh doanh ngân hàng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro cao. Rủi ro ngân
hàng bao gồm các loại như: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro thị
trường, rủi ro tỷ giá, rủi ro về vốn. Chính vì vậy các ngân hàng cần chú ý quản trị rủi
ro nhằm chủ động trong việc đạt được mục tiêu lợi nhuận bằng cách:
- Duy trì dự trữ thanh khoản, trạng thái lãi suất và tỉ giá ở mức cân đối
- Thiết lập dự phòng đầy đủ và hợp lý
- Giữ lợi nhuận kỳ vọng ở mức “đánh chắc” để cân đối các mục tiêu khác.
- Phân tán rủi ro qua phân tán khách hàng, phân tán ngân hàng (đồng tài trợ)
24
- Gia tăng hoạt động dự báo
- Giảm đưa vốn vào lĩnh vực rủi ro cao
- Giữ chuẩn tín dụng ở mức không quá thấp
- Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá nội bộ để kiểm soát chặt chẽ rủi ro
tiềm ẩn theo định kỳ và đột xuất để đưa ra hướng chấn chỉnh kịp thời.
● Hình thành và phát triển hoạt động Marketing:
- Phát triển nhanh kênh phân phối sản phẩm dịch vụ : Việc tìm hiểu và lựa chọn
thị trường rất quan trọng, chi phí và sự kỳ vọng vào thị trường đòi hỏi ngân hàng phải
có hoạch định rõ ràng, đúng đắn để không gặp phải sự thất bại.
- Đẩy mạnh hoạt động quảng bá thương hiệu, phát triển sản phẩm dịch vụ, các
chương trình khuyến mãi, chương trình chăm sóc khách hàng:
+ Cần thiết lập bộ phận Marketing cho ngân hàng:
Có thể nói không có phòng ban nào đảm nhiệm công tác Marketing là một

khiếm khuyết lớn trong chiến lược kinh doanh cuả ngân hàng. Người ta cho rằng mỗi
cán bộ giao dịch đều phải coi mình như là nhân viên Marketing và thu hút khách hàng
bằng thái độ trọng thị niềm nở trong giao dịch. Nhưng ngoài yếu tố trên còn biết bao
yếu tố khác có thể vận dụng để thu hút khách mà các nhân viên phòng nghiệp vụ
không thể đảm trách được do bận rộn với công việc chuyên môn. Nhu cầu phát triển
đặt ra sau cổ phần hoá là cần thiết, vì vậy việc lập ra bộ phận Marketing chịu sự điều
hành trực tiếp từ ban giám đốc để phối hợp tốt với ban lãnh đạo đưa ra những chiến
thuật Marketing phù hợp với chiến lược kinh doanh tổng thể cuả ngân hàng.
Bộ phận này chuyên tìm kiếm khách hàng, thu thập đầy đủ thông tin từ thị
trường hiện tại và tiềm năng sau đó nghiên cứu những chính sách Marketing cho ngân
hàng hoặc thực thi các chính sách Marketing do Trung ương đề ra. Đặc biệt là thực
hiện công tác nghiên cứu và phát triển (R&D). Tập trung nghiên cứu và ứng dụng
những sản phẩm mới, công nghệ mới, góp phần đa dạng hoá danh mục dịch vụ, sau đó
thực hiện phân phối dịch vụ đưa dịch vụ đến khách hàng nhanh chóng và thuận tiện
nhất.
+ Ngân sách cho Marketing:
25

×