Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

bước đầu tìm hiểu sự phát triển kinh tế huyện lục ngạn - bắc giang từ 1986 - 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.66 KB, 63 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC


TRẦN THỊ HỒNG


BƢỚC ĐẦU TÌM HIỂU SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
HUYỆN LỤC NGẠN - BẮC GIANG
TỪ 1986 - 2005


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





Sơn La, năm 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC



TRẦN THỊ HỒNG


BƢỚC ĐẦU TÌM HIỂU SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
HUYỆN LỤC NGẠN - BẮC GIANG


TỪ 1986 - 2005




Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Dƣơng Hà Hiếu


Sơn La, năm 2014


LỜI CẢM ƠN

Nhân dịp hoàn thành đề tài em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của
Phòng Nghiên cứu khoa học - Trường Đại học Tây Bắc và các thầy cô trong
khoa Sử - Địa. Đặc biệt em xin cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy Dƣơng Hà
Hiếu - Giảng viên khoa Sử - Địa đã giúp em hoàn thành khóa luận này.
Cho phép em gửi lời cảm ơn tới UBND huyện Lục Ngạn, Phòng Nông
nghiệp, Phòng Thống kê, Thư viện huyện Lục Ngạn đã cung cấp tài liệu giúp em
hoàn thành khóa luận này.
Mặc dù đã cố gắng nhưng chắc chắn rằng những hạn chế và thiếu sót
trong khóa luận không thể tránh khỏi nên mong nhận được ý kiến đóng góp của
thầy (cô) và các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!


Sơn La, tháng 05 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Hồng













DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT


1. CNXH (Chủ nghĩa xã hội)
2. HTX (Hợp tác xã )
3. UBND (Uỷ ban nhân dân)
4. CT/TW (Chỉ thị trung ương)
5. NXB (Nhà xuất bản)
















MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ và đóng góp của đề tài 4
4. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu 5
5. Bố cục của khóa luận 5
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HUYỆN LỤC NGẠN TRƢỚC
NĂM 1986 6
1.1. Vài nét về huyện Lục Ngạn 6
1.1.1. Vị trí địa lý, địa hình 6
1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên………………………………………………… 7
1.2. Tình hình kinh tế - xã hội huyện Lục Ngạn trƣớc năm 1986 11
1.2.1. Kinh tế 11
1.2.2. Xã hội 16
CHƢƠNG 2. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HUYỆN LỤC NGẠN TỪ 1986 -
1995 18
2.1. Lục Ngạn trong thời kỳ đổi mới đất nƣớc 18
2.1.1. Bối cảnh lịch sử 18

2.1.2. Đường lối đổi mới của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ Lục Ngạn 19
2.2. Sự phát triển kinh tế - xã hội huyện Lục ngạn từ 1986 - 1995 20
2.2.1. Trong Nông - Lâm nghiệp 20
2.2.2. Về công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. 24
2.2.3. Thương mại, dịch vụ 25
2.2.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng 26
2.3. Tác động của sự phát triển kinh tế tới đời sống, văn hóa, xã hội của
nhân dân huyện Lục Ngạn 26
2.3.1. Về lao động - việc làm 26
2.3.2. Về văn hóa - giáo dục - y tế 28
2.3.3. Công tác xóa đói giảm nghèo 30
2.3.4. Vấn đề an ninh quốc phòng 31
CHƢƠNG 3. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HUYỆN LỤC NGẠN TỪ 1996 -
2005 33
3.1 Chủ trƣơng phát triển kinh tế - xã hội 1996 - 2005 33
3.2. Sự phát triển kinh tế huyện Lục Ngạn 1996 - 2005 34
3.2.1. Trong nông nghiệp - lâm nghiệp 34
3.2.2. Về công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 37
3.2.3. Thương mại, dịch vụ 38
3.2.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng 39
3.3. Tác động của sự phát triển kinh tế tới đời sống, văn hóa, xã hội của
nhân dân huyện lục ngạn 40
3.3.1. Lao động - việc làm 40
3.3.2. Về văn hóa - giáo dục - y tế 43
3.3.3. Công tác xóa đói giảm nghèo……… ……………………………… ….45
3.3.4. Vấn đề an ninh quốc phòng 46
KẾT LUẬN 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Kinh tế - xã hội có mối quan hệ biện chứng trong sự vận động và phát
triển của mỗi quốc gia dân tộc. Bất cứ một quốc gia hay một chế độ chính trị xã
hội nào thước đo trình độ phát triển của chúng đều dựa trên những thành tựu của
nhiều yếu tố hợp thành, trong đó thành tựu kinh tế - xã hội giữ vai trò quan
trọng. Vì vậy tất cả các quốc gia, dân tộc đều tìm cho mình một con đường phù
hợp vươn lên trở thành một cường quốc về kinh tế, xã hội.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết
thúc thắng lợi đã chấm dứt hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
dân tộc ta. Lịch sử nước ta bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập
thống nhất, cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đã mở ra một thời
kỷ mới cho lịch sử dân tộc - thời kỳ đổi mới. Đại hội đã đề ra mô hình kinh tế
mới ở nước ta là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Tại hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI thực
hiện một số nhiệm vụ quan trọng do Đại hội lần thứ VI đề ra là: Cần tăng cường
chính sách trao đổi hành hóa giữa Nhà nước và nông thôn, mọi quan hệ trao đổi
hàng hóa giữa Nhà nước với hợp tác xã theo nguyên tắc bình đẳng thuận mua
vừa bán, bảo đảm củng cố liên minh công nông.
Sau 20 năm đổi mới (1986 - 2005) với những thành tựu to lớn, đất nước ta
có sự chuyển biến về mọi mặt. Từ 1995 đất nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng
kinh tế, xã hội và bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Huyện Lục Ngạn (thuộc tỉnh Bắc Giang) là một vùng quê có truyền thống
lịch sử văn hóa lâu đời. Đến ngày nay lịch sử truyền thống văn hóa ấy vẫn được
giữ gìn bảo tồn và phát huy.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Trung ương Đảng.
Đảng bộ và nhân dân Lục Ngạn đã cùng với cả nước đứng lên làm cuộc Cách
mạng tháng Tám thành công, tiến hành các cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Phát

2
huy truyền thống yêu nước, bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng bộ và nhân dân
huyện Lục Ngạn đã tiếp nhận, vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng do
Đại hội VI tháng 12/1986 đề ra.
Trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, huyện Lục Ngạn đã
có những chuyển biến quan trọng về kinh tế. Sự chuyển biến đó khẳng định
đường lối đúng đắn của Đảng cũng như sự vận dụng đường lối một cách chủ
động, sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của huyện Lục Ngạn, nhằm thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa của Lục Ngạn nói riêng và Bắc Giang
nói chung.
Mặc dù công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở Lục Ngạn trong thời
kỳ đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, nhưng vẫn còn những hạn chế
cần phát huy được tiếp tục tổng kết rút ra kinh nghiệm, nhằm đưa ra những giải
pháp thích hợp để phát huy ưu điểm và khắc phục hạn chế.
Trên cơ sở lí do đó, tôi quyết định chọn khóa luận “Bước đầu tìm hiểu sự
phát triển kinh tế huyện Lục Ngạn - Bắc Giang từ 1986 - 2005” làm đề tài
nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Về khoa học:
+ Tái hiện lại một cách sinh động, chính xác bước phát triển kinh tế của
huyện Lục Ngạn từ 1986 đến 2005 cùng những thành tựu đạt được.
+ Làm rõ sự vận dụng sáng tạo chủ trương đường lối chính sách của Đảng
vào huyện lục ngạn, một huyện miền núi có nhiều thành phần dân tộc sinh sống,
kinh tế xã hội chậm phát triển, trình độ dân trí còn thấp.
+ Làm phong phú thêm tư tưởng đường lối đổi mới của Đảng.
Về thực tiễn:
+ Làm tài liệu tham khảo để giảng dạy lịch sử địa phương.

+ Thiết thực góp phần giáo dục truyền thống đoàn kết, truyền thống yêu
nước yêu quê hương, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước cho nhân
dân huyện Lục Ngạn.



3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta từ năm 1986 đến nay đã tạo
ra những bước đột phá trong nền kinh tế của đất nước. Bộ mặt kinh tế của đất
nước nói chung, của huyện Lục Ngạn nói riêng có sự chuyển biến rõ rệt. Vấn đề
đổi mới kinh tế đã trở thành đề tài thu hút sự quan tâm của nhà nghiên cứu.
2.1. Các tác phẩm lý luận của Đảng và nhà nƣớc
Vấn đề kinh tế - xã hội nói chung đã được đề cập tới trong các văn kiện
của Đảng, từ văn kiện Đại hội lần thứ III, IV, V, VI, VII, VIII, IX, X. Trong
những văn kiện đó vấn đề kinh tế - xã hội đã được nêu lên thành đường lối mang
tính định hướng cho sự phát triển.
Tác phẩm “Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì Chủ nghĩa xã hội” của đồng
chí Đỗ Mười, nguyên Bí thư Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam, bao
gồm những bài viết, bài phát biểu quan trọng của đồng chí Đỗ Mười và được
NXB Chính trị Quốc Gia xuất bản thành 6 tập. Đây là cuốn sách rất quan trọng
làm sáng tỏ đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để của Đảng ta được
khởi đầu từ Đại hội lần thứ VI.
Tác giả, Nguyễn Trọng Phúc (2000) trong cuốn “Một số kinh nghiệm của
Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới”, NXB
Chính trị Quốc Gia. Tác giả đã tổng kết một số chủ trương của Đảng và những
thành tựu tiêu biểu mà chúng ta đã đạt được, từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm của Đảng lãnh đạo.
Cuốn “Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến nay” của Trần Bá Đệ, NXB ĐHQG
năm 1998, trong đó tác giả đã dành một chương để trình bày tình hình kinh tế -

xã hội, văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
2.2. Các công trình nghiên cứu, luận văn, bài báo.
Năm 1996, Ban thường vụ Huyện ủy đã cho xuất bản cuốn lịch sử Đảng
bộ huyện Lục Ngạn. Cuốn sách này đã trình bày một cách cụ thể về quá trình ra
đời và lãnh đạo nhân dân đấu tranh trong sự nghiệp cách mạng của Đảng bộ
huyện Lục Ngạn cũng như quá trình phát triển kinh tế của huyện.

4
Các báo cáo hàng năm, báo cáo trong nhiệm kỳ đại hội về tình hình kinh
tế của huyện Lục Ngạn từ 1986 - 2005 của Huyện ủy, Uỷ ban nhân dân huyện
Lục Ngạn tổng kết tình hình kinh tế của huyện.
Phòng thống kê huyện Lục Ngạn 1986 - 2005 đã phản ánh kinh tế hàng
năm của huyện, nhưng nó chỉ mang tính chất thống kê.
Trên cơ sở những tài liệu đó, tôi nghiên cứu, tìm hiểu và đánh giá cao
những tài liệu này, chúng đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về quá trình phát triển
kinh tế của huyện Lục Ngạn. Tuy nhiên do mục đích và nhiệm vụ khác nhau nên
chưa có tài liệu nào nghiên cứu và trình bày một cách đầy đủ và hệ thống. Vì
vậy khóa luận này xin tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế
của huyện Lục Ngạn từ 1986 - 2005.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ và đóng góp của đề tài
3.1.Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng mà khóa luận tập trung nghiên cứu là sự phát triển kinh tế của
huyện Lục Ngạn từ 1986 - 2005.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
* Về không gian: Đề tài giới hạn trong huyện Lục Ngạn của tỉnh Bắc
Giang địa giới hành chính gồm 29 xã và 1 thị trấn.
* Về thời gian: Tập trung tìm hiểu quá trình Đảng bộ và chính quyền
nhân dân huyện Lục Ngạn thực hiện công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế
từ 1986 - 2005.
3.3. Nhiệm vụ của đề tài

Khóa luận tập trung khôi phục lại những chuyển biến về kinh tế huyện
Lục Ngạn từ 1986 - 2005, qua khóa luận này muốn khẳng định những thành tựu
kinh tế mà huyện Lục Ngạn đã đạt được và tác động của sự phát triển kinh tế đối
với đời sống, văn hóa, xã hội huyện Lục Ngạn trong thời kỳ thực hiện đường lối
đổi mới. Đồng thời góp phần nêu ra những khó khăn, tồn tại, yếu kém của địa
phương và chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém đó.
3.4. Đóng góp của khóa luận
Qua việc nghiên cứu, khóa luận nhằm tái hiện lại một cách hệ thống tình
hình phát triển kinh tế huyện Lục Ngạn trong 20 năm đổi mới đồng thời làm rõ

5
những thành tựu cũng như những hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế của
huyện Lục Ngạn.
Khóa luận còn cung cấp thêm nguồn tư liệu để phục vụ cho việc nghiên
cứu giảng dạy lịch sử ở địa phương.
4. Cơ sở tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở tƣ liệu
Để hoàn thành đề tài này tôi đã sử dụng những nguồn tư liệu sau:
- Cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ huyện Lục Ngạn”.
- Các báo cáo tổng kết của Đảng bộ huyện Lục Ngạn, đặc biệt là báo cáo
tình hình kinh tế của ủy ban nhân dân huyện Lục Ngạn từ 1986 đến 2005.
- Nguồn bảng biểu thống kê của các ngành như Phòng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn, Phòng Văn hóa thông tin, Phòng Giáo dục đào tạo, Phòng Tài
nguyên môi trường, Phòng Thống kê huyện Lục Ngạn và các bài viết đề cập đến
tình hình phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Giang nói chung và huyện Lục Ngạn
nói riêng.
Tất cả những tài liệu nghiên cứu trên đều là những nguồn tài liệu quý báu
cho việc nghiên cứu các vấn đề đặt ra trong khóa luận của tôi.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Do tính chất của đề tài và trên cơ sở nguồn tài liệu đã thu thập được. Tôi

đã dùng phương pháp lịch sử và phương pháp logic, nhằm tái hiện lại quá trình
phát triển kinh tế của huyện Lục Ngạn trong 20 năm thực hiện đường lối đổi
mới 1986 - 2005.
Ngoài ra còn sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp định lượng,
phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tổng hợp.
5. Bố cục của khóa luận
Khóa luận ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tham khảo. Nội dung
của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: khái quát tình hình huyện Lục Ngạn trước năm 1986
Chương 2: Sự phát triển kinh tế huyện Lục Ngạn từ 1986 - 1995
Chương 3: sự phát triển kinh tế huyện Lục Ngạn từ 1996 - 2005

6
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HUYỆN LỤC NGẠN
TRƢỚC NĂM 1986

1.1. Vài nét về huyện Lục Ngạn
1.1.1. Vị trí địa lý, địa hình
Lục Ngạn là một huyện miền núi, nằm về phía Đông Bắc của tỉnh Bắc
Giang có diện tích tự nhiên là 101.223,72 km
2
.
Phía Bắc giáp huyện Chi Lăng và Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn.
Phía Đông giáp huyện Sơn Động (Bắc Giang) và huyện Lộc Bình tỉnh
Lạng Sơn.
Phía Nam và phía Tây giáp huyện Lục Nam ( Bắc Giang).
Huyện Lục Ngạn là một bồn địa do hai dải núi lớn là Bảo Đài và Huyền
Đinh viền bọc mà thành. Chảy qua giữa bồn địa này theo hướng Đông - Tây là
sông Lục Nam (tên chữ là Minh Đức Giang). Sông Lục Nam hòa cùng núi rừng

trùng điệp của vùng Đông Bắc tạo nên một thắng cảnh hùng vĩ “Một trường
giang đẹp nhất Bắc Kỳ”. Một huyết mạch giao thông đặc biệt quan trọng của
vùng này.[1,tr.10]
Ngược dòng lịch sử, thời Hùng Vương, Lục Ngạn thuộc bộ Kê Từ, sau đó
thời Bắc thuộc là huyện Kê Từ. Thời Lý, Lục Ngạn có tên gọi là Lục Na thuộc
Châu Lạng. Thời Trần thuộc lộ Bắc Giang. Thời nhà Minh đô hộ (đầu thế kỷ
XV), được chia cắt 2 huyện là Na Ngạn và Lục Na. Sang thời Lê, địa bàn Lục
Ngạn thuộc về 2 huyện Lục Ngạn và Bảo Lộc.
Thời thực dân Pháp đô hộ, khu vực này có 1 số thay đổi về các đơn vị
hành chính ngày 10 - 10 - 1895, tỉnh Bắc Giang được thành lập huyện Lục Ngạn
thuộc tỉnh Bắc Giang. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, địa giới hành chính
của huyện Lục Ngạn có nhiều thay đổi khi quân pháp mở rộng chiếm đóng ra
vùng Đông Bắc, chia cắt 2 huyện Sơn Động và Lục Ngạn, tháng 7 năm 1947,
Ủy Ban kháng chiến hành chính liên khu I đã quyết định tách các xã phía Tây
huyện Sơn Động về Lục Ngạn. Ngày 21- 01 - 1957, Thủ tướng Chính phủ đã ra

7
Nghị định số 24/TTg, chia 2 huyện Sơn Động và Lục Ngạn thành 3 huyện Sơn
Động, Lục Ngạn và Lục Nam. [1,tr.12.13]
Lục Ngạn gồm 29 xã và 1 thị trấn, với trung tâm Thị trấn Chũ, là một
huyện miền núi địa hình chia cắt thành hai vùng rõ rệt là địa hình vùng núi cao
và vùng đồi thấp.
Địa hình vùng núi cao: chiếm gần 60% diện tích tự nhiên toàn huyện
bao gồm 12 xã là: Sơn Hải, Cấm Sơn, Tân Sơn, Hộ Đáp, Phong Minh, Sa Lý,
Phong Vân, Kim Sơn, Phú Nhuận, Đèo Gia, Tân Lập, Tân Mộc. Vùng này địa
hình bị chia cắt mạnh, độ dốc khá lớn, độ cao trung bình từ 300 - 400 m, nơi
thấp nhất là 170 m so với mực nước biển. Vùng này dân cư chủ yếu là các dân
tộc ít người, có mật độ dân số thấp, khoảng 110 người/km
2
, kinh tế chưa phát

triển, tiềm năng đất đai còn nhiều, có thể phát triển kinh tế rừng, chăn nuôi đại
gia súc và trồng cây ăn quả.
Địa hình vùng đồi thấp: Bao gồm 17 còn lại và 1 thị trấn gồm Thị trấn
Chũ, Biên sơn, Kiên Lao, Thanh Hải, Kiên Thành, Giáp Sơn, Biển Động, Tân
Hoa, Hồng Giang, Trù Hựu, Quý Sơn, Phượng Sơn, Mỹ An, Phì Điền, Đồng
Cốc, Nghĩa Hồ, Tân Quang, Nam Dương. Diện tích chiếm trên 40% diện tích
toàn huyện. Địa hình có độ chia cắt trung bình với độ cao trung bình từ 80 -
120m so với mực nước biển. Đất đai trong vùng phần lớn là đồi thoải, một số
nơi đất bị xói mòn, thường thiếu nguồn nước tưới cho cây trồng. Nhưng ở vùng
này đất đai lại thích hợp với trồng các cây ăn quả như: hồng, nhãn, vải thiều
1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên
* Tài nguyên đất:
Lục Ngạn là huyện miền núi phía Đông Bắc tỉnh Bắc Giang, có tổng diện
tích đất tự nhiên là 101.223,72 ha. Lục Ngạn có 6 nhóm đất chính và 14 nhóm
đất phụ sau:
Nhóm đất phù sa sông suối có diện tích là 2.148,15 ha, chiếm 2,16% diện
tích đất điều tra. Trong nhóm đất này có tới 80% diện tích có thể trồng các cây
hoa màu và 20% diện tích đất có thể cấy 2 vụ lúa và 1 vụ màu.

8
Nhóm đất bùn lầy có diện tích 18,79 ha chiếm 0,02% diện tích đất điều
tra thổ nhưỡng phân bố ở vùng trũng, thường xuyên bị ngập úng. Số diện tích
này có thể cải tạo để nuôi trồng thuỷ sản.
Nhóm đất Feralít vàng nhạt ở trên núi có độ cao từ 700 - 90 m so với
mực nước biển có diện tích là 1.728,72 ha chiếm 1,82% diện tích đất điều tra.
Nhóm đất này có độ dốc tương đối lớn, tầng dày từ 30 - 100 cm thích hợp với
phát triển cây lâm nghiệp, cần trồng rừng và khoanh nuôi tái sinh rừng.
Nhóm đất Feralít trên núi, ở độ cao từ 200 - 700 m so với mặt nước biển
có diện tích 23.154,73 ha, chiếm 24,4% diện tích đất điều tra, phân bố chủ yếu ở
vùng đồi cao, độ dốc lớn, thích hợp với việc phát triển lâm nghiệp

Nhóm đất Feralít ở vùng đồi thấp, ở độ cao từ 25 - 200 m có diện tích là
56.878,42 ha, chiếm 59,93% diện tích điều tra. Nhóm đất này thích hợp với việc
trồng rừng, trồng các cây công nghiệp và các cây ăn quả như: nhãn, vải thiều,
hồng, na, đặc biệt là cây vải thiều cho hiệu quả kinh tế cao.
Nhóm đất trồng lúa có diện tích là 5.042 ha, chiếm 4,98% so với diện tích
tự nhiên. Nhóm đất này phân bố ở các cánh đồng bằng phẳng và ruộng bậc
thang trên các đồi thấp. Đất này thích hợp cho việc trồng các cây lương thực như
lúa, ngô, khoai, sắn, rau.
Lục Ngạn tuy là huyện miền núi nhưng có khoảng hơn 10 ngàn ha đất
tương đối bằng có độ dốc từ 0 - 8
0
chiếm khoảng 10% so với diện tích đất tự
nhiên. Đây là một thuận lợi cho việc trồng cây lương thực và hoa màu. Nếu có
biện pháp khai thác, cải tạo đất để tăng độ phì, trồng cây lương thực có năng
suất cao thì sẽ giải quyết tốt vấn đề lương thực cho nhân dân trong huyện.
* Tài nguyên nƣớc:
Lục Ngạn có nguồn tài nguyên nước phong phú bao gồm: nguồn nước
mặt và nguồn nước ngầm.
Nguồn nước mặt:
Trên địa bàn huyện có sông Lục Nam chảy qua dài gần 45km từ Đèo Gia xuống
Mỹ An đến Phượng Sơn. Nước sông chảy quanh năm với lưu lượng khá lớn.

9
Mức nước sông trung bình vào mùa lũ khoảng 4,5m, lưu lượng lũ lớn nhất:
Q
max
= 1.300 - 1.400 m
3
/s, lưu lượng nước mùa kiệt Q
min

= 1 m
3
/s.
Ngoài sông Lục Nam, trên địa bàn huyện còn có nhiều suối nhỏ nằm rải
rác ở các xã vùng cao, hệ thống ao hồ chứa tương đối nhiều do kết quả hoạt
động tích cực của phong trào thuỷ lợi, đắp đập ngăn nước, cùng với hệ thống
sông suối đã cung cấp một lượng nước khá lớn đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời
sống của nhân dân.
Nguồn nước ngầm:
Hiện tại chưa được điều tra kỹ để đánh giá về trữ lượng nước ngầm
nhưng qua khảo sát sơ bộ các giếng ở một số vùng trong huyện cho thấy mực
nước ngầm nằm không quá sâu (khoảng 20 - 25 m), chất lượng nước khá tốt, có
thể khai thác dùng trong sinh hoạt của các điểm dân cư.
Nhìn chung nguồn nước trong huyện có trữ lượng và chất lượng tương đối
tốt, có thể đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, do
đặc điểm lượng mưa thấp hơn các vùng khác trong tỉnh nên sản xuất nông
nghiệp cũng gặp không ít khó khăn gây ảnh hưởng lớn đến thời vụ sản xuất và
đời sống của nhân dân.
* Khí hậu:
Lục Ngạn nằm trọn trong vùng Đông Bắc Việt Nam nên chịu ảnh hưởng
của vùng nhiệt đới gió mùa, trong đó có tiểu vùng khí hậu mang nhiều nét đặc
trưng của vùng miền núi, có khí hậu tương tự các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên.
Nhiệt độ trung bình cả năm là 23,5
0
C, vào tháng 6 cao nhất là 27,8
0
C, tháng 1 và
tháng 2 nhiệt độ thấp nhất là 18,8
0
C.

Lượng mưa trung bình hàng năm 1321mm, lượng mưa năm cao nhất 1780
mm tập trung vào các tháng 6,7,8, lượng mưa năm thấp nhất là 912 mm, tháng
có ngày mưa ít nhất là tháng 12 và tháng 1. Đây là một khó khăn cho phát triển
cây trồng và vật nuôi.
Độ ẩm không khí trung bình là 81%, cao nhất là 85% và thấp nhất là 72%
là vùng chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc, vào mùa đông tốc độ gió bình
quân 2,2m/s, mùa hạ có có gió mùa đông nam, là vùng ít chịu ảnh hưởng của bão.

10
Điều kiện khí hậu thời tiết có thể thấy Lục Ngạn là vùng có lượng mưa
thấp, ít sương muối, mưa xuân đến muộn hơn, độ ẩm không khí không quá cao,
lượng bức xạ nhiệt trung bình, đó là những yếu tố thuận lợi tạo điều kiện cho
cây ăn quả (nhất là vải thiều) đậu quả tốt hơn khi ra hoa thụ phấn so với các
huyện khác trong tỉnh Bắc Giang.
* Tài nguyên rừng:
Lục Ngạn là huyện miền núi có diện tích lâm nghiệp là 35.817,85 ha,
chiếm 35,38% tổng diện tích đất tự nhiên của toàn huyện. Trong đó, diện tích
đất rừng sản xuất là 16.124,04 ha, chiếm 45,02% tổng diện tích đất lâm nghiệp.
Diện tích đất rừng phòng hộ là 19.693,81 ha, chiếm 54,98% tổng diện tích đất
lâm nghiệp của huyện.
* Tài nguyên khoáng sản:
Huyện Lục Ngạn có một số khoáng sản quý như: than, đồng, vàng , theo
tài liệu điều tra tài nguyên dưới lòng đất cho biết: về than các loại có trữ lượng
khoảng 30.000 tấn. Quặng đồng có khoảng 40.000 tấn nhưng hàm lượng thấp
nên không có ý nghĩa khai thác công nghiệp. Ngoài ra Lục Ngạn còn có vàng sa
khoáng nhưng trữ lượng không lớn, một số khoáng sản khác như đá, sỏi, cát, đất
sét có thể khai thác để sản xuất các loại vật liệu xây dựng phục vụ cho xây dựng
cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội.
* Tài nguyên nhân văn:
Lục Ngạn là huyện miền núi cao, có diện tích 101.223,72 ha, năm 2005

Lục Ngạn có 161.394 người, gồm 8 dân tộc (trong đó dân tộc Kinh chiếm 51%,
các dân tộc khác chiếm 49% như Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chỉ, Cao Lan, Dao,
Thái, Ê Đê và Hoa).
Năm 2005, toàn huyện có 202 làng bản được công nhận làng văn hoá và
có 27.226 hộ gia đình được công nhận gia đình văn hoá. Nhân dân các dân tộc
trong huyện đang tích cực lao động sản xuất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế phù hợp
với nền kinh tế thị trường, phát triển mạnh kinh tế vườn rừng, kinh tế trang trại
tạo nên những vườn cây đặc sản vải thiều, môi trường sinh thái đẹp và có sức
hấp dẫn du khách tham quan du lịch sinh thái. Lục Ngạn có khu di tích lịch sử

11
Đền Hả được xếp hạng cấp Quốc gia, một di tích xếp hạng cấp tỉnh đồng thời có
nhiều cảnh đẹp thiên nhiên nổi tiếng như hồ Cấm Sơn, hồ Khuôn Thần, hồ Làng
Thum có thể đầu tư xây dựng thành các khu nghỉ ngơi du lịch phục vụ nhân dân
trong huyện và các du khách trong và ngoài nước.
1.2. Tình hình kinh tế - xã hội huyện Lục Ngạn trƣớc năm 1986
1.2.1. Kinh tế
Mùa xuân năm 1975 đã đánh dấu một mốc son chói lọi trên tiến trình lịch
sử của dân tộc Việt Nam.Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, nước ta bước vào một thời kỳ mới - cả nước độc lập thống nhất cùng thực
hiện nhiệm vụ xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Cùng với cả nước, Lục Ngạn bước vào thời kỳ khắc phục hậu quả của
chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế.
Bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế, Lục Ngạn gặp rất nhiều
khó khăn do thiên tai, thiếu vật tư, tiền vốn nhất là chiến tranh biên giới đã thu
hút phần lớn nhân lực, vật lực phục vụ cho chiến tranh.
Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Lục Ngạn đã đạt được kết quả bước đầu
trên mọi lĩnh vực, từng bước ổn định đời sống nhân dân, góp phần xây dựng đất
nước và bảo vệ tổ quốc.

* Sản xuất nông nghiệp
- Trồng trọt:
Tại Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV xác định mục tiêu của huyện trong
5 năm (1976 -1980) là “phát huy thế mạnh miền núi, phấn đấu đảm bảo vững
chắc vấn đề lương thực, thực phẩm”.[1,tr.139]
Nghị quyết Đại hội đã nhanh chóng được triển khai và biến thành mục
tiêu hành động của Đảng bộ và nhân dân trong huyện.
Trong kế hoạch 5 năm (1976 - 1980), tổng diện tích gieo trồng năm 1976
là 13.819 héc ta, năm 1980 là 21.433 héc ta, trong đó diện tích lúa là: 8.420 héc
ta (năm 1976) tăng lên 9.447 héc ta (1980). Diện tích cây màu lương thực cũng
ở hai thời điểm này từ 3.120 héc ta lên 10.000 héc ta, riêng diện tích trồng sắn

12
tăng 9 lần. Tổng sản lượng lương thực (quy thóc) bình quân trong 5 năm (1976 -
1980) là: 29.035 tấn, năm cao nhất (1978) đạt 37.179 tấn, bình quân lương thực
đầu người trong 5 năm (1976 - 1980) là 292 kg/người/năm.[14,tr.21]
Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm 1981 - 1985, cùng với cả nước, Lục
Ngạn thực hiện chỉ thị 100/CT - TW ngày 13 - 01 - 1981 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm và
người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp.
Chỉ thị 100/CT-TW ra đời bước đầu đáp ứng nguyện vọng của xã viên,
được các cấp ủy Đảng, chính quyền và hợp tác xã trong huyện tích cực hưởng
ứng. Huyện ủy đã ban hành nghị quyết về tổ chức thực hiện chỉ thị 100/CT-TW
của Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Trong quá trình tổ chức thực hiện chỉ thị 100/CT-TW của Ban Bí thư
Trung ương Đảng và nghị quyết 05 của Tỉnh ủy Hà Bắc, hợp tác xã được tổ
chức lại theo quy mô thích hợp, hợp tác xã và đội sản xuất được sắp xếp lại cho
phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc khoán sản phẩm đến nhóm và người
lao động.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, huyện đã chia 65 hợp tác xã thành 85

hợp tác xã và chỉ đạo hợp tác xã thực hiện đúng tinh thần chỉ thị của Ban Bí thư.
Hợp tác xã chịu trách nhiệm 5 khâu: làm đất, phân bón, thủy lợi, giống, phòng trừ
sâu bệnh; xã viên chịu trách nhiệm 3 khâu: gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch.
Sau hơn 2 năm thực hiện chỉ thị 100/CT-TW, Huyện ủy nhận thấy quy mô
hợp tác xã như hiện tại không phù hợp, nên từ năm 1983 đã chỉ đạo chia 85 hợp
tác xã thành 112 hợp tác xã, trong đó có 4 hợp tác xã quy mô toàn xã, 50 hợp tác
xã quy mô thôn và 58 hợp tác xã theo khoảnh tre.
Trong kế hoạch 5 năm 1981 - 1985, mặc dù thiên tai xảy ra liên tiếp, vật
tư, nhiên liệu cung cấp cho nông nghiệp thiếu, nhưng nhờ có chỉ thị 100/CT-
TW, sản xuất nông nghiệp của Lục Ngạn vẫn đạt được những kết quả khả quan.
Năm 1981, tổng diện tích gieo trồng đạt 98,2% kế hoạch, tổng sản lượng
lương thực đạt 107% kế hoạch. Những năm 1983, 1984 diện tích trồng trọt có bị
thu hẹp do một số đất chuyển sang trồng cây ăn quả và sử dụng các mục đích

13
khác, nhưng huyện đã lãnh đạo nhân dân khai hoang phục hóa, đồng thời chú ý
chỉ đạo thâm canh kết hợp với việc đưa các loại giống mới năng xuất cao vào
sản xuất. Do vậy, tổng sản lượng lương thực 2 năm 1983 - 1984 bình quân đạt
37.000 tấn, trong đó tỷ trọng màu trong lương thực chiếm 50%. Năm 1985, do
hạn hán, diện tích gieo trồng của huyện đạt 23.057 ha, giảm 4% so với kế hoạch,
nên tổng sản lượng lương thực giảm 1.000 tấn.[1,tr.141.142]
Trong các loại cây màu lương thực, cây sắn chiếm vị trí quan trọng cả về
diện tích và sản lượng, có năm diện tích lên 4.000 ha, với sản lượng 26.000 tấn.
Có thể nói thời kỳ này, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy Lục Ngạn đã
đưa sắn lên đồi, vào rừng, đi đến Lục Ngạn ở đâu cũng có sắn. Trong cơ cấu bữa
ăn, sắn cũng chiếm tỷ trọng lớn trong khẩu phần lương thực.
Đối với cây công nghiệp, cây đậu tương có tốc độ phát triển nhanh nhất cả
về diện tích và sản lượng, từ 444 ha năm 1976 lên 2.900 ha năm 1980, sản lượng
từ 434 tấn năm 1976 lên 1.000 tấn năm 1980.
Trồng cây ăn quả bắt đầu phát triển mạnh ở Lục Ngạn từ năm 1982 sau

khi có chỉ thị 100/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và nghị quyết Đại
hội Đảng bộ khóa XVI (vòng 2). Đại hội đã khẳng định cần phải phát triển cây
vải thiều - một cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với điều kiện tự
nhiên của Lục Ngạn. Sau Đại hội, huyện đã phát động nhân dân trồng vải thiều.
Từ đây cây vải thiều dần dần chiếm một ví trí quan trọng trong kinh tế của
huyện. Năm 1982, toàn huyện đã trồng 110 ha vải thiều.
Một trong những biện pháp hàng đầu để bảo đảm cho sản xuất nông
nghiệp của Lục Ngạn phát triển là thủy lợi. Trong 5 năm (1976 - 1980), huyện
đã đầu tư hàng trăm triệu đồng cùng với công sức của nhân dân để xây dựng 318
công trình thủy lợi các loại, đảm bảo nước tưới, chủ động cho 1.616 ha cây
trồng, có khả năng chống hạn cho trên 1.000 ha lúa, đưa hệ số sử dụng ruộng đất
từ 1,2 lần năm 1976 lên 1,71 lần năm 1980.
- Về chăn nuôi:
Bên cạnh trồng trọt thì chăn nuôi cũng được coi trọng. Đàn trâu năm 1976
đạt 11.792 con, đến năm 1980 tăng lên 14.150 con. Đàn bò 3.387 con. Bình

14
quân số trâu bò trong mỗi hộ ở một số xã như Sơn Hải, Hộ Đáp, Phong Vân,
Kiên Lao từ 2,6 đến 3,6 con/hộ. Đàn gia cầm năm 1976 có 12.138 con, năm
1980 có 16.8500 con.
Sang giai đoạn 1981 - 1985, thực hiện chỉ thị số 100 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng, trong chăn nuôi cũng dần dần có sự thay đổi, trâu bò của tập
thể đã chia cho các gia đình xã viên theo chỉ tiêu đổi thóc lấy thịt hoặc đổi ruộng
lấy thịt.
Song nhìn chung giai đoạn 1981 - 1985 đàn gia súc gia cầm đều giảm sút.
Đàn trâu năm 1981 có 12.271 con, năm 1985 giảm xuống còn 10.906 con.
* Lâm nghiệp:
Sản xuất lâm nghiệp là thế mạnh của Lục Ngạn, nghị quyết Đại hội Đảng
bộ huyện lần thứ XIII chỉ rõ: “ Trồng và bảo vệ rừng là nhiệm vụ phát triển
kinh tế quan trọng đặc biệt của Lục Ngạn. Phấn đấu đến năm 1980 thực hiện phủ

xanh đồi núi trọc bằng cả ba lực lượng: lâm trường, bộ đội và tập thể các hợp tác
xã ”.[1,Tr.144]
Ngành lâm nghiệp đã cùng nhân dân trồng được hàng chục vạn cây tre bao
quanh các đồi chống xói mòn, hạn chế lũ. Từ năm 1976 - 1980, toàn huyện đã
trồng được 10.873 ha rừng, trong đó có 5.034 ha thuộc quốc doanh, khai thác
5.764m
3
gỗ tròn và hàng triệu cây tre, nứa
Từ năm 198 - 1985, song song với công tác trồng rừng, công tác bảo vệ
rừng đã được ngành lâm nghiệp và các cấp đặc biệt chú ý. Ngành lâm nghiệp đã
tổ chức cho gần 10.000 lượt người học tập pháp lệnh bảo vệ rừng. Nhiều tổ bảo
vệ rừng được thành lập. Trên 80% diện tích rừng đã được bảo vệ. Trong 3 năm
1983 - 1985, trồng được 5.087 ha.Trong đó quốc doanh trồng 4.000 ha, nhân dân
trồng 1.087 ha.Việc khoanh nuôi và bảo vệ rừng đầu nguồn đã được coi trọng. Đến
1985, đã giao 18.697 ha đất rừng cho hợp tác xã.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, ngành lâm nghiệp Lục Ngạn vẫn có
những yếu kém, số hợp tác xã kinh doanh nghề rừng có ít (40% số hợp tác xã,
trong đó chỉ có 20% kinh doanh có hiệu quả); việc tuyên truyền ý thức bảo vệ
rừng trong nhân dân còn yếu, diện tích rừng bị cháy năm 1984 tới 600 ha, việc

15
phá rừng làm nương rẫy, tình trạng khai thác và buôn bán lâm sản trái phép còn
diễn ra nhiều nơi.
* Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp:
Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của Lục Ngạn tuy còn nhỏ bé
nhưng đã góp phần đáng kể vào việc phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Giá
trị tổng sản lượng toàn ngành trong 5 năm 1976 - 1980 đạt 18.37 triệu đồng,
tăng gấp 2 lần so với thời kỳ 1971 - 1975. Năm 1981, giá trị tổng sản lượng đạt
3.23 triệu đồng, bằng 114% kế hoạch. Những năm 1983 - 1985, trong công
nghiệp quốc doanh và tiểu thủ công nghiệp được tăng cường về quy mô và năng

lực sản xuất. Giá trị tổng sản lượng năm 1985 gấp 30 lần năm 1982. Những sản
phẩm chính của công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là vật liệu xây dựng (gạch,
ngói ), chế biến nông sản, công cụ cầm tay (dao, cuốc, liềm hái ).
Song công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của Lục Ngạn còn mang nặng
tính tự cấp, tự túc, phát triển chậm, chưa đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất và
đời sống nhân dân. Do khó khăn về vốn, nguyên liệu và năng lực quản lý, tiểu
thủ công nghiệp trong khu vực tập thể có xu hướng giảm sút.
* Giao thông vận tải:
Giao thông vận tải của huyện ngày càng phát triển và mở rộng phục vụ
kịp thời những yêu cầu về sản xuất, đời sống nhân dân và quốc phòng. Hàng
năm các địa phương đều tiến hành sửa chữa, tu bổ hàng trăm km đường.Trong 2
năm 1982-1982, làm thêm được 42 km đường mới, bắc 5 cầu, làm 5 ngầm đá.Từ
năm 1983 - 1985, ngành giao thông phối hợp với các địa phương làm thêm hàng
trăm km đường bộ, 15 cầu, đảm bảo giao thông thông suốt.
Nhìn chung giai đoạn trước năm 1986 sản xuất ở Lục Ngạn vẫn mang tính
tự cấp, tự túc, kinh tế đơn thuần chỉ là nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp. Trong đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỉ lệ cơ bản nhưng
năng suất thấp, sản xuất lâm nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm
một tỉ lệ rất nhỏ trong nền kinh tế của huyện.



16
1.2.2. Xã hội
* Giáo dục
Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân. Để phát triển nguồn lực con người ngành giáo dục huyện
Lục Ngạn đã thực hiện phong trào thi đua hai tốt: dạy tốt và học tốt, chất lượng
giảng dạy từng bước được nâng cao.
Số học sinh phổ thông năm học 1975 - 1976 có 20.400 em, năm học 1985

- 1986 có 25.150 em.Tăng 23% so với năm học 1975 - 1976. Chất lượng giảng
dạy và học tập từng bước được nâng lên, số lượng học sinh thi lên lớp năm học
1978 - 1979 đạt 98,7%; thi hết cấp III năm học 1978 - 1979 đỗ 91%. Những năm
1981-1985, số học sinh thi lên lớp và thi cuối cấp đỗ trung bình từ 80 - 85%.
Ngành học mầm non trong thời kỳ 1976 - 1980, hàng năm có trên 5.700
cháu theo học. Thời kỳ 1981-1985, ngành học mầm non giảm sút cả về số lớp và
số cháu do tác động của cơ chế khoán mới trong nông nghiệp.
Ngành bổ túc văn hóa tiếp tục duy trì hai hình thức: học tập trung và học
tại chức. Những năm 1976 - 1980, Lục Ngạn có 4 trường bổ túc văn hóa tập
trung với gần 400 học viên, các lớp mở tại các cơ sở có trên 1.200 học viên.
* Về văn hóa
Ngành văn hóa thông tin bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương,
tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Huyện có đội
chiếu bóng, hàng chục đội văn nghệ nghiệp dư, nhiều câu lạc bộ, thư viện và
hiệu sách nhân dân. Trong cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia đình
văn hóa mới, những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan ngày một giảm, đời sống tinh
thần của nhân dân được nâng lên.
* Về y tế
Ngành y tế không ngừng phát triển, thực hiện tốt việc chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe cho nhân dân với phương châm: phòng bệnh hơn chữa bệnh và trong
giáo dục nâng cao trách nhiệm của người thầy thuốc, lấy câu căn dặn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh “Thầy thuốc như mẹ hiền” làm phương châm và mục tiêu
phấn đấu của ngành y tế trong những năm 1976 - 1985 cũng như sau này. Kết

17
quả “trong 10 năm, ngành y tế huyện Lục Ngạn phát triển cả về số lượng cán bộ
và chất lượng điều trị. Tính đến năm 1985, huyện có 21 cơ sở điều trị gồm 12
trạm xá, 1 bệnh viện”. [8,tr.28]
* Về công tác an ninh quốc phòng
Năm 1979, để tham gia cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc. Đảng

bộ huyện Lục Ngạn đã thực hiện công tác củng cố quốc phòng, chuẩn bị sẵn
sàng chiến đấu được tiến hành khẩn trương, lực lượng dân quân tự vệ được củng
cố với quân số chiếm 14% dân số trong huyện. Công tác xây dựng làng, xã
thành pháo đài chiến đấu được tiến hành khẩn trương. Các kế hoạch phục vụ
chiến đấu, phòng không, sơ tán được chuẩn bị chu đáo.
Bước sang những năm 1980, thực hiện chủ trương của cấp trên, căn cứ
vào tình hình, đặc điểm của huyện, Ban Chỉ huy quân sự huyện đã tiến hành xây
dựng lực lượng gọn nhẹ đảm bảo chất lượng. Lực lượng tự vệ chiếm từ 8 đến
10% dân số được tổ chức thành 3 bộ phận: chiến đấu, phục vụ chiến đấu và sẵn
sàng nhập ngũ. Công tác bảo vệ an ninh trật tự được làm tốt, tình hình an ninh
chính trị tại địa phương luôn được ổn định.
Như vậy, với những thành tựu đã đạt được trong nông nghiệp, công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, trên mặt trận văn hóa, giáo dục, y tế, an
ninh quốc phòng, huyện Lục Ngạn còn có những hạn chế trong phát triển kinh tế -
xã hội như: Tốc độ phát triển kinh tế còn chậm, lương thực, thực phẩm chưa đáp
ứng được nhu cầu tối thiểu của nhân dân. Giá cả tăng nhanh, tiền lương thực tế
giảm, thị trường rối loạn. Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội còn chưa đáp ứng. Trước tình hình đó đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân
huyện Lục Ngạn phải tiếp tục phấn đấu mạnh mẽ hơn nữa, phát huy những
thành tựu đã đạt được, vượt qua khó khăn, thử thách, cùng với nhân dân trong
tỉnh và cả nước thực hiện thắng lợi của các mục tiêu mà Đảng đã đề ra.


18
CHƢƠNG 2. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HUYỆN LỤC NGẠN
TỪ 1986 - 1995

2.1. Lục Ngạn trong thời kỳ đổi mới đất nƣớc
2.1.1. Bối cảnh lịch sử
Từ giữa những năm 1980 của thế kỷ XX, thế giới có những thay đổi và

biến động lớn. Đó là sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật đã gây nên những tác động lớn, làm thay đổi mối quan hệ giữa các
nước, các nước tư bản như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật… kịp thời điều chỉnh cơ cấu
sản xuất hợp lý và đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ thuật, nên đã vượt qua
khủng hoảng và phát triển đi lên. Trong khi đó cuộc khủng hoảng toàn diện
vẫn tiếp tục diễn ra ở Liên Xô và các nước XHCN. Sự khủng hoảng ngày
càng trầm trọng đẫn đến sự sụp đổ của các nước XHCN Đông Âu và sự tan rã
của Liên Xô vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 gây tác động
tiêu cực đến tình hình nước ta.
Trong hơn một thập kỷ từ những năm 1975 đến năm 1986 trải qua hai
nhiệm kỳ Đại hội IV và V của Đảng, thực hiện chủ trương đường lối xây dựng
CNXH, nhân dân ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, đặt cơ sở
bước đầu cho sự nghiệp xây dựng và và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Điều đó được thể hiện trong toàn Đảng toàn dân vừa làm, vừa tìm tòi thử
nghiệm hướng đi mới. Song cách mạng Việt Nam không gặp ít những khó khăn
thách thức, sản xuất nông nghiệp đạt năng suất thấp, nạn kham hiếm lương thực
diễn ra triền miên. Sản xuất công nghiệp được nhà nước bao cấp nên luôn trong
tình trạng “ lãi giả, lỗ thật”. Đời sống nhân dân giảm sút nghiêm trọng. Sau thất
bại của đợt điểu chỉnh giá - lương tiền, đại đa số nhân dân không thể duy trì cách
làm, cách nghĩ như trước nữa. Đồng thời những cơ quan lãnh đạo của Đảng và
nhà nước cũng thấy rõ không thể tiếp tục duy trì những chủ trương, chính sách
không còn phù hợp với thực tế.
Đứng trước tình hình đó, đổi mới là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với
nước ta, đồng thời là vấn đề phù hợp với xu thế chung của thời đại với phương
châm “ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật” Đại hội toàn quốc lần thứ

×