Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.44 KB, 40 trang )

CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN MÔN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM VÀ NGUYÊN TẮC
Câu 1: Phân biệt vụ án dân sự và việc dân sự?
a) Vụ án dân sự là việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại
và lao động được quy định thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự, do cá nhân, cơ
quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, của người khác, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước.
b) Việc dân sự là việc các cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp nhưng yêu cầu Tòa án công nhận hoặc
không công nhận sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh thương mại và lao động của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu Tòa án công nhận hoặc
không công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động được pháp
luật quy định thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo thủ tục tố tụng dân sự. Ví dụ: Tuyên bố mất tích; Công
nhận thuận tình ly hôn…
Câu 2: Phân tích đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của LTTDS?
a) Đối tượng điều chỉnh của LTTDS.
LTTDS điều chỉnh 3 nhóm quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành
án dân sự bao gồm:
1. Quan hệ phát sinh giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau: Tòa án,Viện Kiểm sát, Cơ quan thi hành án.
2. Quan hệ giữa Tòa án, Viện Kiểm sát, Cơ quan thi hành án với đương sự, người đại diện của đương sự, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người định
giá tài sản và người liên quan phát sinh trong tố tụng dân sự.
3. Quan hệ giữa các đương sự với những người liên quan như: cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ các vật
chứng hoặc có trách nhiệm tống đạt, chuyển giao các văn bản tố tụng.
Nhóm 2,3 là trung tâm của LTTDS.
b) Phương pháp điều chỉnh của LTTDS.
Là cách thức mà các quan hệ pháp luật TTDS tác động lên các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể phụ
thuộc vào 2 yếu tố: Tính chất nhóm quan hệ điều chỉnh và ý chí của nhà làm luật.
1. Phương pháp m ệnh lệnh: xuất phát từ tính chất của quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với các đương
sự. Các cơ quan này dùng quyền lực của NN để thực thi pháp luật TTDS, các quan hệ này không có sự bình đẳng
với các chủ thể khác thể hiện ở sự: tuân thủ, phục tùng, cưỡng chế…
2. Phương pháp đ ị nh đo ạt: các quan hệ pháp luật nội dung do Tòa án giải quyết bao gồm: dân sự, hôn nhân và gia


đình, kinh doanh thương mại và lao động. Các đương sự được quyền tự định đoạt các quyền lợi cho mình khi lợi
ích hay quyền bị xâm phạm hoặc trong tranh chấp các đương sự có quyền tự quyết định khởi kiện, thương lượng,
dàn xếp, thỏa thuận, rút đơn yêu cầu hay đơn khởi kiện; tự thi hành án và không yêu cầu thi hành án nữa…
Câu 3: Phân tích nguyên tắc Pháp chế xã hội chủ nghĩa (Đ3).
Đây là nguyên tắc chung của LTTDS được ghi nhận tại Đ12 - HP 1992, Đ3 - BLTTDS. Đây là nguyên tắc
cơ bản nhất chỉ đạo mọi hoạt động TTDS, được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của TTDS. Việc thực hiện
đúng nguyên tắc này trong TTDS không những bảo đảm cho việc giải quyết vụ án chính xác, đúng pháp luật,
ngăn ngừa những hành vi vi phạm pháp luật mà còn đảm bảo cho đương sự thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ
tố tụng.
Nguyên tắc này có những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng dân sự phải nghiêm chỉnh tuân thủ các quy
định của BLTTDS vì mọi việc áp dụng pháp luật không đầy đủ thì việc giải quyết vụ việc dân sự không đúng,
không chính xác, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, gây tổn hại uy tín của các cơ quan bảo vệ
pháp luật, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật;
Thứ hai, Người tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đều phải nghiêm chỉnh tuân thủ
các quy định của BLTTDS, thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ tố tụng mà pháp luật đã quy định cho họ;
Thứ ba, Tất cả các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng đều dựa trên cơ sở luật nội dung và LTTDS.
Các quyết định này khi đã có hiệu lực pháp luật thì phải được tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành và được bảo
đảm thực hiện trên thực tế;
Thứ tư, Mọi hành vi vi phạm pháp luật trong TTDS đều phải được xử lý và việc xử lý các hành vi vi
phạm cũng phải trên cơ sở quy định của pháp luật.
Câu 4: Phân tích nguyên tắc Yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Đ4).
Nguyên tắc của LTTDS là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo định hướng cho việc xây dựng và thực hiện
pháp luật TTDS và được ghi nhận trong các VBPLTTDS.
Nguyên tắc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là nguyên tắc đặc thù của LTTDS. Vì nội
dung của nguyên tắc này xác định các chủ thể theo quy định của BLTTDS có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác, bảo vệ lợi ích của nhà nước và lợi ích công cộng.
Cụ thể:
+ Các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc tranh chấp có quyền khởi
kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;

+ Cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp, nhưng có quyền yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không
công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động của mình hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền
về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động;
+ Cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác: đó là cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi quyền hạn của mình có
quyền khởi kiện, yêu cầu giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình trong trường hợp luật Hôn nhân và gia
đình quy định (đó là những vụ việc quy định tại Đ15, 42, 55, 66, 77) khi không có ai khởi kiện. Công đoàn cấp
trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định.
+ Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu
cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Ví dụ: cơ quan tài
nguyên và môi trường có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức có
hành vi gây ô nhiễm môi trường phải bồi thường thiệt hại, khắc phục sự cố gây ô nhiễm môi trường công cộng.
Cơ quan văn hóa có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi
xâm phạm di sản văn hóa thuộc sở hữu toàn dân phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra;
+ Tòa án có nhiệm vụ xem xét, giải quyết các yêu cầu của đương sự theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp của họ.
Câu 5: Phân tích nguyên tắc Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Đ5).
Nguyên tắc này có nguồn gốc từ bản chất của quan hệ pháp luật nội dung (quan hệ pháp luật dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động). Các chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung có quyền tự do,
tự nguyện, bình đẳng trong việc thiết lập các quyền và nghĩa vụ phục vụ cho lợi ích của mình phù hợp với lợi ích
chung của xã hội. Các chủ thể có quyền tự do quyết định có tham gia vào quan hệ pháp luật nội dung hay không?
Quyết định nội dung của quan hệ (các quyền và nghĩa vụ của các bên), quyết định phương thức thực hiện các
quyền và nghĩa vụ… trong trường hợp có tranh chấp hoặc vi phạm xảy ra thì họ cũng có quyền lưạ chọn cách
thức, biện pháp để giải quyết tranh chấp cũng như tự quyết định quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó,
quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS được quy định là một nguyên tắc cơ bản của LTTDS và được quy
định tại Đ5 - BLTTDS.
Nguyên tắc này có các nội dung sau:
+ Đương sự có quyền tự quyết định việc có tham gia tố tụng dân sự, tự quyết định quyền và lợi ích của họ

theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa, đương sự có quyền tự quyết định việc có yêu cầu hay không yêu
cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự? Khi đương sự đã quyết định việc yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự
thì đương sự có quyền rút yêu cầu, thay đổi, bổ sung, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự, có
quyền quyết định việc kháng cáo hay không kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật;
+ Tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
+ Mọi hành vi định đoạt của đương sự phải xuất phát từ ý chí tự nguyện và không được trái với các quy
đingj của pháp luật và đạo đức xã hội. Ví dụ: như việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở tại phiên tòa sơ
thẩm chỉ được chấp nhậ nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện,
yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu, hoặc các đương sự chỉ kháng cáo các thủ tục phúc thẩm đối với
những nội dung đã giải quyết ở Tòa án cấp sơ thẩm và không kháng cáo, kháng nghị về những vấn đề chưa được
giải quyết ở cấp sơ thẩm…
Câu 6: Phân tích nguyên tắc Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự (Đ6).
Chứng minh là hoạt động tố tụng cơ bản trong TTDS, mang tính chất quyết định đến kết quả giải quyết vụ
việc dân sự làm cơ sở cho Tòa án giải quyết vụ việc dân sự được chính xác và đúng pháp luật. Chứng minh trong
TTDS không chỉ có ý nghĩa đối với Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự mà còn có ý nghĩa đối với các
đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Theo quy định tại Điều 6 - BLTTDS thì nguyên tắc này có các nội dung cơ bản sau đây:
+ Đương sự đưa ra yêu cầu hay phản đối yêu cầu của người khác đối với mình có quyền và nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu, phản đối yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp;
+ Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa
ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ. Đó là,
Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc dân sự và nếu vụ việc dân sự được
xét xử, giải quyết tại phiên tòa, phiên họp thì Tòa án chỉ căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét
tại phiên tòa, phiên họp, kết quả việc hỏi tại phiên tòa, phiên họp, xem xét đầy đủ ý kiến của người tham gia tố
tụng, Kiểm sát viên để quy định;
+ Tòa án giúp đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu
thập được chứng cứ và có yêu cầu hoặc Tòa án có thể tự mình tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ theo quy
định tại K1, Đ87, K1, Đ88 và Điểm b, K1, Đ92 - BLTTDS.
Câu 7: Phân tích nguyên tắc Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự (Đ8).
Đây là nguyên tắc chung, nguyên tắc này được ghi tại Điều 52 - HP1992, Điều 8 - LTCTAND, Điều 8 -

BLTTDS. Việc thực hiện đúng nguyên tắc này sẽ tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện được các quyền và
nghĩa vụ tố tụng của mình, đồng thời bảo đảm cho Tòa án xét xử công bằng, nghiêm minh, chính xác, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Nội dung của nguyên tắc này xác định địa vị pháp lý như nhau của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức, không
có sự phân biệt đối xử trong tố tụng. Cụ thể:
+ Tất cả các cá nhân trước pháp luật đều được đối xử như nhau không phân biệt nam nữa, dân tộc, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội,… các cơ quan, tổ chức không phân biệt hình thức tổ chức,
hình thức sở hữu đều bình đẳng trước pháp luật;
+ Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức đều phải tôn trọng, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Bất kỳ ai có quyền
dân sự bị xâm phạm đều có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ. Bất kỳ người nào xâm phạm đến quyền dân sự của
người khác đều phải chịu trách nhiệm dân sự tương ứng;
+ Các bên đương sự được bình đẳng ttong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng như bình đẳng
trong việc đưa ra yêu cầu, cung cấp chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ để bảo vệ quyền lợi của họ, yêu cầu Tòa án
tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ, bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, thi hành
quyết định của tòa án…;
+ Tòa án phải bảo đảm cho mỗi đương sự thực hiện được các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo
đúng quy định của pháp luật. Tòa án không được định kiến trước bên đúng, bên sai mà không tôn trong tôn trọng,
xem xét đầy đủ cá yêu cầu, chứng cứ, lý lẽ của họ.
Câu 8: Phân tích nguyên tắc Đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự (Đ9).
Nguyên tắc này thuộc nguyên tắc chung của LTTDS. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 132 HP1992,
Điều 9 - LTCTAND, Điều 9 - BLTTDS. Việc thực hiện đúng nguyên tắc này sẽ tạo điều kiện cho các đương sự
thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngoài ra, việc thực
hiện đúng nguyên tắc này còn tạo điều kiện cho Tòa án xét xử khách quan, đúng pháp luật.
Nguyên tắc này có những nội dung cơ bản sau đây:
+ Đương sự có quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng cách tự mình thực hiện được các quyền
và nghĩa vụ tố tụng của họ trước tòa án, như quyền đưa ra các yêu cầu, cung cấp chứng cứ, yêu cầu Tòa án tiến
hành các biện pháp thu thập chứng cứ…;
+ Đương sự có thể ủy quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình tham gia tố tụng hoặc nhờ họ bảo vệ
quyền lợi của mình trước tòa án;
+ Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện được việc bảo vệ quyền và lợi ích trong tố tụng bằng

việc bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.
Câu 9: Phân tích nguyên tắc Hòa giải trong tố tụng dân sự (Đ10).
Hòa giải là một trong các nội dung của quyền tự định đoạt của đương sự, theo đó các đương sự có quyền
thỏa thuận, thương lượng với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự. Hòa giải là một trong các phương thức giải
quyết tranh chấp có rất nhiều ưu điểm. Đó là, Tòa án có thể giải quyết nhanh chóng vụ án dân sự mà không cần
mở phiên tòa xét xử, đỡ tốn kém thời gian, tiền bạc của nhà nước và của các đương sự. Đồng thời khắc phục được
mâu thuẫn, bất đồng và các hậu quả khác do tranh chấp gây ra. Bên cạnh đó, hòa giải thành giữa các đương sự
còn giúp cho việc thi hành án được thuận lợi, các đương sự sẽ tự nguyên thi hành án mà không cần phải áp dụng
các biện pháp cưỡng chế. Do đó, trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự được quy định là một
nguyên tắc cơ bản của LTTDS và được quy định tại Điều 10 - BLTTDS. Đây là nguyên tắc đặc trưng của LTTDS
Việt Nam mà các ngành luật hình thức khác như tố tụng hình sự và tố tụng hành chính đều không có. Sở dĩ có sự
khác nhau này là bởi trong Tố tụng hình sự, mối quan hệ cần giải quyết là mối quan hệ giữa nhà nước và người
thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, bị can, bị cáo không có quyền thỏa thuận với nhà nước về việc họ phạm tội gì,
mức hình phạt là như thế nào? Mà tất cả là những vấn đề này đều được các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào
quy định của pháp luật để giải quyết. Trong Tố tụng hành chính, mối quan hệ giải quyết là tranh chấp giữa các cá
nhân, cơ quan, tổ chức với các cơ quan nhà nước về các quyết định hành chính và hành vi hành chính của cơ quan
nhà nước nên giữa các đương sự luôn tồn tại mối quan hệ bất bình đẳng. Do đó, các đương sự trong tố tụng hành
chính cũng không có quyền thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hành chính. Còn trong tố tụng dân sự,
việc giải quyết vụ án dân sự là giải quyết quyền và nghĩa vụ của các đương sự nên các đương sự có quyền lựa
chọn các phương thức giải quyết tranh chấp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Nguyên tắc này có những nội dung cơ bản sau đây:
+ Tòa án có trách nhiệm hòa giải để giúp các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết các vấn đề của vụ việc
dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định không hòa giải được hoặc không được hòa giải;
+ Việc hòa giải tiến hành theo quy định của pháp luật và trên cơ sở sự tự nguyện của đượng sự, không bên nào
được ép buộc bên nào, Tòa án cũng không được áp đặt ý chí của mình cho đương sự buộc họ phải thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự;
+ Hòa giải là một hoạt động bắt buộc của Tòa án được tiến hành trước khi xét xử sơ thẩm. Còn ở các giai đoạn
sau của quá trình tố tụng như tại phiên tòa sơ thẩm, giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án không
có trách nhiệm phải hòa giải. Tuy nhiên, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án dân
sự thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự;

+ Trường hợp đương sự thỏa thuận được việc giải quyết vụ án và sự thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội thì tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Quyết
định này có hiệu lực pháp luật ngay, nó không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thảm mà chỉ có thể bị
khàng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa
hoặc vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Câu 10: Phân tích nguyên tắc Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia (Đ11).
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 129 - HP1992, Điều 4 - LTCTAND, Điều 11 - BLTTDS. Việc Hội
thẩm nhân dân tham ghia vào hoạt động xét xử của Tòa án là thể hiện tính dân chủ trong hoạt động xét xử, đảm
bảo cho nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước, được tham gia kiểm tra, giám sát công tác xét xử. Khác
với thẩm phán, hội thẩm nhân dân không phải là cán bộ Tòa án, không đại diện cho cơ quan nhà nước mà họ là
người đại diện cho quần chúng nhân dân tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Họ nhìn nhận vụ việc,
đánh giá các tài liệu, chứng cứ theo cách của quần chúng nhân dân chứ không phải của một người xét xử chuyên
nghiệp. Do đó, sự tham gia của hội thẩm nhân dân làm cho các quyết định của Tòa án đúng pháp luật, đúng thực
tế khách quan, bảo đảm bản án, quyết định có lý, có tình đến mức thấu tình đạt lý. Ngoài ra, sự tham gia của hội
thẩm nhân dân còn phát huy tác dụng của phiên tòa, nâng cao ý thức pháp luật cho người dân.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này bao gồm:
+ Hội thẩm nhân dân chỉ tham gia xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự. Cụ thể Điều 52 - BLTTDS quy định thành
phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì hội
đồng xét xử gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân;
+ Khi tham gia xét xử, hội thẩm dân nhân ngang quyền với thẩm phán, tức là cùng với thẩm phán quyết định các
vấn đề của vụ án bao gồm các vấn đề về nội dung và thủ tục tố tụng dân sự.
Câu 11: Phân tích nguyên tắc Thẩm phán và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Đ12).
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 130 - HP1992, Điều 5- LTCTAND, Điều 12 - BLTTDS.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là:
+ Khi xét xử thẩm phán, hội thẩm nhân dân được tự mình quyết định việc giải quyết vụ án mà không phụ thuộc
vào ai, không bị chi phối bởi ý kiến của nhau và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của chính mình;
không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật và hoạt động xét xử của thẩm phán, hội
thẩm nhân dân. Tòa án cấp trên không được đưa ra đường lối xét xử cụ thể cho từng vụ án dân sự;
+ Thẩm phán và hội thẩm nhân dân phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án, tuyệt đối
không được tùy tiện trong việc giải quyết vụ án;

+ Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thẩm phán, hội thẩm nhân dân không thể
chỉ độc lập mà không dựa trên các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án hoặc ngược lại thẩm phán và hội
thẩm nhân dân không thể giải quyết vụ án trên cơ sở các quy định của pháp luật nhưng lại phụ thuộc vào ý kiến
của nhau, phụ thuộc vào ý kiến của tòa án cấp trên và dù trong trường hợp nào thì phán quyết của tòa án cũng bị
coi là vi phạm nguyên tắc độc xét xử và phải bị Tòa án cấp trên xử hủy.
Câu 12: Phân tích nguyên tắc Trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng (Đ13).
Đây là nguyên tắc chung, nguyên tắc này được quy định tại Điều 13 - BLTTDS. Nguyên tắc này xác định
rõ trách nhiệm của cơ quan và người tiến hành tố tụng dân sự trong việc tiến hành tố tụng dân sự, bảo đảm mọi
hoạt động tố tụng của họ được thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này bao gồm:
+ Cơ quan, người tiến hành tố tụng phải tôn trong nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân;
+ Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình; nếu người tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm
mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu người tiến hành tố tụng có hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thì trách nhiệm bồi thường được thực hiện theo quy định của Luật
trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009. Theo quy định của Luật này, nếu người tiến hành tố tụng có hành
vi trái pháp luật gây thiệt hại cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình tố tụng dân sự thì Tòa án, cơ quan
thi hành án phải bồi thường cho người bị hại và người tiến hành tố tụng có trách nhiệm hoàn trả lại cho Tòa án, cơ
quan thi hành án theo quy định của pháp luật;
+ Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật;
giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của đương sự theo
yêu cầu chính đáng của họ.
Câu 13: Phân tích nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số (Đ14).
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 131- HP1992, Điều 6 - LTCTAND, Điều 14 - BLTTDS. Việc xét
xử vụ án bằng một tập thể sẽ phát huy được trí tuệ tập thể, bảo đảm việc giải quyết vụ án được khách quan, đúng
pháp luật.
Nguyên tắc này có những nội dung cơ bản như sau:
+ Việc xét xử vụ án dân sự của Tòa án theo các thủ tục đều phải do một tập thể hội đồng xét xử tiến hành. Cụ thể,
Điều 52,53, 54 - BLTTDS quy định: Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai hội thẩm
nhân dân, Trong trường hợp đặc biệt thì hội đồng xét xử gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Hội đồng

xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm Tòa án chuyên trách TANNDTC gồm ba thẩm phán. Hội đồng giám đốc thẩm, tái
thẩm của Uỷ ban thẩm phán Tòa án cấp tỉnh và Hội đồng thẩm phán TANDTC có ít nhất hai phần ba tổng số
thành viên tham gia;
+ Việc giải quyết việc dân sự trong một số trường hợp cũng do một tập thể hội đồng xé xử tiến hành. Cụ thể,
những yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, thương mại và lao động, yêu cầu công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài quy định tại K5- Điều
56, K6- Điều 28, K2 và 3- Điều 30, Điều 32 - BLTTDS hoặc yêu cầu hủy quyết định của trọng tài thương mại do
tập thể gồm ba thẩm phán giải quyết;
+ Các quyết định của Hội đồng xét xử đều phải do các thành viên của Hội đồng xét xử thảo luận và quyết định
theo đa số.
Câu 14: Phân tích nguyên tắc Tòa án xét xử công khai (Đ15).
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 132 - HP1992, Điều 6 - LTCTAND, Điều 15 - BLTTDS. Đây là
một trong các nguyên tắc thể hiện tính dân chủ, khách quan trong tố tụng dân sự. Việc Tòa án xét xử công khai
các vụ việc dân sự tạo điều kiện cho nhân dân kiểm tra, giám sát được hoạt động xét xử của tòa án; đồng thời
buộc những người tiến hành tố tụng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc giải quyết vụ việc dân sự, đảm
bảo việc ra phán quyết của Tòa án có căn cứ và hợp pháp. Bên cạnh đó, việc xét xử công khai còn giúp Tòa án
thực hiện được nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử.
Nguyên tắc này có những nội dung cơ bản như sau:
+ Mọi phiên tòa, phiên họp xét xử vụ việc dân sự đều xét xử công khai. Ngoài những người tham gia tố tụng Tòa
án phải triệu tập đến tham gia phiên tòa, thì mọi công dân từ đủ 16 tuổi đều có quyền tham dự và theo dõi diễn
biến của phiên tòa;
+ Các đương sự, những người tham gia tố tụng phải có mặt tại phiên tòa, nếu vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải
hoãn phiên tòa. Nếu xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng thì lời khai của họ được công bố công khai tại phiên
tòa. Tại phiên tòa, các đương sự được trực tiếp trình bày các yêu cầu, tranh luận về chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý
bằng lời nói. Tất cả các chứng cứ, tài liệu được Tòa án sử dụng giải quyết vụ việc đều phải được đưa ra xem xét,
đánh giá công khai tại phiên tòa. Những chứng cứ, tài liệu nào nếu không được trực tiếp thẩm tra công khai tại
phiên tòa thì không được dùng làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án;
+ Trong những trường hợp đặc biệt, Tòa án được xét xử kín các vụ việc dân sự để gìn giữ bí mật của nhà nước,
giũ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh hoặc giữ gìn bí mật đời tư của
cá nhân theo yêu cầu chính đáng của họ. Đối với những vụ việc xét xử kín, tòa án vẫn phải thực hiện theo đúng

quy định của pháp luật và vẫn phảo tuyên án công khai.
Câu 15: Phân tích nguyên tắc Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố
tụng (Đ16).
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 134 - HP1992, Điều 10 - LTCTAND, Điều 16 - BLTTDS. Việc
thực hiện đúng nguyên tắc này đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ việc dân sự khách quan và đúng đắn.
Nội dung của nguyên tắc xác định chánh án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký tòa án, viện trưởng,
kiểm sát viên, người phiên dịch và người giám định phải vô tư khi tiến hành hoặc tham gia tố tung dân sự. Họ
phải là người đứng giữa, không thiên vị bên đương sự nào để tiến hành giải quyết vụ việc dân sự hoặc tham gia tố
tụng. Trong trường hợp có lý do xác đáng để cho rằng, họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình thì không được tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng dân sự. Trong những trường hợp này những
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải từ chối tiến hành, tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi. Nếu họ
không tự mình từ chối hoặc không bị thay đổi thì có thể bị coi là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và là
căn cứ để Tòa án cấp trên hủy bỏ bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới.
Câu 16: Phân tích nguyên tắc Thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Đ17).
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 135 - HP1992, Điều 11 - LTCTAND và Điều 17 - BLTTDS. Đây
là một nguyên tắc rất quan trọng nhằm đảm bảo cho đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của họ
trước tòa án, đồng thời bảo đảm các bản án, quyết định trước khi có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành là
những bản án, quyết định chính xác và đúng pháp luật. Ngoài ra, việc thực hiện nguyên tắc này còn giúp cho tòa
án cấp trên kịp thời phát hiện và sửa chữa những thiếu sót, sai lầm có thể có trong các bản án, quyết định của tòa
án cấp dưới, qua đó bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, góp phần
đảm bảo công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nội dung của nguyên tắc này bao gồm:
+ Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử: Sơ thẩm và phúc thẩm;
+ Đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền kháng cáo, Viện trưởng Viện kiểm
sát cùng cấp hoặc cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định chưa có hiệu
lực pháp luật của tòa án cấp sơ thẩm. Khi bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ việc phải
được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm khi xét xử lại vụ án thì chỉ có quyền xem xét lại
phần bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, khàng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng
cáo, kháng nghị;
+ Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc

thẩm trong thời hạn pháp luật quy định thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị;
+ Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới
thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
Như vậy, theo nguyên tắc hai cấp xét xử thì mọi bản án, quyết định sơ thẩm sau khi tuyên đều chưa có
hiệu lực pháp luật ngay mà còn một thời hạn để các đương sự kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị để yêu cầu
Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Câu 17: Phân tích nguyên tắc Giám đốc việc xét xử (Đ18).
Đây cũng là nguyên tắc chung, nguyên tắc này được quy định tại Điều 134 - HP1992 và Điều 18
-BLTTDS. Giám đốc xét xử là việc kiểm tra, đôn đốc, giám sát hoạt động xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa
án cấp dưới bao gồm nhiều hoạt động kiểm tra, phát hiện thiếu sót, sai lầm, giải quyết khiếu nại, tố cáo của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, kháng nghị bản án,
quyết định tho thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Việc thực hiện đúng nguyên tắc này không những
bảo đảm cho hoạt động xét xử được đúng đắn mà còn đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật nghiêm chỉnh và thống
nhất.
Nội dung của nguyên tắc này xác định Tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp dưới, Tòa án
nhân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án các cấp.
Câu 18: Phân tích nguyên tắc Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án (Đ19).
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 136 - HP 1992, Điều 12 - LTCTAND, Điều 19 - BLTTDS. Đây là
một trong các nguyên tắc thể hiện tính pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện đúng nguyên tắc này làm cho
bản án, quyết định của Tòa án được thi hành trên thực tế.
Nguyên tắc này có những nội dung sau đây:
+ Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan
trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án và phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành đó. Trong trường hợp người có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết
định của Tòa án mà không tự nguyện thi hành thì bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết buộc họ phải thực
hiện;
+ Tòa án nhân dân các các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án phải
nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó;
+ Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải tôn trọng
bản án, quyết định của Tòa án; không ai được can thiệp, cản trở, chống đối pháp luật vào quá trình thi hành án.

Đối với những người có hành vi cản trở, chống đối người thi hành án, cố tình không thi hành án thì tùy theo mức
độ vi phạm có thể bị phạt tiền, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại các Điều 296,
297, 298, 304. 305 và 306 - Bộ luật Hình sự.
Câu 19: Phân tích nguyên tắc tiếng nói, chữ viết dùng trong tố tụng dân sự (Đ20).
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 133 - HP1992, Điều 10 - LTCTAND, Điều 20 - BLTTDS. Đây là
một trong các nguyên tắc thể hiện tính dân chủ và bình đẳng giữa các dân tộc trong khối đại đoàn kết toàn dân.
Nguyên tắc này là một bảo đảm để đương sự thực hiện yêu cầu và nguyện vọng của mình cũng như trình bày lý
lẽ, chứng minh làm cơ sở cho các yêu cầu trước tòa án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Nội dụng của nguyên tắc này xác định tiếng nói, chữ viết dùng trong tố tụng dân sự là tiếng Việt, chữ Việt.
Tòa án không được dùng tiweengs nói, chữ viết khác để giải quyết vụ án; công dân thuộc các dân tộc có quyền
dùng tiếng nới, chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án, Tòa án không được buộc công dân thuộc dân tộc này
dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc khác. Trong trường hợp có người không sử dụng được tiếng Việt như đương
sự là người nước ngoài, người câm, người điếc, người dân tộc… thì Tòa án phải cử người phiên dịch.
Câu 20: Phân tích nguyên tắc Trách nhiệm chuyển giao giấy tờ, tài liệu của Tòa án (Đ22).
Một nguyên tắc chung của LTTDS, được quy định tại Điều 22 - BLTTDS. Việc thực hiện đúng nguyên tắc
sẽ bảo đảm các bản án, quyết định, tài liệu, giấy tờ của Tòa án được chuyển đến những người tham gia tố tụng và
các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan để họ có thể thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình,
qua đó bảo vên quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Nội dung của nguyên tắc này xác định Tòa án có trách nhiệm chuyển giao trực tiếp hoặc qua bưu điện bản
án, quyết định, giấy triệu tập, giấy mời và các giấy tờ khác của Tòa án cho những người tham gia tố tụng hoặc
những cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan. Tòa án chuyển giao trực tiếp không được hoặc chuyển giao qua bưu
điện không có kết quả thì Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cá nhân cư trú, nơi cơ quan, tổ chức có trụ sở
có trách nhiệm chuyển giao các tài liệu, giấy tờ cho người tham gia tố tụng theo yêu cầu của Tòa án và thông báo
cho Tòa án biết kết quả.
Người có nghĩa vụ thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo mà không làm đúng trách nhiệm của mình
thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG II: THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN
- Thẩm quyền của Tòa án là quyền của Tòa án trong việc xem xét, giải quyết các vụ việc và quyền hạn của
Tòa án trong việc ra các quyết định khi xem xét, giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng dân sự.

- Thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại việc còn gọi là thẩm quyền theo đối tượng hay thẩm quyền
chung của Tòa án.
Câu 21: Thẩm quyền dân sự của Tòa án đối với các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự?
Theo quy định tại Điều 25 - BLTTDS, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về dân sự sau đây:
- Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam;
- Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản;
- Tranh chấp về hợp đồng dân sự;
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ tranh chấp quy định tại K2, Đ29 - BLTTDS như
tranh chấp quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, tranh chấp quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với
giống cây trồng…;
- Tranh chấp về thừa kế tài sản như tranh chấp về quyền thừa kế, tranh chấp về thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại ;
- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
- Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của PL như tranh chấp về việc cải chính
những thông tin sai sự thật xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tổ chức, tranh chấp về đòi bồi thường
thiệt hại do nghững thông tin sai sự thật gây ra…;
-Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Do tính chất
đặc biệt về đất đai, Điều 136 - Luật Đất đai 2003 quy định tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các K1,2,5 Điều 50 của Luật này và
tranh chấp về tài sản gắn liền với đất đã được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hòa giải mà một hoặc các bên
đương sự không nhất trí thì do Tòa án nhân dân giải quyết. Theo quy định tại Điều 50 - Luật Đất đai 2003 các
giấy tờ bao gồm:
+ Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước 15.10.1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình
thực hiện chính sách đất đai của nhà nước ta;
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ
đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
+ Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình
nghĩa gắn liền với đất;
+ Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước 15.10.1993, nay được Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15.10.1993;

+ Giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở thewo quy định của pháp luật;
+ Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất;
+ Bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải
quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.
Theo quy định tại Điều 26 - BLTTDS, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu dân sự sau đây:
- Yêu cầu xác định hành vi năng lực dân sự của cá nhân bao gồm: Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành
vi dân sự; yêu cầu tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố
mmotj người mất năng lực hành vi dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự;
-Yêu cầu xác định một người vắng mặt tại nơi cư trú, bao gồm: Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại
nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó; yêu cầu tuyên bố một người mất tích, chết; yêu cầu hủy quyết định
tuyên bos một người mất tích, chết.;
-Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án,
quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết
định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành
tại Việt Nam
Câu 22: Thẩm quyền của Tòa án đối với các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật kinh doanh thương
mại?
Theo quy định tại Điều 29 – BLTTDS, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về kinh doanh,
thương mại sau:
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh và
đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: Mua bán hàng hóa, cung ứng phân phối, đại diện, đại lý, ký gửi, thuê, cho
thuê, thuê mua; xây dựng, tư vấn, kỹ thuật; vân chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường
thủy nội địa, vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu
và giấy tờ có giá khác, v.v…Cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh là cá nhân, tổ chức đã được các cơ quan có
thẩm quyền đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Mục đích
lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh doanh, thương mại là mong muốn thu được lợi nhuận không
phân biệt có thu được hay không. Hoạt động kinh doanh, thương mại là việc thực hiện một hặc nhiều hành vi
thương mại và không chỉ là hoạt động theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các hoạt động
khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh, thương mại đó;
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích

lợi nhuận. Đối với các tranh chấp này không nhất thiết đòi hỏi cá nhân, tổ chức phải có đăng ký kinh doanh mà
chỉ đòi hỏi cá nhân, tổ chức đều có mục đích lợi nhuận;
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến
việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. Đối
với các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty hoặc giữa các thành viên của công ty có tranh chấp
với nhau không liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp, nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ
chức của công ty (Ví dụ: tranh chấp về bảo hiểm xã hội, về trợ cấp cho người lao động, về hợp đồng lao động, về
hợp đồng vay, mượn tài sản…) thì không phải là tranh chấp về kinh doanh, thương mại;
Theo quy định tại Điều 30, Điều 340 – BLTTDS, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về kinh
doanh, thương mại sau:
- Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp
luật về trọng tài thương mại như chỉ định, thay đỏi trọng tài viên, áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp
tạm thời, hủy bỏ quyết định trọng tài…;
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước
ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài mà không có yêu
cầu thi hành tại Việt Nam;
- Yêu cầu công nhậ và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương mại của trọng tài nước ngoài.
Câu 23: Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về lao động của Tòa án nhân dân?
Theo quy định tại Điều 31 - BLTTDS, Điều 166 và Điều 170a - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLLĐ ban hành kèm theo Nghị quyết số 74/2006/QH11 ngày 29.11.2001 của Quốc hội khóa XI, Tòa án nhân dân
có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về lao động như sau:
- Tranh chấp lao động cá nhân mà Hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động hòa giải không
thành hoặc không giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định, trừ các tranh chấp lao động cá nhân sau không bắt
buộc phải qua hòa giải tại cơ sở, đó là: tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường
hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp
đồng lao động; tranh chấp giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động; tranh chấp về bảo hiểm xã
hội, tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa người lao động voeis doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
- Tranh chấp lao động tập thể về quyền sau khi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết mà hai bên vẫn
còn tranh chấp hoặc hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện

không giải quyết nên đuỷong sự đã yêu cầu Tòa án nhân dân giải quyết;
Theo quy định tại Điều 28 - BLTTDS, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về lao động như sau:
- Yêu cầu công nhận và chio thi hành bản án, quyết định lao động của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận
bản án, quyết định lao động của Tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam;
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định lao động của Trọng tài nước ngoài;
Ngoài các vụ việc nêu trên đã được quy định trong BLTTDS, Tòa án còn có thẩm quyền giải quyết những
vụ việc nếu pháp luật có quy định.
Câu 24: Thẩm quyền của Tòa án đối với các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình?
Theo quy định tại Điều 27 – BLTTDS, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về Hôn nhân và
gia đình sau:
- Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;
- Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
- Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;
- Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ;
- Tranh chấp về cấp dưỡng.
Theo quy định tại Điều 28 – BLTTDS, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về hôn nhân và gia
đình sau:
- Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật;
- Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;
- Yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;
- Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn;
- Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi;
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước
ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài mà không có yêu
cầu thi hành tại Việt Nam.
Câu 25: Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của Tòa án
nhân dân?
Trường hợp đương sự có sổ đỏ hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50
LĐĐ và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì vụ việc do Tòa án nhân dân giải quyết. Các giấy tờ về đất đai
được quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai 2003 bao gồm: những giấy tờ về quyền được sử dụng đất

đai trước ngày 15-10-1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ công hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước
CHXHCN Việt Nam; giấy chứng nhận QSDĐ tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên
trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính; giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho QSDĐ hoặc tài sản gắn liền với
đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất; giấy tờ chuyển nhượng QSDĐ, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở
trước ngày 15.10.1993, nay được UBND cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15.10.1993; giấy tờ về thanh
lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật; giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ
cũ cấp cho người sử dụng đất; giấy tờ về việc chuyển QSDĐ có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước
ngày LĐĐ có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển QSDĐ theo quy định của pháp luật, nay được
UBND cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp; bản án hoặc quyết định của TAND, quyết định thi hành án của
cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi
hành.
Câu 26: Phân biệt thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của
Ủy ban nhân dân với Tòa án nhân dân?
a) Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của Ủy ban nhân dân
(Thủ tục hành chính).
Theo Điều 136 LĐĐ, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính gồm có
chủ tịch UBND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (UBND cấp huyện), chủ tịch UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (UBND cấp tỉnh) và Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN-MT). Cụ thể, các cơ
quan trên có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất (QSDĐ) mà đương sự không có giấy
chứng nhận QSDĐ (sổ đỏ) hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50
LĐĐ.
b) Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của Tòa án nhân dân
(Thủ tục tố tụng).
Trường hợp đương sự có sổ đỏ hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50
LĐĐ và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì vụ việc do Tòa án nhân dân giải quyết. Các giấy tờ về đất đai
được quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 LĐĐ bao gồm: những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước
ngày 15-10-1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt
Nam DCCH, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam;
giấy chứng nhận QSDĐ tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng

đất, sổ địa chính; giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho QSDĐ hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình
nghĩa gắn liền với đất; giấy tờ chuyển nhượng QSDĐ, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15-10-1993,
nay được UBND cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15-10-1993; giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở gắn
liền với đất ở theo quy định của pháp luật; giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử
dụng đất; giấy tờ về việc chuyển QSDĐ có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày LĐĐ có hiệu
lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển QSDĐ theo quy định của pháp luật, nay được UBND cấp xã xác nhận
là đất không có tranh chấp; bản án hoặc quyết định của TAND, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án,
quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.
Câu 27: Phân biệt thẩm quyền giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại của Tòa án nhân dân với
trọng tài thương mại?
a) Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại của Tòa án nhân dân.
Theo quy định tại Điều 29 – BLTTDS, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về kinh doanh,
thương mại sau:
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh và
đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: Mua bán hàng hóa, cung ứng phân phối, đại diện, đại lý, ký gửi, thuê, cho
thuê, thuê mua; xây dựng, tư vấn, kỹ thuật; vân chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường
thủy nội địa, vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu
và giấy tờ có giá khác, v.v…Cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh là cá nhân, tổ chức đã được các cơ quan có
thẩm quyền đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Mục đích
lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh doanh, thương mại là mong muốn thu được lợi nhuận không
phân biệt có thu được hay không. Hoạt động kinh doanh, thương mại là việc thực hiện một hặc nhiều hành vi
thương mại và không chỉ là hoạt động theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các hoạt động
khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh, thương mại đó;
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích
lợi nhuận. Đối với các tranh chấp này không nhất thiết đòi hỏi cá nhân, tổ chức phải có đăng ký kinh doanh mà
chỉ đòi hỏi cá nhân, tổ chức đều có mục đích lợi nhuận;
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến
việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. Đối
với các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty hoặc giữa các thành viên của công ty có tranh chấp
với nhau không liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp, nhập, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ

chức của công ty (Ví dụ: tranh chấp về bảo hiểm xã hội, về trợ cấp cho người lao động, về hợp đồng lao động, về
hợp đồng vay, mượn tài sản…) thì không phải là tranh chấp về kinh doanh, thương mại;
Theo quy định tại Điều 30, Điều 340 – BLTTDS, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về kinh
doanh, thương mại sau:
- Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp
luật về trọng tài thương mại như chỉ định, thay đỏi trọng tài viên, áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp
tạm thời, hủy bỏ quyết định trọng tài…;
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước
ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài mà không có yêu
cầu thi hành tại Việt Nam;
- Yêu cầu công nhậ và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương mại của trọng tài nước ngoài.
b) Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại của Trọng tài thương mại.
Thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đơn giản hơn so với tòa án và trọng tài được giải quyết không công
khai, quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm. Ngoài ra, trong trọng tài các bên được tự do chỉ định trọng tài
viên của riêng mình và tự do thỏa thuận về các trình tự, thủ tục giải quyết vụ tranh chấp như ngôn ngữ trọng tài,
địa điểm trọng tài, luật áp dụng v.v
Câu 29: Việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa Tòa án các cấp?
- Thẩm quyền dân sự của Tòa án các cấp là thẩm quyền của từng cấp TA trong việc giải quyết các vụ việc theo thủ
tục tố tụng dân sự.
Việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa TA các cấp ở VN là theo chiều dọc giữa TA cấp trên (cấp
tỉnh) với TA cấp dưới (cấp huyện)nhằm bảo đảm hiệu quả của việc giải quyết các vụ án dân sự. Tuy vậy, trên thế
giưois không phải pháp luật tất cả các nước đều quy định về thẩm quyền dân sự của Tòa án các cấp. Ở những
nước tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử không có Tòa án cấp trên và Tòa án cấp dưới thì pháp luật không
quy định về thẩm quyền dân sự của Tòa án các cấp. Ở những nước tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp hành chính
như ở Vn thì pháp luật quy định thâm quyền dân sự của Tòa án các cấp. Thẩm quyền dân sự của TA các cấp được
phân định trên cơ sở tổ chức bộ máy nhà nước và TA là chủ yếu nên đương sự cũng không có quyền lựa chọn và
cũng không thay đổi. Nếu đã thụ lý vụ án dân sự đúng thẩm quyền thì Tòa án cũng sẽ giải quyết vụ án cho đến khi
kết thúc mặc dù điều kiện giải quyết vụ án có thay đổi, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Câu 30: Phân biệt thẩm quyền dân sự của tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh?
Theo quy định tại Đ33 – BLTTDS, Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm

những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án, trừ những vụ việc sau:
- Tranh chấp kinh doanh, thương mại về vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm, thăm dò, khai thác;
tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau đều có mục đích lợi
nhuận; tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan
đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty;
- Tranh chấp về lao động tập thể về lao động tập thể, về lợi ích giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động;
- Vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động có đương sự hoặc tài sản ở nước
ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của VN ở nước ngoài hoặc cho Tòa án nước ngoài;
- Yêu cầu về kinh doanh, thương mại phát sinh từ hoạt động của trọng tài thương mại;
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại VN bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài;
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại VN quyết định của Trọng tài nước ngoài.
Theo quy định tại Đ 34 – BLTTDS, Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết những vụ việc sau:
- Những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhưng không thuộc thẩm quyền của tòa án cấp huyện nêu
trên;
- Những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện mà tòa án cấp tỉnh lấy lên để giải
quyết;
Theo hướng dẫn tại Mục 4 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ – HĐTP ngày 31/03/2005 của HĐTP thì:
- Đương sự ở nước ngoài bao gồm: cá nhân không phân biệt là người nước ngoài hay người VN mà không có mặt
tại VN vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự đương sự là người VN định cư, làm ăn, học tập, công tác ở
nước ngoài hoặc người nước ngoài không ở VN có mặt tại VN để nộp đơn khởi kiện vụ án dân sự hoặc đơn yêu
cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án; cơ quan, tổ chức nước ngoài và cơ quan, tổ chức của VN không có trụ sở,
chi nhánh, văn phòng đại diện tại VN vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;
- Tài sản ở nước ngoài là tài sản được xác định theo quy định của Bộ luật Dân sự ở ngoài biên giới lãnh thổ của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Vn tại thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;
- Cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Vn ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài là trường hợp trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự cần phải tiến hành một hoặc một số hoạt động tố tụng dân sự ở nước ngoài mà
Tòa án VN không thể thực hiện được, cần phải yêu cầu cơ quan Lãnh sự của VN ở nước ngoài thực hiện hoặc đề
nghị Tòa án nước ngoài thực hiện theo quy định của Điều ước quốc tế mà VN đã ký kết hoặc gia nhạp hoặc theo
nguyên tắc có đi có lại;

Ngoài ra, đối với yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền
và nghĩa vụ của vợ, chồng, cha, mẹ và con; về nhậ cha, mẹ, con, nươi con nuôi và giám hộ giữa công dân VN cư
trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giêngf cùng cư trú ở khu vực biên giới VN, thì theo quy định
tại K3, Đ102 của Luật HN&GĐ là thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh nơi cư trú của công dân VN.
Câu 31: Các trường hợp vụ án có một bên đương sự đang ở nước ngoài nhưng tòa án cấp huyện vẫn có
thẩm quyền giải quyết (NQ01/2005 ngày 31/3/2005, I mục 4.1a và 4.4a)?
Câu 32: Cơ sở phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ và quy định của pháp luật về vấn đề này?
Thẩm quyền dân sự của Tòa án theo lãnh thổ là thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc
theo phạm vi lãnh thổ.
Về bản chất, thẩm quyền dân sự của Tòa án theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền theo chiều ngang
giữa các Tòa án cùng cấp với nhau theo phạm vi lãnh thổ; Thẩm quyền theo lãnh thổ phân định tren cơ sở bảo
đảm quyền bảo vệ của đương sự là chủ yếu nên trong một số trường hợp đương sự có quyền lựa chọn Tòa án.
Thẩm quyền dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được quy định tại Đ35&36 – BLTTDS. Các quy định này
xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ theo nguyên tắc Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án
có điều kiện giải quyết vụ việc tốt nhất và bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự.
Theo hướng dẫn tại Mục 5 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của
HĐTPTANDTC, khi xem xét yêu cầu lựa chọn Tòa án giải quyết vụ việc dân sự thì ngoài việc phải thực hiện
đúng quy định tại Đ33, 34 của BLTTDS về thẩm quyền của các cấpTòa án, cần phân biệt như sau:
- Đối với trường hợp mà Đ36 của BLTTDS quy định yêu cầu lựa chọn Tòa án giải quyết vụ việc dân sự
phải có điều kiện thì Tòa án chỉ chấp nhận yêu cầu khi điều kiện đó xảy ra;
- Đối với trường hợp mà Đ36 của BLTTDS quy định yêu cầu lựa chọn Tòa án giải quyết vụ việc dân sự
không cần bất cứ điều kiện nào thì Tòa án chấp nhận yêu cầu đó;
- Trong trường hợp nguyên đơn, người yêu cầu được quyền lựa chọn nhiều Tòa án có thẩm quyền giải
quyết vụ việc dân sự thì khi nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, Tòa án phải giải thích cho họ biết là chỉ có 1 Tòa án
trong các Tòa án được pháp luật quy định mới có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự để họ lựa chọn. Tòa án do
họ lựa chọn yêu cầu người khởi kiện, người yêu cầu phải cam kết trong đơn khởi kiện không khởi kiện hoặc trong
đơn yêu cầu không yêu cầu tại các Tòa án khác. Trong trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu nộp đơn khởi
kiện, nộp đơn yêu cầu tại nhiều Tòa án khác nhau được pháp luật quy định đều có thẩm quyền giải quyết thì Tòa
án đã thụ lý đầu tiên theo thời gian có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự.

Câu 33: Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ và các trường hợp đương sự được lựa chọn Tòa án?
- Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ được quy định tại Đ 35&36 – BLTTDS….
- Các trường hợp đương sự được lựa chọn Tòa án được quy định tại Mục 5, Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-
HĐTP ngày 31/3/2005 của HĐTPTANDTC…
CHƯƠNG III: CHỦ THỂ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Câu 34: Khái niện cơ quan tiến hành tố tụng dân sự và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố
tụng dân sự?
- Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự là cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước trong việc giải quyết vụ việc dân sự,
thi hành án dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.
Thành phần các cơ qua tiến hành tố tụng gồm có: Tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự, tổ
chức Thừa phát lại. Cấc chủ thể này tham gia vào quá trình tố tụng dân sự với mục đích nhiệm vụ quyền hạn khác
nhau.
a) Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trong việc giải quyết vụ việc dân sự
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự thông qua việc ra bản án, quyết định. Theo pháp luật hiện
hành thì hệ thống Tòa án củ a VN đư ợc tổ chứ c theo đơn v ị hành chính lãnh thổ , bao gồm 3 cấp là Tòa án nhân
dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện (Đ2 – LTCTA).
+ Tòa án nhân dân tối cao gồm có: HĐTP, Tòa án quân sự Trung ương, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa
lao động, Tòa hành chính, các tòa phúc thẩm và bộ máy giúp việc (Đ18 – LTCTA). Trong đó HĐTPTANDTC,
Tòa dân sự , Tòa kinh tế, Tòa lao động có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định về vụ việc
dân sự, các Tòa phúc thẩm thuộc TANDTC có thẩm quyền phúc thẩm các vụ việc dân sự đã được Tòa án nhân
dân cấp tỉnh sơ thẩm.
+ Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm có: Ủy ban thẩm phán, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa
hành chính và bộ máy giúp việc (Đ27 – LTCTA). Trong đó, Ủy ban thẩm phán nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền
giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện về vụ
việc dân sự. Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động thuộc Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm một số vụ việc
dân sự và có thẩm quyrnf phúc thẩm cac vụ việc dân sự đã được Tòa án cấp huyện sơ thẩm.
+ Tòa án cấp huyện không được tổ chức thành các tòa chuyên trách như Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân
dân tối cao mà có Chánh án, các phó chánh án, các thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký và bộ máy giúp việc
(Đ32 – LTCTA). Do vậy, về nguyên tắc thì thẩm phán của Tòa án cấp huyện có thẩm quyền sơ thẩm hầu hết các
vụ việc dân sự, kinh tế, lao động thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án. Tuy nhiên, trên thực tế tùy theo sự phân

công của Chánh án thì mỗi thẩm phán có thể chuyên trách về từng lĩnh vực nhất định.
Nhiệm vụ, quyền hạn của TAND: Giải quyết các vụ việc dân sự bao gồm: Vụ án dân sự + việc dân sự.
b) Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện quyền lực nhà nước trong việc kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong các hoạt động tố tụng dân sự. Tuy cũng chỉ là chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước nhưng
Viện kiểm sát không có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các vụ việc dân sự hay tổ chức thi hành án dân sự mà chỉ
kiểm tra việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.
c) Cơ quan thi hành án dân sự, tổ chức Thừa phát lại là chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện quyền lực nhà nước
trong việc thi hành các bản án, quyết định về dân sự nhằm khôi phục hoặc bảo vệ trên thực tế quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự.Khi tổ chức thi hành án dân sự Cơ quan thi hành án, tổ chức thừa phát lại phải thực hiện đúng
nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ ,
quyền hạn của mình. Theo pháp luật hiện hành thì ở VN cơ quan thi hành án dân sự được tổ chức theo đơn vị
hành chính lãnh thổ bao gồm: cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện và cấp quân khu (Đ13 – LTHADS).
Cơ quan thi hành án cấp tỉnh là Cục thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực thuộc tổng cục
thi hànhg ánn dân sự; cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện là chi cục thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh trực thuộc Cục thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Đ2 NĐ số
74/2009/NĐ- CP ngày 9/9/2009). Theo xu hướng xã hội hóa thi hành án dân sự hiện nay thì bên cạnh cơ quan thi
hành án dân sự của nhà nước, việc thi hành án dân sự cũng đuwocj trao cho văn phòng Thừa phát lại thực hiện.
Văn phòng Thừa phát lại là tổ chức hành nghề của thừa phát lạicos thẩm quyền xác minh điều kiện thi hành án,
trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án theo yêu cầu của đương sự (Đ3, Đ15 Nghị
định số 62/2009/NĐ- CP ngày 9/9/2009)
Chú ý: Tổ chức Thừa phát lại do tổ chức tư thực hiện (Giống công chứng tư).
Câu 35: Sự tham gia tố tụng của VKSND trong tố tụng dân sự?
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện quyền lực nhà nước trong việc kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong các hoạt động tố tụng dân sự.
- Trong tố tụng dân sự Viện trưởng Viện kiểm sát là người tổ chức kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự. Ngoài ra với tư cách là kiểm sát viên thì Viện trưởng Viện
kiểm sát cũng có thể trực tiếp tiến hành kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trogn quá trình giải quyết các vụ việc dân
sự và thi hành án dân sự.
- Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng thuộc biên chế của Viện kiểm sát được bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (Đ1 – PLKSVKSND). Trong

tố tụng dân sự kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết
các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát.
Câu 36: Người tiến hành tố tụng dân sự và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng dân sự?
a) Khái niệm: Người tiến hành tố tụng dân sự là người nhân danh nhà nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong
việc giải quyết các vụ việc dân sự, thi hành án dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố
tụng dân sự.
Thành phần người tiến hành tố tụng dân sự bao gồm: Chánh án Tòa án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư
ký tòa án, Viện trưởng viện kiểm sát, kiểm sát viên, thủ trưởng cơ quan thi hành án, chấp hành viên và thừa phát
lại.
- Chánh án Tòa án là người lãnh đạo Tòa án có quyền điều hành các công việc hành chính và tổ chức việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án. Trong tố tụng dân sự, chánh án có nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức việc giải
quyết các vụ việc dân sự, tiến hành các hoạt động tố tụng dân sự được pháp luật quy định. Ngoài ra, với tư cách là
thẩm phán thì chánh án tòa án cũng có thể trực tiếp tiến hành giải quyết các vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của
Tòa án (Đ 40 – LTCTAND);
- Thẩm phán là người tiến hành tố tụng có tính chất chuyên nghiệp thuộc biên chế của Tòa án được bổ nhiệm theo
quy định của PL để làm nhiệm vụ xét xử các vụ án và giải quyết các việc thuộc thẩm quyền của Tòa án (Đ1-
PLTP&HTTAND). Trong tố tụng dân sự thẩm phán là người có quyền trực tiếp tham gia vào tất cả các giai đoạn
của quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
- Hội thẩm nhân dân là người tiến hành tố tụng được bầu theo quy định của PL để làm nhiệm vụ xét xử các vụ án
và giải quyết các việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án (Đ1 – PLTP&HTTAND). Khác với thẩm phán, hội thẩm
nhân dân không phải là người làm công tác xét xử chuyên nghiệp, không thuộc biên chế của Tòa án và chỉ tham
gia tố tụng khi được Tòa án mời tham gia phiên tòa, phiên họp sơ thẩm vụ việc dân sự. Tu nhiên, khi tham gia giải
quyết các vụ việc, hội thẩm nhân dân ngang quyền và độc lập với thẩm phán.
- Thư ký Tòa án là người tiến hành tố tụng thuộc biên chế của Tòa án thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc
ghi các biên bản tố tụng và thực hiện những công việc khác theo sự phân công của chánh án Tòa án và thẩm phán.
- Viện trưởng viện kiểm sát là người có quyền điều hành các công việc hành chính của Viện kiểm sát và tổ chức
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát. Trong tố tụng dân sự Viện trưởng viện kiểm sát là người tổ
chức kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự. Ngoài ra với tư
cách là kiểm sát viên thì Viện trưởng viện kiểm sát cũng có thể trực tiếp tiến hành kiểm sát việc tuân thủ pháp luật
trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án.

- Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng thuộc biên chế thuộc Viện kiểm sát được bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật đẻ làm nhiệm vụ thực hiện quyền công tos và kiểm sát hoạt động tư pháp (Đ1 – PLKSVKSND). Trong
tố tụng dân sự, kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải
quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự theo sự phân công của Viện trưởng viện kiểm sát.
- Người thi hành án dân sự trực tiếp là chấp hành viên.
b) Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng dân sự:
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của TAND: Giải quyết các vụ việc dân sự bao gồm: Vụ án dân sự + việc dân sự.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan thi hành án: Tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND: Kiểm sát việc tuân thủ theo pháp luật của Tòa án, cơ quan thi hành án và
những người tham gia tố tụng dân sự.
Câu 37: Phân tích các quy định về thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân, người giám định, người phiên
dịch?
Trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự thì sự vô tư của thẩm phán, hội thẩm nhân dân, người giám định,
người phiên dịch (gọi tắt là những người tiến hành tố tụng) là bảo đảm cần thiết trong việc bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự. Do vậy, pháp luật đã quy định người tiến hành tố tụng dân sự phải từ chối tiến hành tố
tụng hoặc bị thay đổi nếu có căn cứ cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Xét về thực tế thì sự
không vô tư của người tiến hành tố tụng có thể ở hai dạng cơ bản là do sự ảnh hưởng của yếu tố tình cảm, lợi ích
hoặc do có định kiến trước về sự vật, hiện tượng nên dẫn tới sự không vô tư.
- Các căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng do có ảnh hưởng của yếu tố tình cảm, lợi ích vật chất bao gồm:
+ Người tiến hành tố tụng dân sự đồng thời là đượng sự, người đại diện, người thân thích của đương sự;
+ Người tiến hành tố tụng dân sự cùng trong một hội đồng xét xử và là người thân thích của nhau;
+ Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
- Các căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng do có định kiến trước về việc giải quyết vụ việc dân sự bao gồm:
+ Đã tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch trong cùng một vụ án đó;
+ Đã là người tiến hành tố tụng trong vụ án với tư cách là thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, thư ký tòa
án, trừ trường hợp là thành viên Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban thẩm phán tòa án nhân dân
cấp tỉnh thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;
Các căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng dân sự hiện nay được quuy định tại các điều từĐ46 đến Đ49 –
BLTTDS. Quy định về việc thay đổi người tiến hành tố tụng tại K3, Đ46 - BLTTDS theo hướng khi “Có căn cứ rõ

ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ” là một quy định mở nhằm bảo đảm sự vô tư của
những người tiến hành tố tụng dân sự. Thẩm quyền và thủ tục thay đổi người tiến hành tố tụng dân sự được quy
định tại Đ50,52 – BLTTDS.
Câu 38: Phân tích khái niệm nguyên đơn, bị đơn? Cho ví dụ?
a)Phân tích khái niệm nguyên đơn:
Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người được giả thiết có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm nên đã
khởi kiện hoặc được tổ chức, cá nhân khác khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt thì nguyên đơn có thể là cơ quan, tổ chức đã khởi kiện theo quy định của
pháp luật để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
Ví dụ 1: Đứa bé 3 tuổi được hưởng thừa kế của ông nội nhưng ông chú ruột chiếm đoạt. Cha, mẹ đứa trẻ đó đứng
đại diện kiện
Ví dụ 2: Bộ Tài nguyên và môi trường khởi kiện Doanh nghiệp sản xuất bột ngọt Vedan gây ô nhiễm môi
trường…
Hỏi: Có trường hợp nào chủ thể không có quyền lợi liên quan nhưng vẫn đứng đơn khởi kiện?
Trả lời: Có (K2, Đ56 – BLTTDS): VD2;
Hỏi: Dựa vào cơ sở nào để xác định chủ thể là nguyên đơn?
Trả lời: Dựa vào luật nội dung. Ví dụ: Bán nhà nhưng không trả tiền – Dựa vào hợp đồng để kiện; Tai nạn
giao thông – người đại diện (cha, mẹ, vợ, chồng, con) đứng đơn kiện nếu nạn nhân chết…
b)Phân tích khái niệm bị đơn:
Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị buộc phải tham gia tố tụng dân sự do nguyên đơn hoặc bị tổ chức, cá
nhân khác khởi kiện theo quy định của pháp luật vì cho rằng họ đã xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn, xâm phạm lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước hoặc có tranh chấp với nguyên đơn.
Chủ thể của bị đơn là tất cả các loại chủ thể trong quan hệ pháp luật nội dung gồm cá nhân, pháp nhân,
doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình, hợp tác xã.
Ví dụ: A lái xe gây tai nạn cho B. Bên có trách nhiệm bồi thường là hãng taxi, sau đó hãng taxi xem xét lỗi
của A để quy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Câu 39: Phân biệt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan không có yêu cầu độc lập?
a) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thường chống cả nguyên đơn và bị đơn. Ví dụ: A
khởi kiện B trong vụ ly hôn: chia Tài sản- nhà xây trên đất của bố, mẹ vợ nhưng không sang tên. Tòa án giải

quyết chia nhà cho hai vợ, chồng AB còn đất trả lại bố, mẹ vợ.
b) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập thường đứng về phía nguyên đơn hoặc bị
đơn. Ví dụ: A lái xe ô tô gây tai nạn cho B thì lái xe A là người liên quan không có yêu cầu độc lập.
Hỏi: Người chưa đủ 18 tuổi có được khởi kiện với tư cách độc lập không?
Trả lời: Có, khởi kiện trong hợp đồng lao động. căn cứ tại K3, Đ57 – BLTTDS
Câu 40: Năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự?
Đây là hai yếu tố cấu thành năng lực chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Theo đó, năng lực chủ
thể được thể hiện ở khả năng được pháp luật ghi nhận các quyền, nghĩa vụ tố tụng và khả năng tự mình thực hiện
các quyền và nghĩa vụ đó.
a) Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của đương sự là khả năng pháp luật quy định cho đương sự có các
quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự được coi là điều kiện tiền đề để một cá nhân,
tổ chức trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và Năng lực
pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động là hai phạm trù pháp lý có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Trong đó, năng lực pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
là cơ sở, cốt lõi của năng lực pháp luật tố tụng dân sự. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cá nhân xuất hiện
khi cá nhân sinh ra và mất đi khi cá nhân chết, còn năng lực pháp luật tố tụng dân sự của tổ chức xuất hiện khi tổ
chức được thành lập và mất đi khi chấm dứt hoạt động.
b) Năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự là khả năng của đuỷong sự bằng hành vi của mình thực
hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện khi cần thiết. Do những yêu
cầu về kinh nghiệm tranh tụng và bảo vệ quyền lợi trước tòa án nên về nguyên tắc một cá nhân chỉ được coi là có
năng lực hành vi tố tụng dân sự khi đã từ đủ 18 tuổi trở lên và không bị mất năng lực hành ci dân sự. Tuy nhiên,
pháp luật tố tụng dân sự cũng quy định những trường hợp ngoại lệ về việc tự mình tham gia tố tụng của cá nhân
chưa đủ 18 tuổi. Cụ thể là đương sự là người vợ từ đủ 17 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi trong việc ly hôn, người từ đủ
15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản của
mình…vẫn được tự mình tham gia tố tụng dân sự mà không cần có người đại diện (Đ57 – BLTTDS).
Câu 41: Phân biệt quyền phản đối yêu cầu và quyền phản tố yêu cầu của bị đơn? Ví dụ?
1. căn cứ vào điều Khoản 2 Điều 176 Bộ luật TTDS và khoản 11 mục I nghị quyết02/2006/NQ-HĐTP về thủ tục
giải quyết vụ án cấp sơ thẩm thì yêu cầu của bên A chỉ là ý kiến phản đối đối với yêu cầu của B, không được coi
là yêu cầu phản tố.
2. Đối với yêu cầu phản tố, nếu bị đơn không nộp tiền tạm ứng án phí thì căn cứ vào điều 178 Bộ luật TTDS, coi

như bị đơn từ bỏ yêu cầu phản tố và tòa án trả lại đơn yêu cầu phản tố của bị đơn và không thụ lí giải quyết.
Ðiều 60. Quyền, nghĩa vụ của bị đơn
1. Bị đơn có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
c) Ðưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ
với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu;
Điều 176. Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn
1. Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, bị đơn có
quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn.
2. Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn được chấp nhận khi có một trong các trường hợp sau đây:
a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn;
b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên
đơn;
c) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng
một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
Điều 176 trên đây còn được hướng dẫn thêm tại Nghị quyết 02/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân
dân tối cao như sau:
11. Về Điều 176 của BLTTDS
11.1. Được coi là yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, nếu yêu cầu đó độc lập, không cùng về yêu cầu
mà nguyên đơn yêu cầu Toà án giải quyết. Trường hợp bị đơn có yêu cầu cùng về yêu cầu của nguyên đơn (như
yêu cầu Toà án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn hoặc chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn),
thì đây là ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn.
Ví dụ 1: Nguyên đơn A có đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn B phải trả lại tiền thuê nhà còn nợ của năm 2005 là 05
triệu đồng. Bị đơn B có yêu cầu đòi nguyên đơn A phải thanh toán cho mình tiền sửa chữa nhà bị hư hỏng và tiền
thuế sử dụng đất mà bị đơn đã nộp thay cho nguyên đơn là 03 triệu đồng. Trường hợp này yêu cầu của bị đơn B
được coi là yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn đơn A.
Ví dụ 2: Nguyên đơn C có đơn khởi kiện yêu cầu Toà án công nhận quyền sở hữu đối với một xe ô tô và buộc bị
đơn D trả lại cho mình xe ôtô đó. Bị đơn D có yêu cầu Toà án không công nhận xe ôtô này thuộc sở hữu của C
hoặc công nhận xe ôtô này thuộc sở hữu chung của C và D. Trường hợp này yêu cầu của bị đơn D không được coi
là yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn C.
11.2. Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn là trường hợp bị đơn có nghĩa vụ đối với

nguyên đơn và nguyên đơn cũng có nghĩa vụ đối với bị đơn; do đó, bị đơn có yêu cầu Toà án giải quyết để bù trừ
nghĩa vụ mà họ phải thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn.
Ví dụ: Xem ví dụ 1 tiểu mục 11.1 mục 11 này.
11.3. Yêu cầu phản tố của bị đơn dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn
là trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố lại đối với nguyên đơn và nếu yêu cầu đó được chấp nhận, thì loại trừ
việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn vì không có căn cứ.
Ví dụ: A có chiếc xe ôtô thuộc sở hữu riêng đã bán cho C, nhưng nói với con (B) là cho C thuê mỗi tháng 05 triệu
đồng. Sau đó A chết, B khởi kiện yêu cầu C phải thanh toán tiền thuê xe trong một năm qua là 60 triệu đồng. C có
yêu cầu phản tố yêu cầu Toà án công nhận quyền sở hữu xe ôtô và có tranh chấp. Nếu Toà án chấp nhận yêu cầu
phản tố của C thì dẫn đến không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của B đòi C thanh toán tiền thuê xe ôtô.
11.4. Có sự liên quan giữa yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu của nguyên đơn là trường hợp hai yêu cầu này
có mối quan hệ với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án, thì làm cho việc giải quyết vụ án được
chính xác và nhanh chóng hơn.
Ví dụ: Chị M khởi kiện yêu cầu anh N phải trợ cấp nuôi con (P) một tháng 300 ngàn đồng. Anh N có yêu cầu
phản tố yêu cầu Toà án xác định (P) không phải là con của anh.
Sau đó, Điều 176 trên lại được bổ sung thêm một số nội dung khác tại Luật sửa đổi, bổ sung năm 2011 như sau:
“Điều 176. Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn
1. Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, bị đơn có
quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
2. Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập;
b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
c) Giữ yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có
sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính
xác và nhanh hơn.
3. Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.”


Câu 42: Phân biệt người đại diện do đương sự ủy quyền và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự?
a) người đại diện do đương sự ủy quyền còn gọi là người đại diện theo ủy quyền là người thay mặt đương sự
tham gia tố tụng do được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền tham gia tố tụng.
Khác với người đại diện theo pháp luật và người đại diện do Tòa án chỉ định, người đại diện theo ủy quyền không
tham gia tố tụng trên cơ sở họ là người được pháp luật ấn định trước hoặc theo quyết định của Tòa án mà việc
tham gia tố tụng của họ lại dựa trên cơ sở sự tự định đoạt của đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của họ.
b) người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng do được đương sự nhờ bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ và được tòa án chấp nhận khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Cơ sở
pháp lý để người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng là có yêu cầu của đương sự nhờ
bảo vệ quyền lợi cho họ và được sự chấp thuận của Tòa án kho có đủ điều kiện luật định. Người bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự không thay mặt đương sự trước Tòa án để thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của
họ mà chỉ tham gia để trợ giúp đương sự về mặt pháp lý. Đây là điểm khác biệt với người đại diện của đương sự
để tham gia tố tụng dân sự cho nên nếu đương sự đã có người đại diện thay mặt trước Tòa án thì đượng sự không
nhất thiết phải có mặt để tham gia tranh tụng.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự có thể tham gia trong tất cả các vụ việc dân sự thuộc
thẩm quyền của Tòa án. Tuy nhiên, để người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự có thể thực hiện tốt
việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, pháp luật cũng quy định về phạm vi những người được bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Theo đó, những người được Tòa án chấp nhận làm người bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự bao gồm Luật sư, công dân VN có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, chưa bị kết án
hoặc bị kết án nhưng đã được xóa án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục và quản chế hành chính; không phải là cán bộ, công chức trong ngành
Tòa án, viện kiểm sát, công an.
Câu 43: Phân biệt các loại đại diện trong tố tụng dân sự?
Đương sự trong tố tụng dân sự gồm 7 loại gồm:
- 4 loại trong vụ án dân sự gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi liên quan độc lập và người có quyền, lợi
liên quan không độc lập;
- 3 loại trong việc dân sự gồm: Người yêu cầu, người bị yêu cầu và người liên quan.
Câu 44: Phân biệt người đại diện theo pháp luật – người đại diện do Tòa án chỉ định và người đại diện theo
ủy quyền?

a) Người đại diện theo pháp luật là người đương nhiên được thay mặt đương sự tham gia tố tụng do được pháp
luật quy định dựa trên tiêu chí họ là người đại diện của đương sự trong quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại , lao động được Tòa án giải quyết.
Người đại diện theo pháp luật của đương sự có thể là cha, mẹ, người giám hộ của đương sự là cá nhân
không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Ngoài ra, người đại diện theo pháp luật của đương sự có thể là người
được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. người đứng đầu pháp nhân, chủ hộ gia
đình, tổ trưởng hợp tác xã.
Người đại diện theo pháp luật của đương sự có thể tham gia trong tất cả các vụ việc dân sự thuộc thẩm
quyền của Tòa án. Tuy nhiên, để tránh việc người đại diện theo pháp luật của đương sự có thể thực hiện không tốt
việc đại diện của mình hoặc xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự mà họ đại diện thì pháp luật
cũng quy định về phạm vi những người không được làm đại diện cho đương sự. Theo đó, người không được làm
đại diện cho đương sự bao gồm người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự, người có lợi ích đối lập với
đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật cho một đuýong sự khác có quyền, lợi ích đối lập với quyền, lợi ích
của đương sự được đại diện (Đ75 – BLTTDS)
b) Người đại diện do Tòa án chỉ định là người thay mặt đương sự tham gia tố tụng theo sự chỉ định của Tòa án
trong trường hợp đương sự là người không thể tự mình tham gia tố tụng nhưng không có người đại diện theo pháp
luật hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc trường hợp không được làm chứng cho đương sự.
Theo luật thực định thì BLTTDS chỉ quy định Tòa án chỉ định người đại diện cho đương sự trong trường
hợp đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo
pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp không được đại diện (Đ75, 76 – BLTTDS).
Người đại diện do Tòa án chỉ định có thể tham gia trong tất cả các vụ việc dân sự thuộc thảm quyền của
Tòa án từ khi có quyết định của Tòa án chỉ định họ đại diện cho đương sự. Tuy nhiên, để tránh việc người đại diện
có thể thực hiện không tốt việc đại diện của mình hoặc xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của đương sự mà họ
đại diện thì Tòa án không được chỉ định những người thuộc diện pháp luật cấm không được làm người đại diện
của đương sư.
c) Người đại diện theo ủy quyền còn gọi là người đại diện do đương sự ủy quyền là người thay mặt đương sự
tham gia tố tụng do được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền tham gia tố tụng.
Khác với người đại diện theo pháp luật và người đại diện do Tòa án chỉ định, người đại diện theo ủy quyền không
tham gia tố tụng trên cơ sở họ là người được pháp luật ấn định trước hoặc theo quyết định của Tòa án mà việc
tham gia tố tụng của họ lại dựa trên cơ sở sự tự định đoạt của đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của họ.

Câu 45: Chấm dứt đại diện trong tố tụng dân sự? (Quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005)
Câu 46: Sự tham gia tố tụng của người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong tố tụng dân
sự?
a) Sự tham gia tố tụng của người làm chứng trong tố tụng dân sự:
Để làm rõ các tình tiết của vụ việc dân sự, Tòa án cần phải xem xét các tài liệu, giấy tờ có chứa đựng
nhưngc thông tin về vụ việc, lời khai của người biết các tình tiết của vụ việc dân sự. Những người biết được các
tình tiết của vụ việc dân sự sẽ trở thành người làm chứng khi đương sự hoặc Tòa án yêu cầu tham gia tố tụng.
Người làm chứng là người tham gia tố tụng theo yêu cầu của đương sự hoặc Tòa án để làm rõ các tình
tiết của vụ việc dân sự do họ biết được các tình tiết đó.
Về lý luận thì người làm chứng phải là người có khả năng nhận thức và phản ánh lại các tình tiết của vụ
việc dân sự. Do vậy, người làm chứng phải là người có năng lực hành vi dân sự vào thời điểm nhận thức sự việc
xảy ra cũng như thời điểm tham gia tố tụng trước Tòa án. BLTTDS hiện nay chỉ quy định người mất năng lực
hành vi dân sự thì không được là người làm chứng mà không quy định cụ thể về việc không được làm chứng của
người không có năng lực hành vi dân sự (dưới 16 tuổi). Ngoài ra, vấn đề người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể là người làm chứng hay không cungc chưa được
quy định cụ thể trong pháp luật tố tụng dân sự.
b) Sự tham gia tố tụng của người giám định trong tố tụng dân sự
Trong một số vụ việc dân sự để làm rõ các tình tiết của vụ việc, Tòa án cần phải có sự hỗ trợ của các nhà
chuyên môn. Trong trường hợp này Tòa án phải chưng cầu người có kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn theo quy
định của pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định để xem xét, kết luận về những vấn đề chuyên môn có
liên quan đến đối tượng cần giám định.
Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn được đương sự thỏa thuận lựa chọn
hoặc được Tòa án trưng cầu để kết luận về những vấn đề chuyên môn liên quan đến đối tượng cần giám định
trong vụ việc dân sự.
Việc tham gia tố tụng dân sự của người giám định có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết vụ việc
dân sự. Tuy nhiên, người giám định chỉ có quyền kết luận về những vấn đề chuyên môn liên quan đến các tình tiết
của vụ việc dân sự nhưng không được kết luận về những vấn đề mang tính pháp lý của vụ việc dân sự.
Để kết luận giám định thực sự có ý nghĩa trong việc xác định sự thật khách quan, pháp luật tố tụng dân sự
đã dự liệu những trường hợp người giám định phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi nếu việc tham gia tố
tụng của họ không bảo đảm sự vô tư. Cụ thể là người giám định phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi nếu

họ đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch trong cùng một vụ án đó; đã tiến hành tố tụng trong vụ án với
tư cách là thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án, kiển sát viên hoặc có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể
không vô tư trong khi làm nhiệm vụ (Đ68, 71, 72 - BLTTDS)
c) Sự tham gia tố tụng của người phiên dịch trong tố tụng dân sự
Người phiên dich là người tham gia tố tụng được các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn và được Tòa án
chấp nhận hoặc được tòa án yêu cầu để dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp
có người tham gia tố tụng không sử dụng tiếng Việt.
Để đảm bảo sự vô tư trong việc tham gia tố tụng, pháp luật tố tụng dân sự đã quy định những trường hợp
người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi nếu họ đồng thời là đương sự, người đại diện,
người thân thích của đương sự hoặc tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền . lợi ích hợp pháp của
đương sự, người làm chứng, người phiên dịch trong cùng một vụ việc dân sự đó; đã tiến hành tố tụng trong vụ
việc dân sự với tư cách là thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký tòa án, kiểm sát viên hoặc có căn cứ rõ ràng cho
rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Tuy nhiên, trường hợp đương sự là người câm, người điếc mà
chỉ có người đại diện hoặc người thân thích của đương sự biết được dấu hiệu của họ thì người đại diện hoặc người
thân thích đó có thể được Tòa án chấp nhận làm người phiên dịch cho người cân, người điếc đó (Đ70,71,72 –
BLTTDS).
CHƯƠNG IV: CHỨNG MINH, CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Câu 47: Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự?
a) Khái niệm: Chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của các chủ thể theo quy định của pháp luật
trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự trên cơ sở đó Tòa án ra phán quyết về vụ việc dân sự.
b) Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự: Thuộc về các đương sự là cá nhân, pháp nhân, cơ quan, tổ chức,
hộ gia đình, hợp tác xã, nguyên đơn, bị đơn
+ Đương sự nào? Gồm:
- Đương sự có yêu cầu là nguyên đơn, người có yêu cầu;
- Bị đơn có yêu cầu phản đối phải chứng minh; bị đơn có yêu cầu phản tố: khởi kiện ngược lại nguyên đơn
(Đ176-BLTTDS/2011). Ví dụ: Bên nguyên đơn kiện đòi nhà cho thuê lý do bên thuê nhà không chịu trả tiền nhà
theo thỏa thuận là 5 triệu đồng 1 tháng, nhưng trong hợp đồng cho thuê nhà chỉ có 3 triệu đồng. Thời hạn thuê nhà
là 2 năm mới hết. bên thuê không trả nhà vì thời hạn thuê còn 1 năm và họ kiện ngược lại bên cho thuê.
* Lý do của nghĩa vụ chứng minh:

- Đương sự trong tố tụng dân sự là chủ thể của các quan hệ pháp luật nội dung có tranh chấp và trực tiếp tham gia
vào các quan hệ pháp luật này, nên về mặt nhận thức họ biết rất rõ các sự kiện, tình tiết sự việc phát sinh trong
quan hệ giữa họ với nhau. Do đó, họ có khả năng cung cấp chứng cứ cho Tòa án, đây là tài liệu rất quan trọng để
giải quyết vụ án;
- Bản thân các đương sự là người có yêu cầu trước Tòa án và có phản đối đối phương, họ tham gia tố tụng để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình cho nên họ có nghĩa vụ đưa ra các căn cứ, tài liệu để chứng minh
yêu cầu và phản đối yêu cầu đối phương;
- Người đại diện của đương sự có nghĩa vụ chứng minh trước Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự;
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng phải có nghĩa vụ chứng minh. Tại sao? Vì anh ta là
người được thuê để bảo vệ thân chủ (luật sư - người bào chữa trong phiên tòa).
* Tòa án có nghĩa vụ chứng minh không? Tòa án là cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ công lý, Tòa án có nhiệm vụ xem
xét các tình tiết của vụ án để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được chính xác và đúng pháp luật.
c) Ý nghĩa của chứng minh trong tố tụng dân sự:
- Một là, chứng minh xác định, làm rõ được các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự, bảo đảm việc giải quyết
đúng đắn các vụ việc dân sự. Xét dưới góc độ lý luận và thực tiễn thì chứng minh vẫn là biện pháp duy nhất để
xác định các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự. Thông qua hoạt động chứng minh, thẩm phán, hội thẩm nhân
dân biết rõ được các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự đươc giải quyết;
- Hai là, Đối với các đương sự thì chứng minh là vấn đề rất quan trọng để các đương sự làm rõ được cơ sở quyền,
lợi ích hợp pháp của trên cơ sở đó thuyết phục Tòa án bảo vệ.
Như vậy, chứng minh không chỉ có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án được đúng
đắn mà còn có ý nghĩa bảo đảm cho đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án.
Câu 48: Trường hợp không có yêu cầu của đương sự thì Tòa án có tự mình tiến hành thu thập chứng cứ
không?
Pháp luật đã quy định rõ nghĩa vụ cung cấp chứng cứ là của đương sự, nếu đương sự có khó khăn trong
việc thu thập chứng cứ thì có quyền yêu cầu tòa án thu thập giúp. Tòa án chỉ có thể thu thập chứng cứ, khi đương
sự có đơn yêu cầu. Nếu không có đơn yêu cầu của đương sự mà tòa án tự mình thu thập chứng cứ là vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng, và các chứng cứ đó sẽ không có giá trị pháp lý.
Câu 49: Đối tượng chứng minh trong tố tụng dân sự? cho Ví dụ?
Đối tượng chứng minh trong tố tụng dân sự là tổng hợp các sự kiện, tình tiết phải được xác định nhằm

giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
1. Đối tượng chứng minh của vụ việc dân sự trước hết phải là các sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các đương sự mà từ sự kiện này làm cơ sở cho yêu cầu, khởi kiện của các chủ thể
mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết. Ví dụ: Muốn giải quyết yêu cầu khởi kiện tranh chấp về hợp đồng vay tài sản
của B và C, Tòa án và các bên đương sự phải chứng minh được sự tồn tại của sự kiện vay tài sản giữa B và C. Đối
với một vụ việc dân sự có thể có nhiều sự kiện xảy ra thì Tòa án và những người tham gia tố tụng phải xác định
được tất cả các sự kiện đó, sự kiện nào là sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự.
Chẳng hạn, khi giải quyết yêu cầu đòi nợ tiền của A đối với những người thừa kế của bà B, Tòa án và các bên
đương sự phải chứng minh được sự kiện vay tiền giữa A và bà B, sự kiện bà B chết thông qua giấy chứng tử của
UBND cấp xã hoặc các tài liệu khác của vụ việc.
Trên cơ sở, việc xác định được sự kiện quan trọng của vụ việc dân sự, Tòa án có trách nhiệm xác định các
tình tiết của vụ việc dân sự. Tình tiết là những vấn đề xoay quanh sự kiện pháp lý đã xảy ra. Ví dụ, muốn giải
quyết yêu cầu khởi kiện tranh chấp về hợp đồng vay tài sản của B và C, bên cạnh việc phải chứng minh được sự
sự tồn tại sự kiện vay tài sản giữa B và C. Tòa án còn phải làm rõ số tiền vay, thời hạn vay, có lãi hay không có
lãi. Có tài sản bảo đảm vay hay không… việc xác định đầy đủ và chính xác các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân
sự có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
2. Đối tượng chứng minh của vụ việc dân sự là hệ thống các sự kiện, tình tiết có liên quan chặt ché với
nhau. Để xá định đối tượng chứng minh của vụ việc dân sự cụ thể, Tòa án căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan và quy phạm
pháp luật nội dung áp dụng cho việc giải quyết yêu cầu của các đương sự, bởi trong các quy phạm pháp luật này
nêu lên những sự kiện, tình tiết mà quyền và nghĩa vụ của các đương sự phụ thuộc vào nó. Do đó, để xác định
đúng đối tượng chứng minh, Tòa án phải xác định được chính xác yêu cầu của các đương sự và xác định đúng căn
cứ pháp lý cho việc giải quyết yêu cầu đó. Ví dụ: Khi giải quyết yêu cầu đòi nhà của A đối với B, trong đơn khởi
kiện A cho rằng, A cho B thuê nhà từ tháng 8/1992, việc cho thuê chỉ có giấy viết tay, đến nay A đã đòi nhiều lần
nhưng lấy lý do không có chỗ ở nào khác nên B chưa trả nhà cho A. Để giải quyết vụ việc này, Tòa án phải xác
định được chính xác yêu cầu của đương sự có phải là tranh chấp về hợp đồng thuê nhà hay không, đồng thời phải
xác định được chính xác văn bản pháp luật áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp này thì mới có thể xác định
được các tình tiết nào cần làm rõ của vụ việc này.
Trong tố tụng dân sự các tranh chấp, yêu cầu dân sự rất đa dạng vì thế các yêu cầu, khởi kiện của các
đương sự cũng rất phong phú và khó xác định. Do đó, pháp luật dân sự của nhiều nước đều không quy định trước

đối tượng chứng minh của từng vụ việc dân sự cụ thể mà việc xác định đối tượng chứng minh phụ thuộc vào năng
lực của thẩm phán. Để đảm bảo cho việc xác định đúng về đối tượng chứng minh, BLTTDS Việt Nam cần quy
định về khái niệm đối tượng chứng minh, trách nhiệm và nguyên tắc xác định đối tượng chứng minh.
Câu 50: Những sự kiện, tình tiết không cần chứng minh trong vụ việc dân sự?
Để đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự thì về nguyên tắc tất cả các sự kiện, tình tiết của
vụ việc dân sự đều phải được làm rõ (chứng minh). Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của một số sự kiện,
tình tiết hoặc sự kiện, tình tiết đó đã rõ mà pháp luật một số nước quy định những sự kiện, tình tiết không nằm
trong đối tượng chứng minh. Đ80 – BLTTDS VN quy định những sự kiện, tình tiết sau không phải chứng minh:
- Những sự kiện, tình tiết rõ ràng mà mọi nguời đều biết và Tòa án công nhận. Pháp luật không quy định
thế nào là những sự kiện, tình tiết mà mọi người đều biết. Song thực tiễn xét xử đều thừa nhận những sự kiện, tình
tiết này là các sự kiện đã xảy ra như thiên tai, họa hoạn, lũ lụt, động đất…đây là những sự kiện, tình tiết không thể
tái hiện lại trên các giấy tờ, tài liệu. Vì vậy, Tòa án và những người tham gia tố tụng không phải chứng minh trên
thực tế các sự kiện, tình tiết này đã xảy ra. Khi có đủ các căn cứ để chứng minh chúng đã xảy ra thông qua các
giấy tờ, tài liêu khác hoặc lời khai của đương sự, người làm chứng thì Tòa án sẽ công nhận. Tuy nhiên, cần phân
biệt sự kiện, tình tiết mọi người đều biết với sự kiện, tình tiết mà nhiều người biết. chẳng hạn, anh A khởi kiện ly
hôn với chị H. Việc anh A đã kết hôn với chị H được nhiều người biết, kể cả thẩm phán đang giải quyết vụ án,
song anh A vẫn phải cung cấp cho Tòa án chứng cứ để chứng minh A và H là hai vợ chồng.
- Những sự kiện, tình tiết đã được xác định trong các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật. Tất cả các phán quyết của Tòa án hoặc quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật đều là các quyết định nhân danh nước CHXHCNVN và
đều có hiệu lực pháp luật buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác phải tôn trọng và triệt để thi hành. Vì vậy, để
đảm bảo tính thống nhất và tính có hiệu lực pháp luật như nhau giữa các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của các Tòa án với nhau và với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thì những sự kiện, tình tiết đã được
xác định trong các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu
lực pháp luật sẽ không phải chứng minh lại. Tuy nhiên, nếu sau khi sử dụng các thông tin trong các bản án, quyết
định của Tòa án hoặc các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật mà các bản án,
quyết định này bị Tòa án cấp trên hoặc cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ sẽ dẫn tới việc bản án, quyết định của Tòa
án mà Tòa án căn cứ vào bản án, quyết định đã hủy bỏ để giải quyết không còn đúng nữa. Đây là căn cứ đẻ người
có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án sử dụng thông tin theo thủ tục tái thẩm dân sự (K4,
Đ305 BLTTDS).

- Những sự kiện, tình tiết đã được ghi nhận trong các văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp
không phải chứng minh. Tuy nhiên, nếu việc công chứng, chứng thực là không hợp pháp dẫn đến các sự kiện, tình
tiết liên quan đến vụ việc dân sự được xác nhận chưa chính xác hoặc có biểu hiện giả mạo, gian dối thì Tòa án và
những người tham gia tố tụng phải chứng minh để phủ nhận hoặc công nhận văn bản công chứng, chứng thực.
- Một bên đượng sự thừa nhận hoặc không phản đối những sự kiện, tình tiết mà bên đương sự kia đưa ra
thì bên đương sự đó không phải chứng minh. Vì vậy, những sự kiện, tình tiết mà một bên đương sự thừa nhận
hoặc không phản đối sẽ giải phóng cho đương sự bên kia khỏi nghĩa vụ chứng minh nên không phải chứng minh.
Tuy nhiên, trên thực tế không phải mọi trường hợp sự thừa nhận của đương sự hoặc người đại diện của đương sự
đều đúng. Trong nhiều trường hợp, đương sự có thể bị ép buộc hoặc thừa nhận một cách giả tạo để trốn tránh việc
thực hiện nghĩa vụ khác, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Vì vậy, để bảo đảm cho phán
quyết của mình được khách quan đúng pháp luật Tòa án vẫn cần phải làm rõ các sự kiện, tình tiết mà các đương
sự hoặc người đại diện của họ thừa nhận.
Ghi nhớ:
1. Đối tượng chứng minh trong Ly hôn gồm:
Giấy đăng ký kết hôn có đúng pháp luật không; tình trạng hôn nhân; tài sản riêng, chung; nghĩa vụ chăm
sóc, cấp dưỡng con cái.
2. Đối tượng chứng minh trong Thừa kế gồm:
Thời điểm mở thừa kế; xác định di chúc để lại; di chúc có hợp pháp không; diện hàng thừa kế.
3. Đối tượng chứng minh Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng gồm:
Có thiệt hại xảy ra; mức thiệt hại xảy ra trong thực tế là bao nhiêu; có hành vi trái pháp luật; lỗi các bên;
mối quan hệ nhân quả của hành vi trái pháp luật
Câu 51a: Các biện pháp thu thập chứng cứ?
Công việc này thuộc về Thẩm phán Tòa án nhân dân bao gồm:
* Thẩm phán phải tiến hành một số biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ nếu thấy đương sự đã cung cấp và bổ
sung tài liệu, chứng cứ nhưng chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ án (Điều 85 BLTTDS).
* Chỉ khi đương sự có yêu cầu (yêu cầu này có thể được thể hiện bằng văn bản riêng, có thể ghi trong bản khai,
ghi trong biên bản ghi lời khai, biên bản đối chất và nếu đương sự trực tiếp đến Toà án yêu cầu thì lập biên bản
ghi rõ yêu cầu của đương sự), Thẩm phán tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ sau:
- Ghi lời khai của đương sự trong trường hợp đương sự không thể tự viết được; lấy lời khai của người làm chứng
(xét thấy cần thiết, có thể bảo đảm cho việc giải quyết được toàn diện, chính xác, công minh, đúng pháp lụật), tiến

hành đối chất giữa các đương sự với nhau (xét thấy có mâu thuẫn trong các lời khai) (Điều 86 và Điều 88
BLTTDS);
- Thủ tục lấy lời khai phải tuân theo đúng các quy định tại Điều 86, Điều 87 và Điều 88 BLTTDS;
+ Việc lấy lời khai của đương sự phải do Thẩm phán tiến hành; Thư ký Toà án chỉ có thể giúp Thẩm phán ghi lời
khai của đương sự vào biên bản. Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại trụ sở Toà án. Trong trường hợp đương
sự không thể đến Toà án được vì những lý do khách quan, chính đáng (đang bị tạm giam, đang chấp hành hình
phạt tù, ốm đau, bệnh tật ) thì Thẩm phán có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Toà án;
+ Trong trường hợp đương sự là người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự, hoặc người từ đủ 6 tuổi đến
chưa đủ 15 tuổi, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Toà án do người đại diện hợp
pháp của họ thực hiện thì khi lấy lời khai của họ phải có mặt người đại diện hợp pháp của họ và người đại diện
này phải ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào biên bản ghi lời khai;
- Thu thập chứng cứ do cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ trong trường hợp đương sự đã áp dụng
các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không tự mình thu thập được. Thẩm phán có thể trực tiếp
hoặc bằng văn bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp chứng cứ tài liệu;
- Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung, giám định lại nếu có sự thoả thuận lựa chọn
của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên, hoặc trường hợp chứng cứ bị tố cáo là giả
mạo.Thẩm phán cần giải thích cho đương sự biết về nghĩa vụ nộp tiền chi phí tương ứng (chi phí giám định, tiền
tạm ứng chi phí định giá ). Thẩm phán chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi đương sự đã nộp tiền tạm ứng chi phí
tương ứng, nếu thuộc trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng chi phí tương ứng;
+ Thẩm phán căn cứ vào Điều 90 BLTTDS, Pháp lệnh giám định tư pháp, Nghị định 67/2005/NĐ-CP ngày
19/5/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh giám định tư pháp để ra quyết định
trưng cầu giám định;
+ Theo quy định tại Điều 92 BLTTDS, Thẩm phán ra Quyết định định giá tài sản đang tranh chấp nếu một hoặc
các bên đương sự yêu cầu, hoặc có căn cứ cho thấy các bên thoả thuận theo mức giá thấp nhằm mục đích trốn
thuế hoặc giảm mức đóng án phí;
+ Thẩm phán xem xét tài sản định giá là loại tài sản nào, có liên quan đến cơ quan chuyên môn nào, Hội đồng
định giá cần phải có bao nhiêu thành viên và trong trường hợp cụ thể cần cử đại diện cơ quan nào làm Chủ tịch
Hội đồng định giá. Thẩm phán gửi công văn cho các cơ quan chuyên môn đề nghị cử cán bộ làm Chủ tịch và uỷ
viên Hội đồng định giá, nêu rõ yêu cầu cụ thể đối với Chủ tịch, uỷ viên Hội đồng định giá và thời hạn cơ quan
chuyên môn có công văn trả lời;

+ Sau khi nhận được công văn trả lời, Thẩm phán kiểm tra những người được cử có đáp ứng yêu cầu không, có ai
trong số họ là người thân thích với đương sự trong vụ án không, nếu có thì đề nghị cơ quan chuyên môn cử người
khác thay thế;
+ Quyết định định giá cần có các nội dung chính: ngày tháng năm ra quyết định và tên của Toà án ra quyết định;
tài sản cần định giá; họ tên, cơ quan công tác của Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng định giá; nhiệm vụ của
Hội đồng định giá; thời gian, địa điểm tiến hành định giá;
+ Thẩm phán cần cử một thư ký Toà án để giúp việc cho Hội đồng định giá ghi biên bản về việc tiến hành định
giá;
+ Trong trường hợp có người cản trở việc định giá thì Thẩm phán yêu cầu đại diện Uỷ ban nhân dân hoặc cơ
quan, tổ chức có biện pháp can thiệp, hỗ trợ kịp thời. Trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán yêu cầu lực lượng
Cảnh sát và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an nhân dân có thẩm quyền để có các biện pháp can thiệp theo quy định tại
Thông tư số 15/2003/TT-BCA(V19) ngày 10/9/2003 của Bộ Công an “Hướng dẫn hoạt động hỗ trợ tư pháp của
lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Bộ Công an”.
- Thẩm phán tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ nếu thấy cần thiết. Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải được
ghi thành biên bản theo quy định tại Điều 89 BLTTDS;
+ Khi đương sự có yêu cầu xem xét, thẩm định tại chỗ và xét yêu cầu đó là có căn cứ, Thẩm phán ra quyết định
tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ;
+ Quyết định xem xét, thẩm định phải ghi rõ ngày tháng năm ra quyết định và tên Toà án ra quyết định, đối tượng
và những vấn đề cần xem xét, thẩm định tại chỗ; thời gian, địa điểm tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ;
+ Quyết định trên phải được gửi cho Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét,
thẩm định kèm theo văn bản đề nghị Uỷ ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức cử đại diện tham gia. Cần liên hệ để
họ có mặt theo ngày giờ đã định trong quyết định. Trong trường hợp vắng mặt một trong các đại diện trên thì
Thẩm phán phải hoãn việc xem xét, thẩm định tại chỗ;
+ Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ phải được giao hoặc gửi cho đương sự để họ biết và chứng kiến việc xem
xét, thẩm định tại chỗ. Nếu có đương sự vắng mặt thì việc xem xét, thẩm định tại chỗ vẫn được tiến hành theo thủ
tục chung.
- Về uỷ thác thu thập chứng cứ phải thực hiện đúng Điều 93 BLTTDS
+ Trường hợp đương sự hoặc nhân chứng ở quá xa hoặc bị ốm đau; tài sản tranh chấp ở một huyện, tỉnh khác, thì
Tòa án đang thụ lý vụ án có thể uỷ thác cho Toà án huyện nơi ở của đương sự, nhân chứng hoặc nơi có tài sản
đang tranh chấp lấy lời khai của đương sự, nhân chứng hoặc xem xét tài sản đó;

+ Trong quyết định uỷ thác thu thập chứng cứ cần tóm tắt vụ kiện, nêu đầy đủ các câu hỏi cần đặt ra cho đương sự
hoặc nhân chứng, hoặc những yêu cầu cụ thể về xem xét tại chỗ tài sản tranh chấp;
+ Toà án được uỷ thác thu thập chứng cứ có thể qua lời khai của đương sự, nhân chứng mà thấy cần đặt các câu
hỏi khác thì có quyền đặt những câu hỏi cần thiết.
* Khi đương sự cung cấp, bổ sung chứng cứ về vụ việc mà họ yêu cầu Toà án giải quyết, Thẩm phán phải lập
Biên bản về việc giao nhận chứng cứ với đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản 2 điều 84 BLTTDS.
* Khi yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ cần nêu cụ thể những chứng cứ cần giao nộp bổ sung.
Câu 51b: Khi nào Tòa án tự mình thu thập chứng cứ?
BLTTDS năm 2004
- Đ85 quy định: Tòa án chỉ tự mình tiến hành thu
thập chứng cứ trong trường hợp đương sự không
thể tự thu thập được và có yêu cầu thu thập chứng
cứ
>Ý nghĩa của điều luật là: có yêu cầu thì Tòa án sẽ
thu thập chứng cứ
_ NQ04 của HĐTP ngày 7/9/2005 về chứng cứ,
chứng minh: Tòa án có thể tự mình thu thạp chứng
cứ trong 3 trường hợp sau không cần có yêu cầu
của đương sự:
+ Lấy lời khai của người làm chứng khi xét thấy
cần thiết;
+ Cho đối chất khi xét thấy lời khai của đương sự,
người làm chứng…
+ Tòa án cho định giá tài sản trong trường hợp các
bên thỏa thuận với mức giá thấp nhằm trốn thuế
hoặc trốn tiền án phí nộp vào NSNN.
BLTTDS năm 2011
- Điều 85 quy định có 2 biện pháp:
Một là, trưng cầu giám định, Tòa án chỉ tiến hành
thu thập chứng cứ khi đương sự yêu cầu (vì nó liên

quan đến tài chính)
Hai là, Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung
cấpchứng cứ tài liệu
- Xem xét thẩm định tại chỗ theo NQ04 của HĐTP
khi có yêu cầu của đương sự còn trong
BLTTDS2011 không đề cập đến. Như vậy, hiện tại
chưa có văb abrn hướng dẫn “Phải chờ”
Câu 52: Phân tích khái niệm và đặc điểm của chứng cứ? Các cách phân loại chứng cứ?
a) Khái niệm chứng cứ: Chứng cứ là những thông tin, sự kiện, tình tiết có thật liên quan đến vụ việc dân sự theo
một trong tự do luật định, Tòa án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
Hiện nay khái niệm về chứng cứ được quy định tại Đ81 – BLTTDS, khái niệm này cũng phản ánh đầy đủ
các đặc điểm của chứng cứ.
b) Đặc điểm của chứng cứ:
- Tính khách quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ chứng cứ phải là những gì có thật, tồn tại một cách khách quan
ngoài ý muốn chủ quan của con người. Những gì có thật ở đây được hiểu là những thông tin, tình tiết, sự kiện về
vụ việc dân sự chứ không phải là các tài liệu chứa đựng các thông tin đó. Chẳng hạn, trong một vụ án tranh chấp
về hợp đồng mua bán nhà, đương sự xuất trình cho Tòa án bản hợp đồng gốc có công chứng. Trong trường hợp
này các thông tin trong nội dung của bản hợp đồng là chứng cứ chứ không phải là bản hợp đồng.
Thông thường các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự đã tồn tại trước khi vụ việc diễn ra tại Tòa án nên
chỉ những tồn tại khách quan phản ánh đúng bản chất của sự việc mới được Tòa án sử dụng trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự. Bằng các biện pháp khác nhau, Tòa án và các chủ thể khác tiến hành cung cấp, thu thập,
nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ mà không thể tạo ra chứng cứ theo ý muốn chủ quan của họ.
Những tình tiết giả mạo, sự kiện giả đều không được coi là chứng cứ, người nào đưa ra yêu cầu và cung
cấp thông tin giả mạo thì sẽ bị Tòa án sẽ bác yêu cầu vì không có chứng cứ chứ không phải thông tin giả mạo mà
là căn cứ để Tòa án bác yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt, mặc dù có tình tiết sự
kiện tồn tại khách quan, phản ánh đúng bản chất của sự việc nhưng theo quy định của pháp luật chúng lại không
được coi là chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự. Chẳng hạn trong trường hợp sinh con theo phương pháp khoa
học…
- Tính liên quan: Chứng cứ là cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự nên những gì có thật tồn tại khách quan phải có
liên quan đến vụ việc dân sự mới được coi là chứng cứ. Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ nó phải có ý

nghĩa để xác định một sự kiện, tình tiết nào đó của vụ việc dân sự, dựa vào chứng cứ mà Tòa án có căn cứ để chấp
nhận hoặc bác bỏ một phần hay toàn bộ yêu cầu của các đương sự.
Tính liên qua của chứng cứ với vụ việc dân sự có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp.
+ Sự liên quan trực tiếp của chứng cứ thể hiện ở chỗ dựa vào cáo thông tin, sự kiện, tình tiết nào đó Tòa án có thể
khẳng định được ngay có hay không có một sự kiện, tình tiết nào đó của vụ việc dân sự. Ví dụ: thông qua nội
dung Giấy đăng ký kết hôn của 2 người, Tòa án có căn cứ để khẳng định họ là vợ chồng
+ Sự liên quan gián tiếp của chứng cứ thể hiện ở chỗ nếu chỉ dựa vào một thông tin, sự kiện, tình tiết Tòa án chưa
thể khẳng định được ngay có hay không có một sự kiện, tình tiết nào đó của vụ việc dân sự. Trong trường hợp này
để chứng minh sự thật khách quan của vụ việc dân sự đòi hopir phải có quá trình nhận thức phức tạp, qua nhiều
khâu trung gian. Vì vậy, có thể gọi những sự kiện gián tiếp liên quan đến vụ án dân sự là những sự kiện trung
gian. Ví dụ: B đòi nhà đã cho C thuê vì 3 tháng liên tiếp C không trả tiền nhà. C đưa ra lý do khó khăn về tài
chính nên không trả tiền nhà cho B được. Nhưng B lại chứng minh được C có tiền cho D vay để lấy lãi hàng
tháng. Như vậy, việc C cho D vay tiền không trực tiếp liên qua đến việc B đòi nhà đã cho C thuê nhưng nó lại
gián tiếp chứng minh cho việc giải quyết yêu cầu đòi nhà của B đối với C.
Trong một số trường hợp đặc biệt, Tòa án và những người tham gia tố tụng không cần chỉ ra mối liên hệ
trực tiếp hay gián tiếp của các thông tin, sự kiện, tình tiết với đối tượng chứng minh của vụ việc dân sự nhưng
pháp luật lại cho phép Tòa án đưa ra một kết luận về đối tượng chứng minh. Chẳng hạn Đ27 – LHN&GĐ năm
2000 Việt Nam có quy định:“Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng”.
- Tính hợp pháp: Tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện ở chỗ chứng cứ phải được rút ra từ nguồn của chứng cứ và
được cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá, sử dụng theo đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, thông tin, sự kiện, tình tiết chỉ được coi là chứng cứ của một vụ việc dân sự khi nó thỏa mãn
đồng thời ba thuộc tính của chứng cứ. Khi đó, chúng mới được Tòa án sử dụng trong việc chứng minh tính hợp
pháp và có căn cứ của các yêu cầu của đương sự, người khởi kiện.
c) Phân loại chứng cứ: Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, có thể phân loại chứng cứ theo các tên gọi khác nhau.
Căn cứ vào cách thức tạo thành chứng cứ có thể chia chứng cứ thành hai loại: chứng cứ gốc và chứng cứ thuật lại.
Căn cứ vào mối liên hệ giữa chứng cứ và đối tượng chứng minh có thể chia chứng cứ thành: chứng cứ trực tiếp và
chứng cứ gián tiếp. Căn cứ vào nguồn thu thập chứng cứ có chứng cứ theo người và chứng cứ theo vật…việc
phân lạo chứng cứ không làm thay đổi giá trị chứng minh của chứng cứ, song lại có ý nghĩa đối với với quá trình
xem xét, đánh giá và sử dụng chứng cứ của Tòa án. Bên cạnh đó, việc phân loại chứng cứ còn có ý nghĩa đối với
việc nghiên cứu và đưa ra các quy định về chứng cứ.

Ghi nhớ:
1. Căn cứ chính là thông tin chứa đựng trong tài liệu hoặc lời khai; lời khai là phương tiện chứng minh chứ
không phải là nguồn nhưng các nhà làm luật lại quy định vào Đ82BLDS 2011;
2. Di chúc là thông tin để chứng minh
CHƯƠNG 5: KHẨN CẤP TẠM THỜI, THỜI HIỆU KHỞI KIỆN, YÊU CẦU; CẤP, TỐNG ĐẠT

Câu 53: Các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của BLTTDS? Tòa án có tự mình quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không?
a) Khái niệm: BPKCTT trong tố tụng dân sự là cách thức giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án khi khẩn cấp mà
theo cách thức này Tòa án sẽ ra ngay quyết định áp dụng giải pháp trước mắt nhằm tạm thời giải quyết nhu cầu
cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản, bảo đảm cho việc bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích cho
đương sự trong tố tụng dân sự.
* Đặc điểm:
- Tính khẩn cấp là một đặc điểm nổi bật đầu tiên của BPKCTT trong tố tụng dân sự. Tính khẩn cấp có thể được
nhận thấy tương đối rõ qua các dấu hiệu khác nhau. Tòa án chỉ áp dụng BPKCTT đối với những vụ việc dân sự có
sự khẩn cấp do yêu cầu của chủ thể có quyền yêu cầu (đương sự).
- Tính tạm thời chỉ là giải pháp tạm thời trong tình trạng khẩn cấp.Điều này cũng có ý nghĩa quyết định áp dụng
BPKCTT của Tòa án không phải là quyết định cuối cùng giải quyết nội dung vụ việc dân sự.
- Tính bảo đảm: xét một cách khái quát nhất thì BPKCTT là cách thức Tòa án dùng để bảo đảm hiệu quả của việc
giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án. Mục đích của BPKCTT trong tố tụng dân sự là nhằm đáp ứng nhu cầu
cấp bách của đương sự để đảm bảo không ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phảm của họ,
nhằm bảo vệ chứng cứ khỏi bị hủy hoại đẻ đảm bảo giải quyết vụ việc dân sự, nhằm bảo toàn để đảm bảo cho khả
năng thi hành án. nói cách khác là biện pháp bảo đảm cho việc bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích của đương;
- Tính cưỡng chế trong tố tụng dân sự được thể hiện qua dấu hiệu chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền quyết định áp
dụng mà Tòa án là chủ thể đại diện cho quyền lực nhà nước, các chủ thể khác trong mối quan hệ pháp luật tố tụng
dân sự với Tòa án phải có nghĩa vụ phục tùng mệnh lệnh của Tòa án. Vì thế, BPKCTT khi đã được Tòa án quyết
định áp dụng thì mọi chủ thể liên quan đều phải tuyệt đối chấp hành, có hiệu lực bắt buộc đối với các bên đương
sự và những người liên quan đến BPKCTT. Tính cưỡng chế của BPKCTT còn có 1 đặc điểm nữa là quyết định
không thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
* Ý nghĩa: BPKCTT không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với công tác giải quyết vụ việc dân sự mà còn có ý

nghĩa rất thiết thực trong việc bảo vệ kịp thời quyền lợi íc hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự góp phần
đáng kể trong việc sắp xếp lại trật tự trong lĩnh vực dân sự, ổn định xã hội.
Với mục đích giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, BPKCTT còn có ý nghĩa quan trọng trong việc
bảo đảm sức khỏe, tính mạng, dang dự, nhân phẩm cho đương sự, tạo điều kiện cho đương sự sớm ổn định cuộc
sống của chính họ và gia đình;
Một ý nghĩa quan trọng nữa của BPKCTT là trong nhiều trường hợp, BPKCTT được Tòa án sử dụng
nhằm triệt tiêu vụ kiện đã xảy ra.
b)Các biện pháp khẩn cấp tạm thời(Đ102 – BLTTDS2011)gồm:
- Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục;
- Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xam phạm;
- Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh
nghề nghiệp cho người lao động;
- Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động;
- Kê biên tài sản đang thế chấp;
- Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp;
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp;
- Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm hàng hóa khác;
- Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ;
- Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ;
- Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định;
- Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.
* Phân loại các BPKCTT (3 nhóm:

×