Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Thực trạng hoạt động của thị trường liên ngân hàng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.95 KB, 36 trang )

Danh sách nhóm VKL –NHB-K9

1. Vương Thế Trung
2. Trương Hữu Việt
3. Mai Hoàng Hiếu
4. Trịnh Ngọc Minh
5. Phan Thị Thanh Huyền
6. Phạm Mai Trang
7. Hồ Phương Trang
8. Trịnh Thị Thùy Linh
9. Đặng Phương Thúy
10.Trần Thị Nhàn


Chương 1 : Thực

trạng hoạt động của thị trường liên ngân
hàng Việt Nam.

1.1. Sự hình thành của thị trường liên ngân hàng Việt Nam:
1.1.1. Giai đoạn trước năm 1992:
Trong thời kì nước ta thực hiện cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao
cấp, hoạt động trong hệ thống ngân hàng theo mụ hỡnh một.Ngừn hàng nhà
nước Việt Nam là ngân hàng duy nhất vừa thực hiện chức năng kinh doanh, vừa
thực hiện quản lý Nhà nước về lĩnh vực tiền tệ - tín dụng- ngừn hàng.Mụ hỡnh
tổ chức bao gồm: Ngân hàng Nhà nước Trung ương, Ngân hàng Nhà nước tỉnh,
thành phố thuộc trung ương, Ngân hàng Nhà nước quận, huyện.Trong giai đoạn
này, Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò là 3 trung tâm của nền kinh tế:
+Trung tâm tín dụng
+Trung tâm thanh tốn
+Trang tâm tiền tệ


Đặc điểm cơ bản của hoạt động ngân hàng trong thời kì này là thực iện theo
cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ từ trung ương xuống các chi nhánh, chi
điểm ngân hàng.Đối tượng đi vay chủ yếu của các ngân hàng trong giai đoạn
này là các doanh nghiệp nhà nước và các hợp tác xã. Hình thức cho vay chủ yếu
tham gia theo phần cùng với vốn ngân sách Nhà nước để bổ sung nguồn vốn
hoạt động cho doanh nghiệp.Trong trường hợp các chi nhánh này hay chi điểm
không cân đối được nguồn vốn cho vay theo kế hoạch thì Ngân hàng Nhà nước
Trung ương sẽ điều chuyển vốn để cho vay.Trong thời kì này, hoạt động tín
dụng có đặc điểm là:
+Cho vay theo kế hoạch tập trung từ trung ương đưa xuống mà không cần
căn cứ vào nhu cầu nguồn vốn của các chi nhánh, chi điểm thực hiện việc cho
vay.
+Giữa các chi nhánh ngân hàng khơng có quan hệ vay mượn mà chỉ có quan
hệ điều chuyển vốn lẫn nhau trong hệ thống.
Hậu quả tất yếu của thời kì này là lam phát cao do Ngân hàng nhà nước phát
hành ra quá nhiều tiền để cấp tín dụng cho nền kinh tế. Có thể thấy rằng , trong
giai đoạn này, hoạt động của hệ thống ngân hàng một cấp chưa làm xuất hiện
điều kiện cần và đủ để thị trường Liên ngân hàng Việt Nam hình thành.


2.1.2.Giai đoạn từ năm 1992 đến nay.
Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế từ cơ chế hóa tập trung sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước do đại hội VI của Đảng đề ra. Ngày
26/03/1988, Hội đồng bộ trưởng, nay là Chính phủ đã ban hành nghị định
53/NĐ-HĐBT về việc tách hệ thống ngân hàng Việt Nam thành hệ thống ngân
hàng 2 cấp:
+Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý
+Các ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm vụ kinh doanh.
Vấn đề này được thực hiện dưới hình thức pháp lý cao hơn khi các Ủy Ban
thường vụ Quốc hội thông qua vào thỏng 5/1990.Các pháp lệnh này đã khẳng

định sự tồn tại của các ngân hàng thương mại với nhiều thành phần kinh tế
như:ngừn hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân
hàng liên doanh với nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam.Như vậy, các điều kiện cần và đủ cho sự hình thành thị trường liên ngân
hàng đã xuất hiện.Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu khi các tổ chức tín dụng mới
được thành lập, chưa có sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau nên hoạt động liên
ngân hàng còn rất hạn chế.
Ngày 7/10/1992, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Chỉ thị số
07/CT-NH cho phép các tổ chức tín dụng được thực hiện việc cho vay và đi vay
lẫn nhau, đây có thể nói là văn bản pháp lý đầu tiên hướng dẫn và pháp lý hóa
quan hệ cho vay và đi vay giữa các tổ chức tín dụng, đánh dấu sự ra đời chính
thức của Thị trường tiền tệ Liên ngân hàng Việt Nam.
Trong thời kỳ đầu, do chưa có sự hiểu biết và tín nhiệm lẫn nhau nờn cỏc
giao dịch liên ngân hàng còn hạn chế và chỉ diễn ra lẻ tẻ ở một số ngân hàng
thương mại nhà nước.Để thúc đẩy các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng,
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quy chế tổ chức và hoạt động thị
trường Liên ngân hàng ngày 21/01/1993, kèm theo Quyết định số
114/QĐ_NH14, đánh dấu sự hình thành thị trường Liên ngân hàng Việt Nam có
tổ chức. Mục đích của quy chế này là tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có
điều kiện để hiểu biết nhau hơn với vai trò trung gian của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam.
Việc Ngân hàng Nhà nước đưa ra mô hình giao dịch này của Thị trường Liên
ngân hàng mới này ban đầu đã thu hút được sự chú ý của các tổ chức tín dụng
với 38 thành viên là các tổ chức tín dụng thuộc các loại hình khác nhau đăng kí
tham gia thị trường. Việc tham gia vào thị trường Liên ngân hàng do Ngân hàng
Nhà nước tổ chức đã tạo cơ hội cho các tổ chức tín dụng hiểu biết lẫn nhau,đồng
thời cũn cú sự hỗ trợ của NHNN với vai trò là người cho vay cuối cùng và bảo
lãnh cho các khoản vay này khi cần thiết.Tuy nhiên, hoạt động trên thị trường
liên ngân hàng trong giai đoạn này còn nhiều hạn chế như: Thị trường còn manh



mún, quy mô nhỏ, các thành viên tham gia thị trường chưa thật sự tin tưởng lẫn
nhau, thời hạn của các giao dịch chủ yếu là kỳ hạn dài. Có thể đánh giá thị
trường liên ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn này chưa thực sự sơi động, cịn
mang tính chất tập dượt là chủ yếu.
Bước vào thời kỳ nước ta tiến hành hội nhập nền kinh tế, Chính phủ , Ngân
hàng nhà nước chỉ đạo tiến hành việc cơ cấu lại các tổ chức tín dụng để từng
bước lành mạnh hóa tài chính của các tổ chức tín dụng để hội nhập và có thể
đứng vững trên thị trường tài chớnh-tiền tệ quốc tế.Ngừn hàng Nhà nước Việt
Nam cũng từng bước điều chỉnh các chính sách của mình nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho thị trường liên ngân hàng phát triển, phù hợp với thông lệ của nền
kinh tế thị trường. Ngayf 15/10/2001, Ngân hàng nhà nước đã ban hành quy chế
cho vay lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng, kèm theo quyết định số
1310/2001/QĐ_NHNN của thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Quy chế này đã tạo
ra một hành lang pháp lý thơng thống, nhằm nâng cao quyền tự chủ và tự chịu
trách nhiềm của các tổ chức tín dụng trong các giao dịch liờn ngõn hàng. Cụ thể
là: các tổ chức đi vay/ cho vay có thể thỏa thuận mức vay, lãi suất , thời hạn và
cách thức giao dịch.Việc cho vay có đảm bảo hay khơng có bất kì sự hạn chế
nào từ phía ngân hàng Nhà nước. Có thể nói rằng Quyết định số
1310/2001/QĐ_NHNN là phù hợp với thông lệ gioa dịch trên thị trường tiền tệ
quốc tế , đồng thời đánh dấu bước phát triển mới trong hoạt động của Thị trường
tiền tệ Liên ngân hàng Việt Nam.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, việc áp dụng kỹ thuật phát triển
vào Thị trường Liên ngân hàng như hệ thống thanh toán điện tử bù trừ liên ngân
hàng, hệ thống mạng REUTER đã góp phần vào việc thúc đẩy các hoạt động
giao dịch trên thị trường liên ngân hàng diễn ra sôi nổi và có hiệu quả hơn.
1.2. Thực trạng hoạt động của thị trường Liên ngân hàng Việt Nam.
1.2.1. Môi trường pháp lý:
Chỉ thị số 07/CT_Nh ngày 07/10/1992 của thống đốc ngân hàng Nhà nước là
văn bản pháp lý đầu tiên, cho phép các tổ chức tín dụng được cho vay và đi vay

lẫn nhau, đã đánh dấu sự ra đời của Thị trường Liờn ngân hàng Việt Nam.Tuy
nhiên, Chỉ thị số 07/CT_NH đã bộc lộ tồn tại làm hạn chế hoạt động của Thị
trường liên ngân hàng như việc quy định về việc cho vay chưa tính đến các đặc
thù của các tổ chức tín dụng, hay phạm vi giao dich của thị trường còn bị giới
hạn, mới chỉ cho phép thực hiện bằng đồng Việt nam, thời hạn và lãi suất cịn bị
khống chế.
Với sự ra đời của mơ hình thị trường Liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà
nước tổ chức ban đầu đã thu hút được sự chú ý của các tổ chức tín dụng và tạo
điều kiện cho các tổ chức tín dụng có cơ hội hiểu nhau hơn.Tuy nhiên việc giao


dịch thông qua thị trường do Ngân hàng Nhà nước tổ chức đã gây ra những hạn
chế:
- Qua 23 phiên giao dịch thông qua Ngân hàng nhà nước, doanh số hoạt
động giao dịch trên thị trường liên ngân hàng chỉ đạt 61,9 tỷ đồng, tính
bình qn chỉ đạt 2,6 tỷ/phiờn.
- Hoạt động giao dich thơng qua thị trường có tổ chức có nhiều điểm bất lợi
như: các tổ chức tín dụng phải mất phí khi tham gia thị trường này, mất
công đi lại và mất thời gian đến tham gia thị trường nhưng hiệu quả lại
không cao. Mặt khác, trường chỉ họp 1 tuần 1 phiờn nờn khụng đáp ứng
được nhu cầu vốn phát sinh hàng ngày của các tổ chức tín dụng.
- Các nội dung thực hiện khoản vay vẫn tuân thủ theo chỉ thị số 07/CT_NH
của thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quan hệ tín dụng giữa các tổ chức
tín dụng, vì vậy, vẫn cịn hạn chế hoạt động giao dịch trên thị trường.
Để khắc phục những tồn tại nêu trên trong hoạt động của thị trường liên ngân
hàng , Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hàng quyết định số 190/QĐ_NH14
ngày 6/10/1993 về việc sửa đổi và bổ sung một số điều của quy chế và nội dung
hoạt động của Thị trường Liên ngân hàng , ban hành kèm theo Quyết định số
114/QĐ_NH14. Trong quyết định số 190/QĐ_NH14, điểm sửa đổi quan trọng là
chuyển từ hình thức giao dịch 1 tuần 1 phiên tại trung tâm thị trường snag giao

dịch trực tiếp với nhau vào tất cả các ngày trong tuần với trung tâm thị trường
bằng điện thoại, Fax.
Để thúc đẩy các giao dịch cho vay / đi vay lẫn nhua giữa các tổ chức tín
dụng, ngày 6/10/1993, Ngân hàng Nhà nước đã ban hàng Quy chế bảo lãnh vay
vốn trên thị trường Liên ngân hàng , kèm theo quyết định số 189/QĐ_NH14 của
thống đốc Ngân hàng Nhà nước.Theo Quy chế này thỡ cỏc giao dich cho vay/ đi
vay lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng chưa có sự “ tin tưởng” lẫn nhau có thể
được Ngân hàng Nhà nước xem xét bảo lãnh. Quyết định số 189/QĐ_NH14 ra
đời đã góp phần thúc đẩy các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng , đặc biệt
là các giao dịch bằng ngoại tệ(đụ la Mỹ).
Ngày 15/10/2001, Ngân hàng nhà nước đã ban hành quy chế về cho vay lẫn
nhau giữa các tổ chức tín dụng , kèm theo quyết định số 1210/2001/QĐ_NHNN
của thống đốc ngân hàng nhà nước làm môi trường pháp lý cho hoạt động Liên
ngân hàng được cải thiện rõ rệt.Quy chế này đã tạo ra một hành lang pháp lý
thơng thống, nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín
dụng trong các giao dich trên thị trường Liên ngân hàng . Bằng các quyết định
này, Ngân hàng nhà nước đã cơ bản dỡ bỏ hết những hạn chế trong giao dịch
liên ngân hàng của các tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng được chủ động và
tự chịu trách nhiệm trong việc xem xét, quyết định các giao dich trên thị
trường.Quyết định số 1310/2001/QĐ_NHNN đánh dấu bước phát triển mới cho
thị trường liên ngân hàng Việt Nam.


Cùng với q trình hồn thiện các quy định pháp lý về hoạt động của thị
trường liên ngân hàng, ngân hàng nhà nước cũng đã ban hành nhiều quy định có
tính chất hỗ trợ hoạt động thị trường như: các quy định liên quan đến vai trò
người cho vay cuối cùng, hệ thống kỹ thuật thanh toán điện tử liờn ngừn
hàng.Những quy định này cũng đã gián tiếp hỗ trợ cho hoạt động của Thị trường
Liên ngân hàng phát triển.
1.3.Quy mô hoạt động của thị trường Liên ngân hàng Việt Nam

Qua các số liệu thống kê ho thấy rằng, mức dộ tham gia thị trường Liờn ngân
hàng của các ngân hàng là không giống nhau.Thị trường Liên ngân hàng ở Việt
Nam đã hình thành nờn cỏc nhúm ngân hàng hoạt động trên thị trường với
doanh số có sự chênh lệch khá rõ ràng.
Nhỳm các ngân hàng thương mại Nhà nước: Đây là các thành viên tham gia
tích cực trên thị trường liên ngân hàng, đặc biệt với vai trờ nguồn cung ứng tiền
đồng trên thị trường) với ưu thế về quy mơ hoạt động, khả năng tài chính, phạm
vi hoạt động rộng rãi và công nghệ ngân hàng hiện đại, nhúm cỏc ngừn àng
thương mại nhà nước thực sự trở thành những thành viên chi phối hoạt động của
thị trường Liên ngân hàng, xét cả ở thị trường tiền gửi và thị trường tiền vay.
Trong quan hệ về vốn giữa các NHTM NN và các tổ chức tín dụng khỏc trờn thị
trường liên ngân hàng, NHTM NN thường đóng vai trờ là người cho vay.Tỷ
trọng giaop dịch vốn lẫn nhau giữa các NHTM NN thường chiếm khoảng 2/3 thị
phần của thị trường.
Nhỳm các NHTM cổ phần, cơng ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân ở VN:
nhóm thành viên này trong vài năm trước được coi là có quy mơ nhỏ, khả năng
tài chính hạn chế nên hoạt động cũg hạn chế và khiêm tốn. Tuy nhiên, trong 1
vài năm gần đây cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành NH,. Các NHTM cổ
phần đã từng bước cải thiện được vị thế, khơng cịn chủ yếu đóng vai trị người
đi vay, nhận tiền gửi mà cịn góp phần đáng kể trong việc cung vốn trên thị
trường liên ngân hàng.
Nhỳm các ngân hàng liên doanh, chi nhánh NH nước ngoài và Ngân hàng
100% vốn nước ngoài: Những năm gần đây, cùng với việc tham gia vào WTO
và nhà nước ta cũng từng bước mở cửa thị trường ngân hàng, nhóm này sẽ
khơng chỉ đóng vai trị là nguồn cung ngoại tệ chủ yếu trên thị trường liên ngân
hàng mà hứa hẹn sẽ là nhóm đẩy mạnh hoạt động cũng như hiệu quả của thị
trường liên ngân hàng.
Tuy nhiên quy mô cũg như cách thức giao dịch trên thị trường liên ngân
hàng ở VN hiện nay vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế cần phải khắc phục để tiến
tới 1 hệ thống liên ngân hàng hoạt động hiệu quả, khoa học và phát triển.



Kể từ khi mới được thành lập đến nay, doanh số giao dịch trên thị trường liên
ngân hàng không ngừng tăng lờn.Từ khoảng những năm 1993 đến 1995, trong
quan hệ vay và cho vay trên thị trường liên ngân hàng, hoạt động vay từ NHNN
của các tổ chức tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số tiền vay.Quan hệ ay
lẫn nhau giữa các ngân hàng còn rất hạn chế.
Biểu đồ 1: Quan hệ vay và cho vay giữa các ngân hàng từ năm 1993 đến
1995

Từ sau những năm 1995, quan hệ vay và cho vay trực tiếp giữa các ngân
hàng bắt đầu được hình thành. Như vậy, vai trị làm đầu mối cảu NHNN trên thị
trường liên ngân hàng đã giảm, thể hiện ở việc doanh số vay NHNN của các tổ
chức tín dụng có xu hướng giảm: năm 1993 là 44 tỷ đồng, đến năm 1995 còn
30,5 tỷ đồng.Phương thức giao dịch trực tiếp tỏ ra có hiệu quả hơn nhưng lượng
tiền vay, cho vay giữa cỏc ngõn hàng cịn rất hạn chế, hầu như khơng đáng
kể.Tuy nhiên, hoạt động liờn ngừn hnagf của các tổ chức tín dụng có xu hướng
tích cực .


Biểu đồ 2: Hoạt động của thị trường liên ngân hàng bằng tiền đồng.

Và đặc biệt là thời kì nóng sốt của thị trường liên ngân hàng cuối 2007 và
năm 2008, thiếu vốn dẫn đến nhu cầu vay trên thị trường của các ngân hàng
càng lớn hơn.Nhưng các ngân hàng rụt rè trong việc cho vay trên thị trường này.
Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi vào đúng giữa tháng 11-2007 các ngân hàng
quốc doanh được chỉ đạo từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tham gia tích cực
hơn vào các đợt phát hành trái phiếu Chính phủ. Nguồn tin trong giới tài chính
cho biết mặc dù lãi suất trái phiếu đang ở mức thấp 7-8%/năm và không ngân
hàng quốc doanh nào muốn tham gia các đợt phát hành, nhưng khả năng là mỗi

ngân hàng phải mua vài ngàn tỉ đồng. Thay bằng kinh doanh trên thị trường liên
ngân hàng, các ngân hàng quốc doanh phải giữ tiền đồng lại để “ụm” trái phiếu.
Sức ép lạm phát đó ỏp cận kề, có thể lên 9% vào tháng 12 (10 tháng đầu năm chỉ
số giá cả tăng 8,12%) buộc NHNN triển khai kiểm soát lạm phát đồng loạt trên
cả ba hướng: hạn chế khả năng bán tín phiếu, trái phiếu Kho bạc cho NHNN;
tăng cường phát hành trái phiếu để hút tiền về; giảm tốc độ đưa tiền ra lưu thông
qua việc mua vào nhỏ giọt đô la Mỹ từ các ngân hàng thương mại. Ngân hàng
TMCP Xuất nhập khẩu (Eximbank) vừa đăng ký bán 225 triệu đô la Mỹ nhận từ
tập đoàn Sumitomo vào cuối tháng 12-2007, nhưng NHNN trả lời chưa mua.
Trong bối cảnh tiền đồng từ ngân hàng quốc doanh bị “chặn”, giọt nước
Indovina Bank làm tràn ly. Ngân hàng liên doanh này phải trả lại cho khách


hàng mấy trăm tỉ đồng tiền đặt cọc mua các căn hộ theo yêu cầu của chủ đầu tư.
Thiếu tiền đồng, Indovina chạy lên thị trường liên ngân hàng. Cầu cao mà cung
khan hiếm, lãi suất qua đêm ngay lập tức tăng gần gấp đôi. Một ngân hàng cổ
phần cho biết họ đang thừa 3.500 tỉ đồng vốn khả dụng, nhưng cũng chỉ dám
giao dịch liên ngân hàng cầm chừng. “Chỳng tụi phải dự phòng, lỡ mai mốt
khách hàng cần tiền gấp, chúng tôi phải đảm bảo thanh khoản cho họ” - tổng
giám đốc ngân hàng này nói. Giao dịch tiền đồng trên thị trường liên ngân hàng
đang tụt giảm. Ở thời điểm sôi động, tổng giá trị giao dịch lên tới 6.000-7.000 tỉ
đồng/ngày, nhưng nay chỉ còn bằng 25-30% mức đó. Việc NHNN khơng sẵn
sàng đưa tiền đồng ra mua đô la Mỹ đã đẩy các ngân hàng vào thế “chủ động
phịng thủ”. Bình thường họ giữ lại, thí dụ, 1.000 tỉ đồng, thì nay mức dự phịng
tăng lên gấp đôi. Những khách hàng lớn, như các tổng công ty xuất nhập khẩu,
các cơng ty chứng khốn, quỹ đầu tư... có thể cần 500-600 tỉ đồng tiền mặt/ngày
bất cứ lúc nào. Nếu ngân hàng không đáp ứng, sẽ mất khách hàng. Các ngân
hàng đú “trỳt” cho vay nhiều, mà vốn huy động vào thấp, khi cần chỉ còn cách
chạy lên liên ngân hàng và “bấm bụng” mua tiền đồng giá cao.Như vậy, sự mất
cân đối về cung cầu trên thị trường liên ngân hàng trong khoảng thời gian cuối

năm 2007, đầu năm 2008 đú từt yếu dẫn đến việc tăng chóng mặt của lãi suất
liên ngân hàng, kéo theo sự tăng lên của lãi suất thị trường, đặt nền kinh tế trước
một tình trạng nguy kịch.
Có thể nói rằng trong vòng ba năm trở lại đây, chưa bao giờ các ngân hàng
cần nhiều tiền để cho vay như hiện tại. Huy động tiền gửi từ dân cư và doanh
nghiệp khơng đủ, các tổ chức tín dụng đang tích cực tìm kiếm nguồn vốn trên thị
trường liên ngân hàng, khiến hoạt động trên thị trường này gần đây sôi động hẳn
lên.
Các ngân hàng tham gia vào thị trường liên ngân hàng đều có chung cảm
nhận gần đây tổng giá trị giao dịch hàng ngày của thị trường tăng lên, lãi suất
cũng tăng khoảng 10% so với giai đoạn trước 2005 ở tất cả các kỳ hạn, chứng tỏ
nhu cầu vốn đang cao.
Lãi suất vay một tuần hiện dao động từ 7,6-7,7%/năm, hai tuần trên
7,85%/năm, một tháng 8-8,15%/năm, ba tháng trên 8,4%/năm, vay qua đêm
khoảng 7,3%/năm. Tại một số ngân hàng cổ phần, 50% dư nợ cho vay là vốn
tìm kiếm ở thị trường liên ngân hàng. Nhiều ngân hàng vừa cho vay vừa đi vay.
Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tăng cường cho vay Đụla Mỹ và vay lại
tiền đồng.
Tuy nhiên, ở thị trường liên ngân hàng, người cần tiền thường chỉ vay được
từ vài chục đến vài trăm tỉ đồng. Những giao dịch hàng ngàn tỉ đồng rất hiếm.


Các ngân hàng quốc doanh khi cần lượng vốn lớn, thường sử dụng “cứu cỏnh”
vay tái cấp vốn từ Ngân hàng Nhà nước hoặc tham gia giao dịch ở thị trường
mở. Họ bán trái phiếu chính phủ ở thị trường mở nếu cần vốn dài hạn và bán tín
phiếu kho bạc nếu cần vốn ngắn hạn.
Cho đến thời điểm 2006, giao dịch ở thị trường liên ngân hàng vẫn mang tính
thủ cơng. Chẳng hạn ngân hàng A cần vay 100 tỉ đồng, họ sẽ gọi điện đến các
ngân hàng khác để hỏi, trong khi ngân hàng B thừa 200 tỉ đồng, họ cũng sẽ điện
thoại đến các đồng nghiệp, kiểu “tụi cú vài trăm tỉ đồng, anh cần khụng?”.

Nếu hai bên thỏa thuận được lãi suất, kỳ hạn, số lượng, kẻ “mua” người
“bỏn” khẳng định (confirm) bằng điện thoại. Sau đó, bên nọ gửi cho bên kia
bằng fax chứng từ văn bản chính thức có ký tên, đóng dấu.
Một số ngân hàng cẩn trọng, khi giao dịch qua điện thoại như vậy có đặt
máy ghi âm lại. Một khi giao dịch đã được khẳng định qua điện thoại, mà bên
nào hủy là mất uy tín ngay và xem như mất đường làm ăn. Giao dịch thủ công
nhưng luật bất thành văn là vậy. Thơng tin về việc mất uy tín lan nhanh và sẽ
khơng tổ chức tín dụng nào quan hệ với ngân hàng đó nữa
Ở các nước, giao dịch trên thị trường liên ngân hàng đã là giao dịch điện tử
từ lâu. Người “bỏn”, bờn “mua” rao tiền qua mạng và ai cũng có thể lên mạng
nắm thơng tin, biết giá (lãi suất) giao dịch bình quân. Việt Nam chưa có hệ
thống mạng liờn ngân hàng, mới chỉ có hệ thống mạng của từng ngân hàng.
Mặc dù vậy, các ngân hàng bằng nhiều cách vẫn nắm được cung, cầu của thị
trường và việc “mua” hớ, “bỏn” hớ tiền ít khi xảy ra. Tất nhiên vẫn có những
giao dịch mà lãi suất cao hơn lãi suất thông thường của thị trường tùy theo thời
điểm và nhu cầu của bên cần vốn.

1.4.Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
Lãi suất hình thành trong thị trường liên ngân hàng ngày càng phản ánh lãi
suất thị trường mặc dù chưa rõ nét. Từ năm 1998, hãng tin REUTER đã xây
dựng được một trang màn hình về lãi suất chào trên thị trường liên ngân hàng.
Thơng qua lãi suất hình thành trên thị trường liên ngân hàng, các tổ chức sử
dụng làm căn cứ để xác định lãi suất cho vay và huy động của mình cho phù hợp
và NHNH có thể căn cứ vào đó để dự báo biến động của thị trường tiền tệ. Từ
dú cỳ những biện pháp tác động kịp thời, đảm bảo sự ổn định của thị trường.


Lãi suất hình thành trên thị trường Liên ngân hàng chưa phản ánh lãi suất của
thị trường. Các tổ chức tín dụng mới chỉ tham gia vào thị trường Liên ngân hàng
với mục đích nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản của Ngân hàng mà chưa chú

trọng nhiều đến hoạt động kinh doanh trên Thị trường, chưa tham gia vào thị
trường với mục đích đầu tư, với khả năng dự đoán thị trường. Chớnh vỡ thế, chỉ
khi nào các tổ chức tín dụng có nhu cầu về vay hoặc cho vay vốn thì họ mới
thực hiện việc chào trên thị trường. Do việc không tham gia thường xuyên trên
thị trường nờn cỏc “giỏ chào” của các tổ chức tín dụng nhiều khi không sát với
giá thị trường. Bên cạnh đú, cỏc giao dịch giữa các tổ chức tín dụng trên thị
trường liên ngân hàng chủ yếu là song phương nên lãi suất hình thành trong giao
dịch nhiều khi chỉ theo cảm tính của 2 bên tham gia, nên chưa thể hiện được
toàn bộ cung cầu vốn trên thị trường. Kết quả tất yếu là, lãi suất trên Thị trường
Liên ngân hàng chưa phản ánh đúng với bản chất của thị trường, gây trở ngại
cho việc thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ.
Mặc dù lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng là một chỉ
số hết sức quan trọng, nhưng cho đến nay NHNN vẫn chưa xác định và thông
báo được lãi suất này một cách chính xác, cập nhật. Hiện nay, hãng tin
REUTER đã xây dựng được một trang màn hình để xác định lãi suất chào cho
vay / đi vay bình quân trên thị trường Liên ngân hàng Việt Nam hàng ngày. Cơ
chế xác định mức lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường Liên ngân hàng là:
hàng ngày, các ngân hàng (12 ngân hàng) được yêu cầu chào lãi suất của các
loại kì hạn khác nhau lên trang màn hình, bao gồm cả lãi suất chào vay và lãi
suất đi vay. Trên cơ sở đỳ, húng tính tốn để xác định mức lãi suất bình quân
của từng kì hạn. Tuy nhiên, mức lãi suất này vẫn chưa sát với lãi suất thị trường,
vì vậy ít được các tổ chức tín dụng quan tâm, tham chiếu. Nguyên nhân là:
+ Cơ cấu các ngân hàng được chọn để tham gia chào lãi suất trên trang màn
hình chưa hợp lý: chủ yếu là các chi nhánh ngân hàng nước ngồi, chỉ có số rất
ít là các ngân hàng thương mại trong nước, vì vậy, lãi suất bình quân chưa phản
ánh đúng cung cầu thực sự trờn thị trường.
+ Do việc các ngân hàng không thường xuyên tham gia giao dịch trên Thị
trường Liên ngân hàng nên trong những ngày các ngân hàng không có nhu cầu
giao dịch mà vẫn được yêu cầu phải cung cấp các mức chào lãi suất thì có thể
các ngân hàng khơng tính tốn kỹ lãi suất chào. Trong trường hợp này, có thể

nói rằng “trỏch nhiệm” về tính chinh xác của các ngân hàng về chào lãi suất
không cao, vì vậy, lãi suất bình quân được xác định trên cơ sở lãi suất chào của
các ngân hàng không phản ảnh chính xác cung cầu vốn trên thị trường.
Những biến động về lãi suất trên thị trường liên ngân hàng trong khoảng thời
gian từ cuối năm 2007 đến nay chính là những bằng chứng rõ ràng cho sự ảnh
hưởng của thị trường thứ 2 này đối với thị trường cho vay.Thụng thường, mức
lãi suất trên thị trường liên ngân hàng thường cao hơn lãi suất huy động của các


tổ chức tín dụng và thấp hơn lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng.
Trên thị trương liên ngân hàng Việt Nam , thông thường lãi suất 3 tháng cao
nhất, sau đố đến lãi suất 1 tháng và lãi suất cho vay qua đêm là thấp nhận.Nhưng
trong khoảng thời gian nóng sốt của thị trường liên ngân hàng vừa qua, lãi suất
qua đêm tăng một cách chóng mặt.Thị trường liên ngân hàng mở đầu năm 2008
với mức lãi suất VND qua đêm (over night) nhẹ nhàng 6,52%. Nhưng chỉ chưa
đầy một tháng sau đó, con số này đã tăng vọt gấp 4 lần, gây “sốc” đối với những
ngân hàng cần vốn và có thể cả với nhà điều hành chính sách tiền tệ.Từ 6,52%,
lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng dần tăng theo cầu vốn của các
ngân hàng thương mại khi năm hết, Tết đến, nhu cầu rút tiền trong dân cư và
doanh nghiệp tăng cao. Trước đó, tháng 11/2007, cầu VND đẩy lãi suất trên thị
trường liên ngân hàng vọt lên 17%. Ngân hàng Nhà nước vào cuộc, bơm thêm
hơn 10.000 tỷ đồng vào thị trường, lãi suất dần hạ về 8%. Nhưng tình hình này
khơng ổn định được bao lừu.Đà tăng nhanh và mạnh của lãi suất qua đêm đã
thực sự gây “sốc” bởi kỷ lục 17% đã bị đánh đổ.Ngày 29/1/2008, lãi suất qua
đêm chỉ ở mức 10,86%. Một ngày sau đó, sự đột biến xuất hiện khi các mốc
20%, 25% bị đánh đổ và đỉnh điểm cú lỳc lên tới 27% - chưa từng có trong lịch
sử tiền tệ Việt Nam.Ngày 19/2/2008, thậm chí lãi suất cho vay đã đạt đến mức
43/% năm 1 con số khó có thể tin nổi.


Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng bị đẩy cao xuất phát từ những nguyên
nhân, như Ngân hàng Nhà nước chủ trương thắt chặt tín dụng nhằm kiềm chế
lạm phát bằng việc tăng dự trữ bắt buộc, đồng loạt tăng các lãi suất chủ chốt;
cầu VND tăng mạnh mùa cuối năm; vốn khả dụng của nhiều ngân hàng “buộc”
phải giải ngân mạnh cuối năm 2007 để tăng tổng dư nợ kịp “hẹn” Chỉ thị 03,
vốn VND để mua ngoại tệ… Một số ngun nhân chính có thể thấy đó là:


Thứ nhất: Trong cỏc thỏng cuối năm 2007, đặc biệt là trong tháng 12-2007
các ngân hàng đẩy mạnh cho vay với tốc độ tăng trưởng rất cao, 14,2% so với
tháng 11-2007. Diễn biến này một mặt gắn liền với nhu cầu vốn cuối năm gia
tăng, mặt khác các ngân hàng đẩy mạnh tăng dư nợ tín dụng để bảo đảm thực
hiện quy định về cho vay chứng khoán theo Chỉ thị số 03 của NHNN. Chính vì
lẽ đó tạo ra nhu cầu vốn rất lớn và việc tăng mạnh và tăng cao lãi suất huy động
của một số tổ chức tín dụng là điều dễ hiểu.
Thứ hai: Trên thị trường liên ngân hàng, phần lớn các NHTM cổ phần nhỏ
(có quy mô vốn thấp, hoạt động dịch vụ kém phát triển và chủ yếu là kinh doanh
tín dụng) thường là các ngân hàng đi vay. Trong khi đó nhúm cỏc ngân hàng này
cũng chính là các ngân hàng có dư nợ tín dụng lớn hơn so với tổng huy động
vốn, tỷ lệ dư nợ tín dụng so với tổng huy động vốn cao hơn 100%, thậm chí có
NHTM cổ phần tỷ lệ này trên 200%. Một bộ phận vốn sử dụng cho vay khách
hàng và nền kinh tế được các tổ chức tín dụng này vay từ thị trường liên ngân
hàng. Song, bản chất của thị trường này là đáp ứng nhu cầu về thanh khoản, đẩy
nhanh tốc độ chu chuyển vốn nhờ luân chuyển được nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi (qua đêm, ngày, tuần), nhờ vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đừy chớnh
là nguyên nhân cơ bản tác động trực tiếp đến thị trường liên ngân hàng. Cùng
với hiệu ứng nhu cầu vốn dịp Tết Nguyên đán đã làm nóng thị trường liên ngân
hàng và thị trường tiền tệ trên địa bàn trong thời gian qua.
Thứ ba: Một bộ phận các NHTM cổ phần lớn (quy mô vốn lớn, dịch vụ phát
triển mạnh, quản lý tốt) sử dụng vốn hợp lý hơn, cơ cấu nguồn và cơ cấu tín

dụng hợp lý (dư nợ tín dụng so với tổng huy động vốn dưới 100%, có ngân hàng
chỉ khoảng 50%-60%) – thường là các ngân hàng cho vay trên thị trường liên
ngân hàng. Chính việc quan hệ một chiều (các ngân hàng thường xuyên cho vay
và nhúm cỏc ngân hàng thường xuyên đi vay) cũng tạo ra những hạn chế nhất
định trong quan hệ trên thị trường liên ngân hàng, làm xuất hiện hiện tượng
"kinh doanh" quá mức ngay trên thị trường này. Trong một số trường hợp lãi
suất đẩy lên quá cao vì nhu cầu thanh khoản và các ngân hàng đi vay khơng có
sự lựa chọn nào khác.
Như vậy, việc khai thác và sử dụng vốn của một số ngân hàng không hợp lý;
đẩy mạnh tăng trưởng cho vay quá mức, tạo ra những tác động ảnh hưởng về
mặt dài hạn và đã tác động đến tình hình thị trường tín dụng bất ổn. Những diễn
biến trên thị trường liên ngân hàng trong thời gian qua được nhìn nhận là một
kết quả tất yếu. Việc điều chỉnh thị trường bằng các công cụ hữu hiệu của
NHNN là cần thiết. Với việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng như việc mua tín
phiếu bắt buộc, tuy có thể sẽ gây những khó khăn nhất định trước mắt, song thực


sự cần thiết để bảo đảm ổn định thị trường tiền tệ, bảo đảm cho hoạt động kinh
doanh ngân hàng tăng trưởng và phát triển bền vững
Phía sau kỷ lục này, là áp lực khát vốn VND của một số ngân hàng thương
mại; thậm chí trả lãi suất cao nhưng vay vốn cũng khó. Trước khó khăn về vốn
VND, tính thanh khoản bị ảnh hưởng, một số ngân hàng thương mại buộc phải
dùng đến biện pháp “bịt” đầu ra, chốt các nhu cầu vay vốn trước và sau Tết
nguyên đán, đặc biệt là với nhu cầu vay vốn đầu tư bất động sản.Cuối năm 2007,
một loạt ngân hàng tung ra chương trình cho vay tín chấp tiêu dùng với hạn mức
lên đến 200 – 300 triệu đồng. Tuy nhiên, hiện tại một số thành viên đã tạm chốt
hẳn cửa này và lượng hồ sơ vay vốn vẫn đang một dày thờm.“Bịt” đầu ra là một
biện pháp hạ sách, phía sau đó là quan hệ tín dụng với khách hàng, lợi nhuận và
mục tiêu kinh doanh, bởi hiện 90% nguồn thu của nhiều ngân hàng vẫn đang
phụ thuộc vào hoạt động huy động - cho vay. Nhưng đây là biện pháp bắt buộc

và chỉ trong ngắn hạn. Bên cạnh sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước, chấp nhận
lãi suất cao trên thị trường liên ngân hàng, nhiều ngân hàng thương mại, đặc biệt
ở khối cổ phần, đã đồng loạt “nới” lãi suất huy động VND, dự phớa sau đó là
bài tốn chi phí, lợi nhuận và quan hệ với khách hàng vay vốn, lạm phỏt…
Với sự nỗ lực của NHTW, dường như sức nóng của thị trường giảm xuống
vào khoảng cuối tháng 3, đầu tháng 4, năm 2008. Lãi suất qua đêm của các tổ
chức tín dụng (TCTD) dao động từ 9,2 - trên 10%/năm; 1 tuần từ 14 15%/năm, 1 tháng từ 15 - 16%/năm. Các NHTM thực hiện thoả thuận với Hiệp
hội Ngân hàng Việc Nam về việc áp dụng mức trần lãi suất huy động VND bắt
đầu từ ngày 02/4/2008. Do đó, so với ngày 31/3/2008, các mức lãi suất huy
động có kỳ hạn đều giảm; riêng lãi suất huy động không kỳ hạn của khối NHTM
nhà nước có tăng lên. Các NHTM nhà nước có nhu cầu vốn trong thời gian này
là do áp lực về việc Kho bạc Nhà nước chuẩn bị rút về một khoản tiền lớn đang
gửi lại tại các ngân hàng này. Mục đích của việc này nhằm kiểm sốt chặt chẽ sự
gia tăng của tổng phương tiện thanh toán. Theo kế hoạch của NHNN, NHNN sẽ
phối hợp với Bộ Tài Chính thực hiện việc chuyển số dư tiền gửi của Kho bạc
Nhà nước tại các NHTM hiện nay về gửi tập trung tại NHNN hoặc NHNN sẽ
uỷ thác cho các NHTM đối với những nơi khơng có chi nhánh NHNN. Dự kiến,
việc này sẽ được thực hiện theo lộ trình phù hợp trong năm 2008.
Lâu nay, nguồn vốn Kho bạc Nhà nước vẫn được gửi tại NHTM nhà nước,
với lãi suất 2,4%/năm. Khối NHTM nhà nước đã có nhiều cơ hội sử dụng đồng
vốn chi phí thấp để cho vay trên thị trường liên ngân hàng. Thị trường tiền tệ
"núng" lờn được các chuyên gia giải thích rằng do nhiều ngân hàng chưa chấp
hành đỳng cỏc tỉ lệ an toàn trong hoạt động. Đó là việc sử dụng vốn vay trên thị
trường liên ngân hàng với kỳ hạn ngắn để cho khách hàng vay lại với kỳ hạn dài


dẫn tới vốn khả dụng bị thiếu hụt... Bởi thế, khi thiếu hụt vốn khả dụng, các
ngân hàng này phải chấp nhận vay với mức lãi suất cao để có vốn. Đõy cũng là
nguyên nhân "châm ngòi" cho cuộc đua tăng lãi suất lan rộng trên toàn hệ thống
vào cuối tháng 2/2008. Đến đầu quý II_2004, nhu cầu vốn của các TCTD tăng

lên do nhiều khoản tiền gửi đáo hạn, cộng với yêu cầu đáp ứng dự trữ bắt buộc
của cỏc ngõn hàng. Do đó, ngay cả những "mạnh thường quân" cũng không dễ
dàng "mở hầu bao" cho các ngân hàng khác vay lại vào thời điểm này. Chính vì
vậy, việc lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng trong thời gian gần đây là
phù hợp với cung cầu vốn trên thị trường. Tại văn bản số 91/TB-VPCP ngày
7/4/2008 thơng báo kết luận của Thủ tướng Chính Phủ về việc triển khai thực
hiện các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và
tăng trưởng bền vững, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu NHNN: Thực hiện các
biện pháp để định hướng và ổn định lãi suất thị trường.
Sự biến động của thị trường chưa dừng tại đừy.Đến ngày 07/04/2008, lãi suất
liên ngân hàng tăng trở lại. Thị trường tiền tệ lại vừa có chuyện khi lãi suất (LS)
liên ngân hàng (NH) tăng mạnh. Lần này người gửi tiền không được lợi vì
khơng thể dẫn đến cuộc đua LS huy động vốn như từng diễn ra trong tháng 22008 vỡ cỏc NH đã bị khống chế trần LS huy động. Tuy nhiên, diễn biến này có
thể tác động đến tâm lý: dưới mắt người dân, doanh nghiệp và nhà đầu tư, một
số NH vẫn chưa vượt qua khó khăn về thanh khoản dù NH Nhà nước đã cam kết
"đứng sau lưng" để hỗ trợ. Họ chưa yên tâm khi một số NH vẫn phải đánh vật
với chuyện cân đong vốn liếng hơn là chú tâm cho vay, phục vụ khỏch
hàng.Cừu chuyện LS liên NH nóng trở lại được NH Nhà nước xác nhận chỉ là
tạm thời. Lý do là các NH phải lo nguồn vốn để đáp ứng mức dự trữ bắt buộc
của tháng 4-2008. Nhưng các NH và Hiệp hội NH lại khơng hài lịng về diễn
biến này. Thậm chí Hiệp hội NH quá sốt ruột còn đề nghị NH Nhà nước xử lý
những NH đã cho vay liên NH với LS cao.Vẫn có một số NH thiếu vốn. Những
NH thừa tiền trước đây đẩy mạnh cho NH khác vay thì nay lại rút vốn về. Thế là
những NH đang đi vay của NH bạn bị hụt vốn, phải chạy vạy và LS nào họ cũng
chịu, đẩy LS liờn NH tăng lại như từng xảy ra trong tháng 2-2008. LS cho vay
đã được xác định phải theo thị trường, qui luật cung - cầu. NH Nhà nước có chủ
trương bình ổn LS nờn đó can thiệp nhưng lại chưa mạnh tay. Khơng phải NH
nào cũng có thể vay tiền từ NH Nhà nước. Trong đó có NH khơng có tài sản đủ
chuẩn để vay tiền. Không vay được từ NH Nhà nước, những NH này phải vay từ
các NH khác và chấp nhận bị "chặt" LS cao. Muốn bình ổn thị trường thì phải

mạnh tay hơn, kể cả phải đa dạng hơn hình thức cho vay hỗ trợ đối với các NH
thương mại.LS là công cụ hiệu quả nhất để chống lạm phát. Các nước đều tăng
LS để kiềm chế lạm phát. VN thì linh hoạt hơn, kiềm chế lạm phát nhưng chủ
trương từng bước thực hiện LS thực dương, trước mắt kéo LS xuống để giảm
bớt khó khăn cho sản xuất kinh doanh. Từ tháng 2-2008 đến nay, NH Nhà nước,


Hiệp hội NH áp dụng nhiều biện pháp để "ấn" LS từ trên 12%/năm xuống
11%/năm; LS liên NH cũng đã giảm mạnh.
Bàn tay điều hành của ngân hàng nhà nước một lần nữa khẳng định sức mạnh
của mình với biểu hiện lãi suất thị trường liên ngân hàng giảm xuống trong
khoảng thời gian giữa tháng 5_2008, Ngày 14 và 15-5, LS liên NH đang có xu
hướng giảm dần. LS tuần từ mức 22-24%/năm giảm còn 19%/năm. LS qua đêm
dao động ở mức 20%/năm. LS liên NH có xu hướng giảm dần sau khi NH Nhà
nước đang bàn các biện pháp nhằm tiến tới bỏ trần LS huy động.
Ngày 19/8, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số
1849/QĐ-NHNN về lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân
hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam đối với cỏc ngừn hàng.Theo đó, kể từ ngày 19/8/2008, mức
lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù
đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ được điều chỉnh từ mức 0,03%/ngày
(10,8%/năm) lên 0,0417%/ngày (15%/năm). Cơ sở pháp lý để Ngân hàng Nhà
nước quyết định như vậy chính là quy định của Bộ luật Dân sự, Luật ngân hàng
Nhà nước và Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008.Theo đó, lãi
suất thị trường liờn ngõn hàng cũng là loại lãi suất trong khuôn khổ điều chỉnh
của bộ Luật dân sự, vì thế cần phải thực hiện theo quy định chung.Với sự ra đời
cảu quyết định này thì lãi suất liên ngân hàng trở thành lãi suất định hướng để
các ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động cho vay hay huy động vốn.
Theo đó, lãi suất thị trường liên ngân hàng cũng là loại lãi suất trong khuôn khổ
điều chỉnh của bộ Luật dân sự, vì thế cần phải thực hiện theo quy định

chung.Với sự ra đời cảu quyết định này thì lãi suất liên ngân hàng trở thành lãi
suất định hướng để các ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động cho vay hay
huy động vốn.
Dần về cuối năm 2008, thị trường tiền tệ đã dần trở về trạng thái ổn định. Lãi
suất giao dịch bình quân bằng VND trên thị trường tiền tệ liên NH tháng 12 ở
hầu hết các kỳ hạn đều có xu hướng giảm với mức giảm khá mạnh, ngoại trừ lãi
suất giao dịch kỳ hạn 3 tháng tăng nhẹ so với lãi suất giao dịch tuần trước đỳ.Cụ
thể: Lãi suất bình quân kỳ hạn qua đêm là 7,1%/năm, 1 tuần là 8,28%/năm, 2
tuần là 8,98%/năm, 1 tháng là 9,86%/năm, 3 tháng là 11,72%/năm, 6 tháng là
13%/năm, 1 năm là 9,68%/năm. Lãi suất bình quân các kỳ hạn bằng USD nhìn
chung biến động theo hướng tăng nhẹ ở các kỳ hạn ngắn và giảm nhẹ đối với
các kỳ hạn dài hơn. Lãi suất giao dịch USD trong tuần phổ biến ở các mức dưới
3%/năm, lãi suất cho vay qua đêm 1,04%/năm, lãi suất các kỳ hạn 1 tuần trở lên
dao động trong khoảng 1,88%/năm đến 2,98%/năm. Như vậy, lãi suất trên thị
trường thời điểm này có chiều hướng giảm nhưng các ngân hàng thương mại


vẫn "nghe ngóng" và chưa chịu hạ thì hiện tại, thêm một tác động đưa lãi suất
thị trường liên ngân hàng vào khn khổ, sẽ góp phần tạo lực ép để hạ thị
trường lãi suất xuống.
Vào thời điểm đầu năm 2009, lãi suất giao dịch bình quân bằng VND trên thị
trường tiền tệ liờn ngân hàng ở hầu hết các kỳ hạn đều có xu hướng tăng.Trong
đó lãi suất bình quân kỳ hạn 2 tuần có mức tăng cao nhất lên tới 1,65%/năm; các
kỳ hạn cịn lại nhìn chung đều tăng nhẹ từ 0,68%/năm đến 1,27%/năm so với
tuần trước đú. Cỏc giao dịch phát sinh chủ yếu ở các kỳ hạn ngắn, trong tuần
không phát sinh các giao dịch kỳ hạn 12 thỏng.Lúi suất giao dịch bình quân
bằng USD tuần này biến động theo hướng giảm nhẹ ở các kỳ hạn ngắn (qua
đêm, 1 tuần, 3 tháng) và tăng ở các kỳ hạn dài hơn (2 tuần, 1 tháng , 6 thỏng),
khụng phát sinh các giao dịch kỳ hạn 12 tháng. Lãi suất giao dịch USD trong
tuần phổ biến ở các mức dưới 2,3%/năm.


Lãi suất bình quân thị trường liên ngân hàng tuần qua (từ 29/0104/02/2009)
(Đơn vị: %/năm)

Kỳ hạn

Qua
đêm

1 tuần

2 tuần

VND

6,04

6,45

7,59

7,88

9,66

8,35

-

USD


0,50

0,85

1,18

1,63

2,28

1,91

-

1 tháng 3 tháng 6 tháng 12 tháng


1.5 Phương thức giao dịch trên thị trường liên ngân hàng
Trên thị trường liên ngân hàng, hình thức giao dịch đã được cải tiến nhằm
mục tiêu đảm bảo nhanh chóng, chính xác tuyệt đối và an tồn. Vào thời điểm
cuối năm 2000, trên thị trường liên ngân hàng đú cỳ 28 thành viên thực hiện
việc chào cho vay/đi vay thông qua hệ thống giao dịch hiện đại của mạng
REUTER.
Hoạt động thanh toán trên thị trường liên ngân hàng được thực hiện qua
mạng SWIFT. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng trong thời gian gần
đây đã góp phần rút ngắn thời gian thực hiện một giao dịch liên ngân hàng. Thời
gian thực hiện một giao dịch liên ngân hàng được rút ngắn xuống cũn đơn vị
giờ, thậm chí đơn vị phỳt.Việc thực hiện hiện đại hố cơng nghệ ngân hàng
trong thời gian qua của ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng đã góp phần

khơng nhỏ thúc đẩy hoạt động của thị trường liên ngân hàng, giúp tăng khả năng
luân chuyển vốn giữa các tổ chức tín dụng với nhau.
Về cách thức giao dịch trên thị trường liên ngân hàng: Hiện nay, các giao
dịch liên ngân hàng giữa các tổ chức tín dụng được thực hiện theo 2 cách:
- Cách thứ nhất: Các tổ chức tín dụng thực hiện việc ký kết hợp đồng tín dụng
làm căn cứ pháp lý cho khoản vay. Hình thức này chỉ được áp dụng đối với
khoản vay có thời hann tương đối dài, khoảng từ 3 đến 6 tháng.
- Cách thứ hai: Đây là các giao dịch diễn ra dưới hình thức gửi tiền và nhận
tiền gửi từ các tổ chức tín dụng khác. Theo cách này, các tổ chức tín dụng
mở tài khoản giao dịch lẫn nhau và sau khi thoả thuận nội dung các khoản
vay thì tiến hành việc chuyển tiền vào tài khoản của ngân hàng vay mở tại
ngân hàng cho vay. Khi đến hạn trả nợ theo thoả thuận trước, ngân hàng đi
vay chuyển tiền trả lại cho ngân hàng cho vay cả gốc và lãi tiền gửi. Hình
thức này thường được áp dụng với giao dịch có thời hạn ngắn và các tổ chức
tín dụng có sự tin tưởng lẫn nhau. Hiện nay hình thức giao dịch này thường
được các tổ chức tín dụng sự dụng đối với các giao dịch liên ngân hàng Việt
Nam.
Về việc đảm bảo cho các giao dịch liên ngân hàng: Các giao dịch trên thị
trường liên ngân hàng thường không áp dụng hình thức đảm bảo bằng tài sản để
hạn chế rủi ro mà việc cho vay, đi vay dựa trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau giữa các
tổ chức tín dụng. Tuy nhiên để tránh rủi ro cho các giao dịch liên ngân hàng, các
ngan hàng tham gia trên thị trường cũng đưa ra một số biện pháp để đảm bảp
cho nguồn vốn của mình. Việc đảm bảo được thực hiện dưới hai hình thức sau:


+ Căn cứ vào độ tín nhiệm lẫn nhau giữa các thành viên trên thị trường mà
mỗi tổ chức tín dụng xác định một hạn mức tín dụng cho một tổ chức tín dụng
để làm căn cứ cho vay. Khi tổ chức tín dụng có nhu cầu vay trong phạm vi hạn
mức tín dụng thì giao dịch sẽ được thực hiện ngay khi cỏc bờn thoả thuận lãi
suất và thời hạn. Nhưng nếu nhu cầu vay của tổ chức tín dụng vượt quá hạn mức

mà tổ chức tỡn dụng cho vay đưa ra thì ngân hàng cho vay sẽ xem xét và quyết
định xem có yêu cầu ngân hàng vay có đảm bảo bằng tài sản hoặc có thể khơng
chấp nhận cho vay.
+ Đối với ngân hàng tham gia thị trường có độ tín nhiệm chưa cao, hoặc mới
có mối quan hệ lần đầu với ngân hàng cho vay phải có tài sản đảm bảo cho
khoản vay. Tài sản đảm bảo thường là các giấy tờ có giá mà ngân hàng vay đang
nắm giữ. Một hình thức đảm bảo khác mà các ngân hàng hay sử dụng để đảm
bảo cho khoản vay của mình là hình thức hốn đổi SWAP với nhau.
Trên thực tế, ở thị trường liên ngân hàng Việt Nam hiện nay, việc cho vay
và đi vay giữa các ngân hàng thường có sự phân biệt. Cụ thể, đối với các ngân
hàng thương mại nhà nước và các ngân hàng liên doanh hoặc chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, do có uy tín và quy mơ hoạt động lớn nên việc tiến hành dễ
dàng hơn so với ngân hàng thương mại cổ phần có nguồn vốn hoạt động nhỏ
hơn. Đây cũng là một đặc điểm rõ nét của thị trường liên ngân hàng Việt Nam.


Chương2: Đánh

giá hoạt động của thị trường liên ngân hàng
Việt Nam

2.1 Những kết quả đạt được
Thứ nhất, kết quả nổi bật trước tiờn phải nói tới đó là sự ra đời của thị trường
liên ngân hàng ngay trong những năm đầu của q trình đổi mới và ln đóng
vai trị là thị trường trung tâm của thị trường tài chính Việt Nam. Việc hình
thành và phát triển của thị trường liên ngân hàng phải kể đến nỗ lực của ngân
hàng nhà nước trong việc xây dựng nên một thị trường liên ngân hàng như ngày
nay. Với việc xây dựng hành lang pháp lý đầu tiên ( Chỉ thị số 07/ CT- NH xây
dựng thị trường có tổ chức giao dịch trực tiếp , giao dịch gián tiếp, đồng thời
ngân hàng nhà nước bảo lãnh cho các hoạt động giao dịch liên ngân hàng trong

thời kỳ đầu mới thành lập thị trường là những bước đi đúng đắn, hiệu quả cả
ngân hàng nhà nước trong sự tạo ra sự tin tưởng giữa các thành viên trên thị
trường.
Thứ hai, hoạt động trên thị trường liên ngân hàng ngày càng phát triển với
quy mô và doanh số ngày càng tăng, chất lượng của các giao dịch được nâng
cao, cách thức giao dịch cũng được cải thiện, từng bước phù hợp với thị trường
tiền tệ quốc tế, thể hiện sự phát triển không ngừng của của thị trường liên ngân
hàng Việt Nam. Thông qua hoạt động giao dịch trên thi trường liên ngân hàng,
hiệu quả sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại được phát huy, nói rộng ra
là sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội và mang lại thu nhập đáng kể cho các ngân
hàng thương mại. Đồng thời nó có tác dụng đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân
hàng. Đối với ngân hàng nước ngoài, với khả năng huy động tiền đồng cịn hạn
chế, thì thị trường liên ngân hàng chính là nơi cung cấp nguồn vốn tiền đồng
quan trọng để các ngân hàng này mở rộng thị trường hoạt động. đối với ngân
hàng thương mại trong nước,đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần thì
thị trường liên ngân hàng là kênh điều hòa vốn khả dụng, đồng thời thị trường
liên ngân hàng còn tạo ra nguồn vốn ngoại tệ cần thiết để các tổ chức tín dụng
trong nước mở tín dụng bằng ngoại tệ và cải thiện trạng thái ngoại hối của mình.
Thứ ba, cơ chế pháp lý và các quy tắc giao dịch của thị trường đã hình thành
và ngày càng hồn thiện đã tạo điều kiện cho các hoạt động giao dịch trên thị
trường liên ngân hàng ngày càng phát triển. Bên cạnh đó ngân hàng Nhà nước
đã đưa vào hoạt động thanh toán điện tử liên ngân hàng, đồng thời ban hành quy
chế thấu chi và cho vay qua đêm áp dụng trong thanh toán điện tử liên ngân
hàng theo quyết định số 1085/2002/QD- NHNN ngày 7/10/2002 và các quy định
liên quan đến vai trò người cho vay cuối cùng của ngân hàng Nhà nước đã gián


tiếp thúc đẩy hoạt động trên thị trường liên ngân hàng. Việc ngân hàng Nhà
nước vừa ban hành quy chế về hoạt động môi giới tiền tệ và đang phối hợp với
hiệp hội ngân hàng ban hành quy định hợp đồng mẫu cho nghiệp vụ mua bán

các giấy tờ có giá ngắn hạn hứa hẹn một khởi sắc mới trong hoạt động của thị
trường liên ngân hàng trong thời gian tới.
Thứ tư, lãi suất hình thành trong thị trường liên ngân hàng ngày càng phản
ánh lãi suất thị trường mặc dù chưa rõ nét. Từ năm 1998, hãng tin REUTER đã
xây dựng được một trang màn hình về lãi suất chào trên thị trường liên ngân
hàng. Thông qua lãi suất hình thành trên thị trường liờn ngân hàng, các tổ chức
sử dụng làm căn cứ để xác định lãi suất cho vay và huy động của mình cho phù
hợp và NHNH có thể căn cứ vào đó để dự báo biến động của thị trường tiền tệ.
Từ dú cỳ những biện pháp tác động kịp thời, đảm bảo sự ổn định của thị trường.
Thứ năm, hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam đã từng
bước hội nhập, tiếp cận và từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này thể
hiện các giao dịch trên thị trường đã dấn thực hiện các quy chuẩn quốc tế như:
nghiệp vụ tiền gửi qua đêm giữa các ngân hàng đã chiếm một tỷ trọng đáng kể
trong một sụd hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Các ngân hàng đã
áp dụng các công nghệ hiện đại trong giao dịch và thanh toán, giảm đáng kể thời
gian giao dịch. Sự tham gia thị trường tiền tệ liên ngân hàng của các chi nhánh
ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng trong nước gửi tiền tại nước ngoài đã
từng bước làm cho thị trường trong nước tiếp cận và kết nối với thị trường tiền
tệ khu vực và quốc tế.
Tóm lại, sự phát triển của thị trường tiền tệ liờn ngừn hàngViệt Nam trong
thời gian qua là đúng hướng và đã thực hiện đúng chủ trương của Đảng là từng
bước hội nhập với thị trường tiền tệ khu vực và quốc tê. Với những bước đi
vững chắc tiếp cận với các giao dịch của thị trường tiền tệ khu vực, cũng như thế
giới kết hợp với phát triển nghiệp vụ và hiện đại hố cơng nghệ ngân hàng, hệ
thống ngân hàng Việt Nam đã từng bước đạt được những thành công đáng ghi
nhận trong thời gian qua.
2.2.Những tồn tại và hạn chế.
2.2.1 Những tồn tại.
Mặc dù trong thời gian qua, hoạt đụngj trờn thị trường tiền tệ liên ngân hàng
đú cỳ những bước phát triển và đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Song thị

trường vẫn cón một số tồn tại và hạn chế nhất định. Điều này được thể hiện ở
một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, quy mơ hoạt động của thị trường cịn nhỏ, hoạt động phân tán và
mang tính một chiều. Doanh số của thị trường tăng lên khá đáng kể, tuy nhiên
khi so sánh với các thị trường các nước khác trong khu vực thì con số này vẫn


cịn khá khiêm tốn. Mặt khác, có một số ngân hàng chỉ chuyên đi bỏn cũn một
số ngân hàng chuyên đi mua .Do vậy khi các ngân hàng cung tiền đồng khó
khăn về vốn khả dụng thì hoạt động của thị trường gặp khó khăn. Bên cạnh đó,
sự hạn chế trong các giao dịch tiền đồng của các ngân hàng trong nước ra nước
ngoài, thị trường thứ cấp chưa phát triển tồn diện đã chưa tạo ra sự sơi động
của thị trường liên ngân hàng. Các giao dịch giữa các ngân hàng trên thị trường
thiếu bình đẳng, cũn cú sự phân biệt giữa cỏc nhúm ngân hàng khác nhau. Ví dụ
như, nhóm ngân hàng nhà nước sẽ thực hiện giao dịch với nhau một cách thuận
tiện và dễ dàng hơn. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại cổ phần sẽ gặp
khó khăn và thủ tục phức tạp hơn. Bên cạnh đó, thị trường cũn cú sự phân biệt
giữa các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài.
Thứ hai, hoạt động trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, cịn rời rạc khơng
liên tục, thiếu tính chun nghiệp. Điều này là do, các tổ chức tín dụng than gia
vào thị trường mới chỉ thực hiện được một trong hai mục đích cơ bản của thị
trường. Đó là chỉ mới đảm bảo vốn khả dụng trong hoạt động kinh doanh của
mình mà chưa quan tâm đến hoạt động kinh doanh trên thị trường. Nói cách
khác, hoạt động kinh doanh thơng qua việc cho vay các ngân hàng khác không
hấp dẫn bằng đầu tư trực tiếp trên thị trường tín dụng. Việc chưa hình thành nên
hệ thống các nhà đầu tư, các nhà kinh doanh tiền tệ chuyên nghiệp và các nhà
môi giới làm cho thị trường thiếu động lực phát triển. Hiện nay các giao dịch
trên thị trường của các tổ chức tín dụng chỉ nhằm mục đích đảm bảo khả năng
thanh khoản (đối với các giao dịch cú kỡ hạn ngán) và để mở rộng tín dụng (đối
với các giao dịch có kỳ hạn dài). Mục tiêu kinh doanh chủ yếu của các tổ chức

tín dụng là vẫn thiên về nghiệp vụ tín dụng truyền thống. Mặt khác, các thị
trường khác vẫn chưa phát triển ( thị trường chứng khốn, thị trường phái
sinh,...) chưa phát triển nên vai trị trung tâm của thị trường trong việc kinh
doanh chênh lệch giá giữa các thị trường chưa được phát huy.
Thứ ba, cơng tác thu thập, phân tích và xử lý thơng tin của thị trường còn
nhiều bất cập và chưa đáp ứng được yêu cầu. Lãi suất hình thành trên thị trường
chưa phản ánh rõ nét lãi suất của thị trường. Thơng thường chỉ khi nào các tổ
chức tín dụng có nhu cầu về vay hoặc cho vay thì họ mới chào trên thị trường.
Do việc tham gia thị trường không thường xuyên nờn cỏc giỏ chào đôi khi
không sát với giá thị trường. Đồng thời các giao dịch chủ yếu là song phương
nên chỉ theo cảm tính của hai bên tham gia, chưa thể hiện được toàn bộ cung cầu
trên thị trường. Kết quả tất yếu là, lãi suất chưa phản ánh đúng bản chất của thị
trường, gây trở ngại cho các cơng cụ của chính sách tiền tệ.
Mặc dù lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng là một chỉ
số quan trọng nhưng NHNN vẫn chưa thông báo và cập nhật thường xuyên. Cơ
chế xác định lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường là hàng ngày các ngân
hàng đều được yêu cầu chào lãi suất của các loại kì hạn khác nhau bao gồm cả


lãi suất chào vay và đi vay. Tuy nhiên do một số nguyên nhân sau đây mà lãi
suất này chưa sát với lãi suất trên thị trường:
+ Cơ cấu các ngân hàng được chọn để tham gia chào lãi suất là chưa hợp lý :
chủ yếu là các chi nhánh ngân hàng nước ngồi, rất ít các ngân hàng thương
mại trong nước.
+ Do việc các ngân hàng không thường xuyên tham gia các giao dịch nên trong
những ngày khơng có nhu cầu giao dịch mà vẫn được yêu cầu phải cung cấp các
mức chào lãi suất thì có thể các ngân hàng khơng tính toỏn cỏc mức lãi suất đưa
ra. Vì vậy lãi suất bình quân xác định trên cơ sở lãi suất chào của các ngân hàng
không phản ánh chính xác cung cầu vốn trên thi trường.
Trên thị trường liên ngân hàng Việt Nam, công tác thu thập thông tin, phân

tích số liệu và xử lý thơng tin trên thị trường của các tổ chức tín dụng và của
Ngân hàng Nhà nước còn nhiều bất cập. Hiện nay, việc thu thập thông tin, số
liệu mới chỉ dừng lại ở con số thống kê mà chưa phải là lãi suất cập nhật phục
vụ cho công tác điều hành. Các số liệu báo cáo mà các tổ chức tín dụng đưa lên
cho Ngân Hàng Nhà Nước mới chỉ tập trung vào các số liệu cho vay/ đi vay mà
chưa đề cập đến số liệu về tiền gửi/ nhận tiền gửi tại các tổ chức tín dụng. Mặt
khác, các số liệu báo cáo thường chậm trễ nên không thể phỏn ỏnh một cách đầy
đủ, kịp thời diễn biến trên thị trường.
Tóm lại, cho đến nay, Thị trường LNH Việt Nam đang phát triển ở mức thấp,
còn nhiều bất cập, hạn chế.
2.2.2. Nguyên nhân
Trên thực tế, Thị trường LNH Việt Nam còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế
và thiếu sót. Có nhiều nguyên nhân, bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và
nguyờn nhõn khách quan dẫn đến những tồn tại của Thị trường LNH Việt Nam.
Tuy nhiên, có thể kể ra một số nguyên nhân chính như sau:
- Nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến những tồn tại của Thị trường LNH là
nền kinh tế của nước ta vẫn còn đang ở trong quá trình chuyển đổi từ một
nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,
nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường tài chính – tiền tệ Việt Nam
nói riêng vẫn cịn đang ở trình độ phát triển thấp. Các hoạt động giao dịch
của các tổ chức tín dụng trên Thị trường LNH mới chỉ nhằm mục đích
thanh khoản là chủ yếu, coi nhẹ yếu tố kinh doanh. Do vậy, Thị trường
LNH chưa phát triển được toàn diện.
- Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn cơ cấu lại;
thu nhập chính của các tổ chức tín dụng Việt Nam chủ yếu vẫn từ nghiệp
vụ kinh doanh tín dụng là chủ yêu ( chiếm từ 80-90%), trong khi đó, thu


nhập từ dịch vụ ngân hàng còn rất khiêm tốn, chiếm tỷ trọng nhỏ. Điều
này cũng một phần là do sự phát triển khơng đồng bộ của thị trường tài

chính Việt Nam. Trong khi nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển
tương đối nhanh, nhu cầu vốn trong nền kinh tế ngày càng tăng cao, tuy
nhiên, trên thực tế là việc giải quyết các nhu cầu về vốn chỉ được đáp ứng
thông qua các tổ chức trung gian tài chính là các ngân hàng do thị trường
chứng khốn của nước ta vẫn còn đang trong giai đoạn sơ khai và hoạt
động chưa hiệu quả. Như vậy, gánh nặng về vốn đặt lên các ngân hàng
thương mại Việt Nam.Nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế quá cao, mà
nguồn vốn nhàn rỗi huy động được lại hạn chế, nờn cỏc ngân hàng thương
mại ln trong tình trạng thiếu vốn cho vay. Do đó, nghiệp vụ tín dụng
đối với các ngân hàng thương mại là quá hấp dẫn và đem lại lợi nhuận cao
cho các ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng tham gia vào Thị trường LNH
chỉ với mục đích thanh khoản mà khơng cần quan tâm đến mục đích kinh
doanh. Thị trường LNH chưa phát triển được toàn diện cũng là hệ quả tất
yếu.
- Đồng tiền Việt Nam chưa phải là đồng tiền có khả năng chuyển đổi, vì
vậy cũng gây khó khăn nhất định cho hoạt động của Thị trường LNH khi
hội nhập với thị trường tài chính- tiền tệ khu vực, đặc biệt là thị trường
ngoại hối. Việc các nhà đầu tư quốc tế ít quan tâm đến đầu tư vào các giao
dịch bằng VNĐ cũng làm cho thị trường ngoại hối của Việt Nam chưa
phát triển từ đó ảnh hưởng đến hoạt động chung của thị trường tiền tệ.
- Một nguyên nhân khác nữa dẫn đến những tồn tại trong Thị trường LNH
Việt Nam là: hệ thống pháp luật để điều chỉnh hoạt động của thị trường
tiền tệ còn nhiều bất cập. Các văn bản pháp luật hiện hành mới chỉ quan
tâm đến những Quy định có tính pháp lý chung mà thiếu những quy định
mang tính hướng dẫn, các quy tắc ứng xử trên thị trường, vì thế chưa thúc
đẩy hoạt động của Thị trường LNH phát triển.
- Cơng nghệ thanh tốn LNH hiện đại của Việt Nam cịn nhiều hạn chế.
Hình thức thanh tốn điện tử LNH hiện nay còn đang trong giai đoạn thử
nghiệm từ ngày 2/5/2002 và mới có một số ớt cỏc ngân hàng được tham
gia. Vì thế, chưa thể hỗ trợ đắc lực cho Thị trường LNH phát triển trong

thời gian trước mắt.


Những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của thị trường liên ngân hàng ở Việt
Nam.
Chương 3:

3.1 Định hướng phát triển thị trường liên ngân hàng Việt Nam. Trong
thời gian tới
Trong Đại Hội Đảng lần thứ IX, các văn kiện đã nêu rõ quan điểm của Đảng
về việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong đó, các quan điểm về xây dựng hệ thống ngân hàng Việt Nam
vững mạnh được khẳng định mạnh mẽ. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
2000-2010 đã nêu rõ định hướng điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới
là : “thực thi chính sách tiền tệ bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mơ, kiểm sốt lạm
phát, thúc đẩy sản xuất và tiêu dung, kích thích đầu tư và phát triển. Sử dụng
linh hoạt và có hiệu quả các cơng cụ chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất,
nghiệp vụ thị trường mở theo các nguyên tắc của thị trường, nâng dần và tiến tới
thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam” ( chiến lược phát
triển kinh tế xã hội năm 2001-2010, NXB Chính trị quốc gia, 2001, trang 197).
Trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển chính sách tiền tệ của Việt Nam
và thực tiễn thực hiện chính sách tiền tệ vừa qua, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã chủ trương “ từng bước đổi mới một cách căn bản, đồng bộ việc xây
dựng và điều hành chính sách tiền tệ phù hợp với thông lệ quốc tế” ( Chiến lược
tiền tệ- ngân hàng giai đoạn 2001-2010).
Mục tiêu về chính sách tiền tệ của ngành ngân hàng đến năm 2010 có rất nhiều.
Tuy nhiên, trong đó, việc hồn thiện hệ thống thị trường tiền tệ thứ cấp bao gồm
thị trường LNH là một trong những mục tiêu trước mắt và lâu dài. Như vậy,
phương hướng phát triển Thị trường Liên ngân hàng là thị trường cơ sở và là

trọng tâm của toàn thị trường tiền tệ là rất rõ ràng.
Trên thực tế, Thị trường Liên ngân hàng trong thời gian vừa qua có thể đánh
giá là chậm phát triển so với yêu cầu của nền kinh tế. Thị trường chưa thực hiện
được đầy đủ chức năng và vai trò của một Thị trường Liên ngân hàng đích thực,
từ đó, gây cản trở cho việc đổi mới và điều hành chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước. Việc phát triển thị trường Liên Ngân hàng Việt Nam bao gồm:
- Xây dựng và phát triển thị trường Liên ngân hàng đồng bộ với việc xây
dựng các laoij thị trường khác nhau. Thị trường Liên ngân hàng là một bộ phận
của thị trường tiền tệ, đồng thời , các chủ thể tham gia trên thị trường Liên ngân
hàng cũng là các chủ thể tham gia các thị trường tài chính khác. beenc cạnh đú,
cỏc thị trường này lại luụn cú mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chính vì vậy mà


×