Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.19 KB, 29 trang )

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
MỞ ĐẦU
Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách
mạng xã hội chủ nghĩa, giải quyết vấn đề này gắn liền với cuộc đấu tranh giai
cấp và việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Đối với Việt Nam, đại đoàn kết còn là truyền thống quý báu của dân
tộc ta, được hun đúc qua hằng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Ngay từ khi
mới thành lập, Đảng ta – đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để giải quyết vấn đề
giai cấp và dân tộc một cách chủ động, sáng tạo, tài tình, nhất quán trong
chiến lược đại đoàn kết dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc.
Quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc
và đoàn kết dân tộc trong suốt quá trình cách mạng đó là: “Bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh
phúc” [1]. Trong tất cả các kỳ đại hội, Đảng ta đều khẳng định rõ: Vấn đề dân
tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa; sức mạnh của cách
mạng là sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng; tôn
trọng, giúp đỡ đồng bào các dân tộc và tạo mọi điều kiện để đồng bào các dân
tộc phát triển.
Hiện nay, trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tinh thần đại đoàn kết tiếp tục được phát
huy cao độ, trở thành động lực của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, cũng cần
nhận thức được rằng: Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình
thực hiện chủ trương, chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc cũng còn những
yếu kém, khuyết điểm…Do đó, các thế lực thù địch đã lợi dụng vào đó để
1
chống phá nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây không ít khó khăn, trở
ngại cho sự nghiệp cách mạng nước ta.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất


nước, đòi hỏi Đảng ta phải giải quyết tốt vấn đề dân tộc nhằm phát huy được
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc vào công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nó là vấn đề quyết định đến
sự sống còn của cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu môn “Quy luật cách mạng xã hội chủ
nghĩa” bản thân tôi nhận thấy vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc và phát huy
sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc có một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó
không những có giá trị về mặt lý luận mà cả về thực tiễn đối với cách mạng
nước ta hiện nay. Vì vậy, tôi đã chọn vấn đề “Phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa
ở Việt Nam hiện nay” làm nội dung viết thu hoạch.
2

NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐẠI ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN TỘC TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN
ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết giai cấp, dân tộc
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
Cở sở lý luận quan trọng nhất đối với quan điểm về đại đoàn kết toàn
dân tộc là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng; nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản
lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc; liên minh công - nông là cơ sở để
xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng; đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn
kết quốc tế, “vô sản các nước, đoàn kết lại”, “vô sản tất cả các nước và các
dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”, vv
Như vậy, vấn đề đoàn kết giai cấp, dân tộc đã được các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác – Lênin đề cập từ rất sớm. Thời kỳ Mác, do điều kiện lịch
sử, ông chưa đề cập trực tiếp đến vấn đề đoàn kết dân tộc, song những tư

tưởng về đoàn kết giai cấp đã được nói đến, đặc biệt là vấn đề liên minh công
nông. Theo Mác, chỉ khi nào thực hiện được liên minh công nông thì giai cấp
vô sản mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình. Nếu không thực hiện
được sự liên minh đó thì giai cấp vô sản chỉ có những bài “đơn ca ai điếu” mà
thôi. Chính vì vậy, kết thúc cuốn “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Mác đã
viết “Vô sản các nước, đoàn kết lại” và sau này Người còn nhấn mạnh đến
vấn đề liên minh công nông, coi đó là vấn đề chiến lược của cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
3
Đến thời kỳ Lênin, điều kiện lịch sử đã có những thay đổi lớn. Người
đã nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết giai cấp và đoàn
kết dân tộc. Lênin khẳng định: cách mạng không phải chỉ là sự nghiệp của
giai cấp công nhân mà đó là sự nghiệp của đông đảo quần chúng nhân dân lao
động. Vì thế, để cách mạng đi đến thắng lợi, cần phải thực hiện được sự đoàn
kết giữa giai cấp công nhân với các giai tầng khác trong xã hội cũng như thực
hiện tốt sự đoàn kết giữa các dân tộc. Lênin đã tiếp tục phát triển khẩu hiệu
của Mác “Vô sản các nước, đoàn kết lại” thành khẩu hiệu “Vô sản tất cả các
nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”.
1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều
yếu tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển biện chứng chủ
nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân
loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác – Lênin đã được vận dụng và phát triển sáng
tạo, phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai
đoạn cách mạng.
Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
được thể hiện trên những vấn đề sau:
*Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành công của cách mạng.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược,

nó là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt quá trình cách mạng Việt
Nam, đó là chiến lược tập hợp lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình
thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân
tộc, giai cấp.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều
chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng khác
4
nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn
của cách mạng. Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chân lý: Đoàn
kết làm ra sức mạnh ; “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”[2].“Đoàn kết là
sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”[3], “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của
thành công”[4]. Đoàn kết là điểm mẹ. “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra
con cháu đều tốt ”[5].“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công”[6].
*Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo cách mạng duy nhất
đối với cách mạng Việt Nam. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao
động Việt Nam ngày 03 - 03 - 1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố
trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8
chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”[7]. Nói chuyện với cán bộ tuyên
huấn miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ: Trước cách
mạng tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao
cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết; hai là làm
cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ
mục đích tuyên truyền huấn luyện là: “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”[8].
Đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cả
dân tộc.

*Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp được mọi
người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ:
“Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc; ta phải còn
5
đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ
quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”[9]. Ta ở đây vừa là Đảng, vừa
là mọi người dân của tổ quốc Việt Nam. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người
đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối
đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm đại đoàn kết dân tộc một
cách rộng rãi như trên là vì Người có lòng tin ở nhân dân, tin rằng trong mỗi
người, “ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm
lòng yêu nước ấy có khi bị bụi bậm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri
con người thì lòng yêu nước lại bộc lộ. Vì vậy, mẫu số chung để quy tụ mọi
người vào khối đại đoàn kết dân tộc chính là nền độc lập thống nhất của tổ
quốc, là cuộc sống tự do và hạnh phúc của nhân dân cần phải xây dựng từ
hôm nay cho đến mai sau.
Về điều này Người đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn
kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và
các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng
như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải
đoàn kết các nhân dân khác”[10]. Người còn phân tích sâu hơn đâu là những
lực lượng nòng cốt tạo nên cái nền tảng ấy, hay cũng có thể nói đâu là nền
tảng của cái nền tảng ấy; “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là
công nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất”[11]. Về sau Người
nêu thêm: lấy liên minh công - nông - lao động trí óc làm nền tảng cho khối
đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại
đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể
làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.

*Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, thông qua
tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất
6
Đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở
những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành
khẩu hiệu của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất
có tổ chức. Tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc và bao trùm nhất là Mặt
trận dân tộc thống nhất - nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp
mọi con dân nước Việt, không phải chỉ ở trong nước mà còn bao gồm cả
những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào
nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về tổ quốc Việt Nam.
Tuỳ theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Mặt trận dân tộc
thống nhất có thể có những tên gọi khác nhau; Hội phản đế đồng minh (1930),
Mặt trận Dân chủ (1936), Mặt trận Nhân dân phản đế (1939), Mặt trận Việt
minh (1941), Mặt trận Liên việt (1946), Mặt trận Giải phóng Miền Nam
(1960), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955), (1976), nhưng thực chất chỉ là
một, đó là tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp,
dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong nước và
nước ngoài, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của tổ quốc và
tự do, hạnh phúc của nhân dân. Mặt trận phải có cương lĩnh, điều lệ phù hợp
với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng.
*Đảng cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất,
lại vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân ngày càng vững chắc.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam không phải chỉ là sản
phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân,
mà còn với cả phong trào yêu nước Việt Nam. Vì vậy, Đảng vừa là Đảng của
giai cấp công nhân, lại vừa là Đảng của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Là tổ chức chính trị to lớn nhất, là bộ tham mưu của giai cấp công nhân
và của cả dân tộc, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng

7
thời cũng là thành viên của mặt trận. Quyền lãnh đạo Mặt trận không phải
Đảng tự phong cho mình, mà là được nhân dân thừa nhận.
*Đại đoàn kết dân tộc phải gắn với đại đoàn kết quốc tế
Chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng của giai cấp công nhân, đây cũng là tư tưỏng lớn của Hồ Chí
Minh.
Trong những năm chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, Người đã nêu rõ “phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nơi”[12]. Từ đó về sau, tư tưởng của Người về đoàn kết với phong trào
cách mạng thế giới càng làm được rõ hơn và đầy đủ hơn. Trong kháng chiến
chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân, tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho
ba tầng Mặt trận: Một là, Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Hai là, Mặt trận đoàn
kết Việt - Miên - Lào; Ba là, Mặt trận Nhân dân thế giới đoàn kết với Việt
Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ nhất và
thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh
1.2 Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng
của dân tộc Việt Nam
Trước hết là tinh thần yêu nước gắn liền với ý nghĩa cộng đồng, ý thức
cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong hàng
nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cả dân tộc, tạo thành
một truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng tình cảm, tâm hồn của mỗi
con người Việt Nam. Tinh thần ý thức ấy đã tạo nên sức mạnh vô địch của cả
một dân tộc để chiến thắng mọi thiên tai địch họa, làm cho đất nước được
trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
Đối với mỗi người Việt Nam, yêu nước - nhân nghĩa, đoàn kết đã trở
thành một tình cảm tự nhiên: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong
8
một nước phải thương nhau cùng”; “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng

khác giống những chung một giàn”; hoặc “Một cây làm chẳng nên non. Ba
cây chụm lại nên hòn núi cao” ; vv
Tất cả đã ghi đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành
quan hệ ba tầng chặt chẽ: gia đình - làng xã - quốc gia và cũng trở thành sợi
dây liên kết các dân tộc, các giai tầng trong xã hội Việt Nam.
Truyền thống ấy không chỉ được phản ánh trong kho tàng văn học dân
gian, mà còn được những anh hùng dân tộc ở các thời kỳ lịch sử khác nhau như
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung đúc kết nâng lên thành
phép đánh giặc, giữ nước, “tập hợp bốn phương manh lệ”, “trên dưới đồng
lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”, “khoan
thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là
dân”…Truyền thống ấy được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc
của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và
các thế lực phong kiến tiếp tay cho ngoại bang, mà tiêu biểu nhất là cụ Phan
Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh ở một phần tư đầu thế kỷ XX.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước
gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt
Nam đã hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững.
Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời gian đã trở thành lẽ sống của mỗi
con người Việt Nam, chúng làm cho vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận
mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân tộc. Chúng là cơ
sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước
của mỗi con người Việt Nam; đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát
triển của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá trình dựng nước và giữ
nước, làm nên truyền thống yêu nườc, đoàn kết của dân tộc. Dù lúc thăng, lúc
trầm nhưng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc
9
Việt Nam bao giờ cũng là tinh hoa đã được hun đúc và thử nghiệm qua hàng
nghìn năm lịch sử chinh phục thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ
quốc của ông cha ta. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng

của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành quan điểm
về đại đoàn kết dân tộc.
1.3 Từ yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới
Trong quá trình đấu tranh giải phóng đất nước, đại đoàn kết toàn dân
tộc đã tạo nên một lực lượng cách mạng hùng hậu, đủ sức để đánh bại kẻ thù
xâm lược với những chiến thắng đi vào lịch sử như chiến thắng Điện Biên
Phủ, Đại thắng mùa xuân 1975… thống nhất đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn.
Sau khi giành được độc lập, con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là
quá độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát
điểm rất thấp. Hơn nữa, các thế lực thù địch không từ bỏ bất cứ một thủ đoạn
nào để chống phá sự nghiệp cách mạng, đe dọa đến nền độc lập của nước ta.
Công cuộc xây dựng những cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội diễn
ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế quốc tế…đã đặt ra những yêu cầu,
nhiệm vụ mới cho cách mạng Việt Nam. Điều đó đòi hỏi phải phát huy cao độ
nội lực, tranh thủ ngoại lực, đặc biệt là phải phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Có như vậy,
cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi.
1.4 Từ yêu cầu của việc đấu tranh chống âm mưu chia rẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch
Hiện nay, các thế lực thù địch, đứng đầu là đế quốc Mỹ đã, đang và sẽ
tìm mọi cách để chống phá cách mạng nước ta. Một trong những nội dung
chống phá trọng điểm là hướng vào vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc.
10
Việt Nam với 54 dân tộc anh em, trải qua hàng nghìn năm dựng nước
và giữ nước luôn sát cánh bên nhau đề chống thiên tai địch họa. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự đoàn kết đó càng được củng cố, tăng
cường trong điều kiện mới. Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương, chính
sách cụ thể nhằm giải quyết tốt vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên,

ở một khía cạnh nhất định, chúng ta cũng nhận thấy rằng, có lúc, có thời điểm
việc thực hiện vấn đề này còn tồn tại những sai lầm, khuyết điểm…Lợi dụng
những thiếu sót, khuyết điểm đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, tuyên truyền, kích động
gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất trật tự an toàn xã hội ở
một số địa phương trong cả nước, đặc biệt là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số. Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới cho cuộc đấu tranh ngăn chặn âm mưu
chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch. Hơn lúc nào hết,
vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc càn phải được quan tâm giải quyết đúng
đắn, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể.
1.5 Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của cách
mạng Việt Nam và thế giới.
Trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại
nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với tư
tưởng “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” và “Khoan
thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”. Năm 1858,
thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, mở đầu cho thời kỳ cai trị và áp bức
của chúng đối với dân tộc ta trong suốt gần 80 năm trời ròng rã. Nhưng cũng
chính trong vòng gần 80 năm đó, chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn
kết của dân tộc lại sôi nổi hơn bao giờ hết. Nó kết thành một làn sóng vô cùng
to lớn, mạnh mẽ, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn thông qua các xu
hướng khác nhau để cứu nước dù cuối cùng tất cả các xu hướng đó đều bị thất
11
bại. Những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước
tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai
đọan này để lại những bài học kinh nghiệm cho Đảng ta trong quá trình giải
quyết vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc.
Phong trào yêu nước Việt Nam đã diễn ra rất mạnh mẽ từ khi thực dân
Pháp xâm lược nước ta. Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên Thế,
cuối thế kỷ XIX, đến các phong trào Đông Du, Duy Tân chống thuế đầu thế

kỷ XX đều bị thất bại. Thực tiễn hào hùng, bi tráng của dân tộc đã chứng tỏ
rằng, bước vào thời đại mới chỉ có tinh thần yêu nước thì không thể đánh bại
được các thế lực xâm lược. Vận mệnh đất nước đòi hỏi phải có một lực lượng
lãnh đạo cách mạng mới, đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp
với quy luật phát triển của lịch sử và những yêu cầu của thời đại mới, đủ sức
quy tụ được cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc thực dân xây dựng
được khối đại đoàn kết toàn dân tộc bền vững thì mới giành được thắng lợi.
Cách mạng tháng Mười Nga cùng với Lênin, người lãnh đạo thắng lợi
cuộc cách mạng đó đã để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho phong
trào cách mạng thế giới; đặc biệt là bài học về huy động, tập hợp lực lượng
quần chúng công - nông đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng,
đánh tan sự can thiệp của 14 nước đế quốc để xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa, mở ra một thời đại mới cho lịch sử nhân loại.
II. PHÁT HUY SỨC MẠNH KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN
TỘC TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về đại
đoàn kết toàn dân tộc
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội lần thứ X về vấn đề
dân tộc và đại đoàn kết toàn dân tộc là sự phát triển mới về lý luận chủ nghĩa
12
xã hội khoa học vừa thể hiện tính nhất quán trong đường lối của Đảng, đồng
thời là vấn đề thời sự chính trị mang tính cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Nội dung của những quan điểm đó được thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau:
Một là: Đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu,
có ý nghĩa quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong văn kiện của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự

lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là
nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [13].
Hai là: Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là nhằm để đạt được mục
tiêu độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Mục tiêu của việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc đã được nêu trong
văn kiện tại Đại hội Đảng lần thứ X đó là: Lấy mục tiêu độc lập dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các
tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Ba là: Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính
trị mà hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản.
Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình bằng việc thông qua Đường lối,
chính sách, tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Nhà nước không
ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và quản lý, tạo điều kiện để nhân dân
làm những việc mà pháp luật không cấm. Thực hiện đồng bộ các chính sách
13
và pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy dân chủ và giữ vững kỷ cương
trong xã hội. Tổ chức, động viên và phát động trong nhân dân tích cực tham
gia phong trào thi đua yêu nước, làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế đi liền với
phát triển văn hoá - xã hội. Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội phải
chăm lo và bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân, đảm bảo công bằng xã
hội. Tôn trọng phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu
biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, các tôn giáo
Đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài của sự nghiệp
cách mạng nước ta. Đây là nhiệm vụ phải giải quyết trong suốt cả quá trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trước hết cần tập trung giải quyết và thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội sau:
Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện

xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hoá của dân tộc.
Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới; làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng
kinh tế mới. Củng cố và nâng cao chất lượng, hiệu quả của hệ thống chính trị ở
cơ sở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Làm tốt công tác dân vận, chống kỳ
thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc.
Đại đoàn kết là sự nghiệp cách mạng to lớn, là vấn đề chiến lược lâu dài, là
trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân của tất cả các cấp, các ngành nhằm để tạo ra
sức mạnh đảm bảo cho sự thắng lợi của công cuộc cách mạng của đất nước trong
giai đoạn hiện nay cũng như của cả quá trình cách mạng Việt Nam. Trong Văn
kiện của Đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ rõ: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân
tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc
trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau
14
cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [14].
Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau và đang tồn tại trên phạm vi cả nước. Vì vậy, để tiến hành
thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, trước hết đòi hỏi Đảng phải có tư
duy và đánh giá đúng vấn đề này cả về lý luận và thực tiễn để có phương
pháp giải quyết đúng đắn.
Xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo trong việc giải quyết vấn đề tôn
giáo dưới chủ nghĩa xã hội và tình hình tôn giáo ở nước ta, Đảng ta luôn
khẳng định: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu đời sống tinh thần của một bộ
phận nhân dân. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết
dân tộc. Trên cơ sở nhìn nhận và đánh giá đúng đắn về vấn đề tôn giáo, Đảng
ta luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình

thường theo đúng pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau,
đồng bào có đạo và không có đạo. Đồng bào các tôn giáo có trách nhiệm sống
“tốt đời, đẹp đạo”. Các tổ chức của tôn giáo hoạt động theo Pháp luật và được
pháp luật bảo vệ. Luôn nêu cao tinh thần cảnh giác đấu tranh ngăn chặn các
hoạt động mê tín, dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm
phương hại đến lợi ích chung của đất nước, chống lại chủ nghĩa xã hội; đồng
thời chống những hành vi vi phạm quyền tự do tôn giáo của công dân.
Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ:
“Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết
dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn
15
giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác
nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo” [15].
Đồng bào định cư ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời và là
một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp
phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân
các nước.
Đây là nội dung mà tại Đại hội Đảng lần thứ X đã được Đảng ta khẳng
định rõ. Đảng và Nhà nước ta đã đánh giá đúng về vị trí, không phân biệt đối
xử; Đảng ta hoan nghênh sự đóng góp cả về tinh thần cũng như vật chất của
đồng bào ta ở nước ngoài. Đồng thời Đảng, Nhà nước ta cũng tạo điều kiện
thuận lợi để đồng bào ta đang định cư ở nước ngoài sinh sống và công tác tốt,
đảm bảo cuộc sống ổn định, chấp hành nghiêm pháp luật của Nhà nước sở tại.
Đảng và Nhà nước ta cũng có chính sách khuyến khích người Việt Nam ở
nước ngoài hướng về quê hương, góp phần tích cực vào việc xây dựng quê
hương đất nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất
quan trọng trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chính là nơi để tập hợp đồng

bào các tầng lớp nhân dân lao động, là nơi để tuyên truyền, vận động, đoàn
kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, là nơi đại diện cho quyền lợi của các tầng
lớp nhân dân. Đảng và Nhà nước ta luôn tạo điều kiện để mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân hoạt động một cách tích cực có hiệu quả, lắng nghe ý
kiến của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà nước về
những vấn đề mà nhân dân quan tâm, tham gia xây dựng chủ trương, chính
sách, pháp luật. Thực hiện tốt luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt Trận và
các đoàn thể nhân dân chính là cầu nối liền giữa Đảng, Nhà nước với dân.
16
Từ những nội dung cơ bản về vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc mà
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã trình bày ở trên, đã khẳng định rõ quan điểm nhất quán của Đảng ta nhằm
thực hiện mục đích cao cả là: Giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc,
vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh của tất cả các dân tộc, các
tôn giáo, các tầng lớp xã hội Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh nội
lực của đất nước, sức mạnh của cả cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, sức
mạnh của lý tưởng cách mạng và giá trị văn hoá bền vững của dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của nhân dân ta, là tài sản
vô giá của đất nước. Đối với dân tộc Việt Nam “yêu nước, thương nòi, anh
hùng bất khuất, đoàn kết nhân ái, tình nghĩa thủy chung, độ lượng và khoan
dung ” là một đặc điểm nổi bật trong truyền thống giá trị của mình, nó phản
ánh rõ nét cốt cách, tâm hồn con người Việt Nam.
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng, giải quyết
tốt vấn đề đại đoàn kết dân tộc, về thực chất là giải quyết vấn đề lực
lượng cách mạng, là nguồn động lực chủ yếu của suốt quá trình cách
mạng cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa hiện nay.
2.2 Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

Sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là đòi
hỏi khách quan trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó tạo ra
những tiền đề vật chất, kỹ thuật cần thiết để chúng ta xây dựng xã hội
mới. Tuy nhiên, từ một điểm xuất phát thấp với nền sản xuất nông nghiệp
lạc hậu, nước ta gặp nhiều khó khăn khi bước vào sự nghiệp công nghiệp
hóa – hiện đại hóa. Điều đó đòi hỏi Đảng ta phải phát huy nội lực, tranh
17
thủ ngoại lực để đưa đất nước phát triển. Vì vậy, thực hiện tốt vấn đề
đoàn kết toàn dân tộc và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi của sự nghiệp
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Muốn làm tốt vấn đề đó cần tập
trung vào một số giải pháp sau:
2.2.1 Thực hiện đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa – hiện đại hóa
Kế thừa và phát huy những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, ngay từ khi mới ra đời, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã luôn luôn coi trọng củng cố và mở rộng khối đại đoàn
kết toàn dân, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, sức mạnh
truyền thống với sức mạnh thời đại, lãnh đạo nhân dân Việt Nam liên tiếp
giành đựơc thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh vì độc lập của tổ quốc, tự do,
hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết dân tộc là một bộ phận quan trọng của tư
tưởng Hồ Chí Minh là đường lối căn bản lâu dài trước sau như một của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bài học lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong gần 80 năm qua; khi nào Đảng nắm vững và dương cao
ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất
thì phát huy được sức mạnh của dân tộc, khó khăn mấy cũng vượt qua và cách
mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngược lại, khi nào buông lỏng
ngọn cờ độc lập dân tộc, coi nhẹ vấn đề đại đoàn kết dân tộc, thậm trí sai lầm
về chính sách dân tộc thì cách mạng gặp khó khăn.

Trong hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhờ đoàn kết một lòng,
kiên cường phấn đấu, nhân dân ta đã vượt qua khó khăn, thử thách, tiếp tục
giành được những thành tựu quan trọng: kinh tế tiếp tục phát triển nhanh; văn
hoá xã hội có những tiến bộ mới; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện;
18
chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh quốc gia được giữ vững; quan
hệ đối ngoại được mở rộng; việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đạt kết
quả tốt.
Những thành tựu nêu trên là điều kiện hết sức quan trọng để tăng cường
và tiếp tục mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân và tạo điều kiện thuận
lợi để chủ trương đại đoàn kết dân tộc của Đảng tiếp tục đi vào cuộc sống và
đã thu được những kết quả tốt đẹp. Đó là: sự nhất trí về chính trị và tinh thần
trong nhân dân tăng lên, trở thành một nhân tố căn bản bảo đảm sự ổn định
chính trị xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển và tiếp tục nâng cao đời
sống của đại bộ phận nhân dân; liên minh công nông trí thức được mở rộng và
mang nội dung mới là chủ động hợp tác giữa lao động trí óc và lao động chân
tay chặt chẽ hơn để cùng sản xuất ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn và
có chất lượng cao hơn cho xã hội.
Cùng với những chính sách thông thoáng, sản phẩm của tư duy mới về
kinh tế, là các hình thức biện pháp xã hội hoá các hoạt động và chính sách xã
hội như: xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo, cứu giúp
đồng bào những vùng bị bảo lụt thiên tai, vv… đã góp phần củng cố niềm tin
của đại bộ phận nhân dân đối với Đảng, với chế độ, củng cố và tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân.
Sự đổi mới từng bước hệ thống chính trị, việc tăng cường dân chủ hoá
đời sống xã hội, nhất là việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo điều
kiện để các tầng lớp nhân dân tham gia ngày càng đông đảo vào các sinh hoạt
chính trị của đất nước, góp phần xoá bỏ những ngăn cách do lịch sử để lại đã
có tác dụng tốt làm cho các thành viên trong xã hội cởi mở, xích lại gần nhau
hơn, có lợi cho việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.

Thực hiện tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc củ Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc củng cố tinh thần đoàn kết các
19
dân tộc anh em điều này thể hiện rõ trong chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta đối với các đồng bào dân tộc thiểu số. Nghị quyết Hội nghi lần
thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX về công tác dân tộc đã nêu rõ:
“Thực hiện tốt chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng
phát triển trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; chống kỳ thị, hẹp hòi, chia
rẽ dân tộc. Tập trung phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần, xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Nâng
cao ý thức tự lực tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng thời tăng
cường sự hổ trợ, giúp đỡ cửa Nhà nước và cộng đồng. Thực hiện chính sách
ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân sĩ, trí thức dân tộc thiểu số”.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh cũng thể hiện rõ trong
văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Vấn đề dân tộc và
đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng ở
nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa”[16]. Quan điểm trên của Đảng và Nhà nước ta đã thể
hiện rõ sự quán triệt sâu sắc và toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước Việt Nam hiện nay trong quá
trình hội nhập khu vực và phát triển thế giới.
Lãnh đạo các nghành, các cấp từ trung ương đến địa phương luôn nhận
thức rõ: muốn đồng bào các dân tộc anh em trong cả nước đoàn kết bền vững
thì các dân tộc phải thực sự bình đẳng, tôn trọng, thương yêu và giúp đỡ lẫn
nhau. Dân tộc đa số phải giúp đỡ dân tộc thiểu số cùng phát triển. Chính
quyền các cấp đã quan tâm đầu tư xây dựng và phát triển toàn diện ở vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số.

20
Hiện nay, hầu hết ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, kết cấu hạ tầng
đều được xây dựng để phục vụ sản xuất và đời sống như cá công trình thuỷ
lợi, nước sinh hoạt, đường giao thông, điện thắp sáng, trạm xá, trường học,
bưu điện văn hoá; hỗ trợ đất ở, nước sinh hoạt cho các hộ đồng bào dân tộc
thiểu số nghèo đời sống khó khăn…Từ đó làm cho đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng được nâng cao.
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, Đảng ta chủ trương: thực
hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp thành phần, mọi
giới, mọi lứa tuổi, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công
tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam
dù sống trong nước hay định cư ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng
đồng dân tộc, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ
vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh làm điểm tương đồng, đồng
thời tôn trọng những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của cả dân
tộc; xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành
phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai. Củng
cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận tổ quốc
trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy
dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2.2.2 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước;
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong xây dựng khối
đoàn kết toàn dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước
Để phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc trong tình hình hiện nay, điều
kiện quyết định là phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Lịch sử cách mạng
21
Việt Nam đặt lên vai giai cấp công nhân nước ta sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách

mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề dân tộc, dân
chủ bao giờ cũng mang một nội dung giai cấp cụ thể. Giai cấp nào tiêu biểu
nhất cho lợi ích dân tộc và dân chủ của quần chúng nhân dân thì mới lãnh đạo
được cách mạng, mới xây dựng và và phát huy được khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Trong thời đại mới, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp tiêu biểu
nhất cho lợi ích dân tộc và dân chủ, là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đi đến thắng lợi triệt để. Vì vậy, chỉ có
giai cấp công nhân Việt Nam mới có khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay và trong suốt quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh
chính trị của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp,
các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo; là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân. Đảng cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh
đạo Mặt trận. Đảng cộng sản Việt Nam với tư cách là người lãnh đạo, Đảng
trình bày những chính sách, chủ trương lớn để các thành viên của Mặt trận xem
xét, tham gia. Đảng chân thành, coi trọng lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp
của Mặt trận để bổ sung hoàn thiện các chủ trương, chính sách. Đồng thời
Đảng cũng bàn bạc với Mặt trận thống nhất chương trình kế hoạch vận động
nhân dân thực hiện theo nguyên tắc “hiệp thương dân chủ, thống nhất hành
động”. Yêu cầu cấp bách hiện nay là lãnh đạo kiểm tra nội dung đổi mới
phương thức hoạt động của Mặt trận, của các đoàn thể cho phù hợp với nhu cầu
và điều kiện lao động của nhân dân trong nền kinh tế nhiều thành phần. Thông
qua Đảng đoàn và đảng viên hoạt động trong các đoàn thể, thông qua bàn bạc,
vận động, thuyết phục mà đảng lãnh đạo các đoàn thể quần chúng.
Để đáp ứng yêu cầu đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
chăm lo lợi ích của đoàn viên, hội viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội.
22
Mặt trận và các đoàn thể tích cực đổi mới phương thức hoạt động, chuyển từ
lối chỉ đạo theo kiểu hành chính sang lối hoạt động sát cơ sở, sát quần chúng,
coi trọng điều tra, khảo sát, tìm hiểu tâm lý, nguyện vọng của từng đối tượng

quần chúng; gắn bó với quần chúng với thực tế cơ sở; tuỳ theo khả năng có
bước đi thích hợp thực hiện xã hội hoá nội dung hoạt động và đa dạng hoá
hình thức tổ chức vận động quần chúng.
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong những năm tới cần được tiếp
tục đổi mới về tổ chức và hoạt động để thực sự góp phần thực hiện dân chủ và
đổi mới xã hội, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia các
công việc quản lý của Nhà nước; giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật
thiết giữ Đảng và Nhà nước với nhân dân. Các đoàn thể tiếp tục nhiệm vụ
giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức mới, động viên phát huy tính tích cực xã
hội của các tầng lớp nhân dân, đoàn kết toàn dân, phấn đấu cho sự thành công
của công cuộc đổi mới. Vai trò của Mặt trận tổ quốc là cực kỳ quan trọng
trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, vì sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.2.3 Đoàn kết rộng rãi các giai cấp, tầng lớp nhân dân trên cơ sở liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
Trong công cuộc đổi mới đất nước ngoài hai giai cấp công nhân và
nông dân ra, trí thức cũng là một tầng lớp đóng vai trò quan trọng trong việc
xây dựng và phát triển nền kinh tế, xã hội của đất nước, trí thức trở thành tầng
lớp ngày càng đông đảo, họ là con em của nhân dân lao động, và trong nền
công nghệ sản xuất mới, công nhân trí thức trực tiếp điều khiển guồng máy
sản xuất, vì vậy cần thực hiện liên minh công-nông- trí thức và lấy liên minh
này làm nòmg cốt của khối đoàn kết toàn dân, làm nòng cốt của lực lượng
cách mạng.
23
Thực hiện đoàn kết rộng rãi “tầng lớp trên” với quần chúng nhân dân
lao động, giữa giàu với nghèo đòi hỏi phải có giải pháp và chính sách khéo
léo. Về bản chất lợi ích của “tầng lớp trên” đối với công nhân, nông dân và
lao động, nhưng cần tranh thủ cả tầng lớp trên nhất là những cá nhân có uy tín
trong quần chúng.
Đoàn kết với các dân tộc ít người trên cơ sở thực hiện chính sách bình

đẳng giữa các dân tộc anh em, làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng núi
cao tiến kịp đồng bằng về kinh tế, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp
hòi, hay tự ti dân tộc. Đoàn kết nhân dân các dân tộc ít người đồng thời giáo
dục, cải tạo, giúp đỡ họ, khắc phục những thiếu sót của họ, tranh thủ những
người có uy tín đối với đồng bào các dân tộc ít người như già bản, già làng,
trưởng tộc…là điều cực kì cần thiết.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước cần phải coi trọng vấn đề đoàn kết các dân tộc (tức các thành phần dân
tộc) cùng sống chung trên lãnh thổ Việt Nam. Đoàn kết giữa dân tộc ít người
với dân tộc kinh có tầm quan trọng và có ý nghĩa chiến lược và cần phải coi là
một quốc sách trong giai đoạn hiện nay và cả trong tương lai. Các dân tộc ở
nước ta có chung một quốc gia thống nhất, mỗi thành phần dân tộc ở nước ta
là một bộ phận của cộng đồng Việt Nam. Điều đó cần phải được nhận thức
một cách sâu sắc với mỗi người Việt Nam.
Đoàn kết các dân tộc luôn gắn liền với quyền lợi của quốc gia dân tộc
là để xây dựng đất nước giàu mạnh, tiến kịp với nền văn minh nhân loại.
Song cũng vì là sự phát triển của mỗi dân tộc thành viên. Đoàn kết các dân
tộc hướng về một mục đích là làm cho đời sống các dân tộc không ngừng
được nâng cao, xoá bỏ từng bước sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa
các dân tộc.
24
Để đoàn kết đồng bào có đạo cần phải có những chính sách tự do tín
ngưỡng đi đôi với giáo dục nâng cao trình độ văn hoá, cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần cho họ, giúp giáo dân, phật tử cùng góp ích cho đời, cho đạo,
cần phải phân biệt tín ngưỡng với mê tín dị đoan và tự do tín ngưỡng với việc
lợi dụng tôn giáo đi ngược lại chính sách pháp luật Nhà nước và lợi ích của
dân tộc, cũng như tránh nhầm lẫn giữa chức tước với tôn giáo.
Chúng ta còn cần phải mở rộng đoàn kết, tranh thủ cả cộng đồng người
Việt Nam định cư ở nước ngoài; khơi dậy ý thức độc lập tự cường dân tộc và
tinh thần yêu nước để phát triển đất nước và ngăn chặn những âm mưu thù địch

và thủ đoạn phá hoại của các thế lực phản động quốc tế đối với Việt Nam.
2.2.4 Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công
tác tổ chức, công tác cán bộ, hoàn thiện cơ chế chính sách trong thực hiện
đoàn kết dân tộc.
Cần nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc,
làm rõ những đặc trưng mới trong quá trình xây dựng, phát triển khối đại
đoàn kết hiện nay, để tránh dập khuôn giáo điều trong chỉ đạo thực tiễn. Cần
đổi mới đồng bộ các giải pháp chính trị, kinh tế văn hoá, xã hội để phát triển
đoàn kết dân tộc lên một tầm cao mới, chiều sâu mới mà trước hết là đổi mới
công tác tư tưởng văn hoá.
Cần phát động sâu rộng, kiên trì và bền bỉ công cuộc khôi phục những
giá trị đích thực của truyền thống đạo lý Việt Nam. Đồng thời với việc giáo
dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh theo tinh thần phát triển
sáng tạo, cần hết sức coi trọng chủ nghĩa yêu nước, giáo dục đạo lý, lễ nghĩa.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường tuyên truyền nội dung pháp luật,
giáo dục xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật và thực hiện nghiêm cơ chế
quản lý bằng pháp luật. Kỷ cương phép nước bao giờ cũng là rường cột để cố
25

×