Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.54 KB, 38 trang )

TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục tiêu nghiên cứu
1.1. Mục tiêu chung
Tìm hiểu một số ngành hàng Việt Nam gia công cho nước ngoài: dệt may, da
giày, . . . và đề ra giải pháp để phát triển ngành gia công Việt Nam thành trung
tâm của các công ty đa quốc gia.
1.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu thực trạng xuất nhập khẩu các mặt hàng gia công của nước ta giai
đoạn 2009- 2011.
- Phân tích những thuận lợi và khó khăn đối với các ngành gia công xuất khẩu
hiện nay.
- Đánh giá năng lực cạnh tranh và tiềm năng phát triển của các ngành gia công.
- Đề ra những giải pháp giúp phát triển các ngành gia công và đẩy mạnh xuất
khẩu.
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1. Phạm vi về không gian
Đề tài được thực hiện trên toàn quốc
3.2. Phạm vi về thời gian
Số liệu trong đề tài là số liệu giai đoạn 2009-2011
3.3. Phạm vi về nội dung
Thực trạng và các giải pháp phát triển ngành gia công của Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp được thu thập từ nguồn là báo, sách, tạp chí, Internet, niên giám
thống kê, tổng cục thống kê Việt Nam.
4.2. Phương pháp phân tích
- Mục tiêu thứ nhất: Sử dụng phương pháp phân tích số liệu tương đối
và tuyệt đối để phân tích thực trạng gia công xuất khẩu giai đoạn 2009- 2011.
- Mục tiêu thứ hai: Trên cơ sở lý luận để đánh giá xu hướng phát triển
của ngành gia công Việt Nam.


1 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
- Mục tiêu thứ ba: Từ những kết quả nghiên cứu ở những mục tiêu
trên để đề ra các giải pháp phát triển ngành gia công hiện nay.
2 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
Cơ sở lý luận về xuất khẩu và các ngành gia công: dệt may,
da giày, phần mềm.
1. Xuất khẩu
1.1. Khái niệm xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hóa là hoạt động buôn bán ở phạm vi quốc tế. Đó không
phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống trong các quan hệ buôn bán,
thương mại được tổ chức từ bên trong ra bên ngoài nhằm thúc đẩy sự phát triển
của sản xuất hàng hóa, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao
đời sống nhân dân.
1.2. Khái niệm kim ngạch xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu là tổng giá trị hàng hóa mà một nước xuất khẩu được,
trong một giai đoạn nhất định, thường được tính bằng USD.
1.3. Khái niệm gia công quốc tế
Gia công quốc tế là việc một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu
nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để
chế biến ra thành phẩm theo yêu cầu của bên kia, sau đó giao lại cho bên đặt gia
công và nhận thù lao (gọi là phí gia công).
1.4. Các loại hình kinh doanh xuất khẩu
Với chủ trương đa dạng hóa các loại hình kinh doanh xuất nhập khẩu, hiện
nay các công ty áp dụng nhiều hình thức kinh doanh xuất nhập khẩu khác nhau.
- Xuất khẩu trực tiếp: là phương thức kinh doanh mà ở trong đó công ty
khai thác nguồn hàng, xuất khẩu lô hàng ra nước ngoài mang thương hiệu của

mình và tự chịu mọi trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
- Xuất khẩu gia công: là phương thức kinh doanh đặc biệt trong mậu
dịch quốc tế. Trong đó một bên gọi là bên nhận gia công, nhập khẩu nguyên liệu
hoặc bán thành phẩm của một bên khác (bên đặt gia công) để tạo ra sản phẩm
theo yêu cầu của bên đặt gia công và giao lại cho họ để nhận thù lao.
- Xuất khẩu ủy thác: Các cơ sở ủy thác cho cơ sở ngoại thương hoặc
một đơn vị xuất khẩu trực tiếp để xuất lô hàng cho mình. Mục đích của bên nhận
ủy thác là nhằm nhận được một khoảng thù lao gọi là phí ủy thác.
3 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
2. Ngành Dệt May
2.1 Lịch sử phát triển ngành dệt may.
Các hoạt động dệt may mang tính chất truyền thống thủ công ở Việt Nam
đã có từ rất lâu đời. Một số làng nghề truyền thống vẫn tồn tại và phát triển như
Vạn Phúc (Hà Đông – Hà Nội), Triều Khúc (Thanh Trì - Hà Nội), Mẹo (Hưng
Hà – Thái Bình)… Sự hình thành của ngành Dệt may Việt Nam với vai trò là
một ngành công nghiệp được đánh dấu bởi sự ra đời của nhà máy liên hợp dệt
Nam Định năm 1897. Năm 1976, các sản phẩm bắt đầu được xuất khẩu tới các
nước thuộc khối hợp đồng tương trợ kinh tế với bạn hàng đầu tiên và quan trọng
nhất là Liên Xô cũ thông qua các hợp đồng gia công. Theo thỏa thuận, Việt Nam
nhập khẩu bông từ Liên Xô cũ và bán thành phẩm cho Liên Xô. Năm 1986, Việt
Nam bắt đầu ký các hợp đồng gia công khối lượng lớn với Liên Xô (được gọi là
thỏa thuận 19/5), theo đó, Liên Xô cung cấp tất cả các nguyên liệu và thiết kế
mẫu mã còn Việt Nam thực hiện công đoạn sản xuất. Với các hợp đồng gia công
như vậy, ngành dệt may Việt Nam phát triển nhanh chóng trong các năm 1987-
1990, các xí nghiệp Dệt May được thành lập khắp trên cả nước, thu hút hàng
trăm nghìn lao động và là nguồn đóng góp đáng kể vào ngân sách Nhà nước.
Nhờ có tiến trình đổi mới và quá trình dịch chuyển sản xuất ngành công nghiệp
dệt may sử dụng nhiều lao động từ các nước phát triển sang các nước đang phát
triển, ngành dệt may Việt Nam bước sang một giai đoạn mới có sự hội nhập quốc

tế rộng rãi hơn được đánh dấu bởi hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt
Nam và cộng đồng châu Âu ký kết ngày 15/12/1992. Các khách hàng quốc tế lớn
của ngành dệt may của Việt Nam hiện nay là Mỹ, Nhật Bản và EU.
2.2. Vai trò của Ngành dệt may trong nền kinh tế Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam đã có sự tăng trưởng nhanh trong thời gian qua,
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may luôn dẫn đầu trong nhóm các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam chỉ đứng sau dầu thô. Ngoài ra, ngành dệt may còn
có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Ngành cung cấp các mặt hàng
thiết yếu cho xã hội, giải quyết việc làm cho một lực lượng lớn lao động, đồng
thời đã mang lại nguồn ngoại tệ lớn từ xuất khẩu và đóng góp một nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước. Với hơn 2000 doanh nghiệp lớn nhỏ, hiện ngành dệt may
Việt Nam đã tạo việc làm cho khoảng 2 triệu lao động trên cả nước. Giá trị sản
4 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
xuất công nghiệp của ngành chiếm bình quân trên 9% toàn ngành công nghiệp,
kim ngạch xuất khẩu chiếm 14,6% so với tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Do tiềm lực sản xuất mạnh với những lợi thế sẵn có về nguồn lao động
dồi dào, giá nhân công tương đối thấp, được chính phủ ưu tiên phát triển, ngành
dệt may Việt Nam đã thu hút một lượng vốn đầu tư nước ngoài và tạo điều kiện
mở rộng đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, đổi mới công nghệ, góp phần nâng cao giá
trị sản phẩm.Trong những năm qua đã có 534 dự án có vốn đầu tư nước ngoài từ
28 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào ngành dệt may Việt nam với tổng vốn
đăng kí là 3.215 triệu USD.
Ngành dệt may dùng ít tài nguyên không tái tạo lại nhưng đem lại hiệu
quả kinh tế qua thu nhập cho người dân; chỉ cần trên 1 ha đất để xây dựng một
nhà máy dệt may tạo việc làm cho 1000 công nhân, với thu nhập của người lao
động trong một năm xấp xỉ 40 triệu đồng, Tổng thu nhập trên 1ha đất đã là trên
dưới 40 tỷ đồng.
Năm 2011, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt khoảng 16 tỷ
USD (trong đó xuất khẩu xơ, sợi các loại đạt trên 1,8 tỉ USD), tăng gần 30% so

với năm 2010, như vậy ngành dệt may đã tạo ra giá trị trong nước khoảng 6,7 tỷ
USD góp phần quan trọng trong việc giảm nhập siêu và cân bằng cán cân
thương mại cho nền kinh tế nước nhà. Ngành công nghiệp dệt may không chỉ
đóng góp to lớn vào việc giải quyết việc làm, góp phần đảm bảo an sinh xã hội;
ngành dệt may trú đóng hầu hết các tỉnh thành trong cả nước từ Bắc vào Nam,
do đó góp phần thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn từ nông
nghiệp sang công nghiệp trong công cuộc đổi mới và trong sự nghiệp công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, xóa dần khoảng cách giữa thành thị và
nông thôn.
3. Ngành Da Giày
3.1 Lịch sử phát triển ngành giày da
Việc sản xuất và kinh doanh giày dép tại Việt Nam đã có từ lâu đời nhưng
phần lớn là sản xuất bằng phương pháp thủ công với những cơ xưởng vài mươi
nhân công. Và chỉ được biết đến như một ngành công nghiệp thật sự vào năm
1990 với việc thành lập Hiệp hội ngành da giày Việt Nam (LEFASO) là mốc
đánh dấu sự ra đời của ngành công nghiệp da giày sản xuất theo phương thức
5 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
hiện đại trên dây chuyền công nghiệp. Từ đó hình thành những nhà máy có quy
mô từ vài trăm đến hàng chục ngàn lao động và tham gia vào việc xuất khẩu giày
da ra thế giới. Vào những năm đầu thập niên 1990, ngành da giày Việt Nam chủ
yếu gia công sản xuất mũ giày cho các nước Đông Âu theo Hiệp định 19/5, tuy
nhiên việc gia công này đã sớm sút giảm do thị trường Đông Âu bị biến động
mạnh. Vấn đề này đòi hỏi các doanh nghiệp ngành da giày Việt Nam phải tự tìm
cho mình thị trường mới và chuyển dần xuất khẩu sang các nước Tây Âu. Vượt
qua những khó khăn của buổi ban đầu và cuối cùng ngành da giày Việt Nam
cũng đã một phần khẳng định được vị trí của mình trên thị trường bằng những số
liệu biết nói. Giá trị xuất khẩu cả ngành da giày đã đạt mức 1.471 triệu đô la Mỹ
năm 2000. Từ đầu những năm 2000 đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành
nhiều chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước giúp cho các doanh

nghiệp da giày trong nước có cơ hội phát triển, cộng với đầu tư của nhiều doanh
nghiệp sản xuất da giày từ Hàn Quốc, Đài Loan góp phần thay đổi nhanh
chóng bộ mặt của ngành da giày Việt Nam.
3.2. Vai trò của ngành da giày trong nền kinh tế Việt Nam
- Gia công tuy không tạo được lợi nhuận lớn nhưng luôn tái tạo
được ngoại tệ và không bao giờ bị nợ nước ngoài, không sợ bị lỗ, bị ế vì khách
hàng bao tiêu toàn bộ sản phẩm.
- Gia công xuất khẩu giầy là cơ sở để mở rộng thúc đẩy các quan hệ kinh
tế đối ngoại. Thực hiện xuất khẩu có liên quan đến nhiều lĩnh vực như hoạt
động ngân hàng quốc tế, vận tải quốc tế… vì vậy khi xuất khẩu phát triển, các
quan hệ này cũng phát triển theo. Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là
trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì bước
đi cần thiết do thiếu vốn, công nghệ, phương thức quản lý và chưa có thị
trường. Từ những năm đầu thập kỷ 90 đến nay, ngành giày da Việt Nam
bắt đầu phát triển với tốc độ nhanh cùng với việc hình thành, mở rộng thị
trường trong nước và xuất khẩu. Gia công giầy Việt Nam có một vị trí quan
trọng trong nền kinh tế đất nước: chiếm 8,2% lực lượng lao động trong khu
vực công nghiệp chế biến, chiếm 10,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

6 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
4. Ngành Phần Mềm
4.1. Khái niệm gia công xuất khẩu phần mềm
Gia công phần mềm xuất khẩu là việc công ty phần mềm trong nước theo
yêu cầu đặc tả của khách hàng nước ngoài mà làm ra sản phẩm phần mềm và
nhận phí gia công. Khách hàng nước ngoài có thể hỗ trợ về tài chính nếu như
khối lượng công việc tương đối lớn. Như vậy, gọi là gia công xuất khẩu nhưng
gia công phần mềm xuất khẩu không giống như gia công các hàng hóa khác. Đối
với các hàng hóa thông thường, bên đặt gia công thường cung cấp nguyên liệu
thô để bên nhận gia công chỉ việc tiến hành sản xuất rồi thu phí gia công. Còn

với gia công phần mềm, không có nguyên liệu thô để giao cho bên nhận gia công
mà chỉ có trường hợp bên đặt gia công yêu cầu bên kia sử dụng một ngôn ngữ
lập trình nào đó. Nếu đây là một ngôn ngữ thông dụng mà bên gia công đã có sẵn
tại cơ sở thì thôi, còn nếu là một ngôn ngữ đặc biệt thì bên đặt gia công sẽ cung
cấp. Bên nhận gia công tự tìm hiểu ngôn ngữ đó rồi tiến hành theo yêu cầu của
khách hàng. Đây là hình thức xuất khẩu phần mềm chủ yếu của các nước đang
phát triển bởi nó có khá nhiều ưu điểm.
4.2. Vai trò cuả ngành xuất khẩu phần mềm trong nền kinh tế Việt
Nam
Cũng như tất cả các ngành khác, vị trí của hoạt động xuất khẩu phần mểm
trong nền kinh tế quốc dân phụ thuộc rất lớn vào vị trí bản thân ngành công
nghiệp phần mềm. Coi công nghệ phần mềm là ngành kinh tế mũi nhọn không
phải là ý muốn chủ quan mà hoàn toàn mà là xu thế chung của thế giới. Chiếm vị
trí quan trọng trong một ngành kinh tế mũi nhọn, phần mềm tuy vậy không phải
là sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Quy mô hoạt động xuất khẩu phần
mểm nước ta còn rất nhỏ bé so với các mặt hàng khác. Ước tính đến hết năm
2003, kim ngạch xuất khẩu phần mềm Việt Nam mới đạt khoảng 25 triệu USD.
Trong khi ngay từ năm 1995, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng như dệt may,
giày dép, thủy sản… đã bỏ xa con số này (xem bảng 1). Đây là một thực trạng
đáng thất vọng nếu xét đến tiềm năng thực sự của Việt Nam. Hy vọng trong
tương lai không xa, xuất khẩu phần mềm Việt Nam sẽ khẳng định được vị trí
“mũi nhọn” của mình.
7 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam
(1995-2002)
Đơn vị: triệu USD
Ngành
1995
1999

2000
2001
2002
Dệt may
850,0
1746,2
1891,9
1975,4
2752,0
Giày dép
296,4
1387,1
1471,7
1587,4
1867,0
Thủy sản
621,4
973,6
197,5
1816,4
2023,0
Rau quả tươi và chế biến
56,1
106,6
213,1
344,3
201,0
Nguồn : Niên giám thống kê năm 2002 (tramg 376 – 377) -NXB Thống kê
8 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI

Chương 2
TÌNH HÌNH GIA CÔNG XUẤT KHẨU CÁC NGÀNH DỆT MAY,
DA GIÀY, PHẦN MỀM CỦA NƯỚC TA
A. NGÀNH DỆT MAY
I. Tình hình gia công xuất khẩu ngành dệt may ở nước ta hiện nay.
Theo số liệu của Trung tâm thương mại thế giới, Việt Nam đứng trong
danh sách TOP 10 các nước có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất thế giới về hàng
Dệt may trong giai đoạn 2007-2009 và đứng ở vị trí thứ 7 trong năm 2010 với thị
phần xuất khẩu gần 3%, sau Trung Quốc (thị phần 36.6%), Bangladesh (4,32%),
Đức (5,03%), Italy (5%), Ấn Độ (3,9%) và Thổ Nhĩ Kỳ (3,7%).
Bảng 2 - Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may (2007- 2011)
Chỉ tiêu 2007 2008 2009 2010 2011
Kim ngạch xuất khẩu
Dệt may (tr USD)
7,750 9,120 9,066 11,175 11,693
% tổng kim ngạch XK
của VN
16.02% 14.50% 16.02% 15.60% 14.98%
Tăng trưởng so với
cùng kỳ năm trước
theo thời giá hiện tại
17.68% -0.59% 23.26% 29.40%
Nguồn: GSO, HBBS
Tính theo giá hiện thời, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam
tăng trưởng mạnh trong năm 2008 (gần 18%). Tuy nhiên, đến năm 2009, dưới
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kim ngạch xuất khẩu Dệt may
của Việt Nam giảm nhẹ (gần 0,6%) so với năm 2008 xuống còn 9.066 triệu USD.
Trong năm 2010, giá trị xuất khẩu Dệt may của Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ
trở lại với tốc độ tăng trên 20% (năm 2010) do các đơn hàng gia công được
chuyển dần từ Trung Quốc sang Việt Nam, đồng thời, Việt Nam đã mở rộng thị

trường xuất khẩu sang các thị trường mới như Đài Loan, Hàn Quốc, các nước
ASEAN và gần 30% (năm 2011) so với cùng kỳ năm trước.
Không chỉ tập trung vào mảng xuất khẩu, thời gian qua, các doanh nghiệp
dệt may cũng đã coi trọng hơn thị trường trong nước. Nhiều doanh nghiệp đã và
đang khẳng định được chỗ đứng của mình bằng cách đầu tư mạnh vào việc
nghiên cứu thị trường, tập trung hơn trong sáng tạo thiết kế thời trang kết hợp với
chương trình đưa hàng về nông thôn. Đặc biệt, với việc tham gia tích cực vào
9 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
chương trình “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” nhiều doanh
nghiệp không những tăng thêm được doanh thu, lợi nhuận, mà còn kéo người
tiêu dùng gần hơn với doanh nghiệp, đẩy lùi tâm lý sính hàng ngoại của người
tiêu dùng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia trong ngành, dệt may Việt Nam vẫn
còn tồn tại những điểm yếu như công nghiệp phụ trợ kém phát triển, tỷ lệ gia
công còn cao, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, chưa có khả năng cung cấp
trọn gói Bởi vậy, hàng dệt may dù luôn nằm trong nhóm hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam, nhưng giá trị mang lại thấp, chỉ chiếm khoảng 35% so với kim
ngạch xuất khẩu. Ước tính, hàng FOB (hàng sản xuất phục vụ xuất khẩu, khác
với hàng gia công theo đơn hàng – PV) xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 20% - 30%,
còn lại là gia công.
II. Các thị trường chủ yếu của ngành dệt may
Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may đi 54 thị trường trên toàn thế giới.
Trong đó, các khách hàng lớn nhất của Việt Nam là Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Canada và Đài Loan. Trong 9 tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may đến các thị trường này chiếm gần 89,5% tổng kim ngạch.
Hình 1: Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 1995 - 2011
Nguồn:
1. Thị trường Mỹ
Thị trường Mỹ vẫn là khách hàng nhập khẩu lớn nhất cho các hàng hóa
của Việt Nam nói chung và các sản phẩm dệt may nói riêng. Bình quân giai đoạn

2006-2010, giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ chiếm trên
10 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
55% tổng giá trị xuất khẩu của ngành ra thị trường thế giới. Đồng thời, ngành
hàng dệt may là ngành hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng gía trị xuất khẩu
của Việt Nam sang Mỹ, chiếm bình quân trên 40% giá trị xuất khẩu của Việt
Nam sang thị trường này trong các năm 2005-2010. Với những khó khăn vĩ mô
chung và chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ Mỹ sau khi gỡ bỏ trần nợ
công hồi đầu tháng 8/2011, các đơn hàng từ Mỹ có xu hướng sụt giảm.
Hình 2: Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ 1996 - 2011
Nguồn:
2. Thị trường EU
Hình 3 : Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU 1996 - 2011
Nguồn:
11 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
EU là thị trường lớn thứ hai cho các sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt
Nam với doanh thu gần 1,9 tỷ USD, chiếm trên 18% tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam trong 9 tháng năm 2011. Tốc độ tăng trưởng giá trị
xuất khẩu dệt may sang thị trường EU đạt trên 2 con số trong năm 2007-2008,
nhưng ở mức thấp hơn so với xuất khẩu sang thị trường Mỹ, và sụt giảm mạnh
hơn trong năm 2009 (-3,11%) trong điều kiện kinh tế khủng hoảng trước khi tăng
trưởng trở lại (17,5%) trong năm 2010. Trong 9 tháng đầu năm 2011, kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU tăng mạnh (trên 40%) với các khách
hàng lớn nhất của Việt Nam tại khu vực này là Đức (42,35%), Anh (47,67%),
Tây Ban Nha (34,6%), Hà Lan (49,74%) và Pháp (49,43%).
Tuy nhiên, 80% hàng dệt may xuất sang EU là hàng gia công đây là một
nguyên nhân khiến lợi nhuận thực tế thu về từ việc xuất khẩu hàng sang thị
trường này rất thấp.
2. Thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc

Hình 4: Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật 1996 - 2011
Nguồn:
Nhật Bản và Hàn Quốc là hai khách hàng lớn thứ 3 và thứ 4 của ngành dệt
may xuất khẩu Việt Nam trong 9 tháng năm 2011 với tỷ trọng trong tổng kim
ngạch lần lượt là 11,7% và trên 6%. Theo Hiệp định đối tác kinh tế song phương
Việt Nam – Nhật Bản, sản phẩm dệt may là một trong các mặt hàng có mức cam
kết tự do hóa mạnh mẽ nhất và năm 2010 là năm đầu tiên Việt Nam được hưởng
ưu đãi thuế cho mặt hàng này. Chính vì vậy, tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may
12 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
của Việt Nam sang Nhật Bản đang trong giai đoạn đầu tăng trưởng mạnh dù
Nhật Bản vừa chịu tác động kinh tế mạnh mẽ từ thảm họa sóng thần đầu năm
2011. Việt Nam cũng đang được hưởng lợi từ những thay đổi cơ cấu sản xuất
ngành dệt may của Hàn Quốc theo hướng tập trung vào phân khúc thị trường cao
cấp, tạo nhiều cơ hội cạnh tranh hơn cho sản phẩm của Việt Nam trên phân khúc
thị trường sản phẩm trung cấp. Đồng thời, theo cam kết Hiệp định thương mại tự
do ASEAN5- Hàn Quốc, dệt may là một trong những sản phẩm mà Việt Nam
được hưởng thuế suất rất thấp.
Tính chung cho cả ngành dệt may, Việt Nam là nước xuất khẩu ròng. Tuy
nhiên, do ngành dệt may chủ yếu hiện nay đang sản xuất theo hình thức gia công
theo đơn hàng, hình thức sản xuất cấp thấp nhất và đang hướng đến nâng cấp sản
xuất theo hình thức OEM và OBM. Năng lực sản xuất ngành đối với các loại
nguyên liệu và phụ liệu còn hạn chế, Việt Nam phải nhập khẩu đầu vào cho
ngành với giá trị rất lớn, chiếm bình quân khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu
trong giai đoạn 2009 – 10 tháng 2011.
III. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến ngành gia công dệt may
của Việt Nam
1. Nhân tố kinh tế
a) Nền kinh tế trong và ngoài nước
Năm 2011, kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, nhu cầu tiêu dùng dệt

may ở các nước nhập khẩu giảm mạnh. Với những khó khăn vĩ mô chung và
chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ Mỹ sau khi gỡ bỏ trần nợ công hồi
đầu tháng 8/2011, các đơn hàng từ Mỹ có xu hướng sụt giảm. Do đó, trong 9
tháng đầu năm 2011, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Mỹ cũng tăng trưởng
chậm hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang các thị trường chủ yếu khác
(15,25%) trong khi tăng trưởng xuất khẩu vào Hàn Quốc tăng gần 142%. Tỷ
trọng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ giảm từ 55% xuống còn gần 50% giai đoạn
này.
Tình hình trong nước, lạm phát ảnh hưởng đến việc tiếp cận vốn và lãi
suất đầu vào đã ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp
không thể tiếp cận vốn và kinh doanh một cách bình thường. Đồng thời, CPI tăng
đến 2 con số với 18 – 19% như vậy nên ảnh hưởng lớn đến nguồn lao động
13 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
ngành dệt may. Bên cạnh đó là vấn đề về tiết kiệm năng lượng, tổ chức sản xuất
và áp dụng biện pháp công nghệ quản lý giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao
động, giảm chi phí và giá thành nên làm cho giá cả tăng lên. Còn tại thị trường
nội địa, người dân thắt chặt chi tiêu nên sức mua giảm hẳn do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính và chính trị, lạm phát tăng cao.
b) Giá nhập khẩu nguyên liệu tăng mạnh
Thị trường nguyên phụ liệu thế giới diễn biến khó lường, giá bông, sợi
tăng nhanh nhưng giảm cũng rất nhanh. Năm 2011 giá bông nhập khẩu tăng gấp
hai lần so với năm ngoái. Vì giá bông nhập khẩu năm này có lúc lên tới 5-5,2
USD/kg, trong khi giá trung bình của năm 2010 là khoảng 3,2-3,3 USD/kg, tức là
tăng 80-90%. Việt Nam chủ yếu sử dụng nguồn nguyên liệu từ nhập khẩu để
phục vụ cho ngành dệt may vì nguồn nguyên liệu trong nước không đủ để đáp
ứng cho sản xuất. Trong kim ngạch nhập khẩu, vải là sản phẩm được nhập khẩu
nhiều nhất, chiếm bình quân gần 62% giá trị nhập khẩu nguyên liệu dệt May
hàng năm trong giai đoạn 2007-10 tháng 2011 và đạt trên 5,5 triệu USD trong 10
tháng đầu năm 2011. Chiếm tỷ trọng lớn thứ 2 là nguyên phụ liệu với tỷ trọng

bình quân gần 20% và đạt trên 1,6 triệu USD trong 10 tháng đầu năm 2011.
Bông và xơ sợi đứng thứ 3 và thứ 4 với tổng kim ngạch nhập khẩu 10
tháng đầu năm 2011 trên 2,17 triệu USD, tăng gần 51% so với cùng kỳ năm
trước. Theo con đường thương mại quốc tế chính thức, Việt Nam vẫn nhập khẩu
các nguyên liệu ngành dệt May nhiều nhất từ Trung Quốc, tiếp đến là Hàn Quốc,
Đài Loan và Hồng Kông.
2. Nhân tố công nghệ
a) Thị trường Mỹ
Ngành dệt may Việt Nam sẽ phải đối mặt với rào cản kỹ thuật của thị
trường Mỹ - thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Đó là đạo
luật bảo vệ môi trường cho người tiêu dùng Mỹ, có hiệu lực từ ngày 1/1/2010.
Theo đạo luật này, các lô hàng XK vào Mỹ phải có giấy kiểm nghiệm của bên
thứ 3 xác nhận sản phẩm sử dụng nguyên liệu đảm bảo cho sức khỏe người tiêu
dùng. Nhà sản xuất sẽ phải chịu trách nhiệm về bất kỳ thiệt hại nào gây ra cho
người tiêu dùng. Đây là thách thức lớn, đòi hỏi ngành dệt may gấp rút chạy đua
với thời gian để đáp ứng. Thêm vào đó, điều kiện kinh tế khó khăn của Mỹ sẽ
14 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
buộc các chủ hàng giảm bớt đơn đặt hàng dệt may từ Việt Nam, đặc biệt là các
sản phẩm như áo jacket, quần…
b) Thị trường EU
Những biến động kinh tế tiêu cực tại khu vực EU cũng sẽ tác động tiêu
cực đến xuất khẩu ngành Dệt may Việt Nam trong thời gian tới đây. Bên cạnh
những yêu cầu khá khắt khe về chất lượng nguyên liệu đầu vào, những quy định
kỹ thuật chặt chẽ của thị trường này nhằm bảo vệ sức khoẻ con người và môi
trường như Quy định sử dụng hoá chất (Reach) có hiệu lực từ năm 2009 vẫn tiếp
tục là rào cản công nghệ cho các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam trong điều
kiện vốn hạn hẹp và trình độ công nghệ hạn chế.
c) Thị trường Nhật Bản
Thị trường Nhật Bản (đứng sau thị trường Mỹ và EU), yêu cầu các sản

phẩm phải có chứng chỉ sạch và thân thiện với môi trường. Yếu tố hỗ trợ tích cực
cho xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản là việc đạt được Hiệp định
đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản giúp hàng dệt may của Việt Nam đang có lợi
thế giá hơn hàng của Trung Quốc do không phải chịu thuế trong khi đơn giá
nhân công của Trung Quốc không còn lợi thế cạnh tranh tương đối như nhiều
năm trước đây. Tuy nhiên, thị trường Nhật Bản là một thị trường hết sức khó tính
với những đòi hỏi cao về chất lượng, kiểu dáng và mức độ an toàn vệ sinh, đặc
biệt sản phẩm may mặc trẻ em.
3. Thiếu nguồn lao động
Ngành dệt may Việt Nam đang chủ yếu dựa vào lợi thế nhân công giá rẻ.
Với mức thu nhập thấp của nhân công dệt may Việt Nam hiện nay thì có thể nói
là lợi thế này của ngành dệt may Việt Nam nhưng thực chất là một gánh nặng lớn
về mặt xã hội.
Năm 2011 mức lương bình quân của công nhân ngành dệt may tại các tỉnh
đã được nâng lên 2-2,5 triệu đồng/tháng. Nhưng do giá cả tiêu dùng liên tục tăng
cao đã khiến cho không ít người lao động chưa thực sự chuyên tâm vào công
việc. Theo thống kê của Vitas, thời gian qua vẫn có trên 10% lao động của ngành
đã chuyển sang làm những công việc khác. Vì vậy ngành dệt may nước ta hiện
nay đang thiếu nguồn lao động trầm trọng.
IV. Những thuận lợi, khó khăn và thách thức của ngàn dệt may
15 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
1. Thuận lợi
Dân số Việt Nam đông sẽ cung cấp một nhu cầu lớn cho ngành may mặc
Việt Nam. Mức sống và thu nhập của người dân ngày càng tăng lên sẽ khiến cho
nhu cầu đối với các sản phẩm may mặc ngày càng tăng, đặc biệt là các sản phẩm
trung và cao cấp.
Hàng may mặc của Việt Nam ngày càng nhận được sự tín nhiệm của các
nước nhập khẩu (Mỹ, EU, Nhật Bản ) do chất lượng sản phẩm cao nên sẽ có thể
mở rộng hơn thị phần xuất khẩu cũng như tăng giá trị xuất khẩu.

Việt Nam trở thành thành viên của WTO sẽ được hưởng những ưu đãi về
thuế suất khi xuất khẩu hàng may mặc vào các nước khác.
Ngành may mặc trong thời gian tới được coi là ngành ưu tiên và khuyến
khích phát triển nên sẽ nhận được những nguồn vốn đầu tư lớn cả trong và ngoài
nước.
2. Khó khăn
Hiện nay, một số doanh nghiệp trong nước gia công hàng dệt may xuất
khẩu cho các đối tác nước rất khó xử lý các nguyên liệu còn thừa khi hết hợp
đồng, nhất là những nguyên phụ liệu quý hiếm hoặc các sản phẩm gia công có
giá trị thương mại cao, kiểu dáng độc đáo
Sau khi chấm dứt các hợp đồng gia công hàng XK như dệt may, da giày
vẫn còn thừa một số nguyên liệu, nếu không có hợp đồng tương tự nối tiếp,
nguyên liệu dư thừa phải xuất trả lại cho người thuê gia công hoặc tiêu hủy tại
Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay có một số đối tác nước ngoài không muốn nhận
lại số nguyên phụ liệu dư thừa này. Lý do, số chi phí phải bỏ ra để nhập lại
nguyên liệu dư thừa nhiều hơn giá trị của chính số nguyên liệu đó.
Ngoài ra việc xác định giá trị tính thuế lại chưa phù hợp với thực tế. Bởi,
nguyên liệu gia công là tài sản riêng của bên thuê gia công gửi cho bên nhận gia
công để sản xuất ra những sản phẩm theo hợp đồng đã thỏa thuận. Nguyên liệu
gia công không phải là hàng hóa mua bán. Giá nguyên liệu ghi trên các chứng từ
gửi hàng không phải là giá thỏa thuận giữa người mua với người bán, mà là giá
đơn phương áp đặt của người thuê gia công. Không ít trường hợp bên thuê gia
công cố ý ghi giá nguyên phụ liệu cao hơn thực tế để phạt vạ bên nhận gia công
trong trường hợp nguyên liệu bị mất.
16 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
80% hoặc nhiều hơn thế số doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam
làm gia công. Lợi nhuận thực sự trong những chục tỷ đô la kim ngạch chỉ là vài
phần trăm, những thí dụ đơn giản được nói đến, giá 1 cái quần jeans xuất khẩu
10 USD nhưng thực tế doanh nghiệp chỉ hưởng phần gia công quanh quẩn 1 đô

la. Với toàn cảnh ngành dệt may xuất khẩu như hiện nay, người công nhân dệt
may khó được trả một mức lương đủ để sống trong bão giá, chứ chưa nói đến
chuyện tiền lương xứng đáng với công sức. Do vậy nạn thiếu hụt lao động dệt
may là một căn bệnh mãn tính.
3. Thách thức
Các quốc gia nhập khẩu thường có những yêu cầu nghiêm ngặt đối với
chất lượng của hàng may mặc nhập khẩu vào, bao gồm cả hàng hóa của Việt
Nam. Hàng hóa Việt Nam cũng như của một số quốc gia khác có nguy cơ bị kiện
bán phá giá và áp mức thuế chống bán phá giá nhằm bảo vệ ngành may mặc của
nước nhập khẩu.
Để thu được lợi nhuận cao thì Việt Nam cần phải đầu tư các sản phẩm
thiết kế thời trang để đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước cũng như để
xuất khẩu. Những biến động bất lợi về giá dầu thế giới, giá lương công nhân có
thể làm tăng giá thành sản xuất của doanh nghiệp may. Nếu giá sản phẩm may
mặc của Việt Nam tăng lên và cao hơn các nước khác thì các nước nhập khẩu sẽ
chuyển hướng sang những nước có giá thành rẻ hơn và không nhập khẩu hàng
may mặc của Việt Nam nữa, do đó sẽ làm giảm sút kim ngạch xuất khẩu.
Sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng may mặc Trung Quốc với giá thành rẻ
và kiểu dáng mẫu mã đa dạng, phù hợp với thu nhập của người dân Việt Nam và
các nước trên thế giới.
B. NGÀNH DA GIÀY
I. Tình hình gia công xuất khẩu ngành da giày ở nước ta hiện nay.
Hiện nay, Theo Viện Nghiên cứu da giày (Bộ Công Thương), Việt Nam là
một trong 10 nước xuất khẩu sản phẩm da giày hàng đầu trên thị trường quốc tế
trở thành nước xuất khẩu giày dép lớn thứ 2 trên thế giới, ngành xuất khẩu đứng
thứ 2 trong nước với tốc độ tăng trưởng ngành cũng như tăng trưởng kim ngạch
xuất khẩu đạt trung bình trên 10%/năm, đóng góp một phần rất lớn vào nền kinh
tế quốc dân. Theo Viện Nghiên cứu da giày, có đến 70% các doanh nghiệp gia
17 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI

dày của Việt Nam hiện nay là gia công thuần túy cho nước ngoài. Sản phẩm da
giày của Việt Nam khi xuất sang thị trường nước ngoài phải mang thương hiệu
ngoại. Đây thật sự là một vấn đề nan giải trong ngành da giày mà các doanh
nghiệp đã phải đối mặt trong những năm qua, làm giới hạn sự phát triển của
ngành.
Theo số liệu thống kê của hiệp hội da giày Việt Nam, tổng kim ngạch xuất
khẩu giày dép Việt Nam năm 2009 đạt 4,015 tỉ USD, giảm 15,8. Phần lớn xuất
khẩu giày dép của Việt Nam vào các thị trường trọng điểm có kim ngạch giảm
mạnh trong năm 2009 như: Hà Lan, Đức, Anh và Bỉ…Bên cạnh đó là một số thị
trường có tốc độ suy giảm mạnh như: Bồ Đào Nha giảm 78,5%; Bỉ giảm 31,4%;
Ba Lan giảm 28,8%; Thuỵ Điển giảm 28,5% Một số thị trường xuất khẩu giày
dép trong năm 2009 có tốc độ tăng nhẹ là: Ấn Độ, Nam Phi và Tây Ban Nha …
Kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại của Việt Nam tháng 6/2010 đạt
481 triệu USD tăng 22% so với cùng tháng năm 2009, nâng tổng kim ngạch xuất
khẩu giày dép các loại của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2010 đạt 2,3 tỉ USD, tăng
10,7% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá của cả nước 6 tháng đầu năm 2010.
II. Các thị trường chủ yếu của ngành
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu giày da của Việt Nam qua các thị trường lớn
2007 – 2011
Đơn vị tính: triệu USD
Thị trường 2007 2008 2009 2010 2011
EU 2.176,83 2.484,72 2.007,27 2.403,75 3.110,80
America 885,12 1.075,13 1.038,82 1.407,31 1.846,80
Japan 114,75 137,35 122,47 171,96 209,60
Các nước
khác
817,54 1.060,35 1.060,35 1.138,62 1.381,80
Tổng số 3.994,24 4.767,22 4.066,76 5.122,25 6.549,00
Nguồn:

Trong 9 tháng đầu năm 2011, Việt Nam xuất khẩu giày dép sang 45 nước
và vùng lãnh thổ, tăng 5 thị trường so với cùng kỳ năm ngoái bao gồm:
18 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
Achentina, Chi lê, Ixrael, New Zealand và Slôvakia. Trong đó, hầu hết các thị
trường XK giày da đều có tốc độ tăng trưởng mạnh về kim ngạch.
1. Thị trường EU
Theo báo cáo của Hiệp hội da giày Việt Nam: Trong 9 tháng đầu năm 2011,
EU tiếp tục là thị trường số 1 về XK giày da của Việt Nam với kim ngạch đạt
xấp xỉ 282 triệu USD, tăng 18,7% so với tháng 8 và tăng 24,75% so với cùng kỳ
năm 2010, chiếm 43,7% trong tổng kim ngạch. Tổng kim ngạch XK sang thị
trường EU trong quý II/2011 đạt hơn 1,2 tỷ USD, tăng 18,54% so với cùng kỳ
năm 2010. EU vẫn là thị trường chính của ngành da giày Việt Nam, song tỷ trọng
XK sang EU đang suy giảm và tăng dần ở các thị trường nhỏ như Hàn Quốc,
Nhật Bản và Bắc Mỹ để tránh nguy cơ bị điều tra chống bán phá giá.
Trong khi thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da vào EU đang là một
gánh nặng thì các doanh nghiệp sản xuất giày da Việt Nam lại tiếp tục chịu thêm
nhiều áp lực mới. Đó là từ ngày 1/1/2009, các nước EU bãi bỏ ưu đãi thuế quan
(GSP) đối với sản phẩm của Việt Nam khi vào thị trường này. Khi đó, thuế suất
sẽ từ 4,5% lên 8% đối với giày mũ da; từ 7,5-8% lên 11,5% đối với giày giả da
và từ 11,5% lên 17% đối với giày vải. Như vậy, với mức thuế này các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ gặp rất nhiều trở ngại trong việc tìm kiếm đơn hàng, bảo
đảm công việc, thu nhập cho người lao động cũng như duy trì lợi nhuận. Đây
được xem là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến Việt Nam giảm 1.1%
thị phần tại EU vào năm 2009 và làm giảm 23,2% kim ngạch XK giày da so với
năm 2008. Và hiện nay ngày càng xuất hiện tình trạng nhiều đối tác của ngành đã
dịch chuyển nhà máy sản xuất giày sang Campuchia vì nước này đang được
hưởng thuế quan ưu đãi GSP của EU và không chịu thuế chống bán phá giá giày
có mũ da.
Ngày 1/4/2011, thuế chống bán phá giá hết hạn, nhưng giá trị XK giày da

Việt Nam sang EU vẫn còn hạn chế. Lý do là sau một thời gian dài hơn 4 năm bị
áp lực về thuế cũng như khủng hoảng kinh tế thế giới, làm chi phí đầu vào tăng
nhanh. Nhiều doanh nghiệp đã chủ động thu hẹp sản xuất, không bám sát thị
trường EU nên thiếu thông tin về thị trường và thị hiếu tiêu dùng tại đây. Ngoài
ra, những rào cản kỹ thuật mới tại thị trường EU đang gia tăng cũng làm khó cho
các DN giày da, ngoài việc đáp ứng tiêu chuẩn về nhãn mác, môi trường, EU đã
19 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
đưa quy định về hoá chất (Reach), yêu cầu các nhà sản xuất phải tuân thủ nhằm
bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng, trong khi đặc thù của ngành này vốn phải sử
dụng nhiều hoá chất, cũng như phụ thuộc rất nhiều vào các nhà sản xuất, NK và
phân phối hoá chất. Tuy nhiên, chúng ta vẫn hi vọng sẽ tăng kim ngạch XK vào
thị trường này trong thời gian tới.
2. Hoa Kỳ
Trong khoảng thời gian 2000 – 2010, kim ngạch XK giày da sang Hoa Kỳ
không ngừng tăng trưởng liên tục. Điều đó cho thấy các sản phẩm giày da của
Việt Nam có khả năng cạnh tranh khá tốt tại thị trường này và đang chiếm thị
phần ngày càng tăng. Tuy nhiên, do chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính thế giới năm 2009, tốc độ tăng trưởng XK giày da của các quốc gia vào thị
trường này đều giảm. Năm 2010 là một năm thuận lợi lớn để các doanh nghiệp
Việt Nam có thể tăng cao kim ngạch XK sang Hoa Kỳ khi thị trường này đang
phục hồi và tăng trưởng nhập khẩu trở lại.
Xuất khẩu giày da sang thị trường Mỹ vẫn tiếp tục giữ vững mức tăng
trưởng tốt và khá ổn định trong năm 2011, Trong tháng 9/2011, XK giày da sang
thị trường Mỹ quay đầu giảm nhẹ so với tháng 8 (giảm 3,48%), đạt hơn 167,8
triệu USD. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm 2010 vẫn tăng tới 40,08%, chiếm 26%
trong tổng kim ngạch. Tính chung 6 tháng đầu năm 2011, tổng kim ngạch XK
giày da của nước ta sang thị trường này đạt 880,77 triệu USD, tăng 42,22% so
với cùng kỳ năm 2010.
III. Những thuận lợi, khó khăn và thách thức của ngành giày da

1. Thuận lợi
Ngành giày da Việt Nam đang giảm dần sự lệ thuộc quá nhiều vào thị
trường EU và Mỹ. Mỹ là thị trường được Việt Nam kỳ vọng sẽ có nhiều cơ hội
cho XK. Thuận lợi của Việt Nam là đã có các Hiệp định thương mại đơn phương
hoặc đa phương với phần lớn các nước còn lại. So với các hiệp định thương mại
tự do (FTA) khác, TPP được xem là một bước phát triển mới về chất lượng cam
kết và đặt ra nhiều tiêu chuẩn nghiêm ngặt về môi trường, lao động, sở hữu trí
tuệ… Các điều này, ngành giày da Việt Nam đang thực hiện tốt.
Trước mắt Hoa Kỳ vẫn là thị trường mà ngành giày da VN còn nhiều cơ
hội để khai thác mở rộng. Nhiều thị trường khác cũng đang rộng mở với ngành
da giày VN, ngay cả thị trường ASEAN, thị trường nội địa với lợi thế sân nhà và
20 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
nhu cầu tiêu dùng đang nâng cao sẽ là những cơ hội cực kỳ to lớn, đặc biệt với
các DN có vốn trong nước với quy mô vừa và nhỏ khó cạnh tranh vào các thị
trường lớn như Hoa Kỳ hoặc các thị trường ở xa.
2. Khó khăn
Chỉ chú trọng đến việc mở rộng thị trường gia công mà chưa chú trọng
đến những nhân tố quan trọng nội tại: Trong công tác mở rộng thị trường gia
công xuất khẩu nước ta đã đạt được nhiều kết quả (thâm nhập thị trường
mới) tuy nhiên còn một số tồn tại sau:
- Song song với việc mở rộng tìm kiếm thị trường gia công mới thì các
công ty gia công trong nước đã không củng cố thị trường gia công
truyền thống, thậm chí có những thị trường không còn kim ngạch XK và hợp
đồng gia công XK như: Nhật Bản, Đài Loan, Singapore.
- Gia công XK giày da ở nước ta chủ yếu phục vụ XK. Hoạt động
này đã có các thành công đáng kể như thu ngoại tệ về cho đất nước
song lại để lại khoảng trống phía sau lưng mình đó là thị trường nội địa. Hiện
nay dân số Việt nam khoảng 86 triệu người, số người tiêu dùng đông đảo này đã
tạo ra thị trường sức mua khoảng 750 triệu USD/năm. Do vậy, một mặt các

doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường sản xuất hàng XK, một mặt tăng
cường sản xuất hàng tiêu dùng nội địa, tránh bỏ phí thị trường.
Thiếu vốn và công nghệ: Thiếu vốn cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh là khó khăn lớn nhất cho các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp
của chúng ta cần nhiều vốn chủ yếu để đầu tư đổi mới máy móc thiết bị nhằm
nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Với
công nghệ lỗi thời nên khi khách hàng đặt hàng cao cấp, lợi nhuận cao cũng
không đủ khả năng thực hiện. Giày da là mặt hàng thường xuyên có sự thay đổi
về mẫu mã và kiểu dáng nhưng do đội ngũ cán bộ chuyên môn và các loại máy
móc thiệt bị chuyên dùng phục vụ cho công việc này là rất yếu và thiếu. Mà
chúng ta chưa thể chế tạo được khuôn và phụ tùng, do vậy các doanh nghiệp của
nước ta vẫn còn phụ thuộc vào nước ngoài.
Phần lớn các hợp đồng gia công ở dạng thuần tuý, những hợp đồng mua
bán đứt đoạn chưa nhiều nên thực tế hiệu quả chưa cao, giá trị nhận được
21 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
chỉ là thù lao gia công thuần tuý. Chính vì thế, khả năng tích luỹ của doanh
nghiệp chưa cao, khả năng huy động vốn còn nhiều hạn chế.
Thiếu đội ngũ nhân viên có kỹ thuật, tay nghề cao. Đội ngũ nhân viên có
kỹ thuật và tay nghề cao ở nước ta thiếu thốn nghiêm trọng. Trong nước thì
chưa có một chương trình giảng dạy từ công nhân kỹ thuật đến cán bộ chuyên
ngành. Lĩnh vực đào tạo cán bộ công nhân giày dép chưa bao giờ nhận đựơc
sự hợp tác quốc tế và chưa được tài trợ quốc tế có hệ thống. Tóm lại, công
tác đào tạo chưa được coi trọng. Trong thời gian tới, nước ta cần có những giải
pháp để phát huy những điểm mạnh và hạn chế, khắc phục những khó khăn,
thách thức để thúc đẩy hoạt động gia công XK ngày càng phát triển.
3. Thách thức
Thách thức trước hết phải kể đến là sự cạnh tranh khốc liệt của Trung
Quốc, một đất nước có thế mạnh về mặt hàng giày da. Gần đây Trung Quốc là có
thêm lợi thế với việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Mặt hàng giày

da XK của Trung Quốc có ưu thế hơn giày da XK của Việt Nam do trình độ công
nghệ của Trung Quốc tiên tiến hơn, mẫu mã của họ đẹp và đa dạng hơn.
Tuy sức mua của thị trường truyền thống (EU) vẫn giữ ở mức ổn định
nhưng Việt Nam bị chịu nhiều sức ép hơn về thuế và các rào cản so với một số
nước như Brazil, Indonesia Đối với các thị trường xuất khẩu khác như Liên
bang Nga, các nước Đông Âu, Trung Đông, châu Phi, tuy không yêu cầu cao về
mẫu mã và chất lượng nhưng hàng Việt Nam vẫn không thể thâm nhập mạnh vào
thị trường các nước này.
Nguyên vật liệu sản xuất của ngành giày da chiếm đến 80% giá trị của sản
phẩm trong đó ngành sản xuất da đóng vai trò quan trọng nhất. Theo LEFASO-
VN (VN - Vietnam Leather & Footwear Association), nhu cầu da thuộc năm
2009 của toàn ngành khoảng 350 triệu feet vuông, trong khi đó các nhà máy
thuộc da của Việt Nam và nước ngoài đầu tư tại Việt Nam mới chỉ sản xuất và
đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu da thuộc của cả nước, 80% còn lại phải NK.
Ngành phụ liệu sản xuất còn trầm trọng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ
sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây giày nhưng lại
“bỏ ngỏ” những loại phụ kiện tinh xảo là các sản phẩm nhựa có xi mạ như
khoen, móc, cườm, các vật trang trí trên giày, đặc biệt là giày nữ và giày trẻ em.
22 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
Năng lực sản xuất của ngành chủ yếu tại các cơ sở ngoài quốc doanh và
có yếu tố nước ngoài, chiếm trên 90% năng lực của cả ngành, chứng tỏ năng lực
ngành phụ thuộc hoàn toàn vào làn sóng đầu tư của tư bản tư nhân trong nước và
quốc tế. Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi dào do
dân số trẻ, nhưng năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp, trung bình
trên 1 dây chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng
1/35 năng suất lao động của người Nhật, 1/30 của Thái Lan, 1/20 của Malaysia
và 1/10 của Indonesia.
Hiện nay trình độ công nghệ của ngành giày da Việt Nam đang ở mức
trung bình và khá, lệ thuộc vào nước ngoài về trang bị máy móc. Khả năng đầu

tư và chuyển giao công nghệ mới phụ thuộc vào nguồn tài chính hạn hẹp, đội ngũ
chuyên gia hiểu biết sâu và cập nhật công nghệ còn quá ít và chưa đáp ứng được
nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, kinh nghiệm và khả năng đàm phán, ký kết
hợp đồng về công nghệ còn hạn chế Đây là một trong những nguyên nhân làm
hạn chế năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành trong thời
gian trước mắt cũng như lâu dài. Điều này còn dẫn đến việc ngành có nguy cơ
mất khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế.
C. NGÀNH GIA CÔNG PHẦN MỀM
I. Tình hình gia công xuất khẩu ngành phần mềm ở nước ta hiện nay.
Nguồn: thống kê của Hội Tin học TP.HCM
Hình 6: Doanh thu ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam.
1. Tình hình sản xuất phần mềm trong nước
Năm 2008, doanh số toàn ngành sản xuất phần mềm Việt Nam mới đạt
680 triệu USD thì năm 2009 đã lên 580 triệu USD và năm 2010 là 1000 triệu
USD. Tốc độ tăng trưởng trung bình ngành CNpPM giai đoạn này là 22,4%.
Đáng nói là tốc độ này cao hơn tốc độ tăng trưởng CNpPC nên tỷ trọng doanh
23 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
thu CNpPM trong cơ cấu doanh thu toàn ngành CNTT cũng ngày càng tăng.
Tuy vậy, so mặt bằng chung của thế giới là 49%, tỷ trọng này vẫn còn rất thấp.
Song song với sự gia tăng doanh số là sự gia tăng số lượng doanh nghiệp
hoạt động trong ngành. Hiện cả nước có 2.500 đơn vị đăng ký làm phần mềm và
với những chế độ ưu đãi như hiện nay, sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp đăng ký
hoạt động để giữ chỗ. Nhưng trong số 2500 đơn vị hiện nay chỉ có 400 doanh
nghiệp thực sự hoạt động. Với đà này, trong số những đơn vị sẽ được thành lập,
sẽ chỉ có khoảng 35% đơn vị “sống được”, 25% hoạt động rồi ngưng. Còn 40%
sẽ đăng ký nhưng không hoạt động.
Số lượng các công ty sản xuất phần mềm tăng nhưng số lao động trung
bình của một công ty hầu như không thay đổi. Trong nhiều năm liền, con số này
luôn là 20 người bởi tốc độ tăng quy mô lao động xấp xỉ tốc độ tăng số lượng các

công ty. Quy mô hoạt động của các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam nói
chung còn rất nhỏ.
Bảng 3: Số công ty và nhân sự phần mềm Việt Nam
giai đoạn 1996-2002
Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Số công ty 95 115 140 170 229 304 400
Số lao động 900 2300 2800 3400 4500 6000 8000
Số lao động/
công ty
9.50 20.00 20.00 20.00 19.65 19.74 20.00
Nguồn: Báo cáo toàn cảnh CNTT Việt Nam 2003 – Diễn đàn CNTT Việt Nam
2003 - Lê Trường Tùng – HCA
Không chỉ quy mô (số lượng) mà năng suất lao động ngành CNpPM nước ta
cũng nhích lên đôi chút do tốc độ tăng của doanh số nhanh hơn tốc độ tăng của
nhân công tuy chưa năm nào vượt con số 10.000 USD/người. Riêng năng suất
của các công ty gia công phần mềm cho nước ngoài có cao hơn một chút (năm
2001 là 13.000 USD/người tăng 18% so với mức 11000 USD năm 2000). (Biểu
đồ 7). Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng cao nhưng xuất phát điểm thấp nên quy
24 GVHD: Lê Trần Thiên Ý
TÌM HIỂU MỘT SỐ NGÀNH HÀNG VIỆT NAM GIA CÔNG CHO NƯỚC NGOÀI
mô CNpPM nước ta vẫn còn rất nhỏ bé, chưa thu hút được đầu tư từ các công ty
phần mềm quốc tế lớn. Với doanh số 75 triệu USD năm 2002, mục tiêu “đạt giá
trị sản lượng phần mềm khoảng 500 triệu USD” vào năm 2005 còn quá xa.
Biểu 7: Năng suất làm phần mềm của Việt Nam giai đoạn 1998 – 2002
Đơn vị: USD/người
Nguồn: Báo cáo toàn cảnh CNTT Việt Nam 2003 – Diễn đàn CNTT Việt Nam
2003 - Lê Trường Tùng – HC
2. Tình hình xuất khẩu gia công phần mềm của nước ta
Hoạt động xuất khẩu phần mềm Việt Nam, theo đánh giá của Viện nghiên
cứu châu Á Kenan tháng 10/ 2002, kim ngạch năm 2001 là khoảng 21 triệu USD.

Con số này dao động hầu như không đáng kể từ năm 2000 đến nay. Ước tính
trong năm 2003, kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt 25 triệu USD so với tổng doanh số
là 100 USD. So với con số 2082 triệu USD – kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt
Nam năm 2002, xuất khẩu phần mềm còn cách xa cái đích một “ngành kinh tế
mũi nhọn”. Còn so với thế giới, mà điển hình là Ấn Độ, sự khập khễng về quy
mô, tốc độ tăng trưởng càng lớn. Trong khi chúng ta hiện chỉ có khoảng 10 đơn
vị gia công, xuất khẩu phần mềm có doanh số trên 1 triệu USD/ năm thì ngay từ
năm 1991, kim ngạch xuất khẩu phần mềm Ấn Độ đã đạt154 triệu USD. Chín
năm sau, năm 2000, con số này là 5 tỷ USD. Trong ngành CNPM, từ trước tới
nay, doanh thu nội địa vẫn nhiều hơn doanh thu từ xuất khẩu. Tuy nhiên, doanh
thu xuất khẩu vẫn có mức tăng trưởng nhanh hơn doanh thu nội địa khoảng từ
25 GVHD: Lê Trần Thiên Ý

×