Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Chương trình Ngữ văn địa phương Bình Phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.16 KB, 2 trang )

Huỳnh Văn Nghệ với những vần thơ viết trên cát
trắng
Xem tin gốc
QĐND - 5 tháng trước 76 lượt xem
QĐND - Câu thơ Từ độ mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long không mấy người
không biết, nhưng tác giả của nó là ai thì không mấy ai tường. Huỳnh Văn Nghệ không có dịp nào nói về
thơ mình, bởi vì ông đã mất ngay sau ngày miền Nam giải phóng chưa đầy hai Tết (1977). Thêm nữa, đời
ông trang nào cũng như huyền thoại.
Facebook Twitter 0 bình chọn Viết bình luận Lưu bài này
Ông sinh ngày 2 tháng 2 năm 1914 tại xã Thường Tân, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương (tỉnh Biên Hòa
cũ), từng học ở Sài Gòn, học rất giỏi và được nhận học bổng Trường Petrus Ký – một trường danh tiếng
thời Pháp thuộc. Huỳnh Văn Nghệ tham gia các phong trào yêu nước do Đảng lãnh đạo từ khi còn rất trẻ.
Sau Nam Kỳ khởi nghĩa, ông sang Thái hoạt động và chủ biên tờ báo yêu nước có tên Hồn cố hương, rồi
về nước tham gia Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, trực tiếp chỉ huy cướp chính quyền ở Biên Hòa.
Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Huỳnh Văn Nghệ trở về quê hương Tân Uyên xây dựng căn cứ kháng
chiến – một căn cứ mạnh của miền Đông Nam Bộ, của chiến khu Đ. Có câu ca: Chiến khu Đ, đi dễ khó
về/ Quân đi mất mạng tướng về mất lon để chỉ nỗi ám ảnh, khiếp sợ của thực dân Pháp xâm lược và bè lũ
tay sai khi nghĩ đến chiến khu Đ.
Tại chiến khu Đ, Huỳnh Văn Nghệ là chỉ huy trưởng một chi đội, sau đó là Khu phó Khu 7, kiêm Trung
đoàn trưởng Trung đoàn 310 – đơn vị nổi danh với trận đánh La Ngà, được Bác Hồ tặng thưởng Huân
chương Chiến công (Trung đoàn trưởng Huỳnh Văn Nghệ được Bác gửi thưởng riêng một áo trấn thủ)
Theo nhà văn Hoàng Văn Bổn thì Huỳnh Văn Nghệ “là con người huyền thoại” của đất miền Đông “gian
lao, mà anh dũng”, một người chỉ đứng sau tướng Nguyễn Bình. Nhà văn kể tiếp: Lúc ấy, anh (tức Huỳnh
Văn Nghệ) đã sừng sững là một chỉ huy trưởng, một Tư lệnh khu, một khu bộ phó dưới trướng của anh,
có nhiều vị "khổng lồ" như: Quang đen, Quang trắng, Nguyễn Văn Lung, Hoàng Thọ, Hoàng Trường, Võ
Tinh Quân, Võ Bá Nhạc mà chỉ nghe tên giặc đã nể dè. Cũng theo nhà văn Hoàng Văn Bổn nhớ lại
trong tập Lượm cánh hoa rơi (Nhà xuất bản tổng hợp Đồng Nai, 2000) thì thời gian này, Huỳnh Văn Nghệ
làm nhiều thơ về quê hương, về cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở chiến khu Đ. Thơ Huỳnh Văn Nghệ
là thứ thơ giàu chất hùng tráng nặng tình nước, nặng tình dân. Những bài thơ lẻ ông làm trong thời kỳ ở
chiến khu Đ về sau được NXB Sông Bé tập hợp lại và in thành tập Dòng sông xanh (1981).
Trong tập thơ này có nhiều bài được bộ đội chép tay, thuộc lòng ví như bài Trăng lên sáng tác năm 1937,


vừa sâu lắng tình cảm vừa giàu chí hướng:
Đưa tay lên chỉ trời cao trong vắ
Hai ngôi sao trong chòm sao Nam, Bắc
Muốn làm sao ta có sợi dây đàn
Đem giăng thẳng nối Nam Bắc
Chờ tiếng xôn xao trong ngày đã tắt
Ta trỗi lên khúc "hận ngàn thu”.
(Trăng lên)
Cũng trong tập thơ Trăng lên có bài "Nhớ Bắc" với những câu thơ nổi tiếng: Ai về Bắc, ta đi với? Thăm
lại non sông giống Lạc Hồng? Từ độ mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long. Theo
nhà văn Hoàng Văn Bổn thì, “những câu thơ bất tử” này về sau có nơi, có lúc được in, được đọc là: Ai về
Bắc ta đi với/ Thăm lại non sông giống Lạc Hồng/Từ thuở mang gươm đi mở cõi/ Ngàn năm thương nhớ
đất Thăng Long, cũng hay nhưng không đúng với khẩu khí của người dân xứ “Đồng Nai khoai củ”.
Những câu thơ bất hủ trong bài "Nhớ Bắc" của Huỳnh Văn Nghệ không chỉ góp phần tạo cho ông một
“bút danh” mới, một tên gọi đầy tinh thần nể trọng: Tướng quân – thi sĩ, Thi tướng, mà mãi về sau này nó
còn là ngọn nguồn của rất nhiều cuộc tranh luận, rất nhiều giai thoại Nghe kể, sau khi miền Nam hoàn
toàn giải phóng, nhà thơ Huy Cận sau khi được biết đó là những câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ đã “vô
cùng ngạc nhiên” vì trước đó ông vẫn cứ tưởng là một câu ca dao của vùng Đông Nam Bộ, còn nhà thơ
Tố Hữu thì thốt lên: “Lạ hỉ rứa mà bấy lâu ni tui không biết hề?”!
Về Huỳnh Văn Nghệ - Tướng quân thi sĩ thời 9 năm đi đâu, làm gì ít ai biết. Phải mãi sau khi miền Nam
giải phóng, đặc biệt là khi ông đã qua đời (năm 1977) những bí mật về cuộc đời nhà thơ - chiến sĩ mới
được hé mở. Qua đó ta được biết, nhà thơ sau khi tập kết ra Bắc, được phong hàm Thượng tá công tác tại
Cục Quân huấn (Bộ Tổng tham mưu), sau đó chuyển ngành và giữ chức Thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp.
Năm 1965 ông về lại chiến trường miền Nam phụ trách khu căn cứ Trung ương cục, Phó ban Kinh tài
Miền… Cũng qua những tài liệu được công bố sau khi nhà thơ mất thì được biết thêm: Huỳnh Văn Nghệ
cũng một thời là “dân” của “phố nhà binh”- phố Lý Nam Đế - Hà Nội. Tướng quân thi sĩ từng ở nhà số
10, cách “nhà số 4” không xa, thế mà rất ít ai được biết! Mộ của ông hiện nằm tại quê hương ông: Xã Mỹ
Lộc (nay là Thường Tân), huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Trên mộ có khắc hai câu thơ trong bài
“Dòng sông xanh” của ông:
Xin gửi bài thơ trên cát trắng

Và chiều nay tôi sang bến lên đường
Tên của vị tướng quân - thi sĩ - anh hùng Huỳnh Văn Nghệ cũng đã được đặt cho một đường phố ở thị xã
Thủ Dầu Một (Bình Dương). Và để tưởng nhớ ông, một giải thưởng của địa phương, giải thưởng văn học
- nghệ thuật năm năm trao tặng một lần cũng được mang tên ông: Giải thưởng văn học - nghệ thuật
Huỳnh Văn Nghệ.

×