Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Đề tài bảo hiểm và tái bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.1 KB, 39 trang )

A. BẢO HIỂM
KHÁI NIỆM BẢO HIỂM: Bảo hiểm là một sự thoả thuận hợp pháp thông qua
đó một cá nhân hay tổ chức (người tham gia bảo hiểm) chấp nhận đóng góp một
khoản tiền nhất định (phí bảo hiểm) cho một tổ chức khác (người bảo hiểm) để
đổi lấy những cam kết về những khoản bồi thường hoặc chi trả khi có sự kiện quy
định trong hợp đồng xảy ra.
Bảo hiểm ngày nay được thực hiện dưới hình thức hợp đồng. Hợp đồng bảo
hiểm là sự thoả thuận có tính chất ràng buộc pháp lý được lập bằng văn bản, thông
qua đó người tham gia bảo hiểm cam kết nộp phí bảo hiểm để người được bảo
hiểm hoặc một người thứ ba (người được hưởng quyền lợi bảo hiểm) được nhận
số tiền chi trả hay bồi thường từ công ty bảo hiểm khi phát sinh các sự kiện được
bảo hiểm theo quy định người hợp đồng.
TÍNH CẦN THIẾT CỦA CÁC DỊCH VỤ BẢO
HIỂM:
 CƠ SỞ LÝ LUẬN: Các dịch vụ bảo hiểm ra đời là một hệ quả tất yếu của nhu
cầu được bảo hiểm của dân chúng. Nhu cầu bảo hiểm là nguyện vọng của con
người muốn cuộc sống của chính bản thân mình, của những cá nhân trong tổ chức
mình, gia đình mình trong tương lai được đảm bảo. Theo thang bậc nhu cầu của
Maslow, nhu cầu bảo hiểm không phải là nhu cầu căn bản nhất của con người
nhưng là nhu cầu kề cận với nhu cầu cơ bản của con người. Nhu cầu bảo hiểm là
một nhu cầu đặc biệt mà đôi khi người ta lầm tưởng quyết định mua bảo hiểm là
một quyết định tiêu dùng, nhưng quyết định mua bảo hiểm chính là một quyết
định tiết kiệm. Cả J.M Keynes và I. Fisher cũng đều khẳng định rằng thu nhập là
nhân tố quyết định của tiêu dùng và tiết kiệm. Người ta sẽ tiết kiệm nhiều hơn khi
có thu nhập cao hơn. Chính vì vậy con người ngày càng có nhiều nhu cầu được
bảo hiểm. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của các dịch vụ bảo hiểm là một tất yếu.
CƠ SỞ THỰC TIỄN: Tai nạn gây ra nhiều tổn thất về tài chính, tinh thần thậm
chí là cả tính mạng cho chính bản thân và gia đình của những người không may
gặp rủi ro. Hiện nay, trên thế giới có hơn 700000 người chết, hơn 10.000.000
người bị thương do tai nạn giao thông, thiệt hại kinh tế toàn cầu là 5000 tỷ đô la.
Hiện nay nguy cơ chiến tranh và nguy cơ khủng bố, nội chiến sắc tộc ở các nước


châu Phi, tranh chấp lãnh thổ giữa một số quốc gia vùng trung và nam châu Á, vẫn
luôn thường trực xảy ra, đe doạ sự an toàn của tất cả mọi người. Vẫn đang từng
ngày cướp đi sinh mạng, tiền của của rất nhiều người, thiên tai như lũ lụt, bão,
động đất ngày càng hoành hành dữ dội tại nhiều nước như Trung Quốc, Ấn Độ,
Hi Lạp Sự ổn định cuộc sống của mỗi con người đang bị đe doạ nghiêm trọng.
Trong khi đó, thu nhập của họ đang được nâng lên đáng kể, nhu cầu tiết kiệm để
đảm bảo cuộc sống trong tương lai rất được chú trọng. Những năm gần đây, thị
trường các lĩnh vực đầu tư khác rất bất ổn. Các thị trường chứng khoán New
York , London, Paris luôn chao đảo bởi sự kiện khủng bố ngày 11.9.2001, sự
kiện phá sản của các tập đoàn Enron, bê bối tài chính của Worldcom, thảm hoạ
tài chính của Vivendi Do vậy các hoạt động bảo hiểm lại là sự lựa chọn an
toàn của những người tham bảo hiểm. Đó chính là những đòi hỏi khách quan cho
sự ra đời,tồn tại và phát triển của các loại hình dịch vụ bảo hiểm trên thế giới.
Ở Việt Nam cũng có rất nhiều nguy cơ có thể ảnh hưởng tới cuộc sống ổn định
của con người. Theo thống kê, năm 2000 xảy ra 22.486 vụ tai nạn, tăng 8,5% so
với năm 1999. Trong đó làm chết 7500 người, tăng 12.4% so với năm trước, số
người bị thương là 25.400 người, tăng 6.2%. Đặc biệt tỷ lệ tai nạn giao thông đang
tăng ở mức độ báo động do số lượng các phương tiện giao thông vận hành trên
các đường phố ngày càng nhiều. Tai nạn do những người điều khiển mô tô, xe máy
gây ra chiếm 62,3% tổng số các vụ tai nạn, do lái xe ô tô gây ra chiếm 26,2%,
còn các phương tiện còn lại gây ra khoảng 11,4%. Các hiện tượng thiên tai lũ
lụt cũng xảy ra thường xuyên hơn ,mức độ thiệt hại to lớn hơn, làm cho mọi
người luôn luôn lo lắng cho cuộc sống của bản thân họ, của gia đình họ và của cả
những người xung quanh. Chính nhu cầu được bảo hiểm của con người là cơ sở
cho sự ra đời của bảo hiểm.
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ RA ĐỜI CỦA BẢO HIỂM:
Hình thức sơ khai nhất của bảo hiểm đó là hình thức dự trữ để đề phòng
những rủi ro bất trắc có thể xảy ra. Sau này con người nhận thấy dự trữ có tổ chức
hoặc dự trữ theo nhóm có hiệu quả hơn dự trữ cá nhân. Vào những năm 2.500

TCN ở Ai Cập những người thợ đẽo đá đã biết thiết lập quỹ để giúp đỡ nạn nhân
của các vụ tai nạn. Khi thương nghiệp phát triển, các thương gia, thay vì tự tích
cóp, người ta có thể vay tiền để đủ tiền cho một chuyến hàng. Vay cũng là một
hình thức tự bảo hiểm khi họ cần những khoản chi tiêu đột suất. Ở Babylon
(năm 1700 năm TCN) và ở Athen (năm 500 TCN) đã xuất hiện hệ thống vay mượn
lãi suất cao.
Tuy nhiên hình thức này có thể dẫn tới những khoản nợ chồng chất do lãi suất
cao. Vì vậy, sau này đã xuất hiện hình thức góp cổ phần. Hình thức này giảm
được gánh nặng tổn thất cho một người vì nó được chia cho nhiều người cùng
gánh chịu. Tuy nhiên những người tham gia góp cổ phần sẽ mất nhiều thời gian
để tìm đối tác, phải dàn xếp, thoả thuận chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi.
Những hạn chế của các biện pháp tự bảo hiểm đã tạo điều kiện cho hình thức
bảo hiểm ra đời. Những thoả thuận bảo hiểm đầu tiên xuất hiện gắn liền với hoạt
động giao lưu, buôn bán bằng đường biển. Bản hợp đồng bảo hiểm cổ nhất còn lưu
lại được phát hành tại Genoa- Italia vào năm 1347. Như vậy bảo hiểm hàng hải là
loại bảo hiểm đầu tiên, đánh dấu sự ra đời của bảo hiểm.
Khi xã hội phát triển, các hình thức cổ truyền không còn đảm bảo an toàn cho
cuộc sống cá nhân và cộng đồng nữa do vậy các loại bảo hiểm khác đã ra đời.
Năm 1667 công ty bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên ra đời tại Anh. Năm 1762, công ty
bảo hiểm nhân thọ Equitable là công bảo hiểm nhân thọ đầu.
II. NGUYÊN TẮC VÀ CÁC LOẠI HÌNH CỦA BẢO HIỂM.
1. Nguyên tắc cơ bản trong hoạt động bảo hiểm.
Bảo hiểm hoạt động theo quy luật số đông: Quy luật này giúp các nhà bảo
hiểm ước tính xác suất rủi ro nhận bảo hiểm, nhằm giúp tính phí và quản lý các
quỹ dự phòng của công ty bảo hiểm.
Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm: Quyền lợi có thể được bảo hiểm là
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản, quyền và nghĩa
vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm.
Nguyên tắc trung thực tuyệt đối:
Thứ nhất là đối với người tham gia bảo hiểm: đó chính là bổn phận khai báo

đầy đủ chính xác tất cả các yếu tố quan trọng có liên quan để giúp công ty bảo
hiểm giảm chi phí điều tra rủi ro.
Thứ hai đối với người bảo hiểm: Công ty bảo hiểm có nhiệm vụ phải cung
cấp đầy đủ, chính xác những thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải
thích các điều khoản, giải đáp những thắc mắc cho khách hàng.
Nguyên tắc “nguyên nhân gần”: Nguyên nhân gần là nguyên nhân chủ động
hữu hiệu và chi phối sự việc dẫn đến tổn thất cho đối tượng được bảo hiểm. Công
ty bảo hiểm sẽ bồi thường nếu nguyên nhân gần là nguyên nhân thuộc trách nhiệm
bảo hiểm.
Nguyên tắc bồi thường và nguyên tắc khoán: Nguyên tắc bồi thường: Mục
đích của nguyên tắc bồi thường là khôi phục tình trạng ban đầu hoặc một phần
theo mức độ thiệt hại cho người tham gia bảo hiểm. Nguyên tắc bồi thường chỉ
áp dụng cho bảo hiểm thiệt hại và bảo hiểm trách nhiệm dân
sự.
Nguyên tắc khoán: Người ta áp dụng nguyên tắc khoán mà số tiền được ấn
định trước trong các hợp đồng bảo hiểm và tách biệt với khái niệm bồi thường.
Nguyên tắc này được áp dụng trong các nghiệp vụ bảo hiểm con người và bảo
hiểm nhân thọ.
Nguyên tắc thế quyền đòi bồi hoàn: Khi rủi ro do một bên thứ ba gây ra và
phải gánh chịu một phần tổn thất thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường đúng giá trị
tổn thất. Sau khi đã nhận đủ tiền bồi thường, người được bảo hiểm phải uỷ quyền
cho công ty đòi lại phần trách nhiệm của bên thứ ba gây ra.
Nguyên tắc đóng góp tổn thất: Nguyên tắc này quy định khi các công ty cùng
bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm bị tổn thất có nghĩa vụ đóng góp bồi thường theo
tỷ lệ phần trăm trách nhiệm đã nhận bảo hiểm.
2. Các loại hình bảo hiểm cơ bản.
Căn cứ vào tính chất hoạt động, bảo hiểm được chia thành bảo hiểm xã hội
(BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) và bảo hiểm thương mại (BHTM).
2.1 Bảo


hiểm

xã hội: BHXH
Là loại hình bảo hiểm được thực hiện không vì mục đích lợi nhuận. BHXH là
chính sách xã hội của nhà nước nhằm tạo lập quỹ tài chính tập trung nhằm tài
trợ cho người lao động gặp rủi ro. BHXH có 5 chế độ chi trả sau: trợ cấp ốm
đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí,
chế độ tử tuất. BHXH đã mở rộng quyền cho người lao động, bảo vệ quyền và lợi
ích của người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng lao động, trợ giúp các chính sách kinh tế xã hội của nhà nước, đảm bảo
cho quản lý và an ninh lâu dài của nhà nước. Tuy vậy BHXH vẫn còn nhiều tồn
tại: thứ nhất, BHXH chỉ áp dụng đối với các đối tượng là người lao động làm
việc trong doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng từ
10 lao động trở lên, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan hành chính
sự nghiệp. Thứ hai, bảo hiểm chỉ giới hạn trong 5 chế độ chi trả đã kể trên, và
trong mỗi chế độ đó còn hạn chế phạm vi được bảo hiểm Thứ ba, mức độ chi
trả BHXH hiện nay vẫn còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu mong đợi của
người lao động. Thứ tư, thủ tục chi trả chế độ BHXH còn mang tính quan liêu,
hành chính gây khó khăn cho người lao động.
2.2 Bảo hiểm y
tế:
Cũng giống như bảo BHXH, BHYT hoạt động không vì mục đích kinh
doanh. BHYT là chính sách xã hội do nhà nước tổ chức thực hiện nhằm huy
động sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động, các tổ chức và
cá nhân để thanh toán chi phí khám chữa bệnh. Quyền lợi được bảo hiểm của
BHYT áp dụng cho 2 trường hợp: khám bệnh và chữa bệnh, điều trị nội trú. BHYT
có ý nghĩa to lớn: nó giúp những người tham gia bảo hiểm khắc phục khó khăn,
góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, thức hiện công bằng xã hội,
nâng cao tính cộng đồng và gắn bó mọi thành viên trong xã hội. Đồng thời
BHYT đã khắc phục được hạn chế của BHXH là: BHYT được áp dụng cho mọi

đối tượng trong xã hội. Tuy nhiên, BHYT vẫn còn một số hạn chế: thứ nhất, khách
hàng còn ít hiểu biết về BHYT. Thứ hai, mức độ bảo hiểm còn thấp: bảo hiểm y
tế chi trả 80% chi phí khám bệnh, 20% còn lại người bệnh tự chi trả. Thứ ba, thủ
tục quản lý BHYT vẫn còn rườm rà, gây nhiều trở ngại cho khách hàng, chi trả
bảo hiểm không đúng chế độ, có sự mất cân đối giữa chi phí cho khám chữa bệnh
ngoại trú và chữa bệnh nội trú.
2.3 Bảo

hiểm

thương

mại:
BHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. BHTM là biện pháp chia nhỏ tổn
thất của một hay một số ít người dựa vào một quỹ chung bằng tiền được lập bởi
sự đóng góp của nhiều người thông qua hoạt động của công ty bảo hiểm. Từ đây,
nền kinh tế còn có một nguồn đầu tư đáng kể từ quỹ của các công ty bảo hiểm.
BHTM được chia thành hai loại: bảo hiểm nhân thọ (BHNT) và bảo hiểm phi nhân
thọ (BHPNT):
2.3.1 Bảo

hiểm

nhân

thọ:
Là loại bảo hiểm qua đó công ty bảo hiểm cam kết sẽ trả một số tiền thoả thuận
khi có sự kiện quy định xảy ra liên quan đến tính mạng và sức khoẻ của con
người. BHNT chi trả trong các trường hợp sau: chi trả cho người thừa hưởng
trong trường hợp người được bảo hiểm không may qua đời, chi trả cho người

bảo được bảo hiểm khi hết hạn hợp đồng, chi trả cho người bảo hiểm khi họ bị
thương tật. Phí của một hợp đồng BHNT thường căn cứ vào: tỷ lệ tử vong, lãi suất
kỹ thuật (là những giả định về số lãi mà công ty bảo hiểm thu được nhờ đầu tư
khoản phí tạm thời nhàn rỗi vào các lĩnh vực đầu tư khác), các chi phí hoạt động
khác của công ty.
2.3.2
Bảo

hiểm

phi

nhân

thọ:
BHPNT là các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại khác không phải là BHNT.
BHPNT được chia thành ba loại hình cơ bản sau:Bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách
nhiệm dân sự và bảo hiểm con người.
Ngoài các đặc trưng giống như BHTM nói chung, BHPNT còn có các đặc
trưng chủ yếu sau:Hoạt động BHPNT là một hợp đồng có thời hạn ngắn: thường
là một năm hoặc ngắn hơn. BHPNT chỉ bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm khi có
rủi ro được bảo hiểm xảy ra.
CHƯƠNG II: HOẠT ĐỘNG CỦA NGHÀNH
BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM
I. HOẠT ĐỘNG NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM :
1. Nguồn thu:
BHXH Việt nam là một quỹ BHXH được quản lý thống nhất và sử dụng để
chi trả 5 chế độ BHXH . Trong quá trình phát triển, BHXH Việt Nam đã từng
thực hiện cả theo 2 mô hình: nhà nước thực hiện toàn bộ (bao cấp) và nhà nước tổ
chức có sự tham gia của giới chủ và giới. Theo nghị định 12/CP ngày 26/1/1995

của chính phủ về việc ban hành điều lệ quy định: đối tượng tham gia BHXH được
mở rộng cho cả những người lao động trong các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế có sử dụng từ 10 lao động trở lên. Cũng theo quy định này, quỹ
BHXH được hình thành từ: sự đóng góp của người lao động 5% tiền lương, người
sử dụng lao động 15% quỹ lương. Số dư BHXH năm 2002 là 25.000 tỷ đồng. Số
người tham gia BHXH năm 2002 là 4,8 triệu người. Ngoài ra, BHXH còn có
nguồn thu từ lợi nhuận đầu tư. Lãi thu từ đầu tư của quỹ BHXH năm 2002 là
1.100 tỷ đồng.
2.
Nguồn chi:
Từ nguồn thu nói trên quỹ BHXH Việt Nam đã sử dụng để chi trả các loại chi
phí. Số người được hưởng chế độ BHXH năm 2002 khoảng 190.950 người. Đó
là chi trả cho các đối tượng được hưởng BHXH từ sau 1/1/1995, vì những đối
tượngvề hưu. Trong nhiều năm gần đây, BHXH Việt Nam đã cố gắng tự cân đối
thu chi để giảm nguồn trợ cấp từ Ngân sách nhà nước. Tuy vậy, từ năm 2002,
hàng năm quỹ BHXH thu không đủ chi, phải dùng quỹ BHXH tồn tích của
những năm trước để chi tiêu. Dự báo đến khoản năm 2035 thì quỹ BHXH sẽ hết
khả năng chi trả.
Hiện nay, BHXH còn đang nỗ lực đóng góp vai trò trong quá trình cải cách
tiền lương ở Việt Nam. Bởi vì quỹ BHXH đóng góp được sử dụng để chi trả 5
chế độ trong đó có chế độ hưu trí và tử tuất. Nâng cao mức sống của những người
lao động đã thôi lao động thì BHXH là một mục tiêu trọng yếu.
Bên cạnh tất cả những vai trò quan trọng trên đây, BHXH vẫn còn tồn tại rất
nhiều hạn chế: hạn chế trong quy chế quản lý thu BHXH, hạn chế ở quy chế quản
lý chi trả các chế độ BHXH, hạn chế về quy chế bảo toàn và tăng trưởng quỹ, hạn
chế trong quy chế cân đối quỹ.
II. HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH BẢO HIỂM Y TẾ Ở VIỆT NAM
Qua đánh giá kết quả 10 năm thực hiện chính sách BHYT(1992-2002)
chúng ta có thể đưa ra một số nhận xét khái quát sau:
• Số người tham gia bảo hiểm tuy có xu hướng tăng nhanh:

Chính sách Bảo hiểm y tế (BHYT) sau gần 10 năm triển khai thực hiện đã thu
được những kết quả rất quan trọng . Số người tham gia BHYT tăng nhanh từng
năm, tính đến thời điểm năm 2002 đã có 12,7 triệu người tham
gia bảo hiểm y tế
,chiếm 16% dân số trong cả nước. Ngoài khu vực BHYT
bắt buộc, còn có trên 4,2
triệu người đang tham gia các chương trình BHYT xã hội tự nguyện

• Sử dụng quỹ BHYT
Nhiều năm qua, nguồn thu BHYT đã gần bằng 1/3 Ngân Sách Nhà nước dành
cho ngành y tế và 50% Ngân sách dành cho lĩnh vực điều trị. Trên 90% bệnh nhân
chạy thận chu kỳ tại các trung tâm lọc máu là người có thẻ BHYT.
Hàng năm thanh toán quỹ BHYT cho hàng ngàn người mắc bệnh, với chi phí
tới hàng chục triệu đồng một người. Ngoài những dịch vụ y tế thiết yếu ,người có
bảo hiểm BHYT còn được quỹ BHYT thanh toán chi phí cho các dịch vụ y tế kỹ
thuật cao như các kỹ thuật chuẩn đoán hình ảnh hiện đại (siêu âm màu ,chụp ảnh
cắt lớp vi tính CT Scaner, cộng hưởng từ hạt nhân MRI các phương pháp điều
trị chi phí cao (thận nhân tạo ,điều trị ung th- ư,mổ tim )
Hệ thống BHYT và các cơ sở khám chữa bệnh đã phối hợp để tăng cường
tiếp cận dịch vụ y tế cho người tham gia BHYT, đảm bảo cho bệnh nhân BHYT
được chăm sóc sức khoẻ ngay tại y tế tuyến xã. Đến cuối năm 2002, khoảng 50%
trạm y tế xã trong toàn quốc đã tổ chức khám chữa bệnh thông thường cho người
có thẻ BHYT.
BHYT và các bệnh viện ở một số thành phố lớn đã triển khai thí điểm cải cách
thủ tục hành chính trong tiếp nhận và khám bệnh, kê đơn cấp thuốc cho bệnh nhân
BHYT. Quyền lợi bệnh nhân BHYT ngày càng được tăng cường và đảm bảo
hơn.
III. BẢO HIỂM THƯƠNG
MẠI:
1. Việc hình thành ngành bảo hiểm ở Việt Nam

:
Công ty bảo hiểm đầu tiên được thành lập ở Việt Nam là công ty bảo hiểm
Việt Nam (Bảo Việt)-tiền thân của tổng công ty bảo hiểm Việt Nam ngày nay.
Bảo Việt được thành lập theo quy định số 179/CP ngày 17/45/1964 của chính
phủ và chính thức đi vào hoạt động ngày 15/01/1965. Bảo Việt có trụ sở chính tại
Hà Nội và một chi nhánh tại Hải Phòng. Bảo Việt hoạt động khá thành công trên
thị trường bảo hiểm Việt Nam.
2. Hệ thống các công ty bảo hiểm ở Việt Nam.
2.1 Các công ty bảo

hiểm

nhà

nước :
Tính đến tháng 5/2003, Việt Nam có 18 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm:
3 doanh nghiệp nhà nước, chiếm 75% thị phần, 5 công ty cổ phần, 5 công ty liên
doanh, 5 công ty 100% vốn nước ngoài. Dưới đây là một số công ty điển hình.
Tổng

công

ty

bảo

hiểm

Bảo


Việt: hiện nay Bảo Việt là công ty bảo hiểm
lớn nhất Việt nam có chi nhánh và đại lý rộng khắp trên cả nước. Số vốn của bảo
hiểm cũng rất lớn, tính riêng số quỹ dự phòng bảo hiểm cũng chiếm trên 2200 tỷ
đồng.
Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh)
Bảo Minh được thành lập theo quy định số 1164 TC/QĐ/TCCB ngày
28/11/1994 và chính thức đi vào hoạt động ngày 20/12/1994. Bảo Minh được
thành lập với số vốn đăng ký kinh doanh là 40 tỷ đồng.
2.2 Các công ty bảo

hiểm

cổ

phần:
Công ty bảo hiểm Petrolimex (PJICO): công ty bảo hiểm Petrolimex là
công ty cổ phần đầu tiên hoạt động trong ngành bảo hiểm được thành lập ngày
15/06/1995 với số vốn kinh doanh ban đầu là 55 tỷ đồng.
2.3 Các công ty bảo

hiểm

liên doanh: Gồm 5 công ty:
Công ty liên doanh bảo
hiểm quốc tế
VIA: Công ty này chính thức đi vào
hoạt động ngày 5/8/1996. VIA là kết quả của sự liên kết thành lập bởi 3 công ty:
Bảo Việt- Việt Nam, commercial union-UK và Tokyo Marine and Fire insurance
Co Nhật Bản. Vốn đăng ký kinh doanh của công ty là6000.000 đô la Mỹ.
Trong đó Bảo Việt góp 51% vốn, 49% còn lại chia đều cho cả hai công ty nước

ngoài. Tính đến năm 2000 thị phần bảo hiểm của công ty chiếm 2%. Công ty VIA
chỉ tham gia bảo hiểm phi nhân thọ.
Công ty trách nhiệm

hữu

hạn

bảo

hiểm

nhân

thọ

Bảo

Minh - CMG:
Đây là công Ty liên doanh giữa tập đoàn CMG (Úc) và công ty bảo hiểm thành
phố Hồ Chí Minh. Công ty chính thức đi vào hoạt động ngày 12/11/1999
với thời hạn hoạt động 30 năm. Số vốn đăng ký kinh doanh của công ty là
10.000.000 USD.
2.4 Các công ty bảo

hiểm
100%

vốn


nước

ngoài:
Công ty trách
nhiệm

hữu

hạn

BHNT

Chinfon-Manulife: đây là công ty
100% vốn nước ngoài liên doanh giữa tập đoàn Chinhfon-Đài Loan và tập đoàn
Manulife-Canađa. Công ty liên doanh này chính thức đi vào hoạt động từ ngày
12/6/1999, có thời hạn hoạt động 50 năm. Vốn đăng ký kinh doanh của công ty
là 10.000.000 đô la Mỹ. Lĩnh vực hoạt động là thị trường BHNT.
Công ty trách nhiệm

hữu

hạn

BHNT

Prudential: Đây là một công ty
100% vốn nước ngoài của Anh Quốc, chính thức đi vào hoạt động từ ngày
29/10/1999. Vốn đăng ký kinh doanh 14.000.000 đô la Mỹ, hoạt động trong thời
hạn 50 năm. Prudential có tốc độ khai thác tương đối tốt, chủ trương khuyến
khích đại lý đi về các địa phương khai thác và tuyên truyền quảng cáo.

Công ty trách
nhiệm

hữu

hạn

BHNT

quốc

tế

Mỹ

(AIA): là một công ty
100% vốn nước ngoài của Mỹ, đi vào hoạt động từ ngày 22/2/2000 với số vốn
đăng ký kinh doanh là 14.000.000 đô la Mỹ, có thời hạn hoạt động 50 năm.
Ngoài ra còn một số công ty bảo hiểm mới được cấp giấy phép kinh doanh
như: công ty liên hiệp bảo hiểm UIC, công ty bảo hiểm Việt-Úc công ty bảo hiểm
dầu khí, công ty cổ phần bảo hiểm Bảo Bưu, công ty môi giới bảo hiểm Bảo
Việt-Inchcape, công ty cổ phần bảo hiểm Bảo Long, công ty Allianz, công ty
100% vốn nước ngoài Groupama-Gan hoạt động trên lĩnh vực bảo hiểm nông
nghiệp (cấp cuối năm 2001), công ty liên doanh bảo hiểm giữa ngân hàng đầu tư
và phát triển Việt Nam với một đối tác của Australia đang chờ giấy phép thành
lập.
3. MÔI TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY BẢO
HIỂM
VIỆT
NAM.

3.1. Việt

Nam là

một

thị

trường

bảo

hiểm

tiềm

năng:
Thứ nhất, Việt Nam là một con số các quốc gia đông dân trên thế giới, năm
1999 dân số Việt Nam vào khoảng 76 triệu dân. Đây là một điều kiện rất thuận
lợi cho sự phát triển của bảo hiểm. Thêm vào đó, mỗi người khác nhau ở những
độ tuổi khác nhau, giới tính khác nhau… lại có những nhu cầu bảo hiểm khác
nhau nên thị trường bảo hiểm sẽ không ngừng thay đổi và phát triển.
Thứ hai, nguồn tiền do dân nắm giữ chiếm 1 tỷ lệ tương đối lớn khoảng 6-8 tỷ
đô la, trong đó có khoảng 64% là nắm giữ dưới dạng bất động sản. Do đó nhu cầu
bảo hiểm tài sản lại nhiều.
Thứ ba, nước ta đang bước vào giai đoạn đổi mới toàn diện, đời sống nhân
dân không ngừng được cải thiện, các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh
được thành lập. Vì điều này nên tài sản của con người sở hữu sẽ tăng lên, các nguy
cơ rủi ro đối với con người và tài sản của họ cũng tăng lên. Từ đó nhu cầu bảo
hiểm cũng tăng.

Thứ tư, Việt Nam là dân tộc có truyền thống “tương thân tương ái”, “lá lành
đùm lá rách”. Tinh thần tương thân tương ái cũng chính là nội dung của bảo hiểm,
vì vậy nét văn hoá Việt Nam chính là một thuận lợi của bảo hiểm.
3.2 Bảo

hiểm

Việt

Nam

đã có 1 hiệp

hội

riêng :
Các công ty bảo hiểm Việt Nam thống nhất thành lập hiệp hội bảo hiểm Việt
Nam từ ngày 9/7/1999 theo quy định của bộ trưởng. Hiệp hội có 13 công ty
thành viên gồm 7 công ty bảo hiểm Việt Nam, 3 công ty liên doanh, 3 công ty
100% vốn nước ngoài. Hiệp hội bảo hiểm thực hiện chức năng cầu nối giữa các cơ
quan quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, thực hiện quy chế tự
quản, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy hợp tác trong kinh
doanh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm.
3.3 Bảo hiểm Việt Nam đã có hành lang pháp lý riêng
Nhà nước Việt Nam đã có các thông tư hướng dẫn thi hành luật kinh doanh
bảo hiểm bảo vệ lợi ích của người được bảo hiểm, người kinh doanh bảo hiểm và
công chúng. Một số các luật và văn bản dưới luật về kinh doanh các loại hình
bảo hiểm có thể được kể đến là:
Luật dân sự ngày 9/11/1995 liên quan đến hợp đồng bảo hiểm ( mục 11,
chương 2 từ điều 271 đến điều 584).

Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 12/11/1996 (bổ sung, sửa đổi ngày
9/6/2000) liên quan đến doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bảo hiểm tài sản
và trách nhiệm với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam ( điều 28 chương 4)
Ngoài ra còn có các văn bản pháp lý khác như nghị định số 72/1998/NĐ- CP,
nghị định số 92/1998/NĐ-CP, thông tư số 71/2001/TT-BTC, thông tư số
72/2002/TT-BTC … Đó chính là cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo
hiểm ở Việt Nam.
B. TÁI BẢO HIỂM
Sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta đã đưa nền kinh tế
đ
ang
hoà nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Xã hội càng văn
minh thì nhu
c
ầu
cần được bảo vệ của con người ngày càng lớn. Để được bảo
vệ, con người đã sử
dụng
nhiều biện pháp: tích luỹ, để dành, đi vay, tương trợ
lẫn nhau. Nhưng biện pháp hữu
hi
ệu
hơn cả là bảo hiểm- việc chuyển giao rủi
ro cho công ty bảo
h
i

m.
Tuy nhiên, ngay chính bản thân công ty bảo hiểm có thể gặp phải rủi ro đòi
hỏ

i
được bảo vệ. Và công ty bảo hiểm cũng đi tìm kiếm người bảo vệ cho
mình, đó là
h
ì
nh
thức tái bảo hiểm. Tái bảo hiểm như là một công đoạn trong
chu trình hoạt động
ki
nh
doanh để phân tán rủi ro đảm bảo kinh doanh và sự
sống còn cho mỗi tổ chức bảo
hi

m

v
à
cả thị trường bảo hiểm nói
ch
ung.
Bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật nói riêng là một trong
những ngành đóng góp nhiều cho sự phát triển kinh tế. Tuy liên tục tăng
trưởng nhưng
khả

năng
khai thác nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật ở Việt Nam vẫn
chưa sánh với tiềm năng
c


a
nghiệp vụ này. Hơn nữa, khả năng đóng góp của
bảo hiểm kỹ thuật cho nền kinh tế
Vi

t
Nam còn phụ thuộc vào kết quả kinh
doanh tái bảo hiểm kỹ thuật có hiệu quả
hay
không. Hiệu quả ở đây được
hiểu là các công ty bảo hiểm trong nước cần nghiên
c
ứu
các phương pháp tái
bảo hiểm hợp lý sao cho: “bằng một mức phí ít nhất, bảo vệ
đượ
c
tối đa trách
nhiệm bảo hiểm”, đồng thời ổn định kinh doanh cho công ty bảo hiểm
gố
c.
Thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm kỹ thuật ở Việt Nam còn non trẻ. Do
vậy,
đố
i
với các công ty bảo hiểm thì đây là một mảnh đất màu mỡ cần được
khai

thác sao cho có hiệu quả và sinh nhiều lợi nhuận. Đối với nhà nước thì

đây là
m

t
hoạt động cần có sự quan tâm thích đáng, quản lý, hỗ trợ để các
công ty bảo hiểm trong nước có thể cạnh tranh được với các công ty bảo
hiểm nước ngoài đang hoạt động
t

i
Việt Nam.
CHƯƠNG IV : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁI
BẢO HIỂM
I.



KH Á I

Q U

ÁT C H

U NG VỀ

TÁI

B ẢO H I

Ể M.

1. TÁI BẢO HIỂM VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TÁI BẢO
HIỂM.
1.1. Tái bảo hiểm là

?
1.1.1. Sự cần thiết của tái bảo
hi

m.
Một công ty bảo hiểm cũng giống như các công ty trách nhiệm hữu hạn hay m

t
công ty cổ phần hay một doanh nghiệp nhà nước khác được thành lập với một số
vốn
nhất định nên phải chịu trách nhiệm với phần vốn của mình đối với mọi hoạt
động
kin
h
doanh của mình trên thương trường, và tất nhiên một công ty bảo hiểm
thì khả
năng

nhận
bảo hiểm bị giới hạn trong phạm vi số vốn này. Chính vì vậy,
trong quá
trình

kinh
doanh bảo hiểm, các công ty bảo hiểm luôn bị đe dọa bởi sự
phá sản

bở
i:
Có những đối tượng tham gia bảo hiểm với số tiền tham gia bảo hiểm quá l
ớn
vượ
t
quá khả năng tài chính của công ty bảo hiểm, do đó nếu chấp nhận rủi ro và khi
t
ổn
thất xảy ra chắc chắn công ty sẽ bị phá
s
ản.
Khi những rủi ro được bảo hiểm xảy ra liên tục trong một thời gian ngắn, lúc
đó
công ty bảo hiểm không đủ khả năng để đánh giá kiểm soát rủi ro, công tác chi
trả,
bồ
i
thường cũng không thể làm một cách chặt chẽ và khi đó khả năng phải tuyên
bố phá sản

rất
l
ớn.
Đối với công ty bảo hiểm mới thành lập, mạng lưới đại lý chưa rộng và thi
ếu
kinh nghiệm, các khâu chưa hoàn chỉnh cũng dễ bị phá
s
ản
Có những trường hợp phương pháp tính phí chưa thật chuẩn xác vì có

những
rủi ro mới xuất hiện, ngành bảo hiểm chưa có số liệu thống kê đầy đủ hoặc không đủ
khả
năng quản lý rủi ro nên chưa có biện pháp quản lý hữu
h
i
ệu.
Đứng trước thực trạng có thể bị phá sản và để đảm bảo hoạt động kinh
doan
h
có hiệu quả mà vẫn có thể nhận được những hợp đồng bảo hiểm có giá
trị
bảo hiểm lớn, các công ty bảo hiểm phải liên kết với nhau để phân tán bớt
phần
rủi
ro mà mình có thể gặp phải trong hợp đồng bảo hiểm mà mình đã nhận, một trong
những cách để phân tán rủi ro đó là tái bảo hiểm. Vì vậy, một nghiệp vụ mới xuất
hi
ện
trong các công ty bảo hiểm là các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp đã ra
đời
để

đ
áp
ứng nhu cầu cho các công ty bảo hiểm và đảm bảo cho người tham gia
bảo
hi

m.

Như vậy, "tái bảo hiểm là sự bảo hiểm cho những rủi ro mà người bảo hiểm
phả
i
gánh chịu". Nói cách khác tái bảo hiểm là một loại nghiệp vụ mà người bảo
hiểm
s


dụng
để chuyển một phần trách nhiệm đã chấp nhận với người được bảo
hiểm cho
ngườ
i
bảo hiểm khác, trên cơ sở nhượng lại cho người bảo hiểm đó một
phần phí bảo hiểm
th
ông
qua hợp đồng tái bảo
h
i

m.
Trong tái bảo hiểm, công ty bảo hiểm gốc (hay công ty nhượng tái bảo
hi

m)
nhận bảo hiểm cho người tham gia, sau đó chuyển giao một phần rủi ro đã
nhận bảo
hi


m
cho các công ty nhận tái bảo hiểm (hay nhà tái bảo hiểm). Khi tổn
thất xảy ra thuộc
phạ
m
vi bảo hiểm, công ty bảo hiểm gốc phải bồi thường cho
người được bảo hiểm trên cơ
s

khả năng tài chính của mình, sau đó đòi lại phần
trách nhiệm từ công ty nhận tái
bảo

hi

m.
Ở đây, người được bảo hiểm không có
quan hệ trực tiếp với công ty nhận tái
bảo

h
i

m.
Tái bảo hiểm đã được các nhà kinh tế, các nhà bảo hiểm công nhận và đánh giá
cao
.
Nhưng nhìn chung nó được thể hiện trên một số mặt
sa
u

:
* Phân tán rủi ro, góp phần ổn định tài chính cho các công ty bảo hiểm
gố
c,
đặc
biệt trong trường hợp xảy ra sự cố thảm họa mang tính chất tích tụ, tập trung rủi
ro.
* Giúp cho các công ty nhỏ mới thành lập ổn định và phát triển nhờ sự
t
ư
vấn
về nghiệp vụ từ các công ty tái bảo
h
i

m.
* Góp phần ổn định đời sống cho công nhân viên trong công ty bảo hiểm gốc
do
công ty bảo hiểm bị phá sản và gián tiếp bảo hiểm quyền lợi của
ngườ
i

tham
gia
.
* Ngoài ra, tái bảo hiểm còn góp phần ổn định ngân sách nhà nước, đồng
th

i
t

h
úc
đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, xã hội giữa các nước , Ngày nay, tái bảo hiểm
ng
ày
càng phát huy tác dụng và trở thành phương thức hoạt động quan trọng của hoạt
động
ki
nh
doanh bảo hiểm của các
nướ
c.
1.2. Lịch sử phát triển của tái bảo
hi
ểm.
Trên

thị trường



bả

o h

iểm

th

ế

gi

i.
Vào giai đoạn cuối cùng của thời Đại Trung Cổ, khi ngành bảo hiểm bắt
đầu
phát triển và mở rộng ở Châu Âu thì nhu cầu tái bảo hiểm đã xuất hiện và ngày
càng
tăng nhanh cùng với sự phát triển của nền kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa. Bản
giao ước
c

nhất được biết đến có tính chất pháp lý như một hợp đồng
tái

bảo
hiểm được ký kết vào tháng 12/1370 tại thành phố Genoa - Italy, bảo
hi

m
cho
một chuyến hàng từ Genoa tới Flader (Belgium). Với sự phát triển rộng rãi các
m

i
quan hệ thương mại giữa các thành phố của Italia cũng như các nước Bắc
Âu
dị
ch
vụ tái bảo hiểm cũng phát triển theo. Điển hình là ở Anh, nhưng sau đó do
có nhiều vụ

l

i
dụng tái bảo hiểm nên chính phủ Hoàng Gia Anh đã ra lệnh cấm
hoạt động tái bảo
hi

m
trong lĩnh vực vận chuyển hàng hóa trên biển
t

1746-
1864. Tuy nhiên các loại hình tái bảo hiểm khác vẫn phát triển như: tái bảo
hi

m
cháy, tái bảo hiểm nhân
th

Đến giữa thế kỷ XIX, nhờ áp dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất, kinh
t
ế
các nước tư bản phát triển mạnh, giao lưu hàng hoá được tăng cường cho nên tái
bảo
hiểm cũng có điều kiện hình thành các tổ chức độc lập. Năm 1864, công ty tái
bảo

hi

m

chuyên nghiệp đầu tiên ra đời tại Đức lấy tên là Công ty tái bảo hiểm
Cologne
(Kolnishe Ruck AG). Tiếp theo đó là sự ra đời của hàng loạt các công ty
tái bảo
h
i

m
chuyên nghiệp
như
:
* Công ty tái bảo hiểm Thụy Sĩ (Swiss Re) năm
1863.
* Công ty tái bảo hiểm London (London Guarantee Reinsurance
Co.,Lt
d)
năm
1869.
* Công ty tái bảo hiểm Munich (Munchenes Ruck AG) năm
1880.

Việc thành lập các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp là một sự kiện có tính
chất quan trọng trong việc phát triển của ngành bảo hiểm. Bằng cách tái bảo hiểm,
các
công ty bảo hiểm đã có sẵn trong tay nguồn đảm bảo đắc lực cho hoạt động
kinh
doanh
của họ. Do đó, khả năng cạnh tranh của các công ty bảo hiểm gốc và
khả năng phục
vụ

của các công ty tái bảo hiểm cũng được cải tiến bằng việc mở
rộng tái bảo hiểm cho
các
loại hình bảo hiểm với các thị trường bảo hiểm nước
ngoài. Hai cuộc chiến tranh thế
gi

i
làm ảnh hưởng tới sự phát triển của ngành
bảo hiểm nói chung và tái bảo hiểm
nói
riêng, nhất là các công ty tái bảo hiểm ở
Đức. Đặc biệt là chiến tranh thế giới lần thứ
II

đ
ã
ảnh hưởng đến nền
kinh
tế các
nước là rất lớn, làm cho hoạt động bảo hiểm và tái bảo hiểm bị ngưng trệ,
th

m

c
h
í
ở một số nước, nhà cầm quyền còn trưng dụng cả quỹ bảo hiểm để phục vụ
chi

ến
tranh. Vì vậy mà hoạt động tái bảo hiểm gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, hoạt
động
bảo hiểm và tái bảo hiểm ở Thụy Sĩ vẫn rất phát
tri
ển.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, cục diện Thế giới đã thay đổi, hệ thống xã
hộ
i
chủ nghĩa đã ra đời và phát triển, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
đị
a

giành
nhiều thắng lợi, kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa bị khủng hoảng đã
ảnh
hưởng rất nhiều tới hoạt động tái bảo hiểm. Cụ thể là thời kỳ này hoạt động tái
bảo
h
i

m
trên thế giới có 3 đặc điểm
sa
u
:
* Sự phục hồi các công ty tái bảo hiểm của cộng hoà liên bang
Đứ
c.

* Thành lập các công ty tái bảo hiểm của các nước xã hội chủ nghĩa với
đặc
điểm thực hiện độc quyền về tái bảo hiểm và hạn chế các mối quan hệ với các nước

bản.

* Các nước chậm phát triển mới giành độc lập cũng thực hiện độc quyền tái
bảo
hiểm như Achentina, Brazil, Chile, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và một số nước ở Châu
Phi,
Đông
Nam Á làm thu hẹp thị trường tái bảo hiểm quốc
t
ế.
Cho đến nay, hoạt động tái bảo hiểm ngày càng phát triển mạnh mẽ, rộng khắp

có mối quan hệ giữa các nước làm cho sức cạnh tranh trong hoạt động tái bảo
hiểm
t
ăng
lên đáng
kể.
Trên

thị t rườ ng



bả


o h

iểm

V i

ệ t

Nam.

Hoạt động bảo hiểm ở nước ta ra đời muộn hơn so với thế giới rất nhiều.
N
ă
m
1965, một công ty hoạt động với tính chất thương mại ra đời gọi là Công ty bảo
hi

m

Vi

t
Nam, hoạt động độc quyền trong khoảng 30 năm, sau đó đổi thành Tổng
công ty
bảo
hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Năm 1993 khi chuyển sang nền kinh tế
thị trường, nước
ta
đã có những bước phát triển đáng kể và ngành
bảo

hiểm cũng
có sự khởi sắc. Trước đây, các nghiệp vụ bảo hiểm và tái bảo hiểm đều do
B
ảo
Việt
đảm nhận thì nay, sau khi nghị định 100 - CP (18/12/1993) của Chính Phủ
ban
hành, một loạt các công ty bảo hiểm được thành lập và đi vào hoạt động như: Bảo
Min
h,
Bảo Long, Pjico, PVI, PTI, Allianz, VIA, IAI, BIDV-QBE, SamsungVina,
ngoài
ra

còn
có các công ty bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động trên thị trường
bảo hiểm
Vi

t
Nam (mới chỉ trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ) tạo ra sự sôi động
cho thị trường
bảo
hiểm Việt Nam. Tuy nhiên, đối với một thị trường bảo hiểm còn
non trẻ và mới bắt
đầu
phát triển thì việc hình thành một công ty tái bảo hiểm
chuyên nghiệp là rất cần thiết
cho
hoạt động của thị trường bảo hiểm trong nước,

đồng thời tăng cường mối quan hệ với
thị
trường bảo hiểm và tái bảo hiểm thế giới.
Chính vì vậy, cùng với sự ra đời và phát
tri
ển
của các công ty bảo hiểm gốc, hoạt
động tái bảo hiểm ở Việt Nam cũng ra đời và
phát tri
ển.
Có thể khái quát một số nét về hoạt động tái bảo hiểm ở nước ta như
sau:
* Từ năm 1965-1975: giai đoạn độc quyền của Bảo Việt nhưng cũng chỉ
th

c
hiện tái bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu và thân tàu thuỷ với các nước xã
hộ
i
chủ nghĩa. Đây là giai đoạn thử nghiệm quá trình phát triển hoạt động bảo
hiểm và
tái
bảo
h
i

m.
* 1975-1994: hoạt động tái bảo hiểm đã được mở rộng và phát triển hơn.
Tr
ướ

c
tháng 2-1993 Bảo Việt giữ lại 5% và tái đi 10% cho các nước xã hội chủ nghĩa và
85%
cho hội tái bảo hiểm Tây Âu. Đối với dịch vụ bảo hiểm hàng không, tái
bảo
hi

m

t
o
à
n
bộ giá trị bảo hiểm thân máy bay, mức trách nhiệm giữ lại rất ít
(2%). Còn tái
bảo
hiểm dầu khí là 80-90% cho các công tái bảo hiểm trên thế
gi

i.
* Tuy hoạt động tái bảo hiểm có sự phát triển nhưng mức giữ lại của các công
ty
bảo hiểm gốc là rất thấp và hầu như tái đi toàn bộ, dù được hưởng
phần

hoa
hồng nhưng ảnh hưởng tới lợi nhuận của công ty tái. Để khắc phục
những
hiện
trạng đó, chính phủ đã ra quyết định thành lập công ty tái bảo hiểm Quốc gia Vi


t
Nam (viết tắt là Vinare) ngày 20/12/1994 với vốn điều lệ là 40 tỷ đồng và chính
thức
đ
i
vào hoạt động ngày
01/01/1
995.
2. CÁC HÌNH THỨC TÁI
BẢO

HIỂM.
Có 2 hình thức tái bảo hiểm chính là tái bảo hiểm tạm thời và tái bảo hiểm c

định.
Xét về xuất xứ thì tái bảo hiểm tạm thời ra đời trước, tuy nhiên hình thức này
dần

bộ
c
lộ nhiều nhược điểm khiến nó được sử dụng ít đi và thay vào đó là hình
thức tái
bảo
hiểm cố định. Ngoài ra còn có một hình thức tái bảo hiểm nữa là sự kết
hợp giữa 2
h
ì
nh
thức trên gọi là tái bảo hiểm lựa chọn-bắt

buộ
c.
2.1. Tái bảo hiểm tạm thời (Facultative
Reinsurance)
.
2.1.1. Khái
ni

m.
Tái bảo hiểm tạm thời hay còn gọi là tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn, là hình
th

c
tái
bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất. Theo hình thức này, công ty bảo hiểm gốc
c
huyển
nhượng cho công ty tái bảo hiểm từng dịch vụ hay từng đơn bảo hiểm một
cách riêng
l
ẻ.

V

phần mình, công ty tái bảo hiểm có quyền nhận hay từ chối dịch
vụ và đơn bảo
hi

m
đó. Công ty bảo hiểm gốc có toàn quyền quyết định tái bảo

hiểm cho dịch vụ nào, với
t


l

bao nhiêu, cho công ty tái bảo hiểm nào là tuỳ họ.
Mặt khác công ty tái bảo hiểm
c
ó
quyền nhận hay từ chối hoặc chỉ nhận tái bảo
hiểm với một tỷ lệ mà họ cho là thích
hợp.
Công ty bảo hiểm gốc có nghĩa vụ phải cung cấp cho công ty tái bảo hiểm m

i
thông tin có liên quan đến dịch vụ được bảo hiểm. Trên thực tế nhà tái bảo hiểm
c
ũng
tiến hành đánh giá mức độ rủi ro của dịch vụ rồi quyết định có nhận tái bảo
hiểm
hay

không
mà không cần đầy đủ các chi
ti
ế
t.
2.1.2.
Ưu nhược điểm

* Ưu
đ
i

m:

- Phương pháp này cho phép các công ty bảo hiểm nhỏ, với kinh nghiệm t
ương
đối hạn chế có thể cạnh tranh để nhận những dịch vụ lớn nằm ngoài
khả
năng của
mình, bởi vì họ có thể sử dụng được chuyên môn nghiệp vụ và khả năng vốn
c

a
các
thị trường tái bảo hiểm quốc
t
ế.

- Cho phép công ty bảo hiểm gốc nhận những dịch vụ nằm ngoại phạm vi khai
thác thông thường của mình. Những dịch vụ như vậy chủ yếu là theo yêu cầu đặc
biệt
c

a
khách hàng mà công ty bảo hiểm gốc phải chấp nhận để giữ uy tín cho

nh.


- Một nhóm các công ty bảo hiểm gốc có quan hệ thân thiết có khả năng
trao
đổ
i
các rủi ro được đánh giá là tốt trên cơ sở tạm thời để tiến hành phân tán rủi ro


đả
m
bảo doanh thu ổn
định.
* Nhược
đ
i

m

- Đòi hỏi nhiều thời gian vì mỗi dịch vụ phải được giải quyết riêng lẻ. Công
t
y
bảo hiểm gốc phải thu xếp tái bảo hiểm tạm thời trước khi nhận một dịch vụ, do
đó
v
i

c
quyết định nhận bảo hiểm sẽ bị chậm lại cho đến khi thu xếp xong toàn bộ
tái bảo
hi


m
tạm thời. Như vậy, công ty bảo hiểm gốc có khả năng phải nhường
dịch vụ cho
những

đố
i
thủ cạnh tranh lớn mạnh hơn, hoặc nhận bảo hiểm mà không
được bảo vệ đầy đủ
bằng
tái bảo hiểm và đôi khi làm mất thiện chí với khách hàng
do chậm
t
rễ.
- Những công việc liên quan đến đàm phán, soạn thảo hợp đồng và thanh toán
rấ
t
tốn kém và do đó giảm lợi nhuận thu
đượ
c.
- Trước mỗi thời kỳ tái bảo hiểm tiếp tục, công ty bảo hiểm gốc lại phải lặp lại
toà
n
bộ quy trình đàm phán trước khi trao đổi với khách hàng của mình. Chưa kể
việc hủy
bỏ
hay thay đổi có thể gây ra thêm nhiều công việc khác không
c
ần


thi
ế
t.
- Sự cần thiết phải tiết lộ những thông tin về dịch vụ nhận bảo hiểm có
t
hể
dẫn
đến việc rò rỉ tin tức cho các đối thủ cạnh
tran
h.
2.2. Tái bảo hiểm cố định
(
Obligatory-Reinsurance).
2.2.1. Khái
ni

m.
Tái bảo hiểm cố định hay còn gọi là tái bảo hiểm bắt buộc, là hình thức tái
bảo
hiểm mà theo đó công ty nhượng phải nhượng cho nhà tái bảo hiểm tất cả các đơn vị
rủi
ro
bảo hiểm gốc mà hai bên đã thoả thuận và quy định trong hợp đồng. Ngược
lại, nhà
tái

bảo
hiểm cũng buộc phải chấp nhận bảo hiểm toàn bộ các rủi ro
đó.
2.2.2. Ưu, nhược đ

i

m.
* Ưu
đ
i

m:
- Giúp công ty nhượng chủ động chấp nhận, định phí bảo hiểm cho rủi ro bảo
hiểm gốc mà không phải mất thời gian tham khảo ý kiến của của nhà tái bảo hiểm,
do
đó
hợp đồng bảo hiểm sẽ nhanh chóng được ký kết
.
- Công ty nhượng được nhà tái bảo hiểm bảo vệ cho mọi rủi ro thuộc phạm vi
hợp
đồng, do đó khả năng an toàn của công ty bảo hiểm được đảm
bảo.
- Việc nhận tái bảo hiểm theo hợp đồng cố định cho phép công ty tái bảo
hi

m
nhận được nhiều dịch vụ hơn so với việc nhận từng hợp đồng tạm thời đơn lẻ. Nhà
tái

bảo
hiểm có điều kiện thu được phí lớn, phù hợp với nguyên tắc "quy luật số
đông"
g
i

úp
nhà tái bảo hiểm có điều kiện đẩy mạnh tiến bộ kỹ thuật của ngành bảo
hiểm bằng việc
ch
ấp

nhận
rủi ro
m

i.
* Nhược
đ
i

m:
- Thông thường nó có tính ổn định cho một giai đoạn nhất định, do đó thiếu
tính
linh
hoạt trước những thay đổi của công ty chuyển
nhượng.
- Vì mọi rủi ro phải đem tái đi cho nên đứng về phía công ty nhượng
những
đơn
vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nhỏ vẫn phải đem tái đi trong khi khả năng tài chính
của họ vẫn có khả năng đảm đương
đượ
c.
- Nếu công ty nhượng thiếu kinh nghiệm, đặc biệt sơ suất việc ký kết hợp đồng
bảo hiểm gốc thì hậu quả đối với các nhà tái bảo hiểm rất khó lường trước

đượ
c.
2.3. Tái bảo hiểm lựa chọn - bắt buộc (Facultative-Obligatory
Reinsurance).
2.3.1. Khái
ni

m.
Tái bảo hiểm hiểm lựa chọn - bắt buộc là một hình thức bảo hiểm mà công
ty
nhượng không bắt buộc phải nhượng tất cả những dịch vụ mà mình nhận bảo
hi

m,
nhưng ngược lại nhà tái bảo hiểm bắt buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà công
ty
nhượng
đã đưa vào thoả thuận này với điều kiện là những dịch vụ đó phải phù hợp
với
nộ
i
dung và điều khoản đã qui ước của hợp đồng tái bảo hiểm thoả thuận. Các
bên tham
gia
hợp đồng tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn- bắt buộc cần phải có sự trung
thực tuyệt đối để
đả
m
bảo lợi ích cho các nhà nhận tái bảo
hi


m.
2.3.2. Ưu, nhược đ
i

m.
* Ưu
đ
i

m:
- Công ty nhượng tái bảo hiểm không bắt buộc phải nhượng tất cả những dịch
vụ
mà mình nhận bảo hiểm. Họ có lựa chọn dịch vụ để chào tái bảo hiểm từng
phần
trách
nhiệm vượt quá khả năng giữ lại của mình cho một hoặc một số nhà tái
bảo hiểm mà
họ
lựa chọn, thay vì đem phân chia toàn bộ các phần vượt quá khả
năng ấy cho các
nhà

tái
bảo hiểm. Tuy nhiên, công ty nhượng không được lợi
dụng hình thức tái bảo
hi

m


này
để lựa chọn những rủi ro xảy ra tổn thất đưa vào
hợp đồng và giữ lại những rủi ro

độ an toàn cao hơn. Để phòng ngừa trường hợp
này xảy ra, nhà tái bảo hiểm phải
nắ
m
được ý đồ của công ty nhượng, xem xét kỹ
các rủi ro mà công ty nhượng đem tái bảo
h
i

m
và thường xuyên canh chừng diễn
biến của thoả ước mà mình đã ký
kế
t.
- Người nhận tái bảo hiểm có điều kiện thu được một nguồn phí tái bảo
hi

m
l
ớn
hơn và có phần thăng bằng hơn so với các hình thức tái bảo hiểm
t

m
th


i.
- Công ty nhượng tái bảo hiểm có điều kiện đem chào tái bảo hiểm bảo
hi

m
từng phần trách nhiệm thặng dư so với khả năng tự giữ lại của mình cho một nhà
tái
bảo hiểm duy nhất hay cho một số nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn thay cho
việc
phả
i
đem phân chia tất cả phần thặng dư so với khả năng tự giữ lại của mình
cho các nhà
tái
bảo hiểm. Tuy nhiên, cách tái bảo hiểm như thế này thường chỉ
có thể thực hiện
đượ
c
bằng cách chào cho các nhà tái bảo hiểm có tiềm lực thật
lớn vì chỉ có họ mới có
th

nhận các giá trị bảo hiểm
cao.
* Nhược
đ
i

m:
- Nhà tái bảo hiểm không có quyền từ chối nhưng rủi ro mà người tái bảo

hi

m
chuyển cho họ. Tuy nhiên, những rủi ro đó phải phù hợp với nội dung và điều
khoản
đ
ã
quy ước trong hợp đồng tái bảo hiểm cố
định.
- Hình thức này không thuận lợi lắm cho các nhà tái bảo hiểm, bởi vì
nguồn
dịch vụ đưa vào hợp đồng này không thường xuyên và tổn thất gây ra rất thất
th
ường.
Các bên tham gia hợp đồng cần phải có sự trung thực tuyệt đối để đảm
bảo cho các
nhà
tái bảo hiểm nhận được các dịch vụ hợp
lý.
- Trường hợp công ty nhượng có nhiều đơn vị rủi ro cần đem tái bảo hiểm thì
c
h
i
phí hành chính cho việc áp dụng hình thức này rất tốn
k
ém
.
3. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁI BẢO
HIỂM.
* Tái bảo hiểm theo tỷ lệ (tái bảo hiểm theo số tiền bảo

hi

m)
.
* Tái bảo hiểm phi tỉ lệ (tái bảo hiểm theo mức bồi
th
ường).
3.1. Tái bảo hiểm theo tỷ
l
ệ.
Tái bảo hiểm theo tỷ lệ hay còn gọi là tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm, là
phương thức tái bảo hiểm mà trong đó trách nhiệm của công ty nhượng tái
bảo

hiểm
và nhà tái bảo hiểm đối với đơn vị rủi ro được bảo hiểm phân bố theo tỷ
l

tham
gia của mỗi bên trên cơ sở số tiền được bảo hiểm. Phương thức này được chia
làm
hai
l
oạ
i:
- Tái bảo hiểm số
thà
nh.
- Tái bảo hiểm mức
dôi.

3.1.1. Tái bảo hiểm số
thành.
Theo phương thức này, công ty nhượng giữ lại cho mình một tỷ lệ nhất định
so
với số tiền bảo hiểm, phần còn lại tái đi. Do đó, phí bảo hiểm và số tiền bảo
hiểm
c
ũng
được phân bổ giữa công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm theo tỷ lệ tương
ứng. Ưu
đ
i

m
của phương thức này là tính toán đơn giản, ít tốn kém và công ty
nhận tái bảo
h
i

m
tham gia vào mọi rủi ro cho nên phân tán đều tổn thất. Do đó,
đảm bảo cân đối thu
c
h
i
cho cả hai công ty nhượng và công ty nhận tái. Tuy
nhiên, phương thức này buộc
công
ty nhượng phải tái đi mọi rủi ro cho nên không
khai thác hết khả năng của công ty

làm
ảnh hưởng đến lợi nhuận, mặt khác công
ty nhượng không khống chế được tỷ lệ
bồ
i
thường đối với mức giữ lại nên cũng ảnh
hưởng đến kết quả kinh
doạnh.
Tái bảo hiểm số thành được sử dụng trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo
hiểm vận chuyển hàng hoá, và thường kết hợp tái bảo hiểm mức
dôi
.
3.1.2. Tái bảo hiểm mức
dôi.
Đặc trưng của của tái bảo hiểm mức dôi là công ty nhượng ấn định mức giữ
l

i,
số dôi ra tái đi. Trong tái bảo hiểm mức dôi trách nhiệm của người nhận được
xác
nhận
theo lớp, tức là bội số của mức giữ lại. Do đó, phí bảo hiểm và số tiền bảo
hiểm
bồ
i
thường được phân bổ theo tỷ lệ tương ứng giữa công ty nhượng và nhà tái
bảo
hi

m.

Phương thức này có nhiều điểm tích cực hơn so với tái bảo hiểm số
thành. Thứ nhất

người nhượng có thể chủ động tính toán và giữ lại được một
cách ổn định số phí
cho

phù
hợp với khả năng tài chính của mình.
Th

hai là đối
với những hợp đồng có số tiền bảo hiểm nhỏ thì người nhượng có thể đượ
c

gi

lại
toàn bộ. Khác với tái bảo hiểm số thành, người nhận tái trong tái bảo hiểm
t
h
e
o
mức
dôi sẽ không tham gia vào mọi đơn vị rủi ro mà chỉ can thiệp khi đơn vị rủi ro có
s

tiền bảo hiểm lớn hơn mức giữ lại của người
nhượng.
Hạn chế của tái bảo hiểm dưới hình thức này là người nhượng này vẫn có bị

đ
e
doạ bởi những trường hợp tích tụ rủi ro và không thể áp dụng cho bảo hiểm trách
nhi

m
dân sự không giới hạn. Hơn nữa đây còn là một hình thức đòi hỏi công tác
quản lý
hợp
đồng phức tạp và tốn
kém
.
3.1.3. Tái bảo hiểm kết hợp số thành - mức
dôi
.
Việc phân chia trách nhiệm và quyền lợi giữa các bên được tiến hành theo trình
t

từng hợp đồng. Trước hết tiến hành phân bổ cho hợp đồng mức dôi. Kết hợp
giữa
hình
thức tái bảo hiểm số thành và tái bảo hiểm mức dôi có tác dụng làm
giảm nhẹ
trách
nhiệm của hợp đồng số thành, đồng thời công ty nhượng phải lo thu
xếp tái bảo hiểm
t

m


t
hờ
i.
3.2. Tái bảo hiểm phi tỷ
l

Tái bảo hiểm phi tỷ lệ hay còn gọi là tái bảo hiểm theo mức bồi thường bảo
hi

m,

một phương thức tái bảo hiểm mà trong đó công ty nhượng tái bảo hiểm ấn định
g
i

i
hạn bồi thường bằng một số tiền mà họ có thể tự gánh chịu cho tổn thất, là
hậu quả
c

a
từng sự cố đối với một hoặc nhiều loại bảo hiểm mà mình đảm trách,
còn phần tổn
th

t
vượt quá mức giới hạn đó được chuyển cho nhà tái bảo hiểm
gánh chịu. Các
phương


t
hứ
c
tái bảo hiểm theo tỷ lệ liên quan đến các mức tỷ lệ
của giá trị đối tượng chịu
rủ
i
ro. Trong khi các phương thức tái bảo hiểm phi tỷ lệ
nhìn nhận theo cách khác và
đượ
c
dựa trên các tổn thất chứ không phải là số tiền
bảo hiểm. Có hai phương thức tái bảo
hi

m
cơ bản
sau:
* Tái bảo hiểm vượt mức bồi
t
hường.
* Tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi
th
ường.
3.2.1. Tái bảo hiểm vượt mức bồi
th
ườ
ng.
Theo phương thức này, công ty nhượng ấn định số tổn thất vượt
quá điểm tự

bồ
i
thường chuyển giao cho nhà tái bảo hiểm, và nhà tái
bảo hiểm nhận tái theo từng
l
ớp.
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường có các dạng
sau:
- Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ không hạn
m

c.
- Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường có hạn mức từng sự
c
ố.
- Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo tai hoạ khốc
li

t.
3.2.2. Tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi
th
ườ
ng
.
Theo phương thức này, công ty nhượng khống chế trách nhiệm bồi thường một
t

lệ nhất định, tỷ lệ bồi thường vượt quá mức quy định được chuyển giao cho nhà
tái
bảo

hiểm. Phương pháp này giúp cho công ty nhượng chống lại sự gia tăng đột
biến của tỷ
l

bồi thường trong một ngành bảo hiểm hay một dạng dịch vụ bảo
hiểm nào đó
trong

m

t
thời gian quy định, bất luận tình trạng đó do nguyên
nhân nào xảy
ra.
Số tiền bồi
t
hường
Tỷ lệ bồi thường =
Phí

thu
3.2.3. Tái bảo hiểm kết hợp mức dôi và vượt mức bồi
th
ườ
ng.
Theo phương thức này việc phân chia trách nhiệm ban đầu được tiến hành
cho
hợp đồng mức dôi trước. Khi tổn thất xảy ra các nhà tái bảo hiểm vượt mức bồi
th
ường

sẽ bảo vệ cho công ty nhượng hoặc công ty nhận tái bảo hiểm mức đòi tuỳ
theo yêu cầu,

công ty nào được bảo vệ thì công ty đó phải nộp phí đặt cọc. Nếu
năm sau đó tổn
th

t
không xảy ra, công ty được bảo hiểm không được đòi
l

i

khoản
phí này. Phương pháp này có tác dụng làm giảm nhẹ trách nhiệm cho
c
ông
ty
nhượng hay công ty nhận tái bảo hiểm mức dôi khi có tổn thất lớn xảy ra.
Đồng
thời phương pháp này cũng có tác dụng đối với công ty mới thành lập, ít kinh
ngh
i

m.
Hơn nữa phương pháp này còn rất phù hợp với những nghiệp vụ tái bảo
hiểm ngắn
hạn,
giúp công ty nhượng tái bảo hiểm mức dôi không phải mở những
hợp đồng tạm thời

vào
dịp cuối năm nghiệp
vụ.




×