Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

“TUYÊN NGÔN của ĐẢNG CỘNG sản” và vấn đề NÂNG CAO TRI THỨC, TRÍ TUỆ của GIAI cấp CÔNG NHÂN HIỆN đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.5 KB, 24 trang )

“TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” VÀ VẤN ĐỀ NÂNG
CAO TRI THỨC, TRÍ TUỆ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN
ĐẠI
Vấn đề giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó là phạm trù trung tâm,
phạm trù xuất phát điểm của chủ nghĩa xã hội –khoa học. Bởi vậy, từ khi xuất
hiện cho đến nay là đối tượng của cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng gay găt.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã lấy nó làm chiếc chìa khoá để phân tích
hiện thực xã hội của xã hội tư bản. Các quá trình kinh tế, xã hội, tư tưởng đều
được các ông xem xét trong sự phát triển. Sự đối kháng giai cấp trong xã hội tư
bản cũng được các ông phân tích theo sự phát triển của chúng. Các ông cho rằng
"bản thân giai cấp tư sản hiện đại cũng là sản phẩm của một quá trình phát triển
lâu dài, của một loạt những cuộc cách mạng trong phương thức sản xuất và trao
đổi"
1
. Luận điểm này đối với C.Mác và Ph.Ăngghen là hết sức quan trọng. Bởi
với luận điểm này, các ông tiếp tục nghiên cứu mối liên hệ qua lại giữa quá trình
hình thành giai cấp tư sản và sự phát triển của giai cấp công nhân, "những công
nhân hiện đại, những người vô sản". "Giai cấp tư sản, tức tư bản, mà lớn lên thì
giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với
điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ
làm tăng thêm tư bản - cũng phát triển theo"
2
.
C.Mác và Ph.Ăng Ghen không dừng lại ở việc xác nhận sự phát triển của
giai cấp công nhân với tư cách là một lực lượng xã hội cơ bản trong cơ cấu xã
hội của xã hội tư bản. Ngay trong văn kiện này, các ông đã chỉ rõ những đặc
1
C.Mác – Ph.Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tập 4, Tr.598.
2
C.Mác – Ph.Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tập 4, Tr.605.
1


điểm cơ bản trong sự phát triển của giai cấp vô sản. Các ông cho rằng giai cấp vô
sản cũng "trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau". Quan niệm đó đã chứng
tỏ tính vô căn cứ ở những lời khẳng định của những kẻ phê phán chủ nghĩa Mác,
khẳng định rằng dường như lý luận mácxít đã đánh tráo giai cấp vô sản hiện thực
luôn có sự biến đổi thường xuyên bằng một phạm trù siêu hình học trừu tượng,
nằm ngoài lịch sử. Quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về quá trình
phát triển của giai cấp vô sản còn tạo nên một "hàng rào chắn" trước những kẻ có
ý đồ tầm thường hoá học thuyết của các ông nhằm tạo ra một khuôn mẫu trừu
tượng về giai cấp công nhân, tách nó ra khỏi các mối liên hệ cụ thể, bỏ qua các
giai đoạn phát triển của nó. Hơn nữa, quan niệm đó của các ông còn có một ý
nghĩa phương pháp luận to lớn trong việc phân định tiến trình phát triển lịch sử
của giai cấp vô sản và phong trào công nhân.
Khi phân tích sự phát triển của giai cấp vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
làm rõ các nhân tố cơ bản của sự phát triển đó. Trong "Tuyên ngôn", các ông đã
xem xét tỷ mỷ các nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng tới sự phát triển của giai cấp
vô sản như: các cuộc cách mạng diễn ra liên tục về công cụ sản xuất, quá trình
cách mạng hoá quan hệ sản xuất và do đó là sự cách mạng hoá toàn bộ các quan
hệ xã hội. Từ đó, các ông cho rằng, cũng như giai cấp tư sản trước đây, giai cấp
vô sản không thể tồn tại được nếu nó không luôn luôn cách mạng hoá công cụ
sản xuất, cách mạng hoá những quan hệ sản xuất, cách mạng hoá toàn bộ những
quan hệ xã hội hiện tồn.
Đồng thời, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, các tác giả của "Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản" không bao giờ coi giai cấp công nhân là đối tượng thụ động của
những tác động bên ngoài. Công lao lịch sử quan trọng nhất của C.Mác và
Ph.Ăngghen trong việc phát hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp công nhân là ở
2
cách tiếp cận với giai cấp công nhân với tư cách là chủ thể của sự tiến bộ lịch sử,
với tư cách là một chỉnh thể có các quy luật phát triển đặc thù của riêng nó. Với
cách tiếp cận đó, các ông đã dành nhiều công sức vào việc phân tích các cuộc
đấu tranh giai cấp với tư cách là nhân tố nội tại của sự hình thành và phát triển

của giai cấp công nhân với tư cách là lực lượng chủ đạo của tiến bộ, của sự cải
tạo cách mạng đối với các quan hệ xã hội. Cách tiếp cận đó đòi hỏi phải phân
tích tỷ mỷ không những sự phát triển, mà cả sự tự phát triển của giai cấp công
nhân.
Nghiên cứu quá trình phát triển và tự phát triển của giai cấp công nhân, C.
Mác và Ph.Ăngghen đã xuất phát từ chỗ thừa nhận quá trình này luôn diễn ra
một cách có phân hoá trong các lĩnh vực khác nhau. Các ông cho rằng sự phát
triển của giai cấp vô sản là sự phát triển không chỉ đơn thuần về lượng, mà cái
chính là sự phát triển về chất. Từ một bộ phận không đáng kể trong xã hội, giai
cấp vô sản biến thành một lực lượng xã hội ngày càng đông đảo hơn và rốt cuộc,
bao gồm tuyệt đại đa số dân cư. Từ đó, các ông khẳng định: "Tất cả các phong
trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích
cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi
ích cho khối đại đa số"
3
.
Về quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, sau này, trong bài viết
"Phriđrich Ăngghen", V.I.Lênin đã khẳng định: "Ngược lại với tâm lý sợ hãi
chung trước sự phát triển của giai cấp vô sản, Mác và Ăngghen đặt tất cả hy
vọng của mình vào sự lớn lên không ngừng của giai cấp vô sản".
Những chuyển biến trong cấu trúc nội tại của giai cấp vô sản, theo C.Mác
và Ph.Ăngghen, đều diễn ra trong quá trình phát triển về chất của nó, dưới sự tác
3
C.Mác – Ph.Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 4, Tr.611.
3
động của những điều kiện đặc thù. Số lượng tuyệt đối và tỷ lệ giữa các đội ngũ
giai cấp công nhân trong các lĩnh vực sản xuất xã hội cũng thay đổi do những
chuyển biến đó. Tầng lớp vô sản tiểu thủ công nghiệp ngày một giảm, tỷ lệ của
tầng lớp vô sản nông nghiệp cũng giảm xuống ở một trong các giai đoạn phát
triển nhất định trong tiến trình phát triển chung của giai cấp vô sản. Bộ phận

đóng vai trò nòng cốt của giai cấp công nhân - tầng lớp công nhân công nghiệp -
không ngừng tăng lên cùng với sự gia tăng các lực lượng sản xuất hiện đại, phát
triển nhất.
Sự phát triển về lượng kéo theo sự phát triển về tổ chức của giai cấp vô sản.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã lưu ý tới hai phương diện của quá trình này. Một
phương diện gắn liền với sự tác động của các nhân tố bên ngoài. "Sự phát triển
của công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô sản, mà còn tập hợp
họ lại thành những khối quần chúng lớn hơn; lực lượng của những người vô sản
tăng thêm và họ thấy rõ lực lượng của mình hơn"
4
. Hay như V.I.Lênin khẳng
định: "Càng có nhiều người vô sản bao nhiêu thì lực lượng của họ, với tư cách là
giai cấp cách mạng, càng lớn lên bấy nhiêu". Nói cách khác, bản thân nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa cùng với sự phát triển của nó đã thúc đẩy sự phát triển về mặt tổ
chức của giai cấp công nhân, cố kết và hợp nhất những người vô sản. Đến lượt
mình, giai cấp công nhân, do sự tác động của các yếu tố bên ngoài, đã bắt đầu hợp
nhất về mặt tổ chức, tạo ra các tổ chức xã hội riêng của mình cùng với sự phát
triển của bản thân công nghệ và nền sản xuất công nghiệp. Quá trình này gắn liền
với sự phát triển của tư bản thông qua cả một hệ thống quan hệ gián tiếp và phức
tạp, có hàng loạt các quy luật đặc thù. Do vậy, trình độ phát triển về mặt tổ chức
của giai cấp công nhân theo nghĩa thứ hai - phát triển về mặt tinh thần, trí tuệ.
4
C.Mác – Ph.Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 4, Tr.607.
4
Trong "Tuyên ngôn", C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặc biệt quan tâm đến lĩnh
vực phát triển tinh thần, trí tuệ đó của giai cấp công nhân. Ph.Ăngghen đã đặc
biệt nhấn mạnh điều đó trong Lời nói đầu cho lần tái bản "Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản" bằng tiếng Đức năm 1890. C.Mác, theo Ph.Ăngghen, đã hoàn toàn tin
tưởng vào thắng lợi cuối cùng của các nguyên lý được đưa ra trong "Tuyên
ngôn". Khi đưa ra các nguyên lý đó, ông hoàn toàn dựa vào sự phát triển tinh

thần, trí tuệ của giai cấp công nhân. Ông viết: "Để đạt tới thắng lợi cuối cùng của
những nguyên lý đề ra trong "Tuyên ngôn", Mác chỉ tin tưởng vào sự phát triển
trí tuệ của giai cấp công nhân, sự phát triển mà hành động chung và tranh luận
chung nhất định sẽ mang lại Và Mác đã đúng".
Trong "Tuyên ngôn", C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã xác định rõ những đặc
điểm chung của cơ chế phát triển tinh thần, trí tuệ. Các ông lưu ý rằng, trong quá
trình đấu tranh liên tục chống lại tầng lớp quý tộc, cũng như chống lại các bè
phái riêng biệt của mình, giai cấp tư sản buộc phải dựa vào giai cấp vô sản, kêu
gọi sự giúp đỡ của giai cấp vô sản và qua đó, lôi kéo giai cấp vô sản vào phong
trào chính trị. Trong tất cả các cuộc đấu tranh của mình, "giai cấp tư sản tự thấy
mình buộc phải kêu gọi giai cấp vô sản, yêu cầu họ giúp sức, và do đó lôi cuốn
họ vào phong trào chính trị. Thành thử giai cấp tư sản đã cung cấp cho những
người vô sản những tri thức của bản thân nó, nghĩa là những vũ khí chống lại
bản thân nó"
5
.(Trong bản tiếng Anh xuất bản năm 1888 thay cho những chữ
“những tri thức của bản thân nó” là những chữ “những tri thức chính trị và tri
thức phổ thông của bản thân nó”.).
Sự phát triển của công nghiệp cũng đã xô đẩy "từng bộ phận trọn vẹn của
giai cấp thống trị vào hàng ngũ giai cấp vô sản, hay ít ra thì cũng bị đe doạ về
5
C.Mác – Ph.Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 4, Tr.609.
5
mặt những điều kiện sinh hoạt của họ. Những bộ phận ấy cũng đem lại cho giai
cấp vô sản nhiều tri thức"
6
. Cuối cùng, ở những giai đoạn mà cuộc đấu tranh giai
cấp trở nên gay gắt nhất, quá trình phân hoá trong nội bộ giai cấp thống trị mang
một tính chất dữ dội, mạnh mẽ, thì "một bộ phận nhỏ của giai cấp thống trị tách
ra khỏi giai cấp này và đi theo giai cấp cách mạng". Như vậy, một bộ phận giai

cấp tư sản đã chuyển sang lập trường giai cấp vô sản, đó chính là "bộ phận các
nhà tư tưởng tư sản đã vươn lên nhận thức được, về mặt lý luận, toàn bộ quá
trình vận động lịch sử"
7
.
Một khuynh hướng tác động mang tính tích cực, bổ sung cho sự phát triển
trí tuệ ngày một tăng của giai cấp công nhân đã được hình thành ở giai đoạn
muộn hơn, - giai đoạn diễn ra bước ngoặt tiếp theo trong lực lượng sản xuất
khiến cho nhu cầu tăng cường hàm lượng trí tuệ của sức lao động làm thuê trở
nên cấp bách.
Sự phát triển về tinh thần, trí tuệ của giai cấp vô sản, đến lượt mình, lại đặt
ra những vấn đề của riêng nó. Đó là vấn đề nâng cao trình độ học vấn chung cho
các đội ngũ giai cấp công nhân riêng biệt và cho toàn thể giai cấp vô sản, nâng
cao trình độ nghiệp vụ chuyên ngành, đặc biệt là khi xuất hiện các ngành nghề
mới, với đặc điểm là chức năng lao động trí óc lớn hơn. Đó là quá trình giai cấp
công nhân dần ý thức được sự thống nhất về lợi ích của nó với tư cách là một
giai cấp, dẫn tới việc giải quyết các vấn đề chính trị và xã hội đang đặt ra. Đó
còn là sự phát triển về mặt ý thức hệ nhờ nắm bắt các nguyên lý của chủ nghĩa
cộng sản khoa học, nhờ tiếp nhận một thế giới quan triệt để cách mạng.
6
C.Mác – Ph.Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 4, Tr.609.
7
C.Mác – Ph.Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 4, Tr.610.
6
Việc khảo cứu có tính đến sự phân hoá về quá trình phát triển và tự phát
triển của giai cấp công nhân trong các lĩnh vực khác nhau sẽ cho phép chúng ta
nhận thức rõ vì sao quá trình phát triển và tự phát triển đó lại thường diễn ra một
cách không đồng thời. Sự phát triển về số lượng thường đi trước sự phát triển về
tổ chức, và ngược lại, sự phát triển về tổ chức, sự phát triển tinh thần, trí tuệ có
khi lại đi trước sự phát triển về số lượng. Sự phát triển về nghề nghiệp có thể bị

tách khỏi sự phát triển về chính trị, v.v. được quy định bởi các đặc trưng dân tộc,
tính không đồng thời đó trong hàng loạt trường hợp cho phép chúng ta lý giải
những tình huống đặc thù trong các đội ngũ dân tộc riêng biệt của giai cấp công
nhân.
* Việc nghiên cứu giai cấp công nhân từ góc độ phát triển và tự phát triển
của nó, dựa trên các nguyên lý của "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", cho phép
chúng ta giải quyết nhiều vấn đề quan trọng của lịch sử và lý luận về giai cấp
công nhân, về phong trào công nhân quốc tế. Nó cho phép chúng ta vạch rõ
những khác biệt của giai cấp vô sản ở các giai đoạn phát triển khác nhau của nó.
Nó cung cấp cho chúng ta một phương thức hữu hiệu để khắc phục sự lúng túng
một cách giáo điều trước các hiện tượng và quá trình mới xuất hiện trong phong
trào công nhân hiện đại, nó chỉ ra con đường hữu hiệu nhất để nghiên cứu những
chuyển biến đang diễn ra, nó cũng tạo ra những khả năng mới cho phép áp dụng
các phương pháp hiện đại vào việc nghiên cứu các quá trình xã hội, đặc biệt đây
còn là cơ sở phương pháp luận xây dựng giai cấp công nhân hiện đại trong công
cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam.
Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh cả về số
lượng và chất lượng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế đang là một đòi hỏi bức
7
xúc, có ý nghĩa không chỉ hiện nay mà còn lâu dài về sau. Đây là vấn đề được
xác định rõ ràng trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khoá X về giai cấp
công nhân. Để triển khai thực hiện Nghị quyết, chúng ta đang tiến hành xây
dựng chiến lược và đề xuất chính sách quốc gia về giai cấp công nhân, chú trọng
đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, nhất là trong những ngành mũi nhọn, có
trình độ công nghệ cao và hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở
nước ta.
Nói tới giai cấp công nhân là nói tới lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong điều
kiện hiện nay, khi cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão,

thông tin bùng nổ với gia tốc cực lớn, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và hội
nhập quốc tế đang là một xu hướng phổ biến, tất yếu, là một quá trình không thể
đảo ngược , thì như một lẽ tự nhiên, chúng ta không chỉ phát triển mạnh mẽ
kinh tế thị trường mà còn phải chủ động đi vào kinh tế tri thức.
Để tiến tới kinh tế tri thức, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với
kinh tế tri thức phải thực hiện chiến lược phát triển nhân lực lao động chất lượng
cao, đặc biệt là hình thành đội ngũ công nhân trí thức. Đội ngũ này có thể và cần
phải đóng vai trò nòng cốt trong giai cấp công nhân hiện đại ở nước ta, là nhân tố
chủ yếu quyết định thành công chiến lược công nghiệp hoá rút ngắn, đưa nước ta
về cơ bản trở thành một nước công nghiệp trong một, hai thập kỷ tới. Đây cũng
là một trong những giải pháp ở tầm chiến lược cần phải sớm trù tính và thực hiện
để đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội X của Đảng.
Tri thức hoá và trí thức hoá công nhân, nhất là đối với công nhân trẻ, ở độ
tuổi thanh niên, là con đường và phương hướng cơ bản đáp ứng yêu cầu nêu trên.
8
Về thực chất, tri thức hoá và trí thức hoá công nhân là hiện đại hoá công nhân về
tư duy sáng tạo, kỹ năng và phong cách lao động công nghiệp, về đạo đức - lối
sống công nhân, bản lĩnh chính trị công nhân trong đổi mới, mở cửa và hội
nhập trên cơ sở nâng cao trình độ học vấn, học thức của công nhân, lấy đó làm
tiền đề cho việc tăng cường tiềm lực tư tưởng, trí tuệ, đạo đức và văn hoá của
giai cấp công nhân Việt Nam, của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thế kỷ XXI.
Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, đội tiền phong của nó là
Đảng Cộng sản đang thực thi trọng trách của một Đảng cầm quyền, lãnh đạo
công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó phải là một giai
cấp công nhân hiện đại, hiện đại với nghĩa, không chỉ là sản phẩm, là con đẻ của
nền đại công nghiệp như đã nói trong nguyên lý kinh điển mác xít thế kỷ XIX
mà còn là chủ thể sáng tạo trong kinh tế thị trường hiện đại và kinh tế tri thức,
làm chủ các công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin trong xã hội
thông tin với kỷ nguyên văn minh tin học ở thời đại hậu công nghiệp ngày nay.

Trình độ, cốt cách công nhân trong môi trường kinh tế - xã hội nêu trên đã và
đang thay đổi về chất. Lao động của họ sẽ mang đặc trưng sáng tạo của lao động
trí óc, nó rất gần với lao động của những kỹ sư, kỹ thuật viên cao cấp, bằng chất
xám là chủ yếu chứ không còn đơn thuần là lao động chân tay cơ bắp như công
nhân truyền thống trước đây. Công nhân trí thức sẽ phải là đại biểu tinh hoa của
giai cấp mình, góp phần vào sự phát triển tinh hoa của Đảng, của dân tộc và xã
hội. Với một giai cấp công nhân hiện đại như vậy, mà bộ phận công nhân trí thức
sẽ ngày càng tăng lên, nổi trội trong cơ cấu giai cấp công nhân và cơ cấu xã hội
nói chung, Đảng Cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân sẽ phải không
ngừng trí tuệ hoá, khoa học hoá và dân chủ hoá trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo
và cầm quyền của mình. Hiện diện trong lòng giai cấp và dân tộc, Đảng sẽ tự
9
biểu hiện mình một cách xứng đáng là đại biểu cho tinh hoa tư tưởng - chính trị -
đạo đức và văn hoá của cả dân tộc, ngang tầm thời đại.
Chính là trong đà phát triển hiện nay của dân tộc và thế giới hiện đại, đã ngày
càng đầy đủ và chín muồi những điều kiện để Đảng Cộng sản tiêu biểu cho trí tuệ,
danh dự và lương tâm của thời đại như Lênin đã từng đòi hỏi và như Hồ Chí Minh
đã chỉ ra, Đảng là đạo đức và văn minh, là một Đảng chân chính cách mạng.
Tri thức hoá và trí thức hoá công nhân có tầm quan trọng và ý nghĩa sâu xa
như thế, chẳng những đối với sự phát triển nội tại của giai cấp mình mà còn đối
với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đối với sự phát
triển và chấn hưng dân tộc, tương lai, triển vọng tốt đẹp của xã hội Việt Nam
trong bước chuyển từ truyền thống tới hiện đại.
Vậy tri thức hoá và trí thức hoá công nhân để xây dựng giai cấp công nhân
hiện đại cần được hiểu như thế nào, cần có những giải pháp nào để thực hiện,
những điều kiện nào để đảm bảo kết quả và hiệu quả. Đó là những vấn đề cần
làm rõ, dù mới là bước đầu trong nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Về lâu
dài, đây sẽ là một trọng điểm cần đi sâu trong nghiên cứu về giai cấp công nhân
và công đoàn, về chủ nghĩa xã hội Việt Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam trong tiến trình đổi mới.

Tri thức hoá công nhân là tiền đề và điều kiện trực tiếp để trí thức hoá công
nhân. Kết quả và tác dụng của tri thức hoá công nhân sẽ từng bước thúc đẩy quá
trình trí thức hoá công nhân để tạo ra đội ngũ công nhân trí thức như là lực lượng
tinh hoa trong giai cấp công nhân, là thành phần nòng cốt trong nguồn nhân lực
chất lượng cao của giai cấp công nhân và của xã hội. Trí thức hoá công nhân
không phải là biến người công nhân thành người trí thức, càng không phải là giai
cấp công nhân trở thành trí thức. Trong cơ cấu xã hội, công nhân nằm trong lực
10
lượng xã hội (hay một tập đoàn, một nhóm xã hội lớn với tư cách là một giai cấp,
trong khi đó, trí thức chỉ hợp thành một tầng lớp xã hội. Trí thức đến từ nhiều
nguồn gốc giai cấp và xã hội khác nhau, làm nghề tự do, nghiên cứu khoa học,
sáng tác biểu diễn trong lĩnh vực đời sống văn hoá tinh thần, hoạt động văn hoá
nghệ thuật, giáo dục - đào tạo, hoạt động xã hội, công chức nhà nước. Một số trí
thức còn tham gia vào lãnh đạo quản lý. Tầng lớp trí thức đa dạng và đông đảo,
nói chung hành nghề bằng lao động trí óc sáng tạo, phần lớn là phục vụ nền sản
xuất xã hội một cách gián tiếp chứ không trực tiếp tạo ra của cải vật chất, sản
phẩm vật chất cho xã hội như công nhân, nhưng mặt khác, nền sản xuất vật chất
và sự phát triển kinh tế - xã hội lại cần đến trí thức, sử dụng ngày càng nhiều
chất xám của trí thức để phát triển sản xuất - kinh doanh - dịch vụ.
Cũng có không ít trí thức xuất thân từ công nhân và cũng có không ít công
nhân sau khi được đào tạo, nhất là đào tạo bậc cao sẽ dịch chuyển từ hoạt động
sản xuất vật chất trực tiếp với tư cách công nhân sang hoạt động lao động trí óc
chuyên nghiệp được gọi là nhà khoa học, nhà văn, nghệ sĩ hay người trí thức.
Đây là sự biến đổi vị trí xã hội hay thay đổi nghề nghiệp đối với con người, trong
từng trường hợp cụ thể.
Trí thức hoá công nhân mang hàm nghĩa chủ yếu là:
Thứ nhất, làm tăng tính chất lao động trí óc sáng tạo, nâng trình độ của một
bộ phận công nhân tới trình độ của trí thức khoa học - kỹ thuật - công nghệ.
Thứ hai, tạo ra một bộ phận công nhân vượt trội, không những có trình độ
học vấn, văn hoá cao mà còn làm việc trong môi trường trí thức, giống như trí

thức. Đây là bộ phận công nhân lao động bằng chất xám, sử dụng chất xám, điều
khiển máy móc, công nghệ hiện đại, tự động hoá, tin học hoá.
11
Song công nhân trí thức vẫn là công nhân, làm việc tập trung, mang phong
cách công nghiệp, thao tác, tác nghiệp bằng máy, có thể tham gia vào việc thiết
kế, phát minh như các chuyên gia, kỹ sư, kỹ thuật viên cao cấp. Đội ngũ công
nhân trí thức là đội ngũ những người lao động cao cấp, lao động phức tạp và
mang đặc trưng sáng tạo của kiểu lao động trí óc.
Trí thức hoá công nhân và xây dựng đội ngũ công nhân trí thức sẽ tạo ra
mối liên kết xã hội mật thiết giữa công nhân với trí thức, trí thức với công nhân,
nhà trí thức khoa học - công nghệ sẽ gắn nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng
dụng đồng thời làm cho công nhân cũng tham gia vào nghiên cứu, thiết kế, phát
minh. Tính độc quyền và sự chia cắt, biệt lập trong nghiên cứu giữa trí thức với
những ai không phải là trí thức bị xoá bỏ. Song, những khác biệt trong tính
chuyên nghiệp đặc thù của trí thức và của công nhân cũng không vì thế mà mất
đi. Nói tóm lại, trí thức hoá công nhân là phương thức đã tạo ra đội ngũ công
nhân trí thức trên cơ sở và tiền đề tri thức hoá công nhân như một trọng điểm của
quá trình nâng cao dân trí của xã hội.
Đây là hai phương diện khác nhau nhưng thống nhất với nhau của cùng một
vấn đề và một quá trình, đó là xây dựng và phát triển giai cấp công nhân hiện đại
với công nhân trí thức là nòng cốt.
Để "rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn
với phát triển kinh tế tri thức", đẩy nhanh tốc độ công nhân hóa lực lượng lao
động, trí thức hóa công nhân, nước ta phải đổi mới và phát triển mạnh các ngành,
các sản phẩm có giá trị sản phẩm gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, phải đổi
mới nền giáo dục theo hướng hiện đại, phát triển KH&CN hiện đại và phải có cơ
chế và chính sách phù hợp với sự phát triển kinh tế tri thức. Trước hết, cần quán
triệt một số quan điểm cơ bản: Thực hiện trí thức hóa đội ngũ công nhân phải có
12
sự tham gia của cả hệ thống chính trị, các ngành, mà nòng cất là giáo đục - đào

tạo, các lực lượng, trong đó đội ngũ trí thức có vị trí quan trọng đặc biệt. Chủ thể
quan trọng hàng đầu và là đối tượng trực tiếp của quá trình trí thức hóa công
nhân chính là sự tích cực học tập, tự hoàn thiện và vươn tới của bản thân người
công nhân. Công nhân hóa lực lượng lao động, trí thức hóa đội ngũ công nhân
phải được coi là nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự
nghiệp CNH, HĐH và sự phát triển của kinh tế tri thức. Nó phải được kết hợp
chặt chẽ, "Thống nhất định hướng giữa phát triển KH&CN với chấn hưng giáo
đục - đào tạo". Phát huy quan hệ tương tác thúc đẩy lẫn nhau giữa hoạt động
KH&CN và GDĐT với phát triển kinh tế. Nội dung trí thức hóa công nhân phải
toàn diện và đồng bộ được triển khai ở tất cả các ngành kinh tế - kỹ thuật, công -
nông nghiệp và dịch vụ. Dưới đây là một số giải pháp cụ thể đẩy mạnh trí thức
hóa công nhân ở Việt Nam:
Một là, phải tạo được tiền đề sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng cao ở
tất cả các ngành kinh tế kỹ thuật. Trước hết phải "đẩy mạnh CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn
theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao gắn với công nghiệp chế biến và
thị trường". Thực tế, ta phải chuyển mạnh thâm canh, ứng dụng các thành tựu
công nghệ cao, công nghệ sinh học vào tất cả các khâu trong quá trình sản xuất
như ứng dụng công nghệ sinh học để tạo ra giống cây, giống con mới có giá trị
kinh tế cao trên một đơn vị điện tích, nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao vào
các khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, chế biến và bảo quản nhằm giảm thiểu
ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng hàng hóa nông sản. "Phát triển các khu
nông, lâm, ngư nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt, chăn nuôi tập trung,
doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với sự phát triển các làng nghề sao cho
13
kết hợp được nét đặc trưng truyền thống với kỹ thuật hiện đại. Để nhanh chóng
phát triển nông nghiệp dựa vào tri thức cần kết hợp năm nhà: nhà nông, nhà
KH&CN kỹ thuật cao, nhà doanh nghiệp, nhà tài chính và nhà nước. Công
nghiệp cần phát triển theo hướng kết hợp vừa đổi mới vừa xây dựng mới. Đối
với doanh nghiệp đang hoạt động cần có lộ trình đổi mới thiết bị theo hướng

nâng tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao. Phát triển "công nghiệp công
nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghệ bổ trợ có
lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu. Đối với dịch vụ phải vừa phát
triển mạnh vừa hiện đại hóa các ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn,
dịch vụ KH&CN, phải "tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ nhất
là các ngành chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh", đưa tỷ lệ dịch
vụ trong GDP lên 60 - 70%.
Hai là, đẩy mạnh trí thức hóa công nhân. Thực hiện Nghị quyết Đại hội X
của Đảng "Phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức, nâng cao giác ngộ và
bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và tay nghề, xứng đáng là lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước", Việt Nam phải đẩy mạnh công nhân hóa
lực lượng lao động xã hội, trí thức hóa công nhân ở tất cả các ngành kinh tế - kỹ
thuật, công - nông nghiệp và dịch vụ, đặc biệt trong nông nghiệp và nông thôn.
Để thực hiện nhiệm vụ đó cần:
Thứ nhất, đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng đào tạo đội ngũ lao động
kỹ thuật chất lượng cao. Phát triển và nâng cao chất lượng GDĐT toàn diện làm
cho GDĐT thực sự là quốc sách hàng đầu trên tất cả các khâu từ đầu tư đến cán
bộ, chính sách ưu tiên, đổi mới tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp
dạy và học, thực hiện "chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa nhằm đào tạo có chất
lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức. Phấn đấu đạt
14
chuẩn phổ thông trung học cơ sở trong cả nước vào năm 2010, Mỗi quận huyện
ít nhất có một trường dạy nghề, một trung tâm hướng nghiệp kỹ thuật tổng hợp.
Thu hút học sinh sau trung học cơ sở vào các trường dạy nghề từ 10% (2005) lên
15% (2010), các học sinh sau trung học vào các chương trình dạy nghề bậc cao
từ 7% (2005) lên 10% (2010), vào các trường là trung học chuyên nghiệp từ 10%
(2005) lên 15% năm 2010. Nâng tỷ lệ Sinh viên trên một vạn dân từ 140 sinh
viên (2005) lên 200 sinh viên (2010), tăng đào tạo Thạc sĩ từ 19.000 (2005) lên
38.000 tỷ (2010), nghiên cứu sinh từ 7.500 người (2005) lên 15.000 người
(2010). Để đạt được những định hướng đó trước hết phải đổi mới nhận thức về

GDĐT lực lượng lao động kỹ thuật có chất lượng cao cho tất cả các ngành kinh
tế - kỹ thuật công - nông nghiệp và dịch vụ, coi GDĐT và KH&CN là nền tảng
và động lực đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH. Tạo điều kiện để toàn xã hội học
tập và học tập suất đời, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, thực học để đào tạo người
có thực tài ở tất cả các trường. Các trường Cao đẳng, Đại học cần đào tạo theo
hình chóp chỉ cấp bằng cho những người đạt trình độ, tạo chuyển biến cơ bản về
chất lượng GDĐT, trước hết là chất lượng đội ngũ giáo viên, đổi mới mục tiêu,
chương trình, nội dung, phương pháp theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa nhằm
tiếp cận được trình độ giáo đục của khu vực và thế giới, chuyển biến cơ bản và
toàn diện nền giáo dục Việt Nam hiện nay, hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc
dân, sắp xếp, củng cố và phát triển mạng lưới giáo dục theo hướng đa dạng hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa, liên thông hóa và liên kết hóa, gắn với yêu cầu của thị
trường lao động trong nước và quốc tế. Tăng cường giáo dục tư duy sáng tạo,
năng lực tự học, tự tu dưỡng, tự tạo việc làm cho học sinh, sinh viên. Phát triển
quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn. Tăng "Quy mô tuyển sinh dạy nghề đài
hạn hàng năm 17%, trung học chuyên nghiệp 15%, tăng mạnh tỷ lệ học sinh tất
15
nghiệp phổ thông được học lên Đại học, Cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.
Phát triển rộng khắp trung tâm giáo dục cộng đồng, hình thức giáo dục từ xa".
Coi trọng đào tạo công nhân kỹ thuật cao ở các trường công lập và dân lập.
Khuyến khích thành lập mới và phát triển các trường dân lập, kể cả các trường
do nước ngoài đầu tư. Tăng cường đầu tư cho GDĐT bảo đảm tốc độ tăng chi
ngân sách cho giáo đục hàng năm. Đa dạng hóa các nguồn đầu tư từ các thành
phần kinh tế. "Đảm bảo đủ điều kiện nối mạng Internet cho tất cả các Trường
Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề nối mạng ít nhất
60% đối với các trường phổ thông vào năm 2010".
Thứ hai, phát triển mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công
nghệ. Đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ nền kinh tế quốc dân nhằm nhanh
chóng thoát khỏi tình trạng lao động thủ công, lạc hậu. "Kết hợp chặt chẽ hoạt
động KH&CN với giáo dục - đào tạo tạo động lực đẩy nhanh CNH, HĐH và

phát triển kinh tế tri thức". Đặc biệt cần "Xây dựng và phát triển có trọng điểm
các ngành công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và vật
liệu mới. Để thực hiện những định hướng đó cần: tập trung xây dựng và thực
hiện chiến lược phát hiện, nuôi dưỡng, đào tạo và phát huy tài năng, tôn vinh
nhân tài để phát triển nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao. Phấn đấu nâng tỷ
lệ cán bộ KH&CN đạt 6 người trên một nghìn dân, có thêm ít nhất 5.000 cán bộ
KH&CN trình độ cao vào năm 2010, phát huy quyền tự do sáng tạo của đội ngũ
KH&CN trên tất cả các lĩnh vực, đẩy mạnh tốc độ gửi cán bộ KH&CN đi đào
tạo, bồi dưỡng ở các nước có trình độ KH&CN hiện đại như Mỹ, Anh, Đức,
Nhật Bản đẩy mạnh hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ, "thu hút chuyên
gia, đặc biệt chuyên gia giỏi người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia
giảng dạy, phát triển KH&CN tại Việt Nam". Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất -
16
kỹ thuật. Nhanh chóng xây dựng và đưa vào sử dụng các phòng thí nghiệm trọng
điểm quốc gia Khu công nghệ cao Hoà Lạc, Khu công nghệ cao Quang Trung
thành phố Hồ Chí Minh.
Hình thành và phát triển một số ngành công nghệ cao, đặc biệt công nghệ
phần mềm, công nghệ sinh học và cơ điện tử ở Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng,
Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng thông
tin. Đây là chìa khóa đi vào nền kinh tế tri thức, là cơ sở đòi hỏi trí thức hóa
công nhân. "Đưa tổng mức đầu tư xã hội đạt 1,5% GDP vào năm 2010".
Ba là, đối mới cơ chế và chính sách nói chung, đối với phát triển GDĐT và
KH&CN nói riêng phù hợp với sự phát triển kinh tế tri thức. Trước hết đổi mới
và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về GDĐT: "Nhà nước thực hiện đúng
chức năng định hướng, phát triển, tạo lập khung pháp lý và kiểm tra, giám sát,
thực thi pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục, chống
bệnh thành tích", cần trao quyền tự chủ nhiều hơn cho cơ sở đào tạo về tổ chức
quản lý, kế hoạch giảng dạy, nghiên cứu khoa học, giao quyền bổ nhiệm nhân
sự, quyền tuyển sinh, đánh giá kết quả học tập, đổi mới tổ chức, xây dựng quy
chế liên kết giữa KH&CN và GDĐT, giữa nghiên cứu, giảng dạy và sản xuất

kinh doanh. Có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới và chuyển giao công nghệ, nghiên cứu và ứng
dụng thành tựu KH&CN vào sản xuất và đời sống. "Chuyển mọi tổ chức nghiên
cứu công lập sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp, và phát triển các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý KH&CN,
thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Thực hiện chính sách "Trọng dụng
nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật
viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao".
17
* Việc vận dụng một cách sáng tạo, toàn diện di sản lý luận của "Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản" trong vấn đề này sẽ đem lại cho các nhà nghiên cứu
Mácxít một công cụ hữu hiệu để đấu tranh chống lại ý đồ tư biện hoá quá trình
phát triển và tự phát triển của giai cấp công nhân, đặc biệt là quá trình phát triển
về tinh thần, trí tuệ của nó.
Trong thời gian gần đây, lý luận về "giai cấp trung lưu mới" đã chiếm lĩnh
vị trí hàng đầu trong số những quan điểm lý luận của những người theo trào lưu
chống lại chủ nghĩa Mác ở phương Tây. Đó không chỉ đơn giản là một trong
nhiều quan điểm, mà còn là một quan niệm "tinh vi" của tư tưởng cải lương hiện
đại, là "cỗ đại bác vô hình" của giai cấp tư sản hiện đại trong cuộc đấu tranh
chống lại học thuyết về sứ mệnh lịch sử toàn cầu của giai cấp công nhân.
Lý luận về "giai cấp trung lưu mới", về đại thể đã mô tả sự phát triển của xã
hội như sau: Sự phân cực xã hội không tăng lên như điều đó cần phải được rút ra
từ học thuyết Mác, mà đã được khắc phục về căn bản; các lực lượng, tầng lớp xã
hội trung gian, hay "trung đẳng" theo cách gọi của C. Mác và Ph.Ăngghen trong
"Tuyên ngôn", không những không biến mất, mà còn được tái hiện trên một quy
mô rộng lớn hơn. Hơn nữa, một "giai cấp mới", giai cấp trung lưu đã hình thành,
phát triển và đang đóng vai trò hợp nhất các nhóm, các tầng lớp xã hội khác. Đặc
trưng cho "giai cấp" đó là một hệ thống giá trị đặc thù, bao hàm sự chấp nhận về
nguyên tắc chế độ xã hội hiện tồn, thoả mãn với cuộc sống của mình. Chính "giai
cấp" này quy định sự phát triển chính trị và tư tưởng của xã hội hiện đại. Sự phát

triển tiếp theo của xã hội sẽ càng thu hút thêm các nhóm, các tầng lớp, các lực
lượng xã hội đối lập vào "giai cấp" đó.
Nói cách khác, đó là học thuyết chống lại quan niệm mác xít về vai trò của
giai cấp công nhân với tư cách là một lực lượng xã hội đóng vai trò quyết định
18
đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội. Một vấn đề được đặt ra là: Học thuyết đó
được xây dựng như thế nào và tại sao nó lại trở nên phổ biến trong giới trí thức
khoa học phương Tây? Vấn đề là ở chỗ, mô hình lý luận này không đơn giản là
một ảo tưởng thuần tuý, hoàn toàn tách rời cuộc sống hiện tại. Các yếu tố cấu
thành của nó không đơn giản là những cái được bịa đặt ra, mà còn căn cứ trên
một sự lý giải sai lầm về các quá trình mới đang diễn ra trong xã hội phương Tây
hiện đại.
Chúng ta hãy thử phân tích từng yếu tố đó. Lực lượng "nòng cốt" trong
"giai cấp trung lưu mới" đó được hình thành như thế nào? Theo các nhà tư tưởng
tư sản phương Tây hiện đại, bộ phận cấu thành lực lượng "nòng cốt" đó là tất cả
viên chức và toàn bộ giới trí thức với tư cách là một lực lượng xã hội thống nhất.
Trong quá trình phát triển công nghiệp ngày một diễn ra mạnh mẽ hơn, số lượng
viên chức và trí thức cũng tăng lên. Điều đó đã dẫn đến sự xuất hiện một ảo
tưởng mới về sự gia tăng lực lượng "nòng cốt" trong "giai cấp trung lưu mới".
Trong các cơ sở lý luận cấu thành luận điểm về sự gia tăng lực lượng "nòng
cốt" trong "giai cấp trung lưu mới", chúng ta thấy có sự đánh tráo khái niệm.
Thứ nhất, phạm trù "viên chức" đó không phải là phạm trù giai cấp, mà là
phạm trù pháp lý. Sự gán ghép cho ngành nghề của người lao động một địa vị
được thực hiện hoàn toàn nhờ văn bản pháp lý đó đã dẫn tới một số biến đổi về
địa vị pháp lý của nhóm người lao động tương ứng. Qua đó, sự biến đổi trong cơ
cấu xã hội sẽ thể hiện ra theo một cách khác. Điều đó chỉ có nghĩa rằng về mặt
hình thức, mối tương quan có tính chất thống kê giữa công nhân và viên chức có
thể được điều tiết một cách phù hợp với lợi ích của những người cầm quyền.
Thứ hai, sự đánh tráo khái niệm theo kiểu đó chỉ căn cứ vào việc đội ngũ
viên chức và tầng lớp trí thức tham gia một cách có phân hoá vào đội ngũ "nòng

19
cốt" trong "giai cấp trung lưu mới". Song thực tế đã cho thấy đội ngũ viên chức
không phải là một nhóm xã hội thống nhất. Họ luôn bị phân nhóm một cách sâu
sắc theo sự phân hoá giai cấp trong xã hội tư bản hiện đại.
Để hiểu được bản chất của "giai cấp trung lưu mới" cần phải vạch rõ sự
phân hoá hiện thực của đội ngũ viên chức theo các tiêu chí mà C.Mác và Ph.
Ăngghen đã vạch ra một cách căn bản trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản".
Khi đó chúng ta sẽ thấy rõ ràng rằng đội ngũ viên chức đó gồm ba bộ phận cấu
thành: một bộ phận là tầng lớp cầm quyền, bộ phận khác là các tầng lớp trung
gian và bộ phận thứ ba nằm ngay trong đội ngũ giai cấp công nhân.
Thêm vào đó, học thuyết về "giai cấp trung lưu mới" còn khẳng định rằng
dường như đội ngũ "nòng cốt" của "giai cấp trung lưu mới" này không những tự
tăng lên, mà còn đóng vai trò "trung lưu hoá" đội ngũ công nhân làm thuê.
Quá trình tích tụ tầng lớp "công nhân áo trắng" dường như diễn ra trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ lĩnh vực kinh tế, xã hội, đến chính trị. Quá
trình đó được các nhà tư tưởng tư sản phương Tây luận chứng qua "sự cào bằng"
mức thu nhập và mức sống, qua cơ cấu tiêu dùng, v.v Nói cách khác, những
thành quả nhất định của cuộc đấu tranh nhiều thập niên của giai cấp công nhân vì
các điều kiện tồn tại xứng đáng với con người đã bị bóp méo, ngộ nhận là cái đối
lập về nguyên tắc với nội dung hiện thực của quá trình đang diễn ra.
Không chỉ thế, khi luận chứng về phương diện xã hội cho học thuyết và sự
ra đời của "giai cấp trung lưu mới", các nhà tư tưởng tư sản phương Tây hiện đại
đã tư biện hoá quá trình trí tuệ hoá ngày một tăng đối với lao động chân tay
truyền thống bằng cách tuyệt đối hoá vai trò quyết định của sự phát triển công
nghiệp hiện đại, mà trước hết là bởi các nhu cầu của cuộc cách mạng khoa học,
công nghệ hiện đại. Dấu hiệu "tích tụ" giai cấp công nhân vào "giai cấp trung lưu
20
mới" được ngộ nhận là sự gia tăng các chức năng thuần tuý trí tuệ trong nội dung
của các ngành nghề lao động truyền thống, là sự nâng cao trình độ học vấn
chung của các đội ngũ công nhân cơ bản, v.v

Học thuyết này đã đặc biệt dựa vào sự "tích tụ" trong các lĩnh vực tâm lý xã
hội và chính trị. Nó sử dụng luận chứng cơ bản là sự khẳng định cho rằng dường
như quá trình tự động hoá sản xuất đang thay thế sự phân cấp giữa người và
người bằng sự phân cấp các quá trình công nghệ, đang xoá bỏ sự phân chia trước
đây - sự phân chia thành chủ sở hữu và người lao động làm thuê -, đang "mở ra"
cho đội ngũ công nhân khả năng cảm nhận thấy sự thống nhất giữa lợi ích của
mình với lợi ích của xí nghiệp.
Những số liệu về cái gọi là "những biến đổi sinh thái" cũng thường được
các tư tưởng gia tư sản phương Tây hiện đại sử dụng. Trước hết, họ xem xét sự
gia tăng nhanh chóng các tầng lớp cư dân đô thị do sự giảm xuống một cách
đáng kể số người làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Họ tuyên truyền và phát
triển luận điểm về ảnh hưởng mang tính quyết định của trạng thái tâm lý xã hội ở
người nông dân đối với trạng thái tâm lý xã hội của giai cấp vô sản. Theo luận
điểm đó, người công nhân có nguồn gốc nông thôn không cố gắng trở thành một
bộ phận của giai cấp vô sản thành thị, mà coi thực trạng hiện tại của mình là
bước quá độ trên con đường vươn tới địa vị của người tiểu tư sản.
Chúng ta đều biết rằng quá trình vô sản hoá những người từ nông thôn ra
thành thị là một quá trình rất phức tạp, đòi hỏi phải có điều kiện và thời gian tương
ứng. Việc bổ sung lực lượng đó vào đội ngũ giai cấp công nhân luôn khiến cho các
thành kiến tiểu tư sản, thiên hướng bảo thủ chủ nghĩa và cá nhân chủ nghĩa có khả
năng thâm nhập vào tâm trạng xã hội của một bộ phận công nhân nào đó. Tuy
nhiên, đó không phải là cơ sở để kết luận rằng giai cấp công nhân đã bị "biến chất",
21
rằng lối sống, phong cách tư duy truyền thống có xu hướng biến mất trong xã hội
hiện đại. Việc thổi phồng các xu hướng hiện thực đó thường được các nhà tư tưởng
phương Tây sử dụng để khẳng định rằng sự di dân nông nghiệp là một nhân tố quan
trọng làm "biến chất" giai cấp công nhân từ bên trong.
Trong bối cảnh quốc tế hiện thời, học thuyết về "giai cấp trung lưu mới" đã
trở thành cương lĩnh xuất phát chung cho việc xuyên tạc chủ nghĩa Mác của bọn
cơ hội hữu khuynh và bọn xét lại tả khuynh. Suy luận về "giai cấp trung lưu

mới" trong nhiều năm đã là một đề tài được ưa chuộng của các nhà tư tưởng cải
lương chủ nghĩa trong giới dân chủ xã hội cầm quyền. Tư tưởng này cũng đã trở
nên hấp dẫn đối với các nhà tư tưởng tả khuynh cực đoan. Họ liên tục nhắc đi
nhắc lại luận điểm về quá trình tư sản hoá một bộ phận đáng kể của giai cấp
công nhân hiện đại và tuyên bố rằng chỉ có bộ phận công nhân lao động chân tay
với trình độ nghề nghiệp thấp mới là "giai cấp vô sản chân chính".
Bởi vậy, trong bối cảnh đó, trong bối cảnh cuộc đấu tranh tư tưởng không
những không giảm đi mà ngược lại, có chiều hướng phức tạp hơn, tinh vi hơn
trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nhiệm vụ của
những người nghiên cứu lý luận có trách nhiệm bảo vệ sự trong sáng của chủ
nghĩa Mác nói chung, học thuyết về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô
sản nói riêng, là phải đặc biệt quan tâm tới các quá trình hiện thực đang diễn ra
trong giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa, phải phân tích kịp thời và
toàn diện những hiện tượng mới xuất hiện cũng như các hậu quả chính trị và tư
tưởng hệ của chúng. Nhận thức đúng đắn các vấn đề đang xuất hiện đó là một
trong những công cụ hữu hiệu nhất để chống lại luận điệu của những kẻ xuyên
tạc học thuyết Mác về tiến trình phát triển xã hội nói chung, về sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới của giai cấp vô sản nói riêng.
22
Chính vì lẽ đó, việc nhắc lại quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác
về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản với tư cách là người tất yếu đưa chủ nghĩa
tư bản đến chỗ diệt vong và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là việc làm
cần thiết. Và trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại, trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá được coi là định hướng phát
triển chung của tất cả các nước đang phát triển, mà cùng với nó, giai cấp công
nhân hiện đại không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, cả về tinh
thần cách mạng và năng lực trí tuệ, việc chúng ta nhắc lại quan niệm của C.Mác
và Ph.Ăngghen trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" về quá trình phát triển
của giai cấp vô sản về tinh thần, trí tuệ, thiết nghĩ, không phải là thừa. Bởi trong
quan niệm của các ông, giai cấp vô sản là "sản phẩm của bản thân nền đại công

nghiệp" và do đó, việc nâng cao tri thức, trí tuệ hoá giai cấp vô sản không những
không hề làm "biến chất" giai cấp vô sản, mà ngược lại, càng làm cho nó trở
thành "Giai cấp thực sự cách mạng" và giúp cho nó thêm cơ sở lý luận để "hiểu
rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản". Rằng, sự
phát triển của khoa học và công nghệ, của nền sản xuất công nghiệp dẫu có dẫn
đến sự cạnh tranh giữa công nhân với nhau và do đó, phần nào ảnh hưởng đến
tình đoàn kết giữa họ, song chính nó và cuộc cạnh tranh vì nó lại tạo nên "sự
đoàn kết ngày càng rộng của những người lao động", của giai cấp công nhân và
làm cho sự đoàn kết giữa họ "luôn luôn được tái lập và luôn mạnh mẽ hơn, vững
chắc hơn, hùng mạnh hơn". Và như C.Mác, Ph.Ăngghen đã khẳng định trong
"Tuyên ngôn": "Sự tiến bộ của công nghiệp- mà giai cấp tư sản là người đại diện
mặc nhiên của nó và không đủ sức chống lại nó - đem sự đoàn kết cách mạng
của công nhân do liên hợp lại mà có, thay cho sự chia rẽ của công nhân do cạnh
tranh giữa họ gây nên. Như vậy, cùng với sự phát triển của đại công nghiệp,
23
chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của
nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết giai cấp tư sản sản sinh ra
những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi
của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau"
8
.
Để cho điều đó trở thành "tất yếu", trong thời đại ngày nay - thời đại của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại - giai cấp vô sản không thể
không tự mình vươn lên làm chủ những tri thức khoa học và công nghệ hiện đại
đó theo tinh thần mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra về cơ bản trong "Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản".
8
C.Mác – Ph.Ănghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 4, Tr.613.
24

×