TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
* * *
CHUYÊN ĐỀ LUẬT HÀNH CHÍNH 3
CÁC NỘI DUNG CỤ THỂ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DÂN TỘC
Giáo viên hướng dẫn: Nhóm sinh viên thực hiện: MSSV
Nguyễn Lan Hương Đỗ Thị Kim Chi S1200236
Lê Thị Diệu Phương S1200271
Nguyễn Ngọc Hân S1200310
Cần Thơ, tháng 08 năm 2014
CHUYÊN ĐỀ
CÁC NỘI DUNG CỤ THỂ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DÂN TỘC
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ
Điều 21 Nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ
về Công tác dân tộc.
II. PHÂN TÍCH
Cùng với việc đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới của đất nước theo
đường lối “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc”, công tác quản lý nhà nước về dân tộc
ngày càng trở thành một lĩnh vực hoạt động quan trọng của bộ máy nhà
nước. Do tính chất đa dạng của chính sách dân tộc, nên công tác quản
lý nhà nước về
dân tộc bao gồm nhiều mặt hoạt động trải rộng trên các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, nhưng đều hướng đến đối
tượng chung là đồng bào dân tộc thiểu số. Khác với nội dung công tác
dân tộc của các cơ quan khác trong hệ thống chính trị, công tác quản lý
nhà nước về dân tộc tập trung vào việc chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật, triển khai các chương trình, dự án. Nội dung
quản lý nhà nước về dân tộc được xác định tại Điều 21 Nghị định
05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về Công tác dân tộc,
bao gồm:
1. Ban hành và chỉ đạo thực hiện chiến lược, chương trình mục
tiêu quốc gia, quy hoạch, kế hoạch, chính sách về lĩnh vực công tác
dân tộc
Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về dân tộc, xuyên
suốt mọi thời kỳ cách mạng là: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ nhau cùng phát triển”, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là “Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên
đất nước Việt Nam”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI
khẳng định về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc “Nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng
một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương
đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp
nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề
cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp,
đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”.
Điển hình là Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt
khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (hay còn gọi là Chương
trình 135), là một trong các chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt
Nam do Nhà nước triển khai từ năm 1998. Chương trình được biết đến
rộng rãi dưới tên gọi Chương trình 135 do Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt thực hiện chương trình này có số hiệu văn bản là
135/1998/QĐ-TTg. Theo kế hoạch ban đầu, chương trình sẽ kéo dài 7
năm và chia làm hai giai đoạn; giai đoạn 1 từ năm 1998 đến
năm 2000 và giai đoạn 2 từ năm 2001 đến năm 2005. Tuy nhiên, đến
năm 2006, Nhà nước Việt Nam quyết định kéo dài chương trình này
thêm 5 năm, và gọi giai đoạn 1997-2006 là giai đoạn I, giai đoạn II
(2006-2010), đến nay, Chương trình đang trong giai đoạn III (2011-
2015) với nhiều điểm khác biệt, phát triển hơn so với các giai đoạn
trước.
2. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về công tác dân
tộc; xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách dân tộc, chính
sách đặc thù, các chương trình, dự án, đề án phát triển vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; tiêu chí phân
định vùng dân tộc theo trình độ phát triển, tiêu chí xác định thành
phần dân tộc, tiêu chí về chuẩn đói nghèo đối với vùng dân tộc thiểu
số; xây dựng chính sách đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí,
bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về công tác dân tộc là sự
thể chế hoá để quan điểm, đường lối của Đảng về dân tộc đi vào cuộc
sống, pháp luật về dân tộc có vai trò quan trọng, là công cụ để quản lý
nhà nước trong lĩnh vực dân tộc. Công tác dân tộc là nhiệm vụ chung
của toàn bộ hệ thống chính trị, mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị,
tùy theo địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà
có phương thức khác nhau để thực hiện công tác dân tộc. Bộ máy nhà
nước, từ trung ương đến địa phương, quản lý nhà nước về dân tộc
bằng những biện pháp, công cụ khác nhau, trong đó pháp luật là công
cụ quan trọng.
Ngoài những văn bản pháp luật điều chỉnh riêng đối với các dân
tộc thiểu số, các vấn đề pháp luật về dân tộc còn được lồng ghép trong
nhiều văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hoá, xã
hội, giáo dục, y tế,
Trong nhiều năm qua, các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ta
thường xuyên ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung những quy định
pháp luật theo tiêu chí phân định vùng dân tộc theo trình độ phát triển,
tiêu chí xác định thành phần dân tộc, tiêu chí về chuẩn đói nghèo đối
với vùng dân tộc thiểu số nhằm thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng,
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, đặc biệt là những chính
sách ưu tiên và đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục
ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Để thực hiện tốt mọi công tác thì vấn đề con người bao giờ cũng
được quan tâm hàng đầu, không ngoại lệ, xây dựng chính sách đào tạo
nguồn nhân lực, nâng cao dân trí là một công tác cần được quan tâm
hiện nay cũng như lâu dài trong tương lai, là nền tảng cho việc đạt được
hiệu quả cao nhất.
3. Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan làm công tác dân tộc từ
Trung ương đến cơ sở; thực hiện phân công, phân cấp có hiệu quả
trong lĩnh vực công tác dân tộc
- Tiếp tục kiện toàn cơ quan chuyên trách làm công tác dân tộc ở
các cấp theo Nghị định số 51/2003/NĐ-CP ngày 16/5/2003 và Nghị
định số 53/2004/NĐ-CP ngày 18/2/2004 của Chính phủ.
Kiện toàn tổ chức, xác định cụ thể chức năng, nhiệm vụ và biên chế
của các đơn vị (cục, vụ, viện, ) của cơ quan dân tộc ở Trung ương
và địa phương (cấp tỉnh, cấp huyện).
- Quy định cụ thể tiêu chuẩn cán bộ, công chức làm công tác dân
tộc trong cơ
quan công tác dân tộc các cấp theo chức danh; đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ làm
công tác dân tộc.
- Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
công tác dân tộc và quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, lý luận chính
trị, tin học cho đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác dân tộc ở
Trung ương và địa phương.
- Bảo đảm điều kiện, phương tiện, kinh phí hoạt động thường
xuyên cho cơ quan công tác dân tộc các cấp và chính sách lương, phụ
cấp nhằm động viên, thu hút cán bộ, công chức về làm việc ở các cơ
quan công tác dân tộc và vùng dân tộc thiểu số.
4. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho
vùng dân tộc thiểu số
Nội dung công tác này bao gồm các mặt hoạt động chủ yếu sau:
- Đa dạng hóa nguồn tài chính; ban hành chính sách khuyến
khích các doanh nghiệp, các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế
đầu tư vào các vùng dân tộc thiểu số; tăng cường khai thác các nguồn
vốn từ hợp tác quốc tế, thành lập quỹ phát triển cho vùng dân tộc
thiểu số.
- Tăng ngân sách nhà nước hàng năm cho việc thực hiện chính
sách dân tộc và cho đầu tư phát triển các vùng dân tộc thiểu số đặc biệt
khó khăn.
- Tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra tài chính,
nhằm chống thất thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả, chất lượng đầu tư
và thực hiện chính sách dân tộc.
Được cụ thể hóa bằng:
- Quyết định số 551/QĐ-TTg ngày 04/4/2013 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chương trình 135 về hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ
phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn
khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn.
- Quyết định số 33/2013/QĐ-TTg ngày 04/6/2013 của Thủ tướng
Chính Phủ về tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định
canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số đến năm 2015.
- Quyết định số 755/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 về việc phê duyệt
Chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào
dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn
giai đoạn 2013-2015.
- Quyết định số 29/2013/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 của Thủ tướng
Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở và việc làm cho
đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng đồng bằng
sông Cửu Long giai đoạn 2013-2015.
Trước tình hình khó khăn của ngân sách nhà nước thì vấn đề xã hội
hóa, huy động các nguồn lực từ các tổ chức quốc tế và doanh nghiệp để
thực hiện chính sách cho vùng đồng bào dân tộc là vấn đề hết sức quan
trọng.
Trước hết chúng ta phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong
nước; thứ hai là tận dụng có hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ từ các tổ
chức quốc tế, tháng 12/2013, được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc đã ký Thỏa thuận tài trợ của
Chính phủ Ai Len với Chính phủ Việt Nam với trị giá 13,29 triệu euro
cho Chương trình 135 trong năm 2013 - 2015. Bên cạnh đó, việc sử
dụng nguồn lực phải hết sức tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát và phải
xử lý nghiêm những trường hợp sai phạm để đảm bảo các nguồn lực
thực sự đến tay đối tượng được thụ hưởng một cách hiệu quả nhất.
5. Kiểm tra, thanh tra, sơ kết, tổng kết, đánh giá việc thực hiện
chính sách, chương trình, dự án ở vùng dân tộc thiểu số; việc chấp
hành pháp luật về công tác dân tộc, phòng, chống tham nhũng, thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan
đến công tác dân tộc theo quy định của pháp luật
Cần phối hợp công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện
các chính sách, chương trình, dự án ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
- Hàng năm, cần tổ chức các đoàn kiểm tra, giám sát việc thực hiện
các chương trình, dự án ở vùng dân tộc thiểu số như: Chương trình 135;
Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó
khăn theo Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg; Chính sách hỗ trợ di dân
thực hiện định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết
định số 33/2013/QĐ-TTg; Chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước
sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã,
thôn, bản đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 755/QĐ-TTg; Quyết
định số 29/2013/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở và
giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó
khăn vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2013 -2015; Chính sách
hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn vay vốn phát triển
sản xuất theo Quyết định số 54/2012/QĐ-TTg.
- Hội Nông dân các cấp có trách nhiệm thường xuyên giám sát việc
tổ chức thực hiện các chính sách vùng dân tộc thiểu số. Nắm bắt những
thông tin về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, tâm tư nguyện vọng và
những kiến nghị của nông dân các dân tộc làm cơ sở tham mưu cho
Đảng, Nhà nước xây dựng và điều chỉnh chính sách dân tộc cho phù hợp
với tình hình thực tế.
- Thực hiện chế độ sơ kết, tổng kết quá trình thực hiện chương trình
phối hợp hàng năm ở các cấp, các địa phương để rút kinh nghiệm, phát
hiện và đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách dân
tộc và kiến nghị, bổ sung, sửa đổi một số chính sách chưa phù hợp với
thực tế các địa phương.
6. Tuyên truyền, giáo dục chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước bằng nhiều biện pháp, hình thức để đồng
bào các dân tộc hiểu rõ và chủ động tham gia vào quá trình thực
hiện
Thực hiện theo: Thông tư liên tịch 01/2012/TTLT-BTP-UBDT ngày
17 tháng 01 năm 2012 của Bộ Tư pháp và Ủy ban dân tộc hướng dẫn
thực hiện trợ giúp pháp lý đối với người dân tộc thiểu số.
Ngoài ra cần thực hiện các vấn đề sau:
- Tuyên truyền, vận động nông dân các dân tộc thực hiện tốt chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đặc
biệt là chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số và vùng dân tộc,
miền núi.
- Tuyên truyền, vận động nông dân các dân tộc thiểu số tích cực
tham gia các phong trào thi đua yêu nước như: Phong trào nông dân thi
đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm
nghèo bền vững; Phong trào nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới;
Phong trào nông dân tham gia bảo đảm quốc phòng, an ninh.
- Triển khai hiệu quả việc phát hành Báo Nông thôn ngày nay đến
vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn theo Quyết
định số 2472/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ về
việc cấp một số ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền
núi, vùng đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012 – 2015.
- Phối hợp triển khai thực hiện Đề án “Tuyên truyền, phổ biến pháp
luật cho người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số” theo Quyết
định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ.
Đặc biệt, để công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số đạt kết
quả, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của
Trung ương và của tỉnh có liên quan đến công tác dân tộc, tôn giáo cho
các vị chức sắc tôn giáo, các già làng, trưởng bản, những người có uy tín
trong cộng đồng dân cư.
Công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục chủ trương chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước cho đồng bào dân tộc thiểu số phải được
thực hiện thường xuyên, liên tục, có tính kế thừa; tập trung tuyên truyền
những vấn đề mang tính cấp bách đang được quan tâm. Nội dung tuyên
truyền, phổ biến phải đầy đủ, chính xác và kịp thời; hình thức và biện
pháp tổ chức thực hiện phải dễ hiểu, dễ tiếp cận, phù hợp với đặc điểm
tình hình từng vùng, địa bàn, đối tượng, bảo đảm hiệu quả và thiết thực.
* Các hình thức tuyên truyền, phổ biến: Tùy theo đặc điểm của
từng địa phương và từng nhóm đối tượng để lựa chọn những hình thức
tuyên truyền phù hợp, đạt hiệu quả cao nhất, bao gồm các hình thức:
- Tuyên truyền tại các lớp tập huấn, qua các buổi nói chuyện chuyên
đề, kết hợp tuyên truyền trong các buổi họp dân, các buổi sinh hoạt đoàn
thể và cộng đồng tại địa phương.
- Thông qua mạng lưới truyền thanh tại cơ sở; phát hành bản tin, tờ
rơi nội bộ, pano, áp phích; qua website của các ngành; kết hợp với báo,
đài xây dựng tiểu phẩm, làm các chương trình, phóng sự chuyên đề.
- Lồng ghép tuyên truyền, phổ biến thông qua các buổi nói chuyện
thời sự, tập huấn kỹ thuật sản xuất cho nông dân; tại các buổi hội thảo,
hội nghị đầu bờ; xây dựng quy ước của thôn, bản; tổ chức các cuộc thi
tìm hiểu pháp luật dưới hình thức viết hoặc sân khấu hóa.… Trong đó
tiêu biểu như các cuộc thi tìm hiểu về Bộ Luật Lao động, hội thi “An
toàn vệ sinh viên giỏi”, “Tuyên truyền viên Luật Bảo hiểm xã hội”,
“Luật Giao thông đường bộ”, “Luật Phòng chống ma túy, HIV/AIDS”
… chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao nhận thức, hiểu
biết và thực thi pháp luật, từ đó góp phần nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân.
- Thông qua hoạt động của câu lạc bộ tư vấn pháp luật, trung tâm trợ
giúp pháp lý và hòa giải tại các huyện để kết hợp triển khai phổ biến,
tuyên truyền pháp luật tới người dân nông thôn.
- Hỗ trợ địa phương xây dựng tủ sách pháp luật ở thôn, bản; Triển
khai các hình thức giải đáp pháp luật qua thư điện tử, gửi ý kiến giải đáp
qua đường bưu điện, phối hợp với đài 1080 của từng vùng để giải đáp
mọi thắc mắc cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Tuyên truyền về truyền thống đoàn kết của các dân tộc trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tổ chức tốt các phong trào
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc trong cộng đồng. Tổ
chức hoạt động kết nghĩa giữa các địa phương nhằm tương trợ phát
triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết khó khăn
trong cuộc sống.
Thông qua Quyết định số 29/2013/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 của Thủ
tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở và việc
làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng đồng
bằng sông Cửu Long giai đoạn 2013-2015.
=> Cần xây dựng một số mô hình điểm về xóa đói, giảm nghèo
trong vùng dân tộc thiểu số.
- Hỗ trợ nông dân các dân tộc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi
phù hợp với điều kiện từng địa phương; phối hợp với các ngành tổ chức
cung ứng vốn, giống, vật tư giúp nông dân phát triển sản xuất; khôi phục
và mở rộng ngành nghề mới, tạo việc làm tăng thu nhập nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nông dân.
- Hàng năm, lồng ghép các chương trình, dự án được triển khai trên
địa bàn vùng dân tộc thiểu số để xây dựng thành dự án mô hình điểm về
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên,
kinh tế – xã hội của từng vùng, xoá đói giảm nghèo, mở rộng phát triển
ngành nghề nhất là các ngành nghề truyền thống nhằm giải quyết lao
động tại chỗ, từ đó nhân rộng ra các địa bàn khác. Cần áp dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đổi mới tập quán canh tác lạc hậu
kém hiệu quả sang cách làm mới có năng suất, chất lượng cao. Nhiều hộ
đã kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp với khai thác thế mạnh đồi rừng,
xây dựng mô hình kinh doanh tổng hợp VAC… phát triển các mô hình
kinh doanh dịch vụ như vận tải, vật liệu xây dựng…
- Phối hợp đề ra các giải pháp nhằm thu hút đầu tư, mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm cho nông dân các dân tộc thiểu số tại các vùng
đã xây dựng mô hình điểm.
Thường xuyên thăm hỏi động viên, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng để kiến nghị với các cấp chính quyền xem xét, giải quyết và động
viên đồng bào dân tộc thiểu số đoàn kết xây dựng bản làng văn minh,
tiến bộ, đồng bào các tôn giáo sống "tốt đời đẹp đạo", "kính chúa yêu
nước". Từ đó tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy đồng bào dân tộc thiểu số
và đồng bào có đạo ý thức tự giác vươn lên thoát nghèo, làm giàu chính
đáng, tham gia tích cực các hoạt động xã hội, từ thiện. Với phương
châm "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin", đẩy mạnh thực hiện tốt
quy chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động
tối đa mọi khả năng đóng góp của nhân dân trong việc xây dựng và phát
triển địa phương; hướng dẫn cách làm ăn cho người dân, động viên nhân
dân cố gắng vươn lên thoát khỏi đói nghèo và làm giàu chính đáng; tăng
cường sự đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc. Bên cạnh đó, công tác cán
bộ là người dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo được chú trọng, bảo đảm
có cơ cấu hài hòa giữa các thành phần dân tộc trong các tổ chức trong hệ
thống chính trị.
Vận động bà con tích cực xây dựng quê hương, hướng dẫn và giải
quyết kịp thời nhu cầu sinh hoạt, tín ngưỡng của đồng bào theo quy định
của pháp luật. Phối hợp với các ngành chức năng hướng dẫn các tổ chức
tôn giáo hành đạo gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín đồ trong khối
đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo.
Quan tâm, chú trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng
bào dân tộc thiểu số việc làm có ý nghĩa quan trọng, góp phần động viên
bà con tích cực hưởng ứng, chấp hành tốt các quy ước, hương ước của
bản, làng, thôn xóm cũng như các quy định, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
Trong phong trào thi đua công tác xã hội tốt, cần tích cực vận động
đồng bào dân tộc thiểu số đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tham gia cuộc vận động "Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" gắn với xây dựng nông thôn mới,
thực hiện tốt các quy ước, hương ước, nếp sống văn minh trong việc
cưới, việc tang, lễ hội, mừng thọ; các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục, thể thao, duy trì các lễ hội truyền thống…
Khuyến khích các đồng bào dân tộc thiểu số đăng ký đạt tiêu chuẩn
gia đình văn hóa
Hưởng ứng cuộc vận động ủng hộ quỹ "Vì người nghèo" và phong
trào xóa nhà tạm, làm nhà đại đoàn kết cho người nghèo do Mặt Trận Tổ
Quốc phát động giúp người nghèo vươn lên thoát nghèo.
Những tuyên truyền, vận động trên sẽ là động lực để đồng bào các
dân tộc thiểu số phát huy ý chí tự lực, tự cường, ra sức thi đua phát triển
kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng-an ninh, xây dựng và củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng vững mạnh, luôn bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng chung tay, ra sức
xây dựng nông thôn mới, xây dựng quê hương ngày một phát triển, giàu
đẹp, văn minh.
7. Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý cán bộ người
dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị và cán bộ trong hệ thống
cơ quan làm công tác dân tộc
Thực hiện theo quy định tại Điều 21 Nghị định 05/2011/NĐ-CP
ngày 14/01/2011 của Chính phủ về Công tác dân tộc.
1. Cán bộ người dân tộc thiểu số có năng lực và đủ tiêu chuẩn phù
hợp quy định của pháp luật, được bổ nhiệm vào các chức danh cán bộ
chủ chốt, cán bộ quản lý các cấp.
Ở các địa phương vùng dân tộc thiểu số, nhất thiết phải có cán bộ
chủ chốt người dân tộc thiểu số.
2. Đảm bảo tỷ lệ hợp lý cán bộ người dân tộc thiểu số, ưu tiên cán
bộ nữ, cán bộ trẻ tham gia vào các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính
trị các cấp.
3. Các Bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, bổ nhiệm, sử dụng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
4. Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan có trách
nhiệm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành nội dung Điều này.
Ngoài ra cần nêu cao tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan đơn vị; tăng cường công tác tuyên truyền, quán triệt sâu rộng
nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp đảng ủy và lãnh đạo
các cơ quan, đơn vị về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác
đào tạo bồi dưỡng, sử dụng, quản lý cán bộ là người dân tộc thiểu số.
Thường xuyên tiến hành rà soát chất lượng đội ngũ cán bộ là
người dân tộc thiểu số làm việc trong hệ thống chính trị và cán bộ
trong hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc. Đánh giá đúng thực chất
đội ngũ cán bộ, bám sát yêu cầu chính trị từ đó xây dựng kế hoạch,
quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng để đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu
dài. Thực hiện tổng kết đánh giá theo từng giai đoạn để phát hiện số
lượng cán bộ còn chưa đạt chuẩn từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng cụ thể.
* Về công tác quy hoạch cán bộ:
Quy hoạch cán bộ, bao gồm cả quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý
và quy hoạch cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ, là nhiệm vụ, là trách
nhiệm của các cấp ủy đảng theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện,
trực tiếp và tuyệt đối về công tác cán bộ, trong đó có công tác quy hoạch
cán bộ.
Quy hoạch cán bộ phải tiến hành thật sự dân chủ, công khai, không
khép kín trong phạm vi một cơ quan, đơn vị mà phải kết hợp giữa quy
hoạch của cơ quan quản lý cấp trên và cấp dưới; đồng thời phải mở rộng
ở phạm vi ngành, lĩnh vực và địa phương. Quy hoạch cán bộ không chỉ
quy hoạch một người cho một chức danh; thường xuyên. nhận xét, đánh
giá dân chủ, công khai cán bộ trong quy hoạch để kịp thời điều chỉnh, bổ
sung quy hoạch cho phù hợp, mạnh dạn dưa ra khỏi quy hoạch những
cán bộ không bảo đảm theo tiêu chuẩn, khắc phục tình trạng nể nang,
ngại va chạm.
Cần làm rõ giữa quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý và quy hoạch
cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ. Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý là
chuẩn bị và tạo nguồn cán bộ làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng, xây
dựng đội ngũ cán bộ đảm nhận các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp
trong hệ thống chính trị. Còn cán bộ, công chức chuyên môn có tài năng
nhưng không muốn hoặc không có sở trường lãnh đạo, quản lý thì cần
quy hoạch, bồi dưỡng họ nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ.
* Về đào tạo, bồi dường đội ngũ cán bộ:
- Đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, quản lý nhà nước, tin học, ngoại
ngữ và cập nhật kiến thức mới cho đội ngũ cán bộ.
Ví dụ như xét cử cán bộ đi học tiến sĩ; thạc sĩ và học đại học chính
trị chuyên ngành
- Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị - hành chính
- Cao cấp lý luận chính trị - hành chính:
- Lựa chọn và cử con em dân tộc thiểu số đi đào tạo đại học theo địa
chỉ tại các trường đại học trung ương để tạo nguồn cán bộ cho tương lai.
- Mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ theo từng chức danh để góp phần
nâng cao kiến thức, kỹ năng vào giải quyết công việc ở cơ sở.
- Áp dụng phương pháp đào tạo bồi dưỡng cân đối giữa lý thuyết
và thực hành, tăng cường thực hiện các bài tập tình huống, hướng dẫn
nghiệp vụ theo hình thức “cầm tay chỉ việc” để người học có thể vận
dụng ngay kiến thức được trang bị vào công việc đang đảm nhận giúp
Cán Bộ nâng cao hiệu quả chất lượng trong công tác quản lý và thực
hiện nhiệm vụ chính trị tại cơ sở.
Việc đổi mới các chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải đúng với
nhu cầu thực tế áp dụng tại từng địa phương thích hợp với nhiệm vụ
quản lý hiện tại và về lâu dài.
* Về sử dụng đội ngũ cán bộ:
- Luân chuyển cán bộ là người dân tộc thiểu số về Trung ương
giữ các chức vụ cấp cao quan trọng. Ngoài ra, cần điều động cán bộ,
công chức, viên chức về công tác tại các bộ, ngành góp phần bổ sung
nguồn cán bộ có trình độ năng lực đã được tôi luyện và trải qua thực
tế cơ sở cho Trung ương.
- Nâng cao nhận thức của người đứng đầu cơ quan trong việc tuyển
dụng, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số; bố
trí biên chế nhất định để ưu tiên tuyển dụng cán bộ là người dân tộc
thiểu số vào các cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện, công chức chuyên môn ở
cấp xã.
- Xây dựng và triển khai có hiệu quả đề án đánh giá chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức; bố trí, sử dụng cán bộ, công chức sau đào tạo
một cách hợp lý. Tạo động lực để cán bộ, công chức, viên chức chủ
động, tích cực tự bồi dưỡng và tham gia đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao
trình độ, năng lực làm việc.
- Đổi mới, nâng cao chất lượng tuyển dụng công chức, viên chức
thông qua việc phân cấp, phân quyền, cải tiến quy trình, thủ tục tuyển
dụng theo hướng công khai, dân chủ và phải bảo đảm tuyển dụng theo vị
trí việc làm và tuyển chọn được công chức, viên chức có đủ tiêu chuẩn
đáp ứng yêu cầu công việc.
Trong cơ cấu đầu tư cho các vùng đặc biệt khó khăn cần dành một
khoản kinh phí thỏa đáng cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc thiểu số, có chính
sách ưu tiên trong đào tạo, trong phương tiện học tập, học phí; trong cơ
hội tiếp cận thông tin tri thức văn hóa …
Quy định tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức trong đó có chế
độ ưu tiên đối với người dân tộc thiểu số, người địa phương. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong đó đặc biệt là cán bộ dân tộc
thiểu số phải được quan tâm triển khai đồng bộ ở tất cả các cấp,
ngành nhằm tạo ra những người có đủ nhiệt huyết, bản lĩnh, năng lực,
có trách nhiệm và đem lại hiệu quả cao.
8. Xây dựng hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu về công tác dân tộc
Cần xây dựng Bộ cơ sở dữ liệu các dân tộc thiểu số Việt Nam nhằm
mục tiêu chuẩn hóa, nâng cao chất lượng thông tin; Xử lý, phân tích và
tổng hợp thông tin dữ liệu, thành phần và các nguồn thông tin có liên
quan. Xây dựng giải pháp kỹ thuật phần cứng, phần mềm, tạo môi
trường giao diện thuận lợi cho người sử dụng tạo lập, cập nhật, khai thác
thông tin. Xây dựng hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu nhằm lưu trữ, quản
lý toàn bộ cơ sở dữ liệu theo mô hình thống nhất, tích hợp và trao đổi
thông tin với các cơ sở dữ liệu có liên quan; triển khai cài đặt, đào tạo
chuyển giao công nghệ cho đội ngũ cán bộ nhân viên các cấp.
Hiện nay, bộ sở dữ liệu các dân tộc thiểu số Việt Nam cũng đã được
xây dựng, nhưng chưa hoàn thiện theo đúng tiến độ do một số khó khăn
như: chưa đưa ra cấu trúc dữ liệu cần lưu trữ và khó thu nhập; Việc thu
thập thông tin chủ yếu được tổng hợp, thu thập ở nhiều cơ quan, bộ
ngành khác nhau; các thông tin chưa có sự quản lý thống nhất nên một
số chính sách, chương trình, dự án thiếu cơ sở khoa học và gặp khó khăn
khi triển khai thực hiện. Do vậy, việc xây dựng “Bộ cơ sở dữ liệu về các
dân tộc thiểu số Việt Nam” để chuẩn hóa và thu thập thông tin, số liệu
đầy đủ phục vụ công tác dân tộc là rất cần thiết và phù hợp với chủ
trương của Đảng, nhà nước.
Sau khi được triển khai, Bộ cơ sở dữ liệu các dân tộc thiểu số Việt
Nam sẽ cung cấp thông tin về các dân tộc thiểu số Việt Nam; Chính sách
dân tộc của Đảng, nhà nước, kết quả thực hiện các chương trình, chính
sách vùng dân tộc thiểu số; Chỉ tiêu thông kê ngành và cơ sở dữ liệu có
liên quan khác.
Về mặt kỹ thuật, Bộ cơ sở dữ liệu phải được thiết kế mở, đảm bảo
kết nối và trao đổi thông tin với cơ sở dữ liệu khác; Có khả năng nâng
cấp các dữ liệu thành phần và các chuyên đề về dân tộc thiểu số theo sự
mở rộng của thuộc tính, quy mô và dung lượng lưu trữ, số lượng người
dùng tham gia hệ thống. Các cơ sở dữ liệu chuyên đề về dân tộc thiểu số
được xây dựng dựa trên nội dung và đề xuất tổng thể của các vụ, đơn vị,
các thông tin, chỉ tiêu cụ thể phải có sự phê duyệt trước khi cập nhật.
9. Thẩm định các chương trình, dự án, đề án, kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số
- Nhà nước thống nhất quản lý từ Trung ương đến địa phương các
hoạt động liên quan đến các nhà tài trợ nước ngoài vào vùng dân tộc
thiểu số; đẩy mạnh phân cấp cho các địa phương trong thẩm định, phê
duyệt và quản lý các chương trình, dự án có vốn đầu tư nước ngoài; xây
dựng hệ thống thống kê về nguồn viện trợ và vốn vay ưu đãi vào vùng
dân tộc thiểu số.
- Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Đề án Tăng cường hợp tác
quốc tế hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Theo Quyết định, Đề án ưu tiên 7 lĩnh vực: 1- Phát triển giáo dục, đào
tạo nguồn nhân lực, nâng cao trình độ dân trí và xây dựng đội ngũ cán
bộ người dân tộc; 2- Đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội vùng đồng bào
dân tộc thiểu số; 3- Đầu tư hỗ trợ phát triển sản xuất, đẩy nhanh công tác
xóa đói giảm nghèo; 4- Đảm bảo nước sạch, vệ sinh môi trường và ứng
phó biến đổi khí hậu; 5- Chăm sóc sức khỏe, giảm thiểu tình trạng tảo
hôn, hôn nhân cận huyết thống và HIV/AIDS; 6- Bảo tồn, phát triển văn
hóa các tộc người và bảo vệ quyền của người dân tộc thiểu số; 7- Nâng
cao năng lực xây dựng chính sách cho đội ngũ cán bộ liên quan đến
công tác dân tộc.
- Ngoài ra, nhà nước còn trợ giúp phát triển các chính sách như cung
cấp các nguồn lực, cơ sở vật chất cho các vùng, hộ gia đình , hướng
dẫn cách thức tổ chức để tăng cường hoạt động của các tổ chức kinh tế -
xã hội, tổ chức nghề nghiệp hoặc năng lực tự tổ chức của cá nhân trong
quá trình phát triển, giáo dục giúp người dân nâng cao dân trí, có thêm
kiến thức, thông tin, kinh nghiệm cần thiết và bảo đảm thực thi tốt các
chính sách y tế và các chính sách an sinh xã hội khác.
10. Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực ti‡n tình hình công tác
dân tộc, chiến lược công tác dân tộc, chính sách dân tộc, quản lý nhà
nước về lĩnh vực công tác dân tộc
- Thông qua báo cáo hàng năm của các cơ quan công tác dân tộc
trên cả nước, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những quyết sách được thực
thi thông qua bộ máy hành pháp nhằm quản lý và phát triển kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội đối với các dân tộc và vùng dân tộc nhằm thiết
lập sự bình đẳng và hoà nhập phát triển, củng cố, tăng cường đoàn kết
thống nhất của cộng đồng các dân tộc.
- Từ thực tiễn tình hình lao động tại các vùng dân tộc thiểu số, nhà
nước khuyến khích sử dụng lao động tại vùng dân tộc thiểu số phục vụ
cho các dự án; ưu tiên việc dạy nghề, đào tạo lao động tại chỗ và sử
dụng những cán bộ người dân tộc thiểu số có đủ khả năng tham gia trợ
giảng trong đào tạo nguồn nhân lực cho các dự án đầu tư vào vùng dân
tộc thiểu số.
11. Hợp tác quốc tế về công tác dân tộc, phối hợp với các tổ
chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế trong việc nghiên cứu,
trao đổi kinh nghiệm về công tác dân tộc; khuyến khích việc giúp
đỡ, hˆ trợ đầu tư phát triển vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện
kinh tế – xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn thực hiện tốt công
tác dân tộc và chính sách dân tộc theo quy định của pháp luật
- Nhà nước ban hành một số chính sách đặc thù nhằm thu hút nguồn
tài trợ nước ngoài vào các lĩnh vực cần thiết để khai thác hiệu quả tiềm
năng, thế mạnh vùng dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, trên cơ sở mức
miễn, giảm thuế thu nhập và hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định
theo quy định hiện hành, các dự án đầu tư bằng nguồn vốn viện trợ
không hoàn lại, vốn vay ưu đãi hoặc của nhà đầu tư vào vùng dân tộc
thiểu số, được miễn thuế thu nhập thêm một thời gian nhất định kể từ
khi dự án đi vào hoạt động. Đồng thời, khuyến khích tiếp nhận chuyển
giao khoa học, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm từ các nhà tài trợ nước
ngoài vào vùng dân tộc thiểu số đảm bảo bảo vệ môi trường, phòng
chống thiên tai và biến đổi khí hậu, nâng cao hiệu quả sản suất.
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ chuyên trách làm công tác quản lý các chương trình, dự án có nguồn
vốn viện trợ nước ngoài; có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho những
cán bộ có năng lực được biệt phái làm việc cho các dự án và đảm bảo
được tiếp tục quay trở về cơ quan cũ làm việc, khi dự án hoàn thành.
Ngân sách Nhà nước hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động làm việc trong
các dự án đầu tư từ nguồn vốn viện trợ không hoàn lại và vốn vay ưu đãi
ở vùng dân tộc thiểu số.
*
* *
Nói tóm lại, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, yêu cầu
cấp thiết đặt ra là cần thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa
các vùng miền, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục
của các dân tộc hiện nay còn đang ở trong tình trạng kém phát triển.
Để thực hiện được mục tiêu cấp thiết này, Nhà nước ta đang nỗ lực đầu
tư cho khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó, đặc biệt quan tâm
đầu tư
cho đồng bào dân tộc thiểu số cư trú ở vùng cao, vùng sâu,
vùng đặc biệt khó khăn. Các chiến lược, chương trình, kế hoạch hoạt
động hướng đến đồng bào dân tộc thiểu số được thực hiện thông qua
hoạt động quản lý nhà nước về dân tộc.
Trong tương lai, để hướng đến mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng một nước kém phát triển, thì cùng với việc tích cực đầu tư
làm thay đổi kinh tế - xã hội ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, một
vấn đề quan trọng đặt ra là Đảng và Nhà nước ta cần phát huy truyền
thống đoàn kết dân tộc. Để làm được điều này không thể thiếu công
tác quản lý nhà nước về dân tộc, với tính chất là một lĩnh vực hoạt động
thường xuyên trong tổ chức, điều hành nền hành chính quốc gia.
Đồng thời hiện nay vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc đang là một
trong những vấn đề thường xuyên bị các thế lực thù địch lợi dụng để gây
rối an ninh chính trị, trật tự xã hội, phá hoại sự ổn định chính trị của chế
độ và sự phát triển bền vững của Nhà nước ta. Trước tình hình đó, công
tác dân tộc trở thành một nhiệm vụ quan trọng của toàn bộ hệ thống
chính trị mà trong đó, hoạt động quản lý nhà nước về dân tộc có vị trí
rất quan trọng.
*
* *