1
ĐẠI HỌC HUẾ
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA
LÊ HỒNG LĨNH (CHỦ BIÊN)
PHẠM THỊ BÍCH NGA - LÊ NGUYÊN HỒNG
THỂ LOẠI VÀ PHƯƠNG PHÁP THỂ HIỆN
BÀI HÁT MẪU GIÁO
GIÁO TRÌNH DÀNH CHO
SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM MẦM NON
Huế, tháng 5/2011
2
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 4
Phần thứ nhất: Hình thức và thể loại âm nhạc 5
Chương I: Khái niệm chung 5
1. Tính chất đặc biệt của nghệ thuật âm nhạc 5
2. Những nguyên tắc chung trong phương pháp phân tích tác phẩm âm nhạc 6
3. Phân biệt giữa hình thức âm nhạc và thể loại âm nhạc 8
Chương II: Phương pháp diễn tả cơ bản, chức năng từng phần của hình thức, sự phân
chia trong hình thức 12
1. Những phương pháp diễn tả cơ bản nhất trong âm nhạc 12
2. Chức năng từng phần của hình thức âm nhạc 19
3. Sự phân chia trong hình thức âm nhạc: ngắt, cơ cấu, phần, motif (mô-típ), tiết
nhạc, câu nhạc 22
Chương III:
Hình thức một đoạn đơn 28
1. Khái niệm chung 28
2. Các dạng cấu trúc phổ biến 30
3. Ứng dụng 33
4. Những bổ sung thêm về cấu trúc 33
5. Một số dạng đoạn nhạc thường gặp trong dân ca người Việt 35
Chương IV: Hình thức hai đoạn đơn 48
1. Khái niệm chung 48
2. Các dạng cấu trúc hình thức hai đoạn đơn 51
3. Các phần phụ và sự nhắc lại các phần chính của hình thức hai đoạn đơn 55
4. Ứng dụng của hình thức hai đoạn đơn 56
Chương V: 60
1. Khái niệm chung 60
2. Các dạng cấu trúc phổ biến của hình thức ba đoạn đơn 63
3. Các phần phụ và sự nhắc lại các phần chính của hình thức ba đoạn đơn 65
Chương VI:
Hình thức ba đoạn đơn 68
1. Hình thức ba đoạn phức 68
2. Hình thức rondo (rông-đô) 69
3. Hình thức biến tấu 70
4. Hình thức sonate (xô-nát) 70
Chương VII: Giới thiệu một số thể loại thanh nhạc 72
1. Ca khúc 72
2. Trường ca 76
3. Romance (rô-măng-xơ) 76
4. Hợp ca 76
5. Hợp xướng 77
Chương VIII: Giới thiệu một số thể loại của khí nhạc 80
1. Vài thể loại nhỏ của khí nhạc (nhạc đàn) 80
2. Vài thể loại lớn của nhạc khí 82
PHẦN THỨ HAI:
Phương pháp và kỹ thuật ca hát 85
Chương I: Một số vấn đề về ca hát 85
3
1. Bộ máy phát âm (bộ máy phát thanh) 85
2. Hơi thở trong ca hát 88
3. Các xoang cộng minh và tổ chức âm thanh 91
4. Phân loại giọng hát 95
5. Tư thế cơ thể trong ca hát 99
6. Một số kỹ thuật hát 101
7. Xử lý ngôn ngữ trong ca hát 106
8. Một số bài tập luyện thanh thông thường: 112
9. Lựa chọn bài hát và phương pháp luyện tập 115
Chương II: 120
1. Các thể loại bài hát dùng ở trường Mầm non 120
2. Hướng dẫn thực hành thể hiện bài hát 120
Chương III:
Ứng dụng thể hiện bài hát ở trường Mầm non 131
1. Phần chuẩn bị 131
2. Phần biểu diễn 132
TÀI LIỆU THAM KHẢO 133
4
LỜI NÓI ĐẦU
Thể loại và phương pháp thể hiện bài hát là những kiến thức cần thiết đối với mỗi giáo
viên Mầm non. Nó trang bị những hiểu biết và kỹ năng để các thầy, cô giáo có thể sử dụng
trong lúc dạy cho các cháu về hoạt động ca hát ở nhà trường
Với phương châm là cung cấp một lượng kiến thức phù hợp với đối tượng làm công tác
âm nhạc không chuyên, nhưng có tác dụng thiết thực để các sinh viên có thể vận dụng được
trong công tác của mình sau khi tốt nghiệp, nên chúng tôi không đi quá sâu vào các nội dung
chỉ dành riêng cho đối tượng là học sinh - sinh viên âm nhạc chuyên nghiệp, mà chủ yếu giới
thiệu các kiến thức cần thiết cho người học
Ngoài việc cung cấp trực tiếp các kiến thức cơ bản cho sinh viên, cuốn sách còn trang bị
cho người học một số nội dung để tham khảo, tự nghiên cứu, nhằm hỗ trợ thêm cho kiến thức
chính.
Để hiểu rõ các nội dung trong cuốn sách này, đồng thời để sử dụng tốt vào quá trình
giảng dạy cho các cháu, sinh viên cần nắm vững và vận dụng các kiến thức đã được học từ các
học phần: Âm nhạc I, Âm nhạc II, và Phương pháp giáo dục âm nhạc trong trường Mầm non,
trong các sách giáo khoa, các tài liệu và các trang web âm nhạc liên quan
Các ví dụ, câu hỏi, bài tập trong cuốn sách này chủ yếu sử dụng các bài hát, tác phẩm âm
nhạc của Việt Nam, nhằm giúp cho sinh viên dễ tiếp thu, và hiểu được các kiến thức, khuôn
mẫu âm nhạc của Phương Tây.
Qua cuốn sách này, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn các nhà giáo trong lĩnh vực sư phạm
âm nhạc, các đồng nghiệp, bạn bè, sinh viên đã quan tâm, tạo điều kiện, giúp đỡ chúng tôi bằng
nhiều hình thức, để nhóm biên soạn có thể hoàn thành được cuốn sách này.
Do một số lý do khách quan và chủ quan, cho nên cuốn sách không tránh khỏi những
hạn chế, chúng tôi rất mong các đồng nghiệp và sinh viên cho ý kiến đóng góp, để cuốn sách
tiếp tục được hoàn thiện hơn trong những lần tái bản.
Xin chân thành cảm ơn.
Nhóm biên soạn
5
Phần thứ nhất
HÌNH THỨC VÀ THỂ LOẠI ÂM NHẠC
Chương I:
KHÁI NIỆM CHUNG
Mục đích, yêu cầu
Trang bị cho học viên những hiểu biết ban đầu về:
- Tính chất đặc biệt của nghệ thuật âm nhạc.
- Hiểu được những nguyên tắc trong phương pháp phân tích tác phẩm âm nhạc.
- Có những khái niệm sơ giản về hình thức, thể loại âm nhạc.
1. Tính chất đặc biệt của nghệ thuật âm nhạc
Âm nhạc là một trong những hình thái của ý thức xã hội, phụ thuộc vào những hoạt động
và quy luật chung của tự nhiên. Đồng thời, âm nhạc còn có những quy luật riêng bắt nguồn từ
tính chất đặc thù của loại hình nghệ thuật này.
Cũng như các loại hình nghệ thuật khác: hội họa sử dụng đường nét hình khối, màu sắc;
văn thơ sử dụng sức mạnh của ngôn từ; âm nhạc là nghệ thuật của âm thanh.
Từ các âm thanh phong phú của cuộc sống, loài người đã sáng tạo và ngày càng hoàn thiện
nghệ thuật âm nhạc để phản ánh mọi hoạt động của con người bằng ngôn ngữ riêng, dựa trên
hai yếu tố cơ bản là giai điệu và tiết tấu. Những yếu tố ấy đã được tổ chức một cách chặt chẽ,
tạo thành những hệ thống có tính lôgic, trình bày và phát triển qua thời gian, để phản ánh những
cấu trúc mẫu mực khác nhau, những hình thức âm nhạc khác nhau. Do vậy, bản chất thời gian
là một trong những tính chất quan trọng và đặc biệt của âm nhạc. Khi âm nhạc vang lên, không
thể ngừng lại phía sau, mà sự trình bày, phát triển là liên tục để biểu hiện đường tiến triển của
nội dung hình tượng, của ý tưởng âm nhạc.
Từ thưở ban đầu, âm nhạc luôn gắn chặt với mọi hoạt động thực tiễn của con người nảy
sinh trong quá trình lao động, đấu tranh để tồn tại, trong việc tìm hiểu để thích ứng với thiên
nhiên, trong những tín hiệu thông tin liên lạc, và cả những cử chỉ bộc lộ tâm tình, tình cảm
trong giao tiếp cộng đồng. Âm điệu trầm bổng, cao thấp khác nhau trong ngôn ngữ và tiết tấu
phong phú trong lao động tập thể là hai nhân tố khởi đầu của âm nhạc. Đó là những tiếng hô,
tiếng hò trong lao động, sinh hoạt; là những câu ca khác nhau biểu hiện trong niềm vui, nỗi nhớ,
nhũng xúc cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, hoặc gửi gắm tâm tình Âm nhạc đã gắn liền với
mọi giai đoạn của đời người, từ lúc chào đời đến khi từ giã cuộc sống. Đó là khúc hát ru thưở
ban đầu; những bài đồng dao tuổi thơ; những bài hát giao duyên, bài ca chiến trận, bài ca lao
động khi trưởng thành và tiếp đến là những khúc hát tiễn đưa con người về cõi vĩnh hằng.
Những bài ca ấy là niềm vui, nỗi khổ đau, những ước mơ khát vọng về hạnh phúc, những suy tư
6
trăn trở thầm kín của con người. Do vậy, âm nhạc tạo cho con người những xúc cảm mãnh liệt,
những cảm xúc tinh tế nhiều màu vẻ từ một tâm trạng này sang một tâm trạng khác.
Nội dung tác phẩm âm nhạc từ dân gian đến chuyên nghiệp, từ hình thức nhỏ nhất đến
những tác phẩm có quy mô lớn, đồ sộ đều biểu hiện những suy tư của con người trước hiện thực
khách quan, mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, giữa người với người.
Mỗi tác phẩm âm nhạc là sản phẩm của từng thời đại lịch sử nhất định, được sinh ra trong
những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của từng dân tộc. Các nhà soạn nhạc đã phản ánh trong
tác phẩm của mình bằng phương pháp này hay phương pháp khác những khuynh hướng tiến bộ
của thời đại. Những tác phẩm ấy là những giá trị bất diệt, có tác động trở lại để giúp con người
vươn tới cái đẹp, cái thiện.
Nhạc sĩ vĩ đại người Đức L.V.Beethoven (L.V.Bê-tô-ven) – người đã sáng tác chín bản
giao hưởng, trong đó bản giao hưởng số 5 - “Giao hưởng bi kịch - Định mệnh” đã biểu hiện ý
đồ triết lí theo sự phát triển chung của hình tượng âm nhạc: “Qua đấu tranh đến thắng lợi”, “từ
bóng tối đến ánh sáng”. Âm nhạc của bản giao hưởng như thuật lại giai đoạn cao trào nhất
trong cuộc đời con người, con người dấn thân vào cuộc đấu tranh cho lý tưởng, chiến thắng lại
định mệnh. Cuộc đấu tranh ấy là gian nan, con người có thể phải hi sinh, nhưng con người vẫn
tiến lên phía trước và cuối cùng kết thúc bằng thắng lợi của tinh thần đạo lý. Với ý đồ triết lý
lớn lao như vậy, Beethoven đã sáng tác bản giao hưởng này trong một cấu trúc rõ ràng, cân đối,
mạch lạc, lôgic và cực kì cô đọng. Tác phẩm đã trở thành một mẫu mực, một tiêu chuẩn kiểu
mẫu cho âm nhạc giao hưởng của thế kỉ XIX.
2. Những nguyên tắc chung trong phương pháp phân tích tác phẩm âm
nhạc
Muốn phân tích một tác phẩm âm nhạc dù nhỏ nhất như một bài hát tập thể, một làn điệu
dân ca, dân vũ cho tới những tác phẩm có quy mô lớn như một bản giao hưởng gồm nhiều
chương, một vở nhạc kịch, vũ kịch có nhiều màn, nhiều cảnh đòi hỏi người học phải có sự
hiểu biết rộng và toàn diện. Ngoài sự hiểu biết về lịch sử xã hội nói chung, cần có những kiến
thức về âm nhạc như lí thuyết âm nhạc cơ bản, hòa âm, phức điệu, tính năng nhạc cụ, phối dàn
nhạc, lịch sử âm nhạc, mỹ học âm nhạc, đồng thời từng nghe một lượng tác phẩm nhất định.
Tùy vào đối tượng phân tích mà vận dụng những hiểu biết ấy của mình trong thực hành nghiên
cứu.
Phân tích một tác phẩm âm nhạc, trước hết phải nghiên cứu toàn diện, tổng hợp trong một
phạm vi rộng của nhiều vấn đề chứ không chỉ giới hạn ở cấu trúc tác phẩm ấy. Việc phát hiện
nội dung và ý nghĩa nghệ thuật của tác phẩm là công việc chính của việc phân tích. Một tác
phẩm âm nhạc có tính nghệ thuật cao bao giờ cũng chứa đựng một nội dung sâu sắc. Để thể
hiện nội dung tác phẩm, các nhà soạn nhạc đã lựa chọn những hình thức phù hợp, điển hình và
không trùng lặp. Sự độc đáo của mỗi hình thức không phải là ngẫu nhiên, đó là kết quả của nội
dung khách quan được biểu hiện bằng phương pháp của ngôn ngữ âm nhạc.
Chẳng hạn như Bản giao hưởng số 1 – “Quê hương” hoàn thành năm 1961 của nhạc sĩ
Hoàng Việt - tác phẩm liên khúc sonate (xô-nát) – giao hưởng đầu tiên của nền âm nhạc chuyên
nghiệp Việt Nam nửa sau thế kỉ XX. Tác phẩm đã phản ánh tinh thần đấu tranh của nhân dân
7
Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống sự xâm lược của thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, hi vọng vào một ngày mai đất nước sẽ được độc lập, tự do, thống nhất. Với nội dung
tư tưởng lớn lao, tác giả đã vận dụng thành công tư duy giao hưởng của nền âm nhạc Châu Âu
dựa trên ngôn ngữ âm nhạc mang đậm phong cách dân tộc và có tính sáng tạo về tính luân
phiên giữa các chương để phù hợp với ý đồ phát triển của hình tượng âm nhạc. Bản giao hưởng
Quê hương có các chủ đề, âm nhạc được hình thành từ âm điệu của chín ca khúc khác nhau và
âm điệu của hai làn điệu dân ca. Những bài ca ấy là những khúc nhạc quen thuộc, những bài hát
nổi tiếng của nhạc sĩ Việt Nam và của chính tác giả (Hội nghị Diên Hồng, Lên đàng, Nam Bộ
kháng chiến, Chiến thắng Điện Biên Phủ, Lên ngàn, Kỵ binh Việt Nam, Mùa lúa chín, Cây trúc
xinh, Quê tôi giải phóng, Giải phóng miền Nam, Đợi chờ).
Khác với giao hưởng truyền thống, chương ba không phải là chương nhạc biểu hiện sinh
hoạt phong tục mà lại có tính kịch gay gắt nhằm miêu tả cuộc kháng chiền của nhân dân Việt
Nam chống sự xâm lược của đế quốc Mỹ; còn chương bốn, tác giả đã vận dụng đưa hợp xướng
lớn trình bày cùng dàn nhạc giao hưởng nhưng lại là chương chậm, miêu tả niềm tin vào ngày
mai đất nước sẽ thống nhất trong ngày hội dân tộc. Sự vận dụng một loại hình âm nhạc của
phương Tây dựa trên ngôn ngữ âm nhạc Việt Nam, có tính phương Đông trong tác phẩm của
nhạc sĩ Hoàng Việt là một bước đi đúng đắn cho sự hình thành âm nhạc giao hưởng Việt Nam.
Tuy là một thể loại âm nhạc hoàn toàn mới đối với công chúng Việt nam, nhưng thính giả vẫn
cảm thấy những âm điệu, tiết tấu gần gũi, có thể tiếp nhận được nội dung, hình tượng âm nhạc
mà nhà soạn nhạc đã gửi gắm vào tác phẩm, thông qua sự biểu hiện âm thanh của các loại nhạc
cụ khác nhau trong dàn nhạc giao hưởng. Công chúng Châu Âu khi được nghe tác phẩm này, đã
đánh giá cao sự tìm tòi của tác giả trong việc xử lý chất liệu âm nhạc dân tộc, có tính riêng biệt,
độc đáo.
Muốn hiểu được nội dung một tác phẩm nào đó, người nghiên cứu nên quan tâm tới hoàn
cảnh lịch sử, xã hội; các xu hướng, các quan điểm nghệ thuật trong giai đoạn tác phẩm ra đời.
Chẳng hạn như để đánh giá đúng mức tác dụng của ca khúc Việt Nam trước Cách mạng Tháng
Tám, không thể tách khỏi hoàn cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam trong giai đoạn này. Xã hội Việt
Nam đầu thế kỷ XX, sau khi thực dân Pháp đã hoàn thành cuộc xâm lăng tìm thuộc địa, thiết
lập chế độ thống trị nửa phong kiến, bắt đầu truyền bá có điều kiện nền văn minh phương Tây,
mà chủ yếu là văn minh Pháp gây nên những biến động sâu sắc trong xã hội Việt Nam. Trong
lĩnh vực âm nhạc, nhạc “cải cách” hay còn gọi là “tân nhạc”, “nhạc mới”, là một hiện tượng,
một sản phẩm văn hóa dân tộc, là kết quả của sự tiếp biến văn hóa giữa Đông và Tây, là sự tiếp
nhận của người Việt Nam đối với âm nhạc phương Tây theo cách của mình.
Khoảng những năm 30 của thế kỉ XX, một dạng tác phẩm của âm nhạc mới là ca khúc ra
đời với các khuynh hướng khác nhau: - Lãng mạn (Con thuyền không bến, Cô lái đò, Đêm
đông, Biệt li, Suối mơ, Cô láng giềng ), - Yêu nước tiến bộ (Bạch Đằng Giang, Hội nghị Diên
Hồng, Thăng Long hành khúc, Bóng cờ lau ) - Cách mạng (Cùng nhau đi Hồng binh, Du kích
ca, Tiến quân ca, Diệt phát xít ). Sự hình thành phong trào nhạc mới không chỉ là một sự kiện
quan trọng, nổi bật, tạo bước ngoặc mới về thủ pháp sáng tác, biểu diễn âm nhạc mà nội dung
của các ca khúc đó đã biểu hiện cho tiếng nói tình cảm của các tầng lớp, các giai cấp khác nhau
trong xã hội, là những giá trị mới trong đời sống âm nhạc Việt Nam.
8
Sự nhận biết về nội dung tác phẩm cần phải dựa trên các yều tố, thủ pháp biểu hiện của
ngôn ngữ âm nhạc: giai điệu, hòa âm, tiết tấu, nhịp độ, cường độ, âm sắc, âm vực, cách cấu
tạo cũng như những quy luật và nguyên tắc của sự phát triển âm nhạc. Trong quá trình phân
tích, có thể tham khảo những dẫn giải của chính tác giả hay của các nhà phê bình đánh giá về
các tác phẩm ấy. Nhiều nhà soạn nhạc trên thế giới, đặc biệt ở thế kỷ XIX, XX đã nêu lên
những ý đồ, suy tư của mình về tác phẩm hoặc viết bài giới thiệu tác phẩm của các nhà soạn
nhạc ở thế kỷ trước hay cùng thời với mình như R.Schumann (R.Su-man), F.Liszt (F.Litx),
H.Berlioz (H.Béc-li-ô), P.Tchaikosky (P.Trai-cốp-xki), D.Schostakovich (Đ.Sốt-xta-cô-vich),
và các nhạc sĩ Việt Nam như Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Văn Cao,
Nguyễn Văn Thương, Phan Huỳnh Điểu, Huy Du, Hoàng Vân Đồng thời, có thể tìm hiểu qua
các cuốn sách về lịch sử âm nhạc, về tác phẩm âm nhạc. Các đánh giá, nhận xét đó cùng với sự
nghiên cứu, tìm hiểu của bản thân mỗi người sẽ hoàn thiện cho việc khẳng định về nội dung, về
tính nghệ thuật, phong cách của một trường phái, một tác giả.
Phân tích một tác phẩm âm nhạc, cần bắt đầu từ những nhận xét tổng quát, toàn bộ tác
phẩm để khẳng định ý đồ chung của tác giả, sau đó mới xem xét từng chương, từng phần riêng
biệt cho tới các chi tiết. Có những tác phẩm, nhìn bề ngoài có thể có dáng dấp về hình thức
chung là giống nhau, nhưng khi phân tích các phần nhỏ, chi tiết hơn, thông qua lối tiến hành
giai điệu, tiết tấu lại tìm thấy những điểm khác biệt, thể hiện tài năng sáng tạo của từng nhà
soạn nhạc, và qua đó, có thể khẳng định phong cách, bút pháp của từng trường phái. Như vậy,
trong quá trình nghiên cứu, ta đã dùng đến phương pháp so sánh. Có thể so sánh các tác phẩm
khác nhau của cùng một tác giả, hoặc tác phẩm của tác giả này với tác phẩm của người cùng
thời Phương pháp so sánh cho ta những kết quả để khẳng định một phong cách, một thể loại;
đồng thời, còn xác định chính xác hơn tính điển hình, độc đáo của từng tác phẩm. Bởi lẽ, những
quy luật được vận dụng trong âm nhạc khác hẳn với những khái niệm về quy luật, quy tắc, định
lý dùng trong các ngành toán học, hóa học, lý học vì những quy luật được vận dụng trong âm
nhạc có tính “khuynh hướng”. Tính linh hoạt của các nguyên tắc ấy thể hiện sự độc đáo, không
trùng lặp của mỗi tác phẩm âm nhạc.
Trong quá trình nghiên cứu, phân tích một tác phẩm nào đó nên dành thời gian tìm hiểu kĩ
chủ đề âm nhạc của tác phẩm ấy. Bởi vì chủ đề âm nhạc chứa đựng sự trần thuật, giới thiệu hình
tượng của tác phẩm và những mối liên quan chung của chúng trong quá trình phát triển. Sau khi
trần thuật chủ đề âm nhạc, chủ đề sẽ được biến đổi bằng nhiều thủ pháp khác nhau trong mối
liên quan chung và cuối cùng sẽ được nhấn mạnh để khẳng định hình tượng chính của tác phẩm.
3. Phân biệt giữa hình thức âm nhạc và thể loại âm nhạc
Để xác định được khái niệm thế nào là hình thức âm nhạc cần phải bắt đầu tìm hiểu bản
chất và tính tự nhiên của loại hình nghệ thuật này.
Âm nhạc là loại hình nghệ thuật tồn tại theo thời gian, được trình bày, phát triển qua thời
gian để phản ánh những cấu trúc mẫu mực điển hình khác nhau cũng như những hình thức âm
nhạc khác nhau.
Khái niệm hình thức âm nhạc theo tư duy rộng là sự vang lên toàn bộ một tác phẩm từ âm
thanh đầu đến âm thanh cuối cùng với tất cả các yếu tố của nó là giai điệu, tiết tấu, nhịp độ, âm
9
sắc, hòa âm, âm vực, cường độ, cách cấu tạo v.v
Khái niệm hình thức âm nhạc theo tư duy hẹp là một quá trình chứa đựng các phần, các
chủ đề cùa một tác phẩm. Trên cơ sở của những quá trình ấy, các hình thức âm nhạc mẫu mực
khác nhau được khẳng định như: hình thức một đoạn đơn, hình thức hai đoạn đơn, hình thức ba
đoạn đơn; sự phức tạp hóa các đoạn đơn là hình thức một đoạn phức, hình thức hai đoạn phức,
hình thức ba đoạn phức; tiếp đến là hình thức rondo (rông-đô), hình thức biến tấu, hình thức
sonate (xô-nát)
Để khỏi lầm lẫn giữa khái niệm về hình thức âm nhạc theo tư duy, rộng và hẹp, từ đây trở
đi trong cuốn sách giáo trình này sẽ dùng thuật ngữ hình thức âm nhạc theo nghĩa hẹp để phân
biệt các cấu trúc khác nhau trong các tác phẩm âm nhạc.
Thể loại âm nhạc là những dạng, những kiểu tác phẩm có liên quan chặt chẽ trong một
phạm vi nhất định với các yếu tố diễn tả cơ bản của âm nhạc.
Kể cả những tác phẩm viết cho thanh nhạc hay chỉ viết cho các nhạc cụ trình bày cũng đều
thể hiện được tính chất thể loại thông qua các phương tiện diễn tả như: hành khúc, hành khúc
tang lễ, bài hát ru, khúc hài hước, bài ca chèo thuyền
Hành khúc thường viết ở nhịp độ vừa phải; phù hợp với bước đi. Lối tiến hành giai
điệu thường xuất hiện những quãng 4, quãng 5 hoặc quãng trùng với cường độ các âm giống
nhau hoặc có chấm dôi; có âm hình khúc chiết, mạnh mẽ, rắn rỏi (Anh vẫn hành quân, Hành
quân xa, Tiến bước dưới quân kì, Bước chân trên dải Trường Sơn, Tiếng chuông và ngọn cờ )
Hành khúc tang lễ cũng có những đặc điểm về giai điệu, tiết tấu, nhịp điệu như hành
khúc nhưng viết ở nhịp độ chậm, biểu hiện nỗi đau thương, sự mất mát tiếc thương người anh
hùng, người thân.
Hát ru thường có nhịp độ khoan thai, giai điệu du dương với lối tiến hành giai điệu đi
liền bậc, ít dùng những biến hóa âm đột ngột và tiết tấu thường có tính chu kỳ hoặc tự do (Mẹ
yêu con, Từ trên đỉnh núi).
Khúc hài hước thường có nhịp độ nhanh, hay sử dụng đảo phách, giai điệu có những
bước nhảy tạo sự hẫng hụt (Chiếc xe lu, Thằng Bờm )
Mỗi loại hình nghệ thuật đều gồm nhiều thể loại khác nhau. Hội họa có vẽ chân dung,
phong cách, sơn mài, sơn dầu, tranh khắc, tranh minh họa ; thơ ca có loại thơ 4 từ, 5 từ, lục
bát, thất ngôn, thơ mới Nghệ thuật âm nhạc cũng có nhiều loại với tiêu chí phân loại khác
nhau.
Có người phân chia âm nhạc thành các loại: âm nhạc dân gian, âm nhạc giải trí, âm nhạc
thính phòng, âm nhạc giao hưởng - đại hợp xướng gồm cả thanh nhạc, khí nhạc - thanh xướng
kịch gồm cả thanh nhạc, khí nhạc, trang phục; âm nhạc sân khấu có tính tổng hợp như nhạc
kịch (opéra = ô-pê-ra), vũ kịch (ballet = ba-lê).
Trong mỗi loại ấy lại có nhiều dạng khác nhau, tiêu biểu cho những nét điển hình của từng
loại.
Âm nhạc dân gian cũng có nhiều loại khác nhau kể cả cho thanh nhạc (lao động, trữ tình,
10
giao duyên, lễ hội, ru, hò ) và khí nhạc (độc tấu, hòa tấu ). Âm nhạc giải trí gồm cả thanh
nhạc và khí nhạc. Âm nhạc thính phòng như nocturne (nốc-tuyếc), etude (ê-tuýt), prelude (prê-
luýt), sonate (xô-nát) viết cho một hoặc vài, ba nhạc cụ biểu diễn trong một phòng hòa nhạc
nhỏ. Âm nhạc giao hưởng như ouverture (u-véc-tuya), giao hưởng, thơ giao hưởng, tổ khúc
giao hưởng, concerto (công-xéc-tô) viết cho dàn nhạc giao hưởng, biểu diễn trong một phòng
hòa nhạc lớn.
Đôi khi người ta phân chia thể loại âm nhạc theo một cách khác, trong phạm vi rộng hơn,
chia thành hai nhóm: thanh nhạc (những tác phẩm cho giọng hát có phần đệm của nhạc đàn
hoặc không) và khí nhạc. Theo lối phân chia này, không chỉ phân biệt về cách thức biểu hiện
mà còn liên quan đến quy luật thẩm mỹ, có quan hệ đến khả năng thể hiện nội dung. Nhóm tác
phẩm cho thanh nhạc liên quan đến ca từ, và lời ca đã giúp cho người nghe hiểu được nội dung
tác phẩm dễ dàng hơn. Ngược lại, những tác phẩm khí nhạc, nội dung tác phẩm thông qua các
phương tiện diễn tả của âm thanh để biểu hiện hình tượng tác phẩm, việc lĩnh hội những tác
phẩm đó đòi hỏi phải có vốn hiểu biết nhất định về âm nhạc.
Lịch sử phát triển của nghệ thuật âm nhạc đã chứng minh thể loại âm nhạc luôn được bổ
sung những loại hình mới và được sinh ra trong những điều kiện lịch sử, xã hội nhất định, liên
quan đến sự tìm tòi sáng tạo của các nhà soạn nhạc. Thể loại âm nhạc cũng không tồn tại riêng
biệt mà chúng thường có mối tương hỗ lẫn nhau. Trải qua thời gian, thể loại âm nhạc ngày càng
hoàn thiện, phong phú với nhiều loại mới đáp ứng cho nhu cầu ngày càng cao của con người.
Tóm tắt
1. Âm nhạc - nghệ thuật âm thanh, dựa trên hai yếu tố cơ bản là giai điệu và tiết tấu; được
tổ chức chặt chẽ, tạo thành những hệ thống có tính lôgic, trình bày và phát triển qua thời gian,
để phản ánh những cấu trúc mẫu mực khác nhau, những hình tượng âm nhạc khác nhau.
2. Phân tích tác phẩm âm nhạc cần nghiên cứu toàn diện, tổng hợp, trong đó việc phát hiện
nội dung và ý nghĩa nghệ thuật của tác phẩm rất quan trọng, có liên quan tới hoàn cảnh chính trị
- xã hội và các xu hướng nghệ thuật. Nội dung và giá trị nghệ thuật được biểu hiện qua ngôn
ngữ âm nhạc, do vậy cần xem xét từ khái quát đến từng phần, từng chi tiết của tác phẩm và sử
dụng phương pháp phân tích nội tại, rồi so sánh, tổng hợp. Trong quá trình phân tích, cần dành
nhiều thời gian phân tích chủ đề.
3. Hình thức âm nhạc theo tư duy hẹp là một quá trình chứa đựng các phần, các chủ đề của
một tác phẩm; từ đó sẽ khẳng định các cấu trúc mẫu mực khác nhau. Thể loại âm nhạc là những
dạng, những kiểu tác phẩm liên quan chặt chẽ trong một phạm vi nhất định với các phương
pháp diễn tả cơ bản của âm nhạc.
11
Câu hỏi
1. Trình bày về tính chất đặc biệt của âm nhạc.
2. Hãy nêu những nguyên tắc chính để phân tích một tác phẩm âm nhạc.
3. Hãy trình bày hiểu biết của mình về hình thức âm nhạc theo nghĩa rộng và hẹp.
4. Thử nêu một vài cách phân chia về thể loại âm nhạc.
12
Chương II:
PHƯƠNG PHÁP DIỄN TẢ CƠ BẢN, CHỨC NĂNG TỪNG PHẦN CỦA
HÌNH THỨC, SỰ PHÂN CHIA TRONG HÌNH THỨC
Mục đích, yêu cầu
1. Giúp cho học viên biết được những khía cạnh quan trọng nhất của từng phương pháp
diễn tả cơ bản khi phân tích tác phẩm.
2. Biết được cấu trúc của hình thức âm nhạc bao gồm các phần chính và có thể thêm phần
phụ; chức năng khác nhau của chúng trong tác phẩm.
3. Giới thiệu sơ giản nhất về sự phân chia trong hình thức.
1. Những phương pháp diễn tả cơ bản nhất trong âm nhạc
Những phương pháp diễn tả cơ bản trong âm nhạc gồm: giai điệu, hòa âm, tiết tấu, nhịp
độ, âm sắc, cường độ, cách cấu tạo v.v
Tất cả những phương pháp diễn tả cơ bản này đều liên quan chặt chẽ với nhau, không tách
rời mà thống nhất vang lên đồng thời với vai trò dẫn dắt của giai điệu. Người nghe bị hấp dẫn
tới tình cảm là do sự tác động đồng thời của tất cả các phương pháp diễn tả vang lên từ nốt nhạc
đầu tới nốt cuối của tác phẩm.
Do vậy, khi phân tích một tác phẩm nào đó cần phải xem xét mối quan hệ tương hỗ của tất
cả các phương pháp diễn tả nhưng sau đó cần phân tích kỹ lưỡng từng yếu tố riêng biệt như giai
điệu, hòa âm, tiết tấu v.v để tìm được những nét độc đáo của hình tượng tác phẩm.
Chúng ta hãy xem xét âm điệu bắt đầu của những bài chính ca, ca khúc cách mạng hoặc
hành khúc sau đây:
1a. Tiến quân ca (trích)
Nhịp đi – Hùng mạnh Văn Cao
1b. Diệt phát xít (trích)
Nhịp đi Nguyễn Đình Thi
1c. Cùng nhau đi Hồng binh (trích)
Nhịp đi Đinh Nhu
13
Các bài ca trên đều bắt đầu bằng một quãng 4 như tạo tính tích cực, kiên nghị, thúc giục,
gây sự chú ý. Trên cơ sở nhân tố ấy còn có sự hỗ trợ của một vài yếu tố khác nhau như sự
chuyển động của giai điệu bằng quãng 4 đi lên, phù hợp với sự chuyển động của nhịp điệu từ
phách yếu sang phách mạnh, từ âm có trường độ ngắn sang âm có trường độ dài hơn (1a, 1c) và
từ âm không ổn định chuyển hút sang âm ổn định trong một giọng.
Vậy là, trong quá trình phân tích, ta đã xem xét một vài nhân tố trong mối liên quan tương
hỗ nhau với sự dẫn dắt của giai điệu.
1.1. Giai điệu
Giai điệu chiếm một vị trí quan trọng trong toàn bộ phương pháp diễn tả của âm nhạc bởi
lẽ giai điệu tạo đường nét, hình tượng chính của tác phẩm.
Giai điệu là sự trình bày một ý nhạc, được sắp xếp trong một bè thường diễn đạt nội dung
cơ bản của tác phẩm như số lớn các làn điệu, các bài dân ca hoặc một số đoạn ở những tác
phẩm nhiều bè, giai điệu trình bày thành tổ chức có tính quy luật hoàn thiện. Những tác phẩm
nhiều bè, giai điệu có ý nghĩa là bè dẫn dắt tiêu biểu cho hình tượng chính của tác phẩm.
Khía cạnh quan trọng nhất của giai điệu là mối tương quan về độ cao thấp, độ dài ngắn của
âm thanh cũng như mối tương quan về hòa âm, điệu tính. Trong một số trường hợp cụ thể giai
điệu còn thể hiện tính thể loại tác phẩm. Nếu một giai điệu, tước bỏ phần tiết tấu có thể mất đi
tính sinh động, sự rõ ràng của âm thanh cũng như sự khác nhau trong mối quan hệ hòa âm đó là
mối quan hệ giữa âm ổn định và không ổn định trong một giọng.
2a:
Vẫn ví dụ trên, các âm thanh có thêm tiết tấu (độ dài ngắn của âm thanh) làm cho giai điệu
có hình tượng rõ ràng, kết hợp với nhịp điệu và nhịp độ, cho người nghe cảm nhận được tác giả
như muốn thể hiện trong nét giai điệu ấy một tình cảm hiên ngang, tự hào về người lính công
binh, trong cuộc chiến tranh giành thống nhất đất nước.
2b: Bài hát bên cầu phao
Dõng dạc – Hiên ngang Nhạc và lời: Trọng Bằng
14
Nếu nét giai điệu trên được hát ở nhịp độ nhanh hơn hoặc chậm hơn sẽ làm thay đổi hình
tượng của tác phẩm; nhịp độ nhanh như tạo sự thôi thúc khẩn trương, bất ổn định; nhịp độ chậm
làm cho âm nhạc như bình ổn hơn. Tuy tiết tấu nhịp độ v.v… là khía cạnh quan trọng trong tổ
chức giai điệu nhưng không có nghĩa quyết định.
Khía cạnh quan trọng nhất, thể hiện bản chất của giai điệu là âm điệu. Âm điệu bắt nguồn
từ ngữ điệu của ngôn ngữ. Tất nhiên, âm điệu của ngôn ngữ (thanh điệu) và âm điệu âm nhạc
khác nhau về bản chất. Âm điệu âm nhạc là sự hình thành độ cao thấp chính xác của các âm.
Âm điệu âm nhạc được thể hiện bằng các quãng (đi liền bậc hoặc các quãng nhảy) và
chiều hướng chuyển động của các quãng đó (đi lên, đi xuống, đi ngang, lượn sóng )
Trong một tác phẩm âm nhạc, giai điệu thường tiến hành theo kiểu lượn sóng, gồm các
quãng đi lên và đi xuống, thăng bằng lẫn nhau.
2c. Người Hà Nội (trích)
Chậm vừa Nguyễn Đình Thi
Khi giai điệu tiến hành đi lên liên tục với cường độ tăng dần thường tạo tính căng thẳng;
ngược lại, tiến hành đi xuống sẽ giảm bớt căng thẳng kèm theo sự giảm dần cường độ của âm
thanh.
3a. Người là niềm tin tất thắng (trích)
Chu Minh
3b. Bài ca hi vọng (trích)
Văn Ký
Bước đi liền bậc là dạng chính của sự chuyển động, tạo cho giai điệu trôi chảy, nhịp
nhàng. Các bước nhảy xa (quãng nhảy) sau đó thường được tiến hành ngược hướng để “điền
đầy” vào khoảng trống do bước nhảy trước đó tạo nên.
4. Đêm Trường Sơn nhớ Bác (trích)
Trần Chung
15
Giai điệu của tác phẩm có thể chia thành những phần nhỏ, có tính độc lập, hoàn thiện ở
một chừng mực nào đó gọi là làn sóng giai điệu. Làn sóng giai điệu có thể rất ngắn, gồm vài
âm, có thể dài trong một số nhịp.
5. Nhạc rừng (trích)
Vừa phải – Trong sáng Hoàng Việt
Làn sóng giai điệu đi lên đến điểm cao nhất gọi là cao trào hay cao điểm (đỉnh cao của giai
điệu). Giai điệu có thể có nhiều cao điểm ở mỗi làn sóng giai điệu. Cao trào chính là cao điểm
quan trọng nhất, có ý nghĩa chung cho toàn bộ hình thức và thường xuất hiện ở vị trí 3/4 tác
phẩm, gọi là điểm chia vàng.
Trong cấu trúc tác phẩm, việc bố trí cao trào chính thích đáng là một trong những nguyên
tắc quan trọng của nhà soạn nhạc. Ta có thể xem xét qua hai ca khúc nghệ thuật Bài ca hi vọng
của Văn Ký và Mộc miên hoa của Huy Du đều có cao trào chính ở vị trí như quy định chung;
đồng thời trước đó đã được chuẩn bị trước. Ở bài Mộc miên hoa cao trào xuất hiện ở nhịp 18 –
19 với âm cao nhất so với toàn bài: “A
2
” (nốt La 2) cường độ ff (tổng số 25 nhịp); Bài ca hi
vọng có xê dịch chút ít về cuối, nhịp 24 – 25 (trong tổng số 29 nhịp) với âm thanh cao nhất “F
2
”
(nốt Pha 2) ở cường độ lớn nhất ff.
Trong một số tác phẩm có thể không có cao trào chính mà chỉ có cao trào bộ phận như ca
khúc quần chúng, ca khúc cho trẻ em hoặc những tác phẩm có tính vũ khúc.
Ở những tác phẩm giao hưởng, cao trào không chỉ ở một điểm mà có thể chiếm cả một
vùng lớn trong khuôn khổ của hình thức.
1.2. Hòa âm
Hòa âm là một trong những phương pháp diễn tả cơ bản quan trọng nhất của âm nhạc. Hòa
âm là động lực sinh ra hình thức âm nhạc và làm rõ nét cho hình tượng âm nhạc. Ba khía cạnh
quan trọng nhất của hòa âm là: 1. Bổ sung và làm rõ cho giai điệu; 2. Tạo màu sắc; 3. Công
năng.
Hòa âm có liên quan chặt chẽ đến các phương pháp diễn tả khác, trước hết là giai diệu, bổ
sung và làm rõ nội dung của giai điệu. Chẳng hạn hòa âm của một phần nào đó trong tác phẩm
thay đổi thường xuyên sẽ làm cho giai điệu trở nên căng thẳng không ổn định. Ngược lại, nếu
hòa âm ít thay đổi, giai điệu thường có tính dàn trải, êm ả. Do đó, bản thân một giai điệu nào đó
có thể thay đổi do sự thay đổi trong lối tiến hành hòa âm.
Trong quá trình phân tích, việc tìm hiểu dàn ý hòa âm của tác phẩm rất quan trọng để phân
định ranh giới từng câu, đoạn và các phần khác nhau của hình thức.
Bản chất tạo hình quan trọng nhất của hòa âm là tính công năng.
1.3. Tiết tấu, tiết luật
1.3.1. Tiết tấu là một trong những phương pháp diễn tả của âm nhạc, được phát triển rất sớm
16
khi giai điệu và thang âm còn chưa định hình.
Theo nghĩa hẹp, tiết tấu chỉ sự liên tục có tổ chức độ dài ngắn của âm thanh. Theo nghĩa
rộng, tiết tấu là mối tương quan về thời gian giữa các phần, các chương nhạc trong một tác
phẩm âm nhạc. Tiết tấu giữ vai trò quan trọng trong tính tạo hình của tác phẩm, thông qua tiết
tấu, ta có thể hiểu được hình tượng của chủ đề âm nhạc. Nếu tước bỏ phần giai điệu, trong
chừng mực nhất định, tiết tấu có thể tạo cho người nghe cảm nhận được âm hình đó thể hiện các
sắc thái tình cảm vui vẻ, hội hè, nhảy múa; hoặc thôi thúc, hiệu lệnh, chiến trận hay u buồn,
thương tiếc, than thở v.v… Nhạc khí gõ trong âm nhạc dân gian của các tộc người Châu Phi,
châu Á có thể biểu hiện được các tâm trạng tình cảm khác nhau của con người. Khi phân tích
một tác phẩm âm nhạc, tiết tấu có thể là một trong những nhân tố phát triển tích cực bằng sự
thay đổi liên tục để trở thành một trong những động lực cho sự phát triển của hình thức. Trong
sự phát triển của hình thức âm nhạc tùy thuộc vào tính chất thể loại của tác phẩm, của hình
tượng âm nhạc và phong cách. Tuy nhiên, có thể có hai chức năng:
* Tiết tấu là nhân tố tích cực, là động lực cho sự phát triển.
Bài Tiếng chuông nhà thờ của nhạc sỹ Nguyễn Xuân Khoát ngoài các yếu tố về giai điệu,
nhịp điệu, nhịp độ, sự thay đổi các âm hình tiết tấu khác nhau đã tạo cho sự phát triển của âm
nhạc thành từng phần riêng biệt, có hình tượng riêng, có thể phân thành 4 phần:
Phần 1: Gồm 8 nhịp đầu với nhịp độ rất chậm, âm nhạc như kiểu hát nói, mang tính kể lể,
kịch tính với lối cấu trúc tiết tấu như nhau trong các nhịp, trừ nhịp cuối cùng có âm hình biến tấu
nhanh hơn viết ở nhịp 3/4
Phần
2: 8 nhịp tiếp theo có thể phân thành 4 nhịp một, tiết tấu thay đổi và chuyển sang nhịp
6/8, âm nhạc tha thiết đong đưa, tiếp theo là 6 nhịp với âm hình tiết tấu mới như mô phỏng tiếng
chuông đung đưa với hai dạng tiết tấu chính luân phiên, trong đó dạng 1 được biến đổi trang sức.
- Từ nhịp 23 đến nhịp 34 nhắc lại âm hình tiết tấu từ nhịp 9-16 và từ nhịp 17 – 22.
- Từ 35- 60 là nhắc lại đoạn nhạc từ nhịp 9 – 34 nhưng sử dụng thủ pháp biến tấu giai
điệu và tiết tấu ở những nhịp đầu.
D
ạng 1:
Hoặc:
Dạng 2:
Phần 3: Từ nhịp 62 đến nhịp 69, tái hiện phần thứ nhất và chuyển về nhịp 3/4.
Toàn bộ ba phần đều viết ở giọng Mi thứ, trong một vài nhịp có sử dụng li điệu.
Phần 4: Chuyển sang nhịp 2/4, mang tính hành khúc và chuyển sang giọng Mi Trưởng.
Âm nhạc ở đây sáng sủa hơn với hai kiểu âm hình tiết tấu khác nhau trong 8 nhịp đầu và 8 nhịp
cuối với nhịp độ chậm hơn, âm thanh mạnh hơn, thể hiện niềm tin tưởng vào cuộc kháng chiến
thành công.
17
* Tiết tấu là nhân tố tạo tính thống nhất
Những tác phẩm ở các thể loại etude (ê-tuýt), prelude (prê-luýt) thường chỉ có một dạng
âm hình tiết tấu giống nhau trong cả tác phẩm hoặc một phần lớn của tác phẩm để thống nhất
hình tượng.
Ca khúc Việt Nam viết cho lứa tuổi mẫu giáo, các tiết nhạc thường có một âm hình tiết tấu
giống nhau để các em nhỏ dễ nhớ, dễ thuộc như các bài: Chiếc đèn ông sao, Chú bộ đội, Đêm
trung thu, Đàn gà con
Một số ca khúc tập thể, hành khúc cũng vậy, như bài Vì nhân dân quên mình của Doãn
Quang Khải.
Tiết tấu luôn liên quan chặt chẽ đến tiết luật.
1.3.2. Tiết luật là sự luân phiên giữa phách mạnh và phách nhẹ
Phách mạnh là điểm tựa, có chức năng dẫn dắt; còn phách nhẹ giữ chức năng phụ thuộc.
Trừ những trường hợp đặc biệt, khi thay đổi chức năng, tạo thành phách đảo; có nghĩa là phách
yếu trở thành phách mạnh. Giữa nhịp này và nhịp khác cách nhau bằng vạch nhịp.
Có hai dạng chính của tiết luật là tiết luật nghiêm khắc và tiết luật tự do.
* Tiết luật nghiêm khắc là vị trí trọng âm không thay đổi trong các nhịp của một loại nhịp
nào đó. Tiết luật tự do là vị trí trọng âm thay đổi, gây nên hiện tượng phách đảo.
* Tiết luật còn có ý nghĩa là luật chia trường độ âm thanh: chia cơ bản và chia tự do (môn
Âm nhạc 1 đã đề cập).
Tiết tấu và tiết luật là hai mặt của một quá trình phức tạp về tổ chức thời gian trong hình
thức âm nhạc liên quan chặt chẽ, không thể tách rời.
1.4. Âm sắc
Âm sắc là màu sắc của âm thanh, phụ thuộc vào nguồn gốc âm thanh phát ra. Người ta
phân thành âm sắc của giọng người và âm sắc của các loại nhạc khí khác nhau. Giọng người
được phân thành giọng của nam, giọng của nữ. Giọng còn được phân biệt giữa các loại: cao,
trung và trầm. Còn đối với khí nhạc, mỗi cây đàn có một âm sắc riêng và có khả năng mô tả
những hiện tượng như sáng, tối, dữ dội, sắc nhọn v.v
Trong quá trình phát triển của lịch sử nghệ thuật âm nhạc, vai trò của âm sắc ngày càng
được quan tâm, trở thành tiêu biểu cho những yếu tố tạo hình. Âm sắc có liên quan đến một vài
phương pháp diễn tả của âm thanh và liên quan đến một số phương pháp diễn tả nhất là giai điệu.
Các nhà soạn nhạc đã khai thác khả năng này, đặc biệt khi viết cho dàn nhạc.
Âm sắc còn liên quan đến âm vực của giai điệu. Mỗi giai điệu, nếu được tiến hành ở
những âm vực khác nhau (thấp, trung bình, cao) có mức độ căng thẳng, sáng tối khác nhau để
miêu tả hình tượng âm nhạc, sẽ phù hợp với âm sắc, âm vực của từng nhạc cụ.
1.5. Nhịp độ
Nhịp độ liên quan đến tiết tấu, tiết luật và ảnh hưởng rõ rệt đến tính chất của giai điệu.
18
Cùng với tiết tấu, tiết luật, nhịp độ là nhân tố tạo nên sự chuyển động trong âm nhạc. Tiết tấu
xác định về thời gian giữa các âm, còn nhịp độ có ảnh hưởng nhất định đến đặc tính của tác
phẩm âm nhạc. Nhịp độ liên quan chặt chẽ đến hình tượng và thể loại của tác phẩm âm nhạc.
Khúc hát ru, điệu mazurka (ma-dua-ca), scherzo (xkéc-dô) đều có một nhịp độ thích ứng.
Nhịp độ nhanh làm cho âm nhạc sinh động và linh hoạt; ngược lại, nhịp độ chậm tạo sự bình ổn,
thư thái hơn.
Các nhà soạn nhạc đương đại rất quan tâm tới sự lựa chọn nhịp độ chính xác cho mỗi chủ
đề, từng đoạn, từng phần cũng như các chương khác nhau trong một tác phẩm.
1.6. Âm vực
Trong toàn bộ phương pháp diễn tả cơ bản của âm nhạc, âm vực chỉ ở vị trí thứ hai nhưng
lại có liên quan ảnh hưởng nhất định đến giai điệu, âm sắc. Thậm chí tùy từng tác phẩm hoặc
từng phần của tác phẩm nào đó âm vực có khi lại ở vị trí thứ nhất. Âm vực có ảnh hưởng rõ rệt
đến âm sắc, giai điệu, cho nên mỗi một nhạc cụ, nhất là các loại kèn hơi, mỗi âm khu có một
màu sắc riêng, phù hợp với từng hình tượng, khía cạnh khác nhau của tình cảm. Trong các tác
phẩm lớn sự tương phản về âm vực cũng góp phần cho sự phát triển của hình thức âm nhạc.
1.7. Cường độ
Cường độ là một phương pháp diễn tả của âm nhạc, dùng để xác định độ to, nhỏ của âm
thanh. Cường độ liên quan đến hướng chuyển động của giai điệu. Giai điệu tiến hành đi lên
thường đòi hỏi tăng dần cường độ (crescendo = crét-xăng-đô). Ngược lại, giai điệu tiến hành đi
xuống, độ căng thẳng giảm bớt và cường độ âm thanh cũng giảm dần (decrescendo = đê-crét-
xăng-đô). Đôi khi ở một vài tác phẩm nào đó, với ý đồ của tác giả, có thể sử dụng ngược với
tâm lý bình thường điều đó là hãn hữu. Những tác phẩm viết ở những hình thức lớn hoặc những
ca khúc nghệ thuật, việc sử dụng cường độ sử chính xác sẽ góp phần làm cho nội dung của tác
phẩm thể hiện đầy đủ hơn.
1.8. Cách cấu tạo
Cách cấu tạo là phương thức trình bày, tổ chức âm thanh của tác phẩm.
Tác phẩm âm nhạc có hai dạng cấu tạo chính: một bè và nhiều bè.
Tác phẩm cấu tạo một bè được phân thành ba kiểu khác nhau là bè đơn, đồng âm và tăng
đôi trong một vài quãng tám.
Tác phẩm nhiều bè cũng được chia thành ba kiểu khác nhau: chủ điệu (homophonie = hô-
mô-phô-ni), bè tòng (heterophonie = hê-tê-rô-phô-ni) và phức điệu (polyphonie = pô-li-phô-ni).
Chủ điệu là tác phẩm cấu tạo nhiều bè nhưng trong đó có một bè với ý nghĩa dẫn dắt, còn
những bè khác chỉ có tính chất đệm với ý nghĩa phụ thuộc.
Bè tòng là tác phẩm cấu tạo nhiều bè, trong đó có một bè với ý nghĩa dẫn dắt, còn những
bè khác trình bày biến hóa, họa lại những âm điệu điển hình nhất của bè chính. Loại này tương
tự như kiểu hòa tấu cổ truyền trong âm nhạc dân tộc của Việt Nam.
Phức điệu là tác phẩm cấu tạo nhiều bè phức tạp nhất, vì trong đó tất cả các bè đều phát
triển và là những bè độc lập.
19
Trong thực tế khái niệm về thuật ngữ cách cấu tạo facture còn được dùng để chỉ tính thể
loại của tác phẩm như cách cấu tạo kiểu dàn nhạc, kiểu hợp xướng, kiểu hòa tấu thính phòng,
kiểu viết cho đàn violon (vi-ô-lông), piano (pi-a-nô) v.v
2. Chức năng từng phần của hình thức âm nhạc
Mỗi tác phẩm có cấu trúc ở hình thức nhỏ nhất hoặc hình thức lớn đều gồm ba phần chính
được gọi là: phần trình bày, phần giữa và phần tái hiện. Ngoài ba phần chính ấy, tùy vào từng
tác phẩm còn có thêm các phần phụ là: mở đầu, nối tiếp và kết. Các phần trong hình thức không
tồn tại riêng biệt mà chúng phụ thuộc lẫn nhau, thống nhất trong toàn bộ dàn ý sáng tác chung.
2.1. Phần mở đầu
Phần mở đầu có chức năng chuẩn bị cho sự xuất hiện các phần chính của hình thức âm
nhạc. Dù mở đầu được xây dựng trên chất liệu chủ đề độc lập hay sử dụng chất liệu của các
phần chính thì cấu trúc của nó vẫn không ổn định, không hoàn thiện để hướng người nghe đến
các phần tiếp theo.
Phần mở đầu có thể rất ngắn, chỉ gồm một vài âm, nhưng cũng có thể rất dài tùy theo ý đồ
của nhà soạn nhạc.
Phần mở đầu có thể là chủ đề không độc lập, có ý nghĩa là chất liệu chủ đề liên quan chặt
chẽ đến chất liệu chủ đề của các phần tiếp theo. Phần mở đầu là một nét nhạc không lời do tác
giả soạn để gây không khí hoặc để dẫn người nghe vào phần hát.
2.2. Phần trình bày
Phần trình bày là phần chính của hình thức, giữ chức năng trần thuật chất liệu chủ đề của
một tác phẩm. Phần trình bày có tính hoàn thiện và rõ ràng về cấu trúc, có tính ổn định và thống
nhất chất liệu chủ đề, điệu tính (giọng). Tuy nhiên cũng có thể có sự biến đổi đôi chút qua
phương pháp diễn tả âm nhạc, tùy từng tác phẩm.
Phần
thứ nhất trong bài Tháng ba học trò của (Hàn Ngọc Bích) là phần trình bày của tác
phẩm này, gồm 16 nhịp. Cấu trúc của 8 nhịp đầu và 8 nhịp sau là như nhau về âm hình tiết tấu;
cao độ ba nhịp đầu của câu 1 và 3 nhịp đầu câu sau cũng giống nhau. Phần trình bày này viết ở
giọng Pha Trưởng; nhịp thứ 8 kết ở âm bậc V của giọng Pha Trưởng, âm Đô; còn nhịp thứ 16
kết ở âm bậc I, âm Pha.
6. Tháng Ba học trò (trích)
Nhanh vừa Hàn Ngọc Bích
20
2.3. Phần nối tiếp
Phần nối tiếp có chức năng liên kết hai chủ đề khác nhau hoặc hai phần chính của hình
thức, với nhiệm vụ dẫn dắt, hướng sự phát triển tới phần tiếp theo và chuẩn bị cho sự xuất hiện
chất liệu mới ở giọng mới của chủ đề mới. Khuôn khổ của nối tiếp có thể rất ngắn hoặc dài tùy
thuộc vào hình thức tác phẩm. Do vậy, phần nối tiếp thường không ổn định về hòa âm và không
hoàn thiện về cấu trúc.
Ca khúc lứa tuổi học trò ít khi sử dụng phần nối, bởi lẽ khuôn khổ một bài không lớn, hơn
nữa hình tượng cũng đơn giản, hình thức tác phẩm cũng đơn giản. Tuy nhiên có một vài bài, tác
giả cũng sử dụng một nét nhạc không lời có tác dụng nối tiếp từ đoạn này sang đoạn sau như bài
Đi học (Bùi Đình Thảo), bài Em yêu trường em (Hoàng Vân) v.v…
2.4. Phần giữa
Phần
giữa là phần chính, phần trung tâm của hình thức, phụ thuộc vào cách tiến hành và
nội dung của chủ đề, được phân thành hai dạng chính đó là:
2.4.1. Phần giữa là phát triển
Khi phần giữa là phát triển có nghĩa là biến đổi, âm nhạc của phần này dựa trên cơ sở biến
đổi chất liệu chủ đề từ phần trình bày. Ca khúc lứa tuổi học trò trong một khuôn khổ và hình
thức đơn giản, có tác giả sử dụng chất liệu của phần trình bày, biến đổi chút ít như về cao độ
hoặc trường độ để tạo thành nét mới như các bài: Kỉ niệm thành phố tuổi thơ (Hồng Đăng),
Cùng nhau ta đi lên (Phong Nhã) v.v…
7. Kỷ niệm thành phố tuổi thơ (trích)
Allegretto - Rất trong sáng Hồng Đăng
2.4.2. Phần giữa là tương phản
Khi phần giữa là tương phản có nghĩa là phần này xuất hiện chất liệu chủ đề mới khác hẳn
với chất liệu âm nhạc của chủ đề trong phần trình bày. Phần giữa thường chuyển sang giọng
mới, nhất là tác phẩm nhạc đàn.
Ca khúc cho tuổi thiếu niên những bài viết ở hình thức lớn hơn đoạn nhạc, khi tác giả
muốn chuyển từ phần trình bày sang phần giữa thường hay đổi âm hình tiết tấu, lối tiến hành
21
giai điệu hoặc giai điệu chuyển sang các bậc không ổn định trong cùng một giọng hay có bài
dùng chuyển sang giọng mới hoặc chuyển tạm để gây sự chú ý cho người nghe. Đó là các bài
như Màu mực tím (Trương Quang Lục), Bông hồng bông xanh (Duy Quang), Tuổi đời mênh
mông (Trịnh Công Sơn), Xôn xao mùa xuân (Huy Trân) v.v…
Bài hát Đường chúng ta đi của Huy Du (lời Xuân Sách) với phần trình bày có tính chất
trong sáng, tự hào qua nét nhạc dàn trải, rộng rãi; còn phần giữa tương phản hoàn toàn bằng âm
hình tiết tấu rộn ràng, vui vẻ như tiếng trống hội trong nhịp độ nhanh và hát bè.
8a. Đường chúng ta đi (trích)
Phần đầu
Vừa phài – Trong sáng - Tự hào Huy Du – Xuân Sách
8b.
Nhanh hơn Phần giữa
Ngoài hai dạng cấu trúc của phần giữa, có tác phẩm phần giữa có cấu trúc tổng hợp: nghĩa
là vừa phát triển chất liệu chủ đề của phần trình bày vừa kết hợp với chất liệu chủ đề mới tương
phản.
2.5. Phần tái hiện
Phần tái hiện là phần chính của hình thức, có chức năng tạo tính thống nhất và hoàn thiện
hình tượng âm nhạc của tác phẩm bằng cách minh họa lại chất liệu chủ đề ở phần trình bày,
trùng hợp với sự trở lại giọng chính của tác phẩm.
Có các cách tái hiện như sau:
2.5.1. Tái hiện nguyên dạng
Toàn bộ phần trình bày được họa lại nguyên dạng.
2.5.2. Tái hiện có thay đổi, hay còn gọi là tái hiện biến tấu
Ở phần này, người ta có thể rút ngắn, kéo dài khuôn khổ hoặc có những thay đổi chi tiết về
cao độ, trường độ v.v
Các tác phẩm cấu trúc ở những hình thức lớn còn gặp lối tái hiện có động lực, gọi tắt là tái
hiện động. Ở phần tái hiện vẫn tiếp tục phát triển chất liệu chủ đề, tạo cho hình tượng âm nhạc
22
được bổ sung các khía cạnh mới.
Trong thực tế, ta còn gặp một thuật ngữ tái hiện giả, đặc biệt ở tác phẩm nhạc đàn, thường
có cấu trúc ở hình thức lớn, phức tạp, nội dung này chỉ được đưa vào trong các tài liệu giảng
dạy tại các trường âm nhạc chuyên nghiệp.
2.6. Phần kết
Chức năng của phần kết là tóm tắt, khái quát những đường nét chính của chất liệu chủ đề,
kết thúc sự phát triển, tạo sự cân bằng, ổn định. Những tác phẩm cho dàn nhạc ở những hình
thức lớn, phần kết (cô-đa) có thể còn tiếp tục phát triển và có khuôn khổ lớn.
Tùy vào tác phẩm, khuôn khổ của phần kết có thể rất ngắn mà cũng có thể rất dài.
Trong các ca khúc viết cho tuổi học trò, ta có thể gặp các kiểu kết như có thể nhắc lại một
tiết nhạc, một câu nhạc một vài lần có tác dụng để kết như các bài: Màu mực tím (Trương
Quang Lục), Đi học (Bùi Đình Thảo), Tia nắng hạt mưa (Khánh Vinh), Câu hát đánh rơi (Hàn
Ngọc Bích) v.v… Đôi khi ta còn gặp ở một vài bài, phần kết là một nét nhạc riêng biệt có thể có
lời ca hoặc chỉ là các âm a, hoặc từ đệm “là lá la” v.v… như: Hẹn nhau dưới mái trường (Huy
Du) v.v…
3. Sự phân chia trong hình thức âm nhạc: ngắt, cơ cấu, phần, motif
(mô-típ), tiết nhạc, câu nhạc
Trong tác phẩm âm nhạc được biểu hiện theo thời gian, là một quá trình liên tục có tính
thống nhất, tổng hợp và hoàn thiện về hình thức. Đồng thời quá trình ấy có thể phân chia thành
những giai đoạn riêng biệt gọi là cơ cấu có mức độ khác nhau về sự độc lập và hoàn thiện trong
tư duy. So với tác phẩm văn học, những giai đoạn riêng biệt hay những cơ cấu ấy ví như một từ,
một vế, một câu, một đoạn hay lớn hơn là một phần, một chương của một tác phẩm văn học.
3.1. Ngắt, cơ cấu, phần
3.1.1. Ngắt là sự phân chia hình thức từng bộ phận, là điểm tách cuối cơ cấu này với đầu
cơ cấu sau, là điểm ngắt tạm thời của hình thức. Dấu hiệu nhận ra sự phân chia ấy thường được
thể hiện bằng một dấu lặng, hay sự ngưng lại ở một âm có giá trị trường độ dài hơn hoặc một
nét nhạc có cấu trúc tiết tấu mang tính chu kì v.v
9. Một thoáng quê hương (trích)
Slow Từ Huy – Thanh Tùng
23
10. Hò kéo pháo (trích)
Hoàng Vân
3.1.2. Cơ cấu là một bộ phận của hình thức, có mức độ độc lập và sự hoàn thiện khác
nhau, không phụ thuộc vào khuôn khổ (có thể từ một nhịp đến nhiều nhịp), khác nhau về chức
năng. Các cơ cấu hợp lại thành hình thức âm nhạc của tác phẩm.
3.1.3. Phần là một bộ phận của hình thức, có sự hoàn thiện nhất định, thực hiện chức năng
cấu trúc độc lập như phần trình bày, phần giữa, phần tái hiện của một hình thức âm nhạc.
3.2. Motif (mô-típ)
Mô-típ là một tổ âm bao quanh một phách mạnh. Mô-típ giữ vai trò dẫn dắt sự phát triển
nên luôn chứa đựng nét điển hình về âm điệu, tiết tấu hay hòa âm.
Để khẳng định khuôn khổ của mô-típ, cần quan tâm tới hai khía cạnh quan trọng nhất là
âm điệu và nhịp điệu. Đó là tính ổn định và không ổn định trong mối quan hệ về quãng, về bậc
âm trong một giọng cũng như mối tương quan về tiết tấu, tiết luật. Sức hút về âm ổn định, về
phách mạnh hoặc phần mạnh của phách sẽ liên kết những âm riêng biệt hướng đến âm có
trường độ dài hơn thành một mô-típ.
11. Chiếc đèn ông sao (trích)
Phạm Tuyên
12. Chim cúc cu (trích)
Tha thiết – Sôi nổi Bùi Anh Tú
24
3.3. Tiết nhạc
Tiết nhạc thường gồm một số mô-típ (tốt nhất là hai mô-típ), có tính độc lập và hoàn thiện
nhất định. Mỗi tiết nhạc thường có một mô-típ trội bậc hơn và không phải tiết nhạc nào cũng
bao gồm những mô-típ giống nhau, có thể có sự khác biệt nhất định. Có tiết nhạc phân thành
từng mô-tip nhưng cũng có những tiết nhạc không thể chia nhỏ thành mô-típ được.
13. Bài ca may áo (trích)
Vừa phải - Thiết tha Xuân Hồng
3.4. Câu nhạc
Câu nhạc là cơ cấu có khuôn khổ lớn hơn tiết nhạc và mô-típ. Câu nhạc gồm vài tiết nhạc
(ít nhất là hai tiết), có cấu trúc độc lập và hoàn chỉnh, được biểu hiện qua cách tiến hành kết
câu, tạo điểm chia cắt thời gian trong sự phát triển đoạn nhạc. Câu nhạc được tiến hành kết khác
nhau, tùy theo vị trí của chúng trong đoạn nhạc. Câu thứ nhất của đoạn nhạc giữ chức năng trần
thuật mô-típ của chủ đề và thường được kết nửa ở cuối câu, dừng lại ở hợp âm át (D), đôi khi ở
hợp âm hạ át (S). Câu thứ 2 của đoạn nhạc (dạng cấu trúc có hai câu) thường được kết trọn hoàn
toàn (hoặc không hoàn toàn), dừng lại ở hợp âm chủ của giọng chính hoặc giọng mới (chuyển
điệu gần). Lối tiến hành kết câu như vậy gây nên sức hút của những hợp âm không ổn định; hay
nói cách khác, khoảng cách từ bậc át hay bậc hạ át về bậc chủ tạo thành sự phụ thuộc lẫn nhau
về chức năng giữa hai câu nhạc làm cho cơ cấu âm nhạc hoàn chỉnh thống nhất.
14. Làng tôi (trích)
Văn Cao
Giống với cách tiến hành kết câu của bài Làng tôi là phần đầu của bài Tháng Ba học trò
của Hàn Ngọc Bích (xem thí dụ số 6). Còn ở bài Kỷ niệm thành phố tuổi thơ của Hồng Đăng
(xem 8 nhịp đầu của thí dụ số 7), câu 1 không dừng kết ở bậc V mà ở bậc IV (nốt nhạc cuối ở
nhịp thứ tư = âm La của giọng mi thứ ).
25
Tóm tắt
1. Phương pháp diễn tả cơ bản của âm nhạc bao gồm: giai điệu, hòa âm, tiết tấu, nhịp độ,
âm sắc, cách cấu tạo v.v ; chúng liên quan chặt chẽ với nhau trong tác phẩm và vang lên đồng
thời với vai trò dẫn dắt của giai điệu.
Giai điệu là một ý nhạc, được sắp xếp trong một bè, được tạo nên bằng các quãng (đi liền
bậc, hoặc quãng nhảy) và chiều hướng chuyển động của các quãng đó (đi lên, đi xuống, đi
ngang, lượn sóng ) tạo thành làn sóng giai điệu. Làn sóng giai điệu đi lên tới điểm cao nhất gọi
là cao điểm hay cao trào. Cao trào chính là cao điểm quan trọng nhất của toàn bộ hình thức.
Hòa âm là động lực sinh ra hình thức âm nhạc và làm rõ nét cho hình tượng âm nhạc với
chức năng bổ sung, làm rõ cho giai điệu, tạo màu sắc và hình thành tư duy về công năng.
Tiết tấu chỉ sự liên tục có tổ chức độ dài ngắn của âm thanh, đồng thời còn thể hiện mối
tương quan về thời gian giữa các phần, các chương trong một tác phẩm.
Tiết luật là sự luân phiên giữa phách mạnh và phách nhẹ với hai dạng chính là tiết luật
nghiêm khắc và tiết luật tự do; đồng thời tiết luật còn có ý nghĩa là luật chia trường độ âm
thanh: chia cơ bản và chia tự do.
Âm sắc là màu sắc của âm thanh.
Nhịp độ là sự chuyển động trong âm nhạc cùng với tiết tấu và tiết luật.
Âm vực là các khoảng âm thanh của giọng người hay của một nhạc cụ.
Cường độ xác định độ to nhỏ của âm thanh.
Cách cấu tạo là phương thức trình bày, tổ chức âm thanh của một tác phẩm với hai dạng
chính là một bè và nhiều bè.
2. Mỗi tác phẩm âm nhạc đều có các phần chính là trình bày, phát triển, tái hiện và có thể
có các phần phụ như mở đầu, nối tiếp, kết. Mỗi phần có chức năng khác nhau và có đặc điểm
khác nhau về cấu trúc.
3. Tác phẩm âm nhạc là sự trình bày các quá trình có tính thống nhất theo thời gian; đồng
thời có thể phân thành những giai đoạn riêng biệt được gọi là cơ cấu.
Ngắt là điểm tách cuối cùng của cơ cấu này với đầu cơ cấu sau.
Cơ cấu là những bộ phận của hình thức không phụ thuộc vào khuôn khổ.
Phần là một bộ phận của hình thức, có sự hoàn thiện nhất định, thực hiện chức năng cấu
trúc độc lập.
Motif (mô-típ) là một tổ âm bao quanh một phách mạnh, giữ vai trò dẫn dắt sự phát triển,
chứa đựng nét điển hình về âm điệu, tiết tấu.
Tiết nhạc thường gồm một số mô-típ, có tính độc lập và hoàn thiện nhất định.
Câu nhạc là cơ cấu có khuôn khổ lớn nhất trong đoạn nhạc, có cấu trúc độc lập và hoàn
chỉnh, được biểu hiện qua tiến hành kết câu ở công năng khác nhau, tùy theo vị trí của chúng
trong đoạn nhạc.