Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

phát triển hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại ngân hàng công thương chi nhánh chương dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.24 KB, 94 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
CBTD: Cán bộ tín dụng
PKH: Phòng khách hàng
LĐPKH: Lãnh đạo phòng khách hàng
CBQLRR: Cán bộ quản lý rủi ro
LĐPQLRR: Lãnh đạo phòng quản lý rủi ro
VNĐ: Việt Nam đồng
CBQLNCVĐ: Cán bộ quản lý nợ có vấn đề
LĐPQLNCVĐ: Lãnh đạo phòng quản lý nợ có vấn đề
PQLRR: Phòng quản lý rủi ro
HĐTD: Hợp đồng tín dụng
HĐBĐTV: Hợp đồng bảo đảm tiền vay
DPRR: Dự phòng rủi ro
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới thầy
giáo hướng dẫn … cùng toàn thể các thầy, cô giáo trong
khoa Ngân hàng – Tài chính trường Đại học Kinh Tế Quốc
Dân – Hà Nội và toàn thể Ban lãnh đạo cũng như tập thể cán
bộ của ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương chi
nhánh Chương Dương đã tận tình hướng dẫn và tạo điều
kiện thuận lợi cho em hoàn thành chuyên đề này.
LỜI NÓI ĐẦU
Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động cơ bản nhất của ngân
hàng thương mại, thu nhập từ hoạt động này vẫn luôn chiếm tỷ trọng cao
trong tổng thu nhập của ngân hàng. Bên cạnh đó, hoạt động cho vay cũng góp
phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế qua việc cung cấp vốn cho doanh


nghiệp thực hiện sản xuất, kinh doanh. Ngân hàng thì luôn muốn mở rộng cho
vay, doanh nghiệp thì luôn muốn đạt được cơ cấu vốn tối ưu. Thế nhưng hoạt
động cho vay luôn tiềm ẩn những rủi ro lớn nếu như doanh nghiệp mất khả
năng trả nợ thì ngân hàng có nguy cơ không đòi được gốc và lãi. Vì vậy song
song với việc mở rộng cho vay, ngân hàng đồng thời phải nâng cao hiệu quả,
chất lượng của các khoản vay đối với doanh nghiệp mới đảm bảo được hai
mục tiêu lớn nhất là mục tiêu sinh lời và mục tiêu an toàn.
Qua quá trình thực tập tại phòng khách hàng doanh nghiệp của ngân
hàng Công Thương chi nhánh Chương Dương, nhận thức được tầm quan
trọng của hoạt động cho vay doanh nghiệp, em đã lựa chọn đề tài: ”Phát triển
hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại ngân hàng Công Thương chi
nhánh Chương Dương” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm ba chương:
Chương I : Những vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay đối với doanh
nghiệp tại ngân hàng thương mại.
Chương II : Thực trạng cho vay đối với doanh nghiệp tại Ngân hàng
Công Thương chi nhánh Chương Dương.
Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động cho vay đối với doanh
nghiệp tại Ngân hàng Công Thương chi nhánh Chương Dương.
1
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về NHTM
1.1.1. Khái niệm về NHTM
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế, các
ngân hàng có thể được định nghĩa qua các chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò
mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Tuy nhiên các yếu tố trên lại không
ngừng thay đổi : các tổ chức tài chính thì cố gắng cung cấp các dịch vụ của
ngân hàng và ngược lại ngân hàng cũng mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về

bất động sản, chứng khoán, bảo hiểm,….
Trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì :
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán –
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế” ( Theo Peter S.Rose trong cuốn Quản trị Ngân
hàng thương mại.)
Trên phương diện hoạt động chủ yếu của ngân hàng thì: “Ngân hàng là
loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Theo tính chất và mục tiêu hoạt động,
các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển,
ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình
ngân hàng khác.” ( Theo khoản 2, điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng số
20/2004/QH11 – sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ). Trong
đó, tổ chức tín dụng là loại doanh nghiệp được thành lập theo quy định của
Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động
2
kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử
dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Sự đa dạng của các loại hình ngân hàng tùy thuộc vào sự phát triển của
nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng nhưng NHTM thường
chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân
hàng. Mặc dù vậy, khái niệm NHTM mới được qui định tại khoản 3 điều 4
Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 (có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/2011) theo đó : “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực
hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo
qui định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Cũng theo Luật này tại
khoản 12 điều 4 qui định :
“ Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một
hoặc một số các nghiệp vụ sau đây :

a) Nhận tiền gửi;
b) Cấp tín dụng;
c)Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.”
Như vậy, NHTM là một tổ chức tài chính trung gian mà hoạt động chủ
yếu của NHTM là tiếp nhận các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nhiệm
vụ chiết khấu, làm phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ cho các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan
trọng nhất của NHTM. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng có
thể thực hiện các hoạt động khác như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ
ngân hàng cho khách hàng.Hoạt động huy động vốn là hoạt động thường
3
xuyên của NHTM. Một NHTM bất kì nào cũng bắt đầu hoạt động của mình
bằng việc huy động nguồn vốn. Đối tượng huy động của NHTM là nguồn tiền
nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế, dân cư với bất kỳ qui mô lớn nhỏ hay thời
hạn ngắn dài nào.Theo Nghị định 49/2000/NĐ-CP,NHTM được huy động
vốn dưới các hình thức sau đây :
-Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác
dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền
gửi khác.
-Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy
động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc
NHNN chấp thuận,…
-Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của
các tổ chức tín dụng hoạt động tại nước ngoài.
-Vay vốn ngắn hạn của NHNN theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.

-Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNN.
Trong đó, huy động vốn qua tài khoản tiền gửi là hình thức huy động vốn
mang tính đặc thù của NHTM – đây chính là điểm khác biệt giữa ngân hàng
và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Thông qua hoạt động này mà NHTM
có thể tập hợp được các khoản tiền nhàn rỗi, phân tán tạm thời chưa sử dụng
với các thời hạn hết sức khác nhau thành nguồn tiền lớn, chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong nguồn vốn của NHTM để tài trợ cho nền kinh tế, hoặc cho các cá
nhân, tổ chức có nhu cầu sử dụng.
Một trong những nguồn vốn không kém phần quan trọng là nguồn vốn
hình thành từ việc phát hành các loại giấy tờ có giá ngắn hạn như kỳ phiếu,
chứng chỉ tiền gửi ; dài hạn như trái phiếu, cổ phiếu.Việc phát loại nào phụ
thuộc vào quy mô vốn cần huy động, thời gian huy động vốn, cơ cấu nợ và tài
sản của NHTM.
4
Các hoạt động huy động nguồn vốn trên đây hình thành nên tài sản nợ
của ngân hàng và ngân hàng phải có trách nhiệm chi trả đối với tất cả các
nguồn vốn huy động được theo yêu cầu của khách hàng. Quy mô và cơ cấu
nguồn vốn quyết định đến hoạt động của ngân hàng. Do đó quản lí nguồn vốn
phù hợp và sử dụng vốn có hiệu quả là một vấn đề mang tính chiến lược đối
với từng ngân hàng.
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn
Sau khi huy động được vốn, NHTM phải sử dụng thế nào để hiệu quả
hoá những nguồn tài sản này nghĩa là tìm cách để những khoản tiền đó được
đầu tư đúng nơi,đúng chỗ, có hiệu quả, an toàn, đem lại nhiều lợi nhuận cho
ngân hàng. Thông thường hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng tập trung vào
các hình thức sau:
• Hoạt động tín dụng
Hiện nay, mặc dù các dịch vụ của NHTM ngày càng phát triển nhưng
hoạt động cơ bản nhất vẫn là hoạt động tín dụng. Tín dụng ngân hàng là quan
hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong

một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định. Hoạt động tín dụng
bao gồm các hoạt động cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê
tài chính.
Đây được coi là hoạt động quan trọng nhất đối với các NHTM vì phần
lớn lợi nhuận mà NHTM có được chủ yếu là từ hoạt động này. Hoạt động tín
dụng còn ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế vì nó thực hiện quá trình cung ứng
vốn cho nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất, đầu tư, tiêu dùng cho các
chủ thể của nền kinh tế.
• Hoạt động ngân quĩ
Hoạt động này nhằm bảo đảm khả năng thanh khoản cho ngân hàng do
các NHTM luôn phải duy trì một tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của
5
Ngân hàng Nhà nước và dự trữ vượt quá để đáp ứng nhu cầu chi trả thường
xuyên. Các khoản dự trữ này bao gồm : các quỹ tiền mặt, các khoản tiền gửi
tại Ngân hàng Nhà nước và tổ chức tín dụng khác, các giấy tờ có giá và các
khoản tiền đang trong quá trình thu về.
• Hoạt động đầu tư
NHTM dùng vốn để kinh doanh bất động sản, góp vốn liên doanh và
kinh doanh chứng khoán. Trong đó đầu tư vào thị trường chứng khoán là chủ
yếu vì nó vừa mang lại thu nhập cho ngân hàng vừa nâng cao tính thanh
khoản ( do chứng khoán rất đa dạng, nhiều loại và có tính thanh khoản cao ).
NHTM có thể mua chứng khoán ngắn hạn của Chính Phủ, nó vừa tăng
thu nhập cho ngân hàng vừa góp phần cân bằng thu chi thường xuyên.
NHTM còn được phép mua trái phiếu, cổ phiếu hoặc hùn vốn, góp vốn liên
doanh với các doanh nghiệp và sẽ được phân chia lợi nhuận trong quá trình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, NHTM chỉ được đầu tư
vào chứng khoán có giới hạn không được để hoạt động này lấn át hoạt động
tín dụng truyền thống.
Hoạt động đầu tư đã giúp cho NHTM có thể đa dạng hóa các hoạt động
kinh doanh nhằm phân tán rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của

ngân hàng, đồng thời khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đã huy động.
1.1.2.3. Các hoạt động khác
Nhằm mục đích phát triển toàn diện và kiếm thêm những khoản thu
nhập, NHTM còn tiến hành các hoạt động trung gian gồm rất nhiều loại dịch
vụ ngân hàng khác nhau để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng.Qua các
dịch vụ này, NHTM làm tăng sự thoả mãn của khách hàng đối với 2 loại hoạt
động cơ bản là huy động vốn và sử dụng vốn. Các dịch vụ đó là :
-Dịch vụ thanh toán dưới các hình thức séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi,
thư tín dụng, thẻ thanh toán, ngân phiếu thanh toán.
6
-Dịch vụ thu hộ ngân hàng thay mặt khách hàng nhận tiền theo các
chứng khoán khác nhau như séc, kỳ phiếu, các chứng từ hàng hóa và chứng
khoán có giá.
-Dịch vụ phát hành chứng khoán các công ty cố phần, các doanh nghiệp
hay Nhà nước khi phát hành chứng khoán thường nhờ các NHTM làm trung
gian tiêu thụ các chứng khoán đó và được nhận thù lao theo tỷ lệ quy định từ
người phát hành.
-Dịch vụ tư vấn cho khách hàng các vấn đề tài chính.
-Dịch vụ ủy thác ngân hàng làm theo ủy thác của khách hàng như bảo
quản tài sản ( đá quí, chứng khoán,…), khách hàng phải trả lệ phí cho việc
bảo quản ; thực hiện các ủy nhiệm về chuyển quyền thừa kế tài sản : khách
hàng nhờ ngân hàng thực hiện di chúc sau khi họ qua đời.
-Ngoài ra còn có các dịch vụ như : dịch vụ quản lý ngân quỹ, dịch vụ
bảo hiểm, dịch vụ môi giới,….
Các hoạt động trong NHTM có mối liên hệ khăng khít tương hỗ lẫn
nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Có hoạt động huy động vốn thì mới có
hoạt động sử dụng vốn, sử dụng vốn có hiệu quả mới thu được nhiều lãi lại bổ
sung thêm nguồn vốn. Đồng thời các dịch vụ như: thanh toán, thu hộ, ủy thác,
…sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng tập trung được những khoản tiền ít rủi ro bổ
sung vào nguồn vốn. Chính vì vậy mà người quản trị ngân hàng phải biết bố

trí một cách khoa học và phù hợp giữa các hoạt động để đảm bảo ngân hàng
hoạt động có hiệu quả.
1.2 . Hoạt động cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm về cho vay
Theo khoản 1 điều Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN thì: “Cho vay là
một hình thức cấp tín dụng, theo đó các tổ chức tín dụng giao cho khách hàng
một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa
thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.”
7
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của NHTM, hoạt động này mang
lại thu nhập lớn tạo ra từ ½ đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng ( Peter S.Rose,
Quản trị ngân hàng thương mại). Chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản, hoạt
động cho vay ảnh hưởng tới rất nhiều hoạt động khác của ngân hàng như huy
động vốn, quản lý thanh khoản,… Qua hoạt động cho vay, NHTM cũng giúp
cho quá trình sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp được liên tục và ổn
định, góp phần vào sự ổn định của nền kinh tế và nâng cao mức sống các tầng
lớp dân cư và cả cộng đồng. Chính vì thế mà hoạt động cho vay của ngân
hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực
ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh
nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Hơn nữa, thông qua các khoản cho
vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm thông tin về chất lượng tín dụng của
từng khách hàng và nhờ đó giúp cho họ có khả năng nhận thêm các khoản tín
dụng mới từ các nguồn khác với chi phí thấp hơn.
Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu là doanh số cho vay
trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà ngân
hàng đã cho vay ra trong kỳ. Dư nợ cuối kỳ là số tiền mà ngân hàng hiện còn
cho vay vào thời điểm cuối kỳ.
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động cho vay doanh nghiệp
Ngoài những đặc điểm chung của tín dụng ngân hàng là quan hệ vay
mượn dựa trên cơ sở niềm tin, có thời hạn và có sự hoàn trả, tiền vay được

cấp trên cơ sở hoàn trả vô điều kiện. Hoạt động cho vay doanh nghiệp còn có
những đặc điểm sau :
-Đối tượng đi vay là các doanh nghiệp – Là một chủ thể kinh tế, tiến
hành các hoạt động kinh tế theo một kế hoạch nhất định nhằm tìm kiếm lợi
nhuận. Trong kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình, doanh nghiệp cần phải
đảm bảo nguồn vốn để chi trả cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt
8
là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án. Đặc điểm riêng của khách hàng doanh
nghiệp là khoản vay nhằm đảm bảo các hoạt động, các dự án của doanh
nghiệp diễn ra một cách thuận lợi qua đó kiếm được một khoản lợi nhuận nhất
định. Khoản lợi nhuận này lại được dùng một phần để trả lãi cho ngân hàng
nên khi xem xét cho vay ngân hàng phải đánh giá khả năng thanh toán và khả
năng sinh lời của từng doanh nghiệp cụ thể. Bên cạnh đó, các loại hình doanh
nghiệp lại rất đa dạng với ban quản trị, hoạt động trong rất nhiều lãnh vực
khác nhau nên dễ xảy đến trường hợp ngân hàng đánh giá không chính xác về
khả năng doanh nghiệp.
-Mục đích vay của doanh nghiệp là nhằm phục vụ cho các hoạt động sản
xuất kinh doanh và đầu tư như mua hàng hóa dự trữ, xây dựng nhà máy, mua
sắm trang thiết bị, tài trợ cho các dự án,…Do đó hoạt động cho vay doanh
nghiệp phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh, kế hoạch sản xuất kinh doanh và
các dự án của doanh nghiệp.
-Đặc trưng về khoản vay: Các khoản cho vay đối với khách hàng doanh
nghiệp thường là các khoản có giá trị lớn, đối với cho dự án là các khoản có
giá trị rất lớn nhưng ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp phải có lượng vốn với
một tỷ lệ nhất định tham gia vào dự án. Khoản vay có thể được giải ngân một
lần hoặc nhiều lần nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp sử dụng tiền vay đúng
mục đích, ngân hàng không cho rút vốn khi các nhu cầu chi tiêu liên quan
chưa phát sinh.
-Đặc trưng về chất lượng khoản vay: Chất lượng của các khoản vay phụ
thuộc vào quy trình thẩm định, phân tích của ngân hàng để từ đó đưa ra

phương án cho vay hợp lý. Bất kỳ một sự sai sót nào trong các khâu này có
thể dẫn đến hậu quả rất lớn tới kết quả hoạt động cua ngân hàng cho vay. Vì
vậy đối với doanh nghiệp các NHTM cần tạo dựng các mối quan hệ hiểu biết
lâu dài và liên tục.
9
-Đặc trưng về thời hạn khoản vay : Các khoản cho vay doanh nghiệp có
từ cho vay ngắn hạn (đối với các khoản nhằm mục đích mua hàng dự trữ, mua
nguyên vật liệu, thanh toán,…) đến cho vay trung và dài hạn (đối với các
khoản tài trợ cho mua sắm thiết bị, xây dựng công trình,…)
-Đặc trưng về lãi suất: Lãi suất cho vay trung và dài hạn thường cao hơn
lãi suất cho vay ngắn hạn, nó có thể là lãi suất cố định trong suốt thời kỳ vay
vốn, cũng có thể là lãi suất biến đổi tuỳ thuộc vào sự biến động của thị
trường. Việc thu tiền lãi có thể theo kỳ hạn tháng, quí, năm dựa vào số dư ở
mỗi kỳ hạn trả nợ và lãi suất cho vay. Doanh nghiệp có thể trả tiền lãi cùng nợ
gốc tại mỗi kỳ hạn trả nợ hay trả tiền lãi vào một ngày nào đó trong kỳ theo
thoả thuận.
1.2.3. Các hình thức cho vay doanh nghiệp
Hoạt động cho vay của NHTM hết sức đa dạng và phong phú, có nhiều
cách để phân loại hoạt động cho vay nhưng theo phương thức cho vay thì các
hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng đối với doanh nghiệp bao gồm:
1.2.3.1. Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay từng lần là hình thức tương đối phổ biến của ngân hàng đối với
các doanh nghiệp không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để
được cấp hạn mức thấu chi. Một số doanh nghiệp sử dụng vốn chủ sở hữu và
tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản
xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào
một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần doanh nghiệp phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử
dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích doanh nghiệp và ký hợp đồng cho vay,
xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất yêu cầu

đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước
nhận nợ) khác nhau.
10
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong
quá trình doanh nghiệp sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và
hiệu quả. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước
hạn hoặc chuyển qua nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi tùy theo
thời điểm tính lãi.
Ưu điểm của cho vay từng lần là tương đối đơn giản và ngân hàng có thể
kiểm soát từng món vay tách biệt.
1.2.3.2. Cho vay theo hạn mức
Cho vay theo hạn mức là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả
thuận cấp cho doanh nghiệp hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính
cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu
cầu vốn và nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp. Trong kỳ, doanh nghiệp có thể
thực hiện vay – trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín
dụng. Một số trường hợp ngân hàng quy định hạn mức cuối kỳ, theo đó dư nợ
trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên, đến cuối kỳ, doanh nghiệp phải
trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không được vượt quá hạn mức.
Mỗi lần vay doanh nghiệp cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp
các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc các dịch vụ và nêu yêu cầu vay.
Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ cấp
tiền cho doanh nghiệp.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những doanh nghiệp vay mượn
thường xuyên, vốn tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không xác định trước kỳ hạn nợ và thời hạn
tín dụng. Khi doanh nghiệp có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo sự
chủ động quản lý ngân quỹ cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, do các lần vay
không tách biệt thành kỳ hạn nợ cụ thể khiến ngân hàng khó kiểm soát hiệu

11
quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi doanh
nghiệp nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
1.2.3.3. Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho
vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu
quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và doanh
nghiệp sẽ thỏa thuận với nhau về hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng
hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một
năm hoặc một vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để
ngân hàng xét lại mối quan hệ với doanh nghiệp và quyết định có cho vay nữa
hay không, căn cứ vào mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp cũng
như tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Hình thức này thường được áp dụng cho các doanh nghiệp thương mại
hoặc các doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ
vay – trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho doanh nghiệp, thủ tục chỉ cần
thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Đây là một trong số những khoản vay
kinh doanh linh hoạt nhất, yêu cầu tín dụng luân chuyển thường được ngân
hàng chấp nhận mà không đòi hỏi bảo đảm bằng bất cứ loại tài sản nào. Loại
hình tín dụng này được áp dụng nhiều nhất khi doanh nghiệp không chắc chắn
về thời gian của các luồn tiền mặt hoặc quy mô chính xác của nhu cầu vay
vốn trong tương lai. Cho vay luân chuyển giúp doanh nghiệp có thể giảm mức
độ biến động trong chu kỳ kinh doanh, cho phép doanh nghiệp có thể vay
thêm tiền mặt trong lúc khó khăn khi doanh số bán hàng giảm và cho pháp
hoàn trả khi nguồn thu bằng tiền của doanh nghiệp khi tăng lên. Doanh
nghiệp được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời vì vậy việc thanh toán cho người
12
cung cấp sẽ nhanh gọn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu

thụ thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của
khoản vay không được quy định rõ ràng.
1.2.3.4. Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép doanh
nghiệp trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay
trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài rợ
cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao
phù hợp với khả năng trả nợ (thường là khấu hao và thu nhập sau thuế của dự
án hoặc từ thu nhập hàng kỳ của người tiêu dùng).
Cho vay trả góp là hình thức tiềm ẩn rủi ro cao do doanh nghiệp thường
thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp, vì vậy nên lãi suất cho vay trả góp
thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
1.2.3.5. Cho vay theo dự án đầu tư
Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát
triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ, hình thức này áp dụng cho các trường hợp
vay vốn trung và dài hạn. Đây là khoản cho vay tài trợ cho việc đầu tư vào
những tài sản cố định dự tính sẽ mang lại thu nhập trong tương lai. Tuy chiếm
tỷ trọng lớn trong cơ cấu cho vay mang lại lợi nhuận lớn nhưng cũng có rất
nhiều rủi ro đối với ngân hàng như: quy mô vốn lớn, các dự án được cấp vốn
có thể bị hoãn lại, lãi suất thị trường có thể thay đổi ảnh hưởng tới việc thu
hồi vốn của người vay hoặc ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của dự án,…
Lượng vốn ban đầu để đầu tư cho dự án là rất lớn nên các khoản vay
thường được ngân hàng cung cấp cùng với một số công ty tham gia dự án và
các ngân hàng, tổ chức tài chính khác.
Các khoản cho vay dự án có thể được chấp nhận trên cơ sở bảo lãnh
theo đó người ngân hàng cho vay có thể đảm bảo vốn qua những tổ chức thực
13
hiện bảo lãnh nếu như dự án không trả được nợ đúng như kế hoạch đã định.
Trong một số trường hợp, các khoản vay này cũng có thể được cung cấp
không dựa trên cơ sở bảo lãnh, ngân hàng cho vay phải đối mặt với những rủi

ro rất lớn và sẽ yêu cầu một mức lãi suất cao hơn và thường đối hỏi phải có
tài sản thế chấp đến khi dự án hoàn tất.
1.2.3.6. Cho vay hợp vốn
Cho vay hợp vốn là hình thức cho vay một nhóm các tổ chức tài chính
cùng liên kết lại để cung cấp vốn cho một dự án hay một phương án vay vốn
của doanh nghiệp. Trong hình thức này, một tổ chức tài chính đứng ra làm
đầu mối dàn xếp, phối hợp các bên tài trợ khác. Các tổ chức tài chính tham
gia vào hoạt động cho vay hợp vốn là các NHTM, các công ty bảo hiểm, quỹ
đầu tư và các tổ chức tài chính khác.
Hình thức cho vay này thường được áp dụng đối với dự án có nhu cầu
vốn lớn vượt quá khả năng của một ngân hàng hoặc có phạm vi qui mô rộng
mà một ngân hàng khó có thể kiểm soát nổi. Hình thức tín dụng này giúp cho
các ngân hàng giảm thiểu rủi ro, đông thời nâng cao năng lực và hiệu quả
quản lý, bổ sung kinh nghiệm, kiến thức cho nhau.
1.2.3.7. Cho vay kinh doanh chứng khoán
Là hình thức cho các doanh nghiệp có kinh doanh chứng khoán vay tiền
để mua chứng khoán mới và duy trì danh mục đầu tư chứng hiện có cho tới
khi các chứng khoán này được bán hoặc đến hạn thanh toán. Các ngân hàng
thường muốn đẩy mạnh hoạt động cho vay chứng khoán vì những khoản cho
vay này có chất lượng cao – thường được đảm bảo bằng chứng khoán được
mua hoặc chứng khoán có tính thanh khoản cao mà doanh nghiệp nắm giữ,
và doanh nghiêp sẵn sàng vay với lãi suất cao. Hơn nữa, nhiều khoản vay
kinh doanh chứng khoán có kỳ hạn rất ngắn – chỉ là qua đêm hoặc qua vài
ngày, nhờ vậy ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro bằng việc nhanh chóng thu
14
hồi vốn hoặc cho vay các khoản mới với lãi suất cao hơn nếu thị trường tín
dụng trở nên căng thẳng.
1.3. Phát triển hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp
1.3.1. Khái niệm
Theo quan điểm của triết học thì phát triển là sự vận động tiến lên từ thấp

đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, cái mới ra đời thay thế cái cũ, cái tiến bộ
thay thế cái lạc hậu. Phát triển là khuynh hướng của sự quá trình vận động của
sự vật.
Theo kinh tế học phát triển thì phát triển kinh tế thì phát triển không chỉ
đơn giản là sự gia tăng thuần túy về mặt lượng mà nó còn có một nội hàm
phản ánh rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, đó là những biến đối về mặt chất của nền
kinh tế - xã hội.
Như vậy, phát triển hoạt động cho vay trong phạm vi nghiên cứu của đề
tài là sự tăng trưởng theo chiểu rộng cũng như theo chiều sâu của các khoản
vay. Theo chiều rộng là sự mở rộng về quy mô, khối lượng và số lượng sản
phẩm cho vay doanh nghiệp, theo chiếu sâu là hiệu quả tài chính, phản ánh
trình độ và chất lượng sử dụng các yếu tố của sản xuất kinh doanh nhằm đạt
được kết quả cao nhất. Đây là sự thống nhất lợi ích giữa doanh nghiệp, ngân
hàng và nền kinh tế quốc dân :
-Về phía doanh nghiệp: hoạt động cho vay của ngân hàng phải thỏa mãn
được ngày càng nhiều các yêu cầu hợp lý của doanh nghiệp về các khoản vay,
hình thức và loại hình cho vay để sử dụng vốn vay một cách hiệu quả.
- Về phía ngân hàng: hoạt động cho vay doanh nghiệp là việc tăng khối
lượng khoản vay; thu nợ đúng hạn, giảm thiểu tối đa rủi ro tín dụng, hoạt
động cho vay đạt được các tiêu chuẩn về hiệu qua đặt ra và phù hợp với mục
tiêu phát triển của ngân hàng.
-Về phía xã hội: là những khoản lợi ích tăng lên mà xã hội có được nhờ
15
sự phát triển của hoạt động cho vay của ngân hàng như giúp tăng trưởng và
phát triển kinh tế của các ngành cũng như nền kinh tế nói chung. Khoản cho
vay phải thúc đẩy lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết công ăn việc làm,
khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và
tập trung sản xuất. Phát triển hoạt động cho vay doanh nghiệp phải gắn liền
với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Tóm lại, phát triển hoạt động cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp

của ngân hàng là việc ngân hàng đáp ứng được nhu cầu vay vốn ngày càng
tăng của doanh nghiệp một cách phù hợp với khả năng của ngân hàng và đảm
bảo cho sự phát triển của ngân hàng. Điều này thể hiện ở sự tăng quy mô các
khoản vay, mức độ an toàn của các khoản vay và mức độ hài lòng của doanh
nghiệp. Nó phải đảm bảo nguyên tắc khoản vay được hoàn trả đúng hạn, hạn
chế rủi ro, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng đồng thời thỏa mãn nhu cầu vay
vốn của doanh nghiệp một cách hợp lý.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của hoạt động cho vay doanh
nghiệp của NHTM
Hoạt động cho vay doanh nghiệp là một loại hình trong phân loại hoạt
động cho vay theo đối tượng vay. Do vậy, phát triển hoạt động cho vay doanh
nghiệp cũng được hiểu như phát triển hoạt động cho vay nói chung. Đồng
thời, các chỉ tiêu đánh giá phát triển hoạt động cho vay nói chung cũng được
sử dụng để đánh giá phát triển hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp.
1.3.2.1. Các chỉ tiêu định tính
• Uy tín của ngân hàng
Chỉ tiêu này tác động đến khả năng mở rộng tín dụng, thu hút được nhiều
khách hàng hơn. Nó thể hiện qua một quá trình trong quá khứ - việc ngân
hàng đáp ứng một cách nhanh chóng, thuận tiện nhu cầu vay vốn của doanh
nghiệp nhưng cũng phải đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng.
16
• Sự chấp hành các quy định pháp lý về hoạt động cho vay
Các NHTM khi tiến hành hoạt động cho vay đều chịu sự kiểm soát chặt
chẽ từ phía các cơ quan quản lý thông qua hệ thống các văn bản pháp luật có
liên quan và sự kiểm tra, giám sát của thanh tra ngân hàng. Điều này nhằm
nâng cao chất lượng các khoản cho vay và tăng tính an toàn cho các khoản
tiền gửi của công chúng.
Chỉ tiêu này được xây dựng trên cơ sở tuân thủ và chấp hành đầy đủ các
quy định về mặt pháp lý, cụ thể là chấp hành các văn bản luật, nghị định,
quyết định, thông tư và các cam kết quốc tế. Nếu đảm bảo được thì khoản vay

mới đảm bảo được sự phát triển bền vững và hoạt động cho vay mới thực hiện
được các mục tiêu mà Nhà nước đã đề ra.
• Sự hài lòng của doanh nghiệp khi nhận dịch vụ cho vay của ngân hàng
Sự thỏa mãn thực sự của doanh nghiệp sẽ có khi ngân hàng có khả năng
luôn thu hút và giữ được khách hàng cũng như luôn tăng cường củng cố mối
quan hệ với doanh nghiệp. Điều này không đơn giản và không chỉ gói gọn
trong các chỉ số về sự thỏa mãn của khách hàng mà các ngân hàng thực sự cần
biết những thông tin về chất lượng khoản vay doanh nghiệp tiếp nhận. Những
thông tin này sẽ giúp ngân hàng điều chỉnh và tìm ra phương án cho vay thích
hợp đối với các khoản vay sau, qua đó ngân hàng nâng cao và tăng cường khả
năng cạnh tranh cũng như khả năng sinh lợi của mình.
Chỉ tiêu này dựa trên tiêu chí thái độ của doanh nghiệp đối với ngân
hàng, sự thỏa mãn về các dịch vụ được cung cấp, cụ thể như doanh nghiệp sẽ
ngày càng tăng cường mở rộng mối quan hệ và giữ vững sự trung thành, niềm
tin đối với ngân hàng.
• Sự tồn tại và phát triển của ngân hàng
Do hoạt động cho vay doanh nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng
tài sản của ngân hàng nên nó phải mang lại đủ thu nhập để trang trải các chi
17
phí liên quan và có lãi đồng thời phải hạn chế tối thiểu rủi ro. Ngân hàng có
tồn tại và phát triển tốt thì mới chứng minh được chất lượng của khoản vay
doanh nghiệp là tốt.
• Hiệu quả từ việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp
Khi doanh nghiệp sử dụng vốn vay vào hoạt động sản xuất kinh doanh
đạt được những mục tiêu đề ra và thu được lợi nhuận thì hoạt động cho vay
của ngân hàng mới đạt được hiệu quả.
• Đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
Qua việc đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu,
tạo và duy trì việc làm cho người lao động,…khoản vay của ngân hàng mới
góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.

1.3.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
1.3.2.2.1.Các chỉ tiêu đinh lượng đánh giá sự mở rộng của hoạt động
cho vay doanh nghiệp
 Chỉ tiêu về số lượt doanh nghiệp giao dịch với ngân hàng
Bằng biện pháp sử dụng các hình thức cho vay một cách linh hoạt, ngân
hàng sẽ thu hút được doanh nghiệp đến với mình, sử dụng các sản phẩm cho
vay của mình. Ngân hàng càng thực hiện tốt việc mở rộng cho vay doanh
nghiệp thì số lượng doanh nghiệp giao dịch sẽ càng tăng lên.
 Số lượng doanh nghiệp: là tổng số doanh nghiệp thực hiện giao dịch
với ngân hàng, nó thể hiện số các khoản vay mà ngân hàng đã cấp cho doanh
nghiệp.
-Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng về số lượng doanh nghiệp tuyệt đối
được đo bằng hiệu số giữa số lượng doanh nghiệp năm nay so với số lượng
doanh nghiệp năm trước.
Mức tăng số lượng
khách hàng là DN
=
Số lượng khách hàng
là DN năm t
-
Số lượng khách hàng
là DN năm t-1
-Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh nghiệp tương đối được đo bằng
18
tỷ lệ (tính theo phần trăm) của thương số giữa mức tăng hoặc giảm số lượng
doanh nghiệp với số lượng doanh nghiệp năm trước.
Mức tăng (giảm) số lượng DN x100%
Giá trị tăng trưởng DN =
tương đối
Số lượng doanh nghiệp năm t-1

Hai chỉ tiêu trên cho phép ngân hàng đánh giá việc mở rộng quy mô và
so sánh số lượng doanh nghiệp giữa năm nay và năm trước đó.
 Chỉ tiêu số lượt doanh nghiệp: là số lần doanh nghiệp đến giao dịch
trong vòng một năm. Trong hoạt động, cho vay doanh nghiệp số lượt doanh
nghiệp thể hiện số lần doanh nghiệp thực hiện các khoản vay. Khi số lượt
doanh nghiệp tăng lên thể thiện hoạt động cho vay doanh nghiệp của ngân
hàng được mở rộng, đồng thời cũng cho biết sự tin tưởng của doanh nghiệp
đối với ngân hàng.
 Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu doanh nghiệp vay
Số lượng doanh nghiệp vay ngân hàng x100
Tỷ trọng doanh nghiệp vay =
ngân hàng
Tổng số khách hàng
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ khách hàng là doanh nghiệp trong tổng số
khách hàng có quan hệ cho vay với ngân hàng. Nếu chỉ tiêu này tăng phản
ánh số lượng khách hàng là doanh nghiệp được ngân hàng cho vay vốn trong
tổng số khách hàng có quan hệ cho vay với ngân hàng tăng. Ngược lại, nếu
chỉ số này giảm sẽ phản ánh việc ngân hàng thu hẹp cho vay đối với doanh
nghiệp hoặc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ít hơn các thành phần
kinh tế khác.
 Chỉ tiêu phản ánh doanh số cho vay doanh nghiệp
 Doanh số cho vay doanh nghiệp trong kỳ
19
Là tổng số tiền ngân hàng cho doanh nghiệp vay trong kỳ, tính cho ngày,
tháng, quý, năm. Doanh số cho vay phản ánh dung lượng hoạt động cho vay
trong kì. Chỉ tiêu này nói nên khả năng cung ứng của ngân hàng cho các
doanh nghiệp và nền kình tế. Đây là chỉ tiêu phản ánh chính xác, tuyệt đối về
hoạt động cho vay trong một thời gian dài, thấy được khả năng cho vay trong
các năm. Nếu trong năm doanh số cho vay của ngân hàng lớn, đạt tỷ lệ cao và
tăng so với năm trước thì điều đó nói lên hoạt động cho vay doanh nghiệp của

ngân hàng đạt được sự tăng trưởng.
-Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số cho vay doanh nghiệp tuyệt
đối được đo bằng hiệu số giữa tổng doanh số cho vay doanh nghiệp năm nay
và doanh số cho vay doanh nghiệp năm trước đó.
Giá trị tăng trưởng doanh số
cho vay tuyệt đối
=
Tổng doanh số cho
vay doanh nghiệp
năm t
–Tổng doanh số cho
vay doanh nghiệp
năm t-1
Chỉ tiêu này cho biết doanh số cho vay doanh nghiệp năm nay tăng so
với năm trước về con số tuyệt đối là bao nhiêu. Khi chỉ tiêu này tăng lên, tức
là số tiền mà ngân hàng cung cấp cho doanh nghiệp cũng tăng lên, thỏa mãn
tốt hơn nhu cầu của doanh nghiệp, từ đó nó cũng thể hiện hoạt động cho vay
doanh nghiệp của ngân hàng đã được mở rộng.
-Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số cho vay doanh nghiệp
tương đối được đo bằng tỷ lệ (tính theo phần trăm) của thương số giữa giá trị
tăng trưởng doanh số cho vay doanh nghiệp tuyệt đối với tổng doanh sổ cho
vay doanh nghiệp năm trước đó.
Giá trị tăng trưởng doanh số cho vay DN tuyệt đối x100%
Giá trị tăng trưởng doanh số =
20
cho vay tương đối
Tổng doanh số cho vay doanh nghiệp năm t-1
Chỉ tiêu này cho biết tốc độ tăng trưởng doanh số của hoạt động cho vay
doanh nghiệp năm nay so với năm trước. Khi chỉ tiêu này tăng lên, thể hiện
rằng doanh số cho vay doanh nghiệp qua các năm tăng lên về số tương đối.

Còn nếu tỷ lệ này giảm mà vẫn dương có nghĩa là ngân hàng đã hạn chế cho
vay đối với doanh nghiệp hơn trước.
 Chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng về tỷ trọng cho vay doanh nghiệp
Tổng doanh số cho vay doanh nghiệp x100%
Tỷ trọng cho vay =
doanh nghiệp Tổng doanh số của hoạt động cho vay
Chỉ tiêu này cho biết doanh số của hoạt động cho vay doanh nghiệp
chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng doanh số của hoạt động cho vay của ngân
hàng. Nếu tỷ lệ này tăng chứng tỏ Ngân hàng mở rộng doanh số cho vay đối
với doanh nghiệp. Nhưng nếu tỷ lệ này giảm chứng tỏ ngân hàng thu hẹp cơ
cấu cho vay đối với doanh nghiệp. Khi tỷ trọng của cho vay doanh nghiệp
tăng lên qua các năm chứng tỏ hoạt động cho vay doanh nghiệp đã được mở
rộng.
 Chỉ tiêu phản ánh dư nợ cho vay doanh nghiệp
 Dư nợ cho vay doanh nghiệp
Dư nợ tín dụng phản ánh sổ tiền mà khách hàng đang nợ ngân hàng tại
một thời điểm nên chỉ tiêu này là một con số thời điểm. Căn cứ vào mức dư
nợ và tỷ lệ dư nợ có thể cho ta biết rằng ngân hàng có thực hiện mở rộng tín
dụng hay không. Bởi khi ngân hàng thực hiện chính sách mở rộng cho vay thì
dư nợ cho vay thường ở mức cao. Tuy nhiên để có thể đánh giá chính xác việc
mở rộng cho vay tại ngân hàng phải kết hợp giữa chỉ tiêu dư nợ cho vay với
chỉ tiêu doanh số cho vay của ngân hàng.
21

×