Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội trong quá trình phát triển ở vĩnh phúc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.58 KB, 112 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới được đề ra ở Đại hội VI
(1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta đã giành được những
thành tựu kinh tế - xã hội hết sức to lớn: “ Thực hiện thành công chặng đường
đầu của công cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời
sống nhân dân có nhiều thay đổi tích cực, sức mạnh quốc gia về mọi mặt được
tăng cường, độc lập, tự chủ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế
và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để nước
ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới” [24, tr.9].
Có được kết quả đó là do đi đôi với việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển
kinh tế, Đảng ta luôn quan tâm đến việc nâng cao đời sống mọi mặt của nhân
dân, hoạch định và thực thi chính sách xã hội hợp lý, tiến bộ nhằm tạo điều
kiện tốt nhất cho sự phát triển toàn diện con người. Một trong những mục tiêu
mà Đảng ta đặt ra là: Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ ngay
trong từng bước phát triển.
Tuy vậy, mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng sau hơn 2 thập kỷ
thực hiện đã để lại những hậu quả kinh tế-xã hội ngày càng trầm trọng làm
ảnh hưởng tới chính tốc độ và chất lượng phát triển kinh tế. Với định hướng
phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa thì những vấn đề xã hội mà mô hình phát
triển kinh tế theo chiều rộng và cùng với nó là những hạn chế trong nhận
thức, hoạch định chính sách xã hội và thực hiện chính sách xã hội gây ra cần
phải kiên quyết hạn chế và khắc phục để thực hiện đúng bản chất xã hội ta là
phát triển kinh tế không vì mục đích tự thân mà để không ngừng nâng cao đời
sống mọi mặt của nhân dân. Thực hiện các chính sách xã hội xét đến cùng là
để cải thiện chất lượng cuộc sống, do đó chất lượng cuộc sống là mục tiêu của
phát triển và là thành quả của sự tăng trưởng kinh tế, ngược lại chất lượng
1
cuộc sống lại có vai trò quan trọng trong việc duy trì và bảo đảm tăng trưởng
kinh tế cao hơn.
Hiện nay, bài toán lớn đặt ra cho con đường phát triển ở nước ta là các


vấn đề xã hội phức tạp như việc làm và thu nhập, giáo dục và y tế, vấn đề môi
trường cơ hội phát triển cho mọi đối tượng trong xã hội được giải quyết như
thế nào để thể hiện được bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa ngay
trong quá trình phát triển?
Là một tỉnh, Vĩnh Phúc cũng lớn mạnh cùng với sự phát triển kinh tế-
xã hội chung của cả nước. Năm 1997, khi tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập (tách
khỏi tỉnh Phú Thọ do sát nhập năm 1968), với những chiến lược và bước đi
thích hợp đã thực hiện tốt việc khơi dậy các tiềm năng, phát huy nội lực và
ngoại lực cho đầu tư phát triển. Do vậy trong những năm qua Vĩnh Phúc đã
thu được nhiều kết quả quan trọng. Tốc độ tăng trưởng bình quân cao gấp 2
lần so với tốc độ tăng trưởng chung của cả nước, năm 1997 thu ngân sách đạt
gần 100 tỷ đồng thì đến năm 2006 đã đạt trên 4000 tỷ đồng và 14.505 tỷ đồng
vào năm 2010. Từ một tỉnh thuần nông nay đã chuyển dịch sang cơ cấu công
nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, các thành phần kinh tế đều phát triển mạnh
mẽ đóng vai trò quyết định tạo nên sự tăng trưởng nhanh trong những năm
gần đây. Có được kết quả ấn tượng đó, chắc chắn là do việc hoạch định và
thực hiện chính sách kinh tế và chính sách xã hội của tỉnh đã đạt được sự hợp
lý nhất định trong điều kiện lịch sử - cụ thể nên những năm qua đã khai thác
được tiềm năng kinh tế và sức mạnh nguồn lực con người ở đây.
Tuy nhiên, sức phát triển kinh tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng
của tỉnh. Cùng với đó, kết quả của các chính sách xã hội của tỉnh chưa tương
xứng với những thành tựu trong kinh tế mà tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt được. Một
số vấn đề về mặt xã hội vẫn đang đặt ra một cách bức xúc, như: thiếu việc làm
còn ở mức cao, giáo dục và y tế còn nhiều bất cập, tệ nạn xã hội tăng và phức
tạp hơn, ô nhiễm môi trường ngày càng tăng, mức sống và chất lượng sống
2
của một bộ phận lớn người lao động còn rất thấp, khoảng cách giàu nghèo
ngày càng tăng một cách không chính đáng Cùng với cả nước, Vĩnh Phúc
phải chuyển sang mô hình phát triển kinh tế theo chiều sâu, theo đó, nhận
thức về các chính sách xã hội phải toàn diện và với nhãn quan mới, thực hiện

chính sách xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong giữ ổn định xã hội và
hơn thế tạo tiềm lực phát triển kinh tế, phát triển con người. Do vậy, nghiên
cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay thực sự là cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy
chúng tôi chọn đề tài: “Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã
hội trong quá trình phát triển ở Vĩnh Phúc hiện nay” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội là một vấn đề quan
trọng. Ở nước ta, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý đã xem xét, nghiên
cứu vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau.
Về vấn đề tăng trưởng kinh tế. Bài viết “Việt Nam tăng trưởng kinh tế
và các nhân tố ảnh hưởng” (Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 7 năm 1995),
GS.Tào Hữu Phùng đã làm rõ khái niệm tăng trưởng kinh tế, quá trình tăng
trưởng kinh tế ở nước ta. Từ đó chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Trong cuốn sách “Các giải pháp thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998), GS
Vũ Đình Bách và tập thể tác giả cũng đã làm rõ khái niệm tăng trưởng kinh
tế, các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế, chỉ ra một số mô hình tăng
trưởng kinh tế trên thế giới, đánh giá thực trạng tình hình tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam, từ đó khái quát nên kinh nghiệm cho nước ta. Đồng thời các
tác giả đã chỉ ra ba nhóm giải pháp cho tăng trưởng kinh tế ở nước ta đó là:
giải pháp về lao động, vốn và giải pháp về công nghệ.
3
Về chính sách xã hội và quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính
sách xã hội. Có nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Trong
công trình khoa học công nghệ cấp nhà nước: “Chính sách xã hội - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn”, PGS Bùi Đình Thanh có đưa ra khái niệm cụ thể về
chính sách xã hội. Một số tác giả đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng

kinh tế và các vấn đề xã hội như: “Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề
việc làm ở Việt Nam” của TS Nguyễn Thị Hường (Tạp chí Lý luận chính trị,
số 7, 2008), “Tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển văn hoá, xã hội theo định
hướng xã hội chủ nghĩa” của PGS, TS Vũ Văn Phúc (Tạp chí Lý luận chính
trị, số 1, 2005), “Xoá đói giảm nghèo: nhìn từ góc độ kết hợp tăng trưởng
kinh tế với công bằng xã hội ở nước ta hiện nay” (Tạp chí Cộng sản - chuyên
đề cơ sở, số 5, tháng 5-2007) của TS Nguyễn Thị Nga, “Phối hợp chặt chẽ
giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội ở nước ta” của PGS, TS Nguyễn
Viết Vượng (Tạp chí Cộng sản, số 5, tháng 3- 2006). Trong cuốn sách “Tăng
trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ
1991 đến nay - Kinh nghiệm của các nước ASEAN” (Nxb Lao động, Hà Nội
2001), TS. Lê Đăng Doanh và TS. Nguyễn Minh Trí đã phân tích sự tác động
của các chính sách xã hội với tăng trưởng kinh tế, cụ thể như: chính sách bảo
hiểm xã hội; chính sách bảo hiểm y tế; chính sách việc làm, thất nghiệp và dôi
dư; chính sách bảo trợ xã hội; chính sách bồi thường lao động và bảo hiểm tai
nạn lao động. Các chính sách này có sự tác động mạnh mẽ đến việc thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, tạo cho mọi người có sự
bình đẳng nhất định trong việc tiếp cận với các cơ hội xã hội. Tác giả Nguyễn
Thị Thanh trong luận án tiến sĩ “Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển các quan hệ xã hội lành mạnh ở nước ta hiện nay” có chỉ ra quan hệ biện
chứng giữa yếu tố kinh tế và yếu tố xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội. Trên cơ sở đó tác giả cũng đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường
sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và các quan hệ xã hội lành mạnh.
4
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu và bài viết có liên quan đến
vấn đề nghiên cứu như:
PGS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng (chủ biên) "Tăng trưởng kinh tế, công
bằng xã hội và vấn đề xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam” (Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1999)…
Lê Huy Hoàng: “Xây dựng chính sách xã hội tạo sự công bằng, bình

dẳng cho việc phát huy năng lực sáng tạo của con người Việt Nam hiện nay”
(Tạp chí Triết học, số 9, tháng 12/2001).
Trần Văn Tùng: “Nghịch lý trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”, Tạp
chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 5/2003.
Cao Viết Sinh: “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm
nghèo- thành công và thách thức”, Tạp chí Lao động xã hội, số 272/2005.
PGS.TS Trần Văn Chử: "Tư duy của Đảng ta về quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội” (Lý luận chính trị, số 2-2005,
tr.20-24). “Thành công và thách thức” (Tạp chí Lao động và Xã hội, số
272/2005).
Trần Thành: “Vai trò của nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay” (Tạp chí Triết học, số 2/2006).
Trần Văn Phòng: “Một số giải pháp nhằm kết hợp tăng trưởng kinh tế
với công bằng xã hội ở nước ta hiện nay” (Tạp chí Khoa học Chính trị, số
2/2006).
TS Nguyễn Thị Nga: "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới” (Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2007).
PGS.TS Tô Huy Rứa: “Phát triển hài hoà giữa kinh tế và xã hội ở Việt
Nam 20 năm đổi mới” (Tạp chí Cộng sản, số 779, tháng 9/2007, tr.9-12).
Đặng Thị Hồng Vi: “Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện
chính sách xã hội ở Hà Tây hiện nay” (Luận văn Thạc sĩ triết học, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2007).
5
Nhìn chung các tác giả đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với các vấn đề xã hội, chính sách xã hội từ đó đi đến việc giải quyết mâu
thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; trong đó một số tác giả
chỉ ra vai trò của chính sách xã hội để đảm bảo sự công bằng và tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên để phân tích rõ thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm
kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội trên cơ sở nghiên cứu
tình hình cụ thể ở tỉnh Vĩnh Phúc và với nhãn quan mới về mối quan hệ giữa

chúng trong điều kiện chuyển sang mô hình kinh tế phát triển theo chiều sâu
thì hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
chính sách xã hội trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh
Phúc thời gian vừa qua, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu
nhằm kết hợp tăng trưởng kinh tế và thực hiện chính sách xã hội ở Vĩnh Phúc
trong thời gian tới để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình
phát triển.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục đích trên đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Hệ thống hóa quan niệm tăng trưởng kinh tế, chính sách xã hội và mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng của việc thực hiện mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc thời gian vừa qua.
- Xác định phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở Vĩnh Phúc trong
thời gian tới, đáp ứng yêu cầu phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
chính sách xã hội trong đời sống xã hội
* Phạm vi nghiên cứu: mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực
hiện một số chính sách xã hội: việc làm, xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế,
môi trường trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận, thực tiễn của đề tài:
Cơ sở lý luận:

- Nguyên lý và quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh.
- Vận dụng các quan điểm, đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng
và pháp luật của Nhà nước; các chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phúc về việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã
hội. Đồng thời luận văn cũng tham khảo và kế thừa có chọn lọc những kết quả
nghiên cứu của các tác giả nghiên cứu về những vấn đề có liên quan.
Cơ sở thực tiễn của luận văn: Các báo cáo về kinh tế - xã hội của tỉnh
do các sở, ban, ngành tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện; khảo sát thực tế của tác giả
luận văn về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
* Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật và các phương pháp cụ
thể: phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử, thống kê, so sánh
6. Đóng góp của luận văn
- Phân tích thực trạng của việc thực hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và chính sách xã hội ở Vĩnh Phúc.
7
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh
việc gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tốt chính sách xã hội theo yêu cầu
của một xã hội phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Vĩnh Phúc trong
thời gian tới.
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy một số
chuyên đề như: chính sách xã hội dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, đường lối
chính sách kinh tế, tăng trưởng và phát triển kinh tế (tiếp cận ở góc độ kinh tế
chính trị học) ở các trường chuyên nghiệp.
- Có thể nói, trong một chừng mực nào đó đề tài nêu được một cách
khái quát và tổng thể mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện chính
sách xã hội ở Vĩnh Phúc nên đề tài có thể được dùng làm tư liệu tham khảo
cho việc hoạch định và thực thi chính sách xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết:
Chương 1: Mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và chính
sách xã hội.
Chương 2: Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở
Vĩnh Phúc - thực trạng, phương hướng và giải pháp.
8
Chương 1
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VÀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
1.1. Quan niệm về tăng trưởng kinh tế, chính sách xã hội
1.1.1. Tăng trưởng kinh tế và các yếu tố cơ bản quyết định sự tăng
trưởng kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Ngay từ thời Hy lạp cổ đại các nhà tư tưởng đã có những quan niệm về
tăng trưởng kinh tế. Họ cho rằng: tăng trưởng kinh tế là hoạt động diễn ra
trong lĩnh vực kinh tế, tăng trưởng kinh tế được đồng nhất với sự tăng lên về
lượng của nền kinh tế, như tăng sản lượng, tăng của cải…
Với Xênôphôn (430-345 TCN), hoạt động kinh tế là quá trình làm tăng
của cải, tăng tư liệu tiêu dùng (thực chất là tăng trưởng kinh tế). Theo ông,
phân công lao động có vai trò thúc đẩy giao lưu hàng hoá giữa các vùng, nhờ
có phân công lao động mà nâng cao được chất lượng hoạt động, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế [8, tr.23].
Với Platôn (427-347 TCN), mối quan hệ giữa phân công lao động,
thương mại và tiền tệ dưới sự hoạt động của các thương gia đóng vai trò quan
trọng trong việc làm tăng của cải (thực chất là tăng trưởng kinh tế). Tăng
trưởng kinh tế là quá trình tăng của cải bởi hoạt động do thương mại đem lại
[8, tr.24].
Với Arixtốt (384-322 TCN), hoạt động kinh tế, tăng trưởng kinh tế là

những hoạt động gắn liền với việc tạo ra giá trị sử dụng, làm tăng giá trị sử
dụng (của cải tự nhiên).
Nhìn chung, ở thời kỳ Hy lạp cổ đại, khái niệm tăng trưởng kinh tế mới
chỉ mang tính chất bước đầu, đơn giản, sơ khai song nó có ý nghĩa hết sức
quan trọng ở chỗ đặt vấn đề và là cơ sở cho các nhà tư tưởng sau này tiếp tục
nghiên cứu.
9
Thời kỳ cận đại, giai cấp tư sản ra đời, khai sinh thời kỳ mới với sự tiến
bộ vượt bậc về khoa học, kỹ thuật, kinh tế - xã hội. Khoa học kinh tế cũng
được ra đời vào thời kỳ này.
Adam Smít (1723-1790) trong cuốn sách "Bàn về bản chất và nguyên
nhân giàu có của các quốc gia” đã bàn về tính chất, nguyên nhân và điều kiện
thuận lợi của tăng trưởng kinh tế. Ông quan niệm: tăng trưởng kinh tế là tăng
đầu ra tính theo bình quân đầu người, hoặc tăng sản phẩm lao động.
D. Ricardo (1772-1823), kế thừa Adam Smít nhưng ông mở rộng sang vấn
đề phân phối, thu nhập, chú trọng đến phân tích tỷ lệ phân phối của các loại thu
nhập và ảnh hưởng đến tích luỹ tư bản từ đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Ngày nay, theo nghĩa chung nhất tăng trưởng là khái niệm dùng để chỉ
quá trình vận động, tăng thêm, mở rộng về quy mô của sự vật hay một hệ
thống các sự vật. Trong ngôn ngữ sử dụng hàng ngày chúng ta có thể dùng
khái niệm "tăng”, “sự gia tăng”, "sự tăng lên”… để chỉ sự tăng trưởng.
Trong kinh tế học, thuật ngữ tăng trưởng kinh tế được sử dụng rộng rãi
và có nhiều cách tiếp cận khác nhau: là “sự gia tăng sản lượng thực tế của một
nền kinh tế theo thời gian”; là “mức tăng quy mô và tốc độ sản phẩm”; là “sự
tăng thêm về quy mô sản xuất mà từ đó tăng lượng sản phẩm hàng hoá và
dịch vụ trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Nếu tổng sản
phẩm hàng hoá của một quốc gia tăng lên, nó được coi là tăng trưởng kinh tế”
[48, tr.12]; là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian
nhất định (thường là một năm) [51, tr.14].
Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế người ta thường sử dụng hai chỉ tiêu

tổng hợp chủ yếu là: tổng sản phẩm quốc nội (Gross domestic product -
GDP)
1
và tổng sản phẩm quốc dân (Gross national product - GNP)
2
.
1

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị của toàn bộ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ được tạo ra trong
một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm) trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, không phân biệt nguồn
vốn và chủ sở hữu trong nước hay nước ngoài.
2
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ được tạo ra bởi các công dân của một quốc
gia, bất kể hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành ở trong nước hay ở nước ngoài, và được tính trong
một thời gian nhất định.
10
Như vậy, tăng trưởng kinh tế là mức (%) tăng thêm của GDP hay GNP
năm sau so với năm trước, hay khoảng thời gian này so với khoảng thời gian
trước. Để đánh giá sự tăng trưởng, hầu hết các nước, cũng như các tổ chức
quốc tế sử dụng chỉ tiêu GDP (thường là một năm). Mức tăng GDP hay
GDP/đầu người/năm là chỉ tiêu phản ánh tiêu biểu nhất về sự tăng trưởng
kinh tế của một quốc gia.
Từ những quan niệm khác nhau về tăng trưởng kinh tế có thể rút ra
điểm chung: Tăng trưởng kinh tế là khái niệm chỉ mức tăng về lượng của nền
kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm).
Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền vững
hay việc bảo đảm chất lượng của sự tăng trưởng. Khi nói đến chất lượng tăng
trưởng kinh tế là phải nói đến các vấn đề đặt ra song hành với tăng trưởng
kinh tế, như: nâng cao phúc lợi của công dân, thu hẹp tỷ lệ nghèo, đói; tạo
môi trường xã hội, môi trường tự nhiên, cơ hội học tập và chăm sóc sức khoẻ;

tăng chỉ số phát triển con người (HDI); cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng hiện đại; hiệu quả đầu tư cao; công nghệ tiên tiến, năng suất lao động
ngày càng tăng, sản phẩm có tính cạnh tranh cao; thể chế kinh tế thị trường
ngày càng hoàn thiện; tỷ lệ thất nghiệp giảm; tài nguyên thiên nhiên được
khai thác hợp lý, môi trường được bảo vệ…
Theo các nhà nghiên cứu Việt Nam, chất lượng tăng trưởng kinh tế cao
là sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế, thể hiện qua năng
suất nhân tố tổng hợp và năng suất lao động xã hội tăng và ổn định, mức sống
của người dân được nâng cao không ngừng, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch
phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước, sản xuất có tính cạnh tranh
cao, tăng trưởng đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường,
quản lý kinh tế nhà nước có hiệu quả [65, tr.9]. Như vậy, chất lượng tăng
trưởng kinh tế gắn liền với khái niệm phát triển kinh tế hiện nay đang dùng.
Chúng ta có thể tham khảo quan niệm của Kuznets (người đã được
nhận giải thưởng Nobel về khoa học kinh tế năm 1971 do có công đem đến
một sự hiểu biết mới và sâu sắc hơn đối với cấu trúc kinh tế-xã hội và với quá
11
trình biến đổi, phát triển). Ông chỉ ra sáu đặc trưng của tăng trưởng kinh tế
mà ngày nay vẫn có giá trị ứng dụng thực tiễn.
Thứ nhất là GDP bình quân đầu người
Thứ hai là tốc độ tăng năng suất lao động, tức là sản phẩm đầu ra trên
mỗi đơn vị của tất cả đầu vào (ngày nay thường được tính bằng hệ số vốn đầu
tư ICOR). Vận dụng vào Việt Nam có thể nói, mặc dù những năm qua tỉ lệ
tăng trưởng GDP cao nhưng ICOR của Việt Nam thuộc loại thấp. Do đó, để
phát triển bền vững, cần phải tập trung tăng năng suất lao động và tăng hiệu
suất vốn đầu tư.
Thứ ba là tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế (từ nông nghiệp sang phi
nông nghiệp, đồng thời chuyển dịch cả quy mô các đơn vị sản xuất trong khu
vực nhà nước và tư nhân theo hướng công nghiệp - dịch vụ hiện đại).
Thứ tư là tốc độ đô thị hóa với sự hình thành và phát triển những giai

tầng xã hội như doanh nhân, kinh doanh, dịch vụ, trí thức và những nghề
nghiệp đặc trưng cho thành thị.
Thứ năm là tốc độ phát triển của cơ sở hạ tầng giao thông và truyền
thông.
Thứ sáu là tốc độ hội nhập kinh tế thế giới.
Căn cứ vào 6 đặc trưng của sự tăng trưởng kinh tế hiện đại, có thể nói
Việt Nam đã bước vào quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Một số lĩnh vực tốc độ tăng trưởng thể hiện rất rõ như tăng trưởng GDP và
chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Nhưng Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn
trong các lĩnh vực như năng suất lao động, giáo dục - đào tạo, cơ sở hạ tầng
giao thông đô thị, kể cả lĩnh vực truyền thông và những khác biệt lối sống do
phân hóa giàu nghèo.
Hiện nay, mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển. Phát triển
kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển
kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất; nó là sự
12
kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã
hội ở mỗi quốc gia [51, tr.15].
Khái niệm tăng trưởng kinh tế khác với khái niệm phát triển kinh tế,
phát triển kinh tế là khái niệm có nội hàm rộng hơn, bao hàm cả tăng trưởng
kinh tế (về số lượng) và sự đạt được các chỉ tiêu về chất lượng, trước hết là
chất lượng cuộc sống (mức tiêu dùng vật chất; nâng cao phúc lợi xã hội; sự
hưởng thụ về giáo dục, y tế, văn hoá… sự bình đẳng về các quyền con người
trong kinh tế, chính trị, xã hội…). Ngân hàng thế giới, trong Báo cáo về phát
triển thế giới năm 1992 (World Development report, 1992) đã định nghĩa:
"Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và
cải tiến giáo dục, sức khoẻ và bình đẳng về cơ hội là tất cả những thành phần
cơ bản của phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là một cách cơ bản để có
thể có được sự phát triển, nhưng trong bản thân, nó là một đại diện rất không
toàn vẹn của sự tiến bộ”. Như vậy, phát triển kinh tế là sự đạt được tăng

trưởng kinh tế cao, đồng thời đảm bảo thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Đó là một quan niệm và nhận thức rất tiến bộ về tăng trưởng và phát triển,
đồng thời cũng rất phù hợp với mục tiêu phát triển ở nước ta.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế là hai khái niệm
không đồng nhất, nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tăng
trưởng là điều kiện cần cho sự phát triển: có tăng trưởng kinh tế mới có điều
kiện nâng cao thu nhập, nâng cao chất lượng sống của nhân dân; mới có điều
kiện để tích luỹ tái đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư cho phúc lợi xã hội, thúc
đẩy xã hội phát triển. Ngược lại, kinh tế phát triển sẽ góp phần vào việc khai
thác có hiệu quả các nguồn lực và nâng cao chất lượng nguồn lực để thúc đẩy
sự tăng trưởng kinh tế.
1.1.1.2. Các yếu tố cơ bản quyết định sự tăng trưởng kinh tế
Trước đây, tăng trưởng chủ yếu dựa vào tiết kiệm, tích luỹ tư bản và
vốn hiện vật, thì ngày nay tăng trưởng chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực, công
13
nghệ, thể chế chính trị và truyền thống văn hoá Nghĩa là, có nhiều nhân tố
khác nhau tác động đến quá trình tăng trưởng kinh tế. Trong đó có các nhân tố
cơ bản sau:
Nguồn lực vốn. Vốn là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng, tác động
trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Vốn sản xuất đứng trên góc độ vĩ mô có liên
quan trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, nó là toàn bộ tư liệu vật chất được tích
luỹ lại của nền kinh tế, bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng và
các trang bị được sử dụng như những yếu tố đầu vào trong sản xuất. Ở các
nước đang phát triển, sự đóng góp của vốn vào tăng trưởng kinh tế thường
chiếm tỷ trọng cao nhất. Tuy nhiên, chính ở những nước này do nền kinh tế
còn nghèo, thu nhập thấp nên mức độ tích luỹ vốn còn nhiều hạn chế. Do vậy,
nhiều quốc gia đang phát triển đã mạnh dạn vay vốn nước ngoài, có chính
sách thu hút vốn đầu tư để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm đưa
đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo khó, lạc hậu. Tác động của nguồn vốn
đối với tăng trưởng kinh tế đang có xu hướng giảm dần và được thay thế bằng

các yếu tố khác.
Nguồn lực lao động. Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế từ trước đến nay
đều khẳng định vai trò quyết định của lao động, đây là một yếu tố đầu vào của
sản xuất. Các lý thuyết đề cập đến yếu tố lao động theo hai nội dung: Khả
năng của người lao động và khả năng sử dụng hợp lý nguồn lao động. Một
trong những chiều cạnh của chính sách xã hội chính là tác động nhằm khai
thác, nâng cao khả năng của người lao động.
Nguồn lực lao động được đề cập ở đây bao gồm cả số lượng và chất
lượng. Trước đây, chúng ta chỉ quan niệm lao động là yếu tố vật chất đầu vào,
giống như yếu tố vốn và được xác định bằng số lượng nguồn lao động của
mỗi quốc gia. Những mô hình kinh tế thị trường hiện đại gần đây đã nhấn
mạnh khía cạnh phi vật chất của lao động gọi đó là vốn nhân lực, đó là lao
động kỹ thuật có năng xuất, lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị
14
phức tạp, những lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động
kinh tế. Chất lượng nguồn lao động không chỉ phụ thuộc vào trình độ giáo
dục, sức khoẻ, mà còn phụ thuộc vào số lượng, chất lượng những công cụ,
thiết bị sản xuất trang bị cho người lao động. Hiện nay, tăng trưởng kinh tế
của các nước đang phát triển được đóng góp nhiều bởi quy mô, số lượng lao
động, yếu tố vốn nhân lực còn có vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng lao
động ở các nước này còn thấp.
Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên thiên nhiên bao gồm: đất
đai, khoáng sản, nguồn nước, khí hậu được gọi là một trong những nguồn
lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Tài nguyên thiên nhiên được chia làm:
Tài nguyên vô hạn và không thể thay thế, tài nguyên có thể tái tạo và tài
nguyên không thể tái tạo. Những quốc gia giàu có về tài nguyên sẽ rất thuận
lợi trong quá trình đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. Các tài nguyên được đánh
giá về mặt kinh tế và được tính giá trị như các đầu vào khác trong quá trình sử
dụng. Nguồn tài nguyên phong phú hay tiết kiệm nguồn tài nguyên trong quá
trình sử dụng cũng có một ý nghĩa tương đương như việc tạo ra một giá trị gia

tăng so với chi phí đầu vào khác để tạo ra nó. Trong nền kinh tế hiện đại,
người ta đã tìm ra cách thay thế để khắc phục mức độ khan hiếm của tài
nguyên trong quá trình tăng trưởng kinh tế, hơn nữa sản phẩm quốc dân và
mức tăng của nó không phụ thuộc nhiều vào dung lượng tài nguyên thiên
nhiên. Tuy vậy, tài nguyên thiên nhiên vẫn là yếu tố không thể thiếu được của
quá trình sản xuất, nhất là ở các nước đang phát triển.
Nguồn lực khoa học và công nghệ. Đây là nhân tố tác động ngày càng
có ý nghĩa quyết định đến tăng trưởng kinh tế trong điều kiện của nền kinh tế
tri thức. Yếu tố này bao gồm những tiến bộ về khoa học kỹ thuật cũng như về
quản lý. Hiểu một cách đầy đủ, đó là thành tựu tri thức cao, là sự nắm bắt kiến
thức khoa học, nghiên cứu, thử nghiệm về cải tiến sản phảm, quy trình công
nghệ hay thiết bị kỹ thuật, là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử
15
nghiệm vào thực tiễn sản xuất nhằm nâng cao trình độ phát triển kinh tế xã
hội.
Như vậy, nếu xem xét các yếu tố đầu vào cơ bản của sản xuất ta thấy:
Một mặt, đất đai, tài nguyên thiên nhiên đang có xu hướng giảm dần sự khai
thác trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, những yếu tài nguyên và
đất đai lại đang được sử dụng có thể gia nhập dưới dạng yếu tố vốn sản xuất.
Như vậy, đất đai và tài nguyên thiên nhiên không phải là yếu tố ngưng đọng
mà luôn biến đổi trong sự vận động biện chứng của tăng trưởng kinh tế. Vốn
lao động được coi là những nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng, còn khoa
học-công nghệ được coi là yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu. Những yếu tố
này có quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Vì vậy, để có tăng trưởng đạt
hiệu quả cao, cần phải có sự lựa chọn, kết hợp hợp lý những yếu tố này.
Ngoài những yếu tố trên, vấn đề tăng trưởng kinh tế có diễn ra thuận lợi
hay không còn phụ thuộc vào yếu tố mang tính chất phi kinh tế. Đó là thể chế
chính trị và đường lối phát triển kinh tế-xã hội, đặc điểm dân tộc, đặc điểm
tôn giáo, đặc điểm văn hoá.
Thể chế chính trị và đường lối phát triển kinh tế-xã hội tác động đến

tăng trưởng kinh tế. Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của tất cả các quốc
gia trong mọi thời đại đều chịu tác động của các quy luật khách quan, trong
đó rõ nét nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng. Theo đó sự tác động của ý chí, thể chế thông qua hệ
thống pháp luật do thượng tầng kiến trúc sinh ra, sẽ tác động thúc đẩy hoặc
kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển. Kinh tế phát triển thành công hay
không thành công và ở mức độ nào còn phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế có hợp
lý không, cơ chế quản lý có phù hợp không, phương thức phân phối có tạo ra
động lực phát triển không, quan hệ lợi ích có được giải quyết hài hoà giữa cá
16
nhân và xã hội, giữa nhà nước và nhân dân tạo sự đồng thuận không chỉ về
kinh tế và lợi ích mà cả về chính trị - xã hội.
Vấn đề dân tộc tác động đến tăng trưởng kinh tế. Các dân tộc sống
trong một cộng đồng quốc gia có nhu cầu về kinh tế, văn hoá, xã hội khác
nhau; tập quán sống và hoạt động sản xuất cũng khác nhau. Đặc điểm dân tộc
trở thành nhân tố tích cực tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế khi
sự tăng trưởng và phát triển đó phải nhằm khai thác mọi năng lực sản xuất,
tiềm năng kinh tế xã hội của mỗi dân tộc, để họ cùng có lợi ích thông qua lao
động của chính bản thân. Ngược lại, nếu phát triển kinh tế chỉ đem đến lợi ích
cho dân tộc này nhưng lại gây hại cho dân tộc khác, thì vấn đề dân tộc không
chỉ trở thành lực cản cho tăng trưởng và phát triển, mà còn là nguyên nhân
xung đột các dân tộc, sắc tộc, gây hậu quả nghiêm trọng đến tăng trưởng và
phát triển không chỉ của các dân tộc mà với toàn xã hội. Vấn đề dân tộc là vấn
đề chính trị nhạy cảm và mọi nhạy cảm này đều phải được xem xét trong
quan hệ chính trị và kinh tế, giữa chính sách dân tộc với tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Mọi chiến lược tăng trưởng và phát triển kinh tế không đặt trong
quan hệ với đặc điểm dân tộc sẽ phạm sai lầm nghiêm trọng
Tác động của vấn đề tôn giáo với tăng trưởng kinh tế. Vấn đề tôn giáo
cũng là vấn đề rất nhạy cảm. Vấn đề tôn giáo thường xuyên gắn với vấn đề

dân tộc. Trong mỗi quốc gia thường có nhiều tôn giáo. Vì vậy chính phủ của
các quốc gia cần có chính sách tôn giáo đúng đắn để tạo ra sự hoà hợp, nhằm
tận dụng những yếu tố tích cực của mỗi tôn giáo để tác động đến sự tăng
trưởng và tiến bộ xã hội
Văn hoá tác động đến tăng trưởng kinh tế. Văn hoá dân tộc là một vấn
đề rộng lớn. Nó bao hàm nhiều mặt: Tri thức phổ thông, khoa học, nghệ thuật,
lối sống, tập quán, cách ứng xử trong quan hệ giao tiếp được hình thành và
tích luỹ suốt quá trình sinh tồn và phát triển Có thể nói trình độ văn hoá của
dân tộc là nhân tố cơ bản quyết định chất lượng đội ngũ người lao động, đặc
17
biệt trong nền kinh tế tri thức hiện nay. Do vậy việc giữ gìn, phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc kết hợp hiện đại hoá truyền thống đó là nhân tố có ý nghĩa
quyết định sự tăng trưởng kinh tế.
Với mô hình kinh tế phát triển theo chiều sâu thì các yếu tố: nguồn lực
lao động (vốn con người), nguồn lực khoa học, công nghệ và thể chế chính trị,
đường lối phát triển kinh tế - xã hội của chính thể là những yếu tố quan trọng
nhất.
Tăng trưởng kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt - là yếu tố cơ bản, nền
tảng cho sự phát triển xã hội, tuy nhiên mục đích cuối cùng của tăng trưởng
kinh tế là vì con người, vì sự phát triển của xã hội và tiến bộ xã hội. Vì vậy,
trong xã hội phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì tăng trưởng kinh tế
phải đi đôi với việc thực hiện chính sách xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã
hội, đem lại sự công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong sự tăng trưởng kinh tế.
1.1.2. Chính sách xã hội và cơ sở hình thành chính sách xã hội
1.1.2.1. Khái niệm chính sách xã hội
Ở nước ta thuật ngữ “chính sách xã hội” xuất hiện khá muộn, Đảng ta
sử dụng lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) và
hiện nay nó đã trở thành một khái niệm được sử dụng rộng rãi.
Với cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đưa ra những ý kiến
khác nhau về khái niệm chính sách xã hội.

PGS.TS Bùi Đình Thanh (Viện KHXH) cho rằng “Chính sách xã hội là
cụ thể hoá và thể chế hoá bằng pháp luật những đường lối, chủ trương, những
biện pháp để giải quyết các vấn đề xã hội dựa trên những tư tưởng, quan điểm
của những chủ thể lãnh đạo, phù hợp với bản chất chế độ xã hội - chính trị,
phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và của từng
nhóm xã hội nói riêng nhằm mục đích cao nhất là thoả mãn những nhu cầu
18
ngày càng tăng về đời sống vật chất và văn hoá, tinh thần của nhân dân” [78,
tr.23].
PGS.PTS Đặng Cảnh Khanh đưa ra quan niệm về chính sách xã hội
như sau: Chính sách xã hội là bộ phận cấu thành trong chính sách chung của
một chính đảng hay một chính quyền nhà nước nhất định trong việc quản lý
và điều hoà các mối quan hệ xã hội và cá nhân. Nó bao gồm việc giải quyết
những vấn đề quyền lợi xã hội giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội phù hợp
với bản chất giai cấp của nhà nước và chính đảng nói trên” [78, tr.71-72].
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, “Chính sách xã hội là một bộ phận
cấu thành chính sách chung của một chính đảng hay chính quyền nhà nước
trong việc giải quyết và quản lý các vấn đề xã hội. Chính sách xã hội bao
trùm mọi mặt của cuộc sống con người, điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo
dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp và xã hội. Một trong
những đặc điểm cơ bản của chính sách xã hội là sự thống nhất biện chứng của
nó với chính sách kinh tế. Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để
thực hiện chính sách xã hội và ngược lại. Sự hợp lý công bằng và tiến bộ
được thực hiện qua chính sách xã hội lại tạo ra những động lực mạnh mẽ để
thực hiện các mục tiêu kinh tế nhằm làm cho dân giàu nước mạnh. Chính sách
phải đạt mục đích đem lại đời sống tốt đẹp cho con người, mang lại sự công
bằng dân chủ cho mỗi người, không theo chủ nghĩa bình quân. Trong điều
kiện kinh tế hàng hoá có cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, chính sách xã hội
phải hướng tới sự công bằng xã hội bảo đảm sự bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật. Chính sách xã hội phải

vừa củng cố và phát triển những giai cấp cơ bản như công nhân, nông dân,
vừa quan tâm thích đáng đến lợi ích và phát huy tiềm năng của các tầng lớp,
các nhóm dân cư khác” [31, tr.478].
Từ các quan niệm về chính sách xã hội đã trình bày ở trên, có thể hiểu
chính sách xã hội ở những nội dung cơ bản sau:
19
Theo nghĩa rộng, chính sách xã hội là bộ phận cấu thành trong chính
sách chung của chính đảng hay một chính quyền nhà nước hướng tới lĩnh vực
xã hội, nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến cuộc sống con người, nhu
cầu lợi ích của các nhóm người, các tầng lớp xã hội, các giai cấp, các dân tộc,
các tôn giáo trong xã hội, đồng thời góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội
phù hợp với bản chất giai cấp và những mục tiêu của chính đảng hay chính
quyền đó.
Theo nghĩa hẹp, chính sách xã hội được hiểu là những chính sách nhằm
tác động vào đối tượng cụ thể. Đối tượng của chính sách xã hội là những người
tàn tật, cô đơn không nơi nương tựa, trẻ mồ côi, người về hưu, gia đình liệt sĩ,
thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng những người chịu thiệt
thòi trong xã hội về mặt hình thể, điều kiện sống, về cơ hội. Vậy nên, chính
sách xã hội rất cụ thể, tác động trực tiếp đến cuộc sống của mỗi người.
Phạm vi chính sách xã hội phải giải quyết bao hàm mọi mặt của cuộc
sống con người như: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá,
quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, quan hệ tôn giáo, quan hệ
nghề nghiệp
Đặc trưng cơ bản của chính sách xã hội là lấy việc phục vụ con người
làm mục đích cao nhất và nhằm phát huy nhân tố con người một cách toàn
diện. Vì vậy chính sách xã hội là một trong những động lực trực tiếp thúc đẩy
con người hoạt động.
Chính sách xã hội luôn gắn với chế độ chính trị - xã hội, thể hiện bản
chất của chế độ xã hội. Về thực chất, mỗi chính sách xã hội đều là sản phẩm
của đường lối chính trị trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Đảng cầm

quyền, Nhà nước, với tư cách là chủ thể ban hành chính sách bao giờ cũng
hướng những nội dung chính sách vào việc thực hiện và bảo vệ lợi ích của
giai cấp cầm quyền, thể hiện mục tiêu thống trị của giai cấp cầm quyền. Tuy
nhiên, bất cứ một chế độ nào giai cấp cầm quyền cũng cần phải thực hiện
20
chức năng xã hội nhằm bảo đảm sự ổn định và phát triển của xã hội đó. Chính
sách xã hội là biện pháp cơ bản để giải quyết các vấn đề xã hội và phản ánh
bản chất của xã hội đó.
Trong chủ nghĩa tư bản, nhân dân lao động là người làm thuê, chính
sách xã hội của nhà nước tư bản nhằm các mục tiêu: giảm nhẹ phần nào tai
hoạ cho nhân dân lao động, cải thiện từng mặt và có mức độ đời sống của
nhân dân, giảm bớt sự bất bình, sự phản kháng của nhân dân gây căng thẳng
xã hội, giữ vững ổn định chính trị xã hội để đạt được mục tiêu cuối cùng là
duy trì sự tồn tại của chế độ tư bản chủ nghĩa, duy trì địa vị thống trị của giai
cấp tư sản. Cũng phải nhận thấy rằng chính sách xã hội của các nước tư bản
chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu nhất định, đời sống của người lao
động ở các nước đó được cải thiện, thậm chí ở nhiều khu vực lao động còn
được nâng cao khiến cho không ít người lao động “bằng lòng” với điạ vị làm
thuê của mình và không còn cảm giác bị giới chủ bóc lột.
Trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người chủ, chính sách xã
hội đặt con người với tất cả những nhu cầu, lợi ích phong phú và đa dạng vào
vị trí trung tâm của sự phát triển. Hay nói cách khác, lấy việc phục vụ con
người làm mục tiêu cao nhất của chính sách xã hội xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, chủ thể hoạch định chính sách là nhà nước, cùng tham gia
đánh giá chính sách là người dân. Các tầng lớp dân cư là những đối tượng thụ
hưởng lợi ích từ chính sách đồng thời là chủ thể tham gia giám sát xã hội đối
với nhà nước và công chức. Chính sách xã hội là sự cụ thể hoá, thể chế hoá
các đường lối, chủ trương của Đảng. Chủ thể đặt ra các chính sách xã hội ở
nước ta có vai trò hết sức quan trọng, có tính chất quyết định, đồng thời thể
hiện tinh thần trách nhiệm, năng lực lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước mang

bản chất giai cấp công nhân, là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Các chính
sách nói chung và chính sách xã hội nói riêng phải thể hiện đầy đủ, nổi bật
những bản chất đó. Mục tiêu cuối cùng của chính sách xã hội trong điều kiện
21
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
là phát huy nhân tố con người một cách cao nhất. Hoàn thiện và thực thi chính
sách xã hội trong điều kiện hiện nay chính là hoàn thiện và thực thi những
chính sách nhằm phát huy cao nhất nhân tố con người hướng vào thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
1.1.2.2. Cơ sở hình thành chính sách xã hội
Chính sách xã hội được xây dựng trên cơ sở những điều kiện cơ bản về
kinh tế, chính trị và cơ cấu xã hội. Vì vậy chính sách xã hội phải tuân thủ
những quy tắc, quy luật khách quan và biểu hiện đặc thù của nó. Sự hiểu biết
các quy luật khách quan là rất quan trọng đối với việc hoạch định và hoàn
thiện các chính sách xã hội. Tuy nhiên, con người là chủ thể của việc hoạch
định chính sách, rất có thể cái chủ quan của chủ thể can thiệp quá giới hạn
vào các quy luật khách quan dẫn đến các chính sách xã hội được hoạch định
cũng như khi thực thi bị méo mó, mất đi tính khách quan, khoa học và công
bằng của nó. Đây là điều cần được xem xét khi nghiên cứu cơ sở hình thành
chính sách xã hội.
Điều kiện kinh tế. Điều kiện kinh tế là cơ sở quan trọng nhất để hình
thành hệ thống các chính sách xã hội của một đất nước. C.Mác cho rằng: Một
trình độ phát triển nhất định của sản xuất, trao đổi và tiêu thụ, chúng ta sẽ có
một chế độ xã hội nhất định, một tổ chức nhất định của gia đình, của các đẳng
cấp hay giai cấp, nói tóm lại, là có một xã hội công dân nhất định. Có thể
khẳng định rằng, điều kiện kinh tế chính là yếu tố khách quan cần thiết để
thực hiện chính sách xã hội. Hệ thống chính sách xã hội phải là hệ thống
chính sách được xây dựng trên cơ sở kinh tế hiện thực của đất nước. Sẽ là ảo
tưởng, duy ý chí, thiếu khách quan khi xây dựng hệ thống chính sách xã hội
vượt lên trên trình độ kinh tế - văn hoá của một xã hội. Chính sách xã hội

không được xây dựng trên cơ sở kinh tế, nó chỉ là sản phẩm của tư duy trừu
tượng, không có giá trị thực tiễn, không có khả năng đi vào cuộc sống. Cũng
22
phải thấy rằng, thực hiện chính sách xã hội là để thực hiện công bằng xã hội,
chính vì vậy mà cơ sở hình thành chính sách xã hội là từ nhu cầu của cuộc
sống, từ những bức xúc phải giải quyết các vấn đề xã hội. Trong đó trình độ
phát triển kinh tế là điều kiện vật chất tiên quyết nhất để thực hiện chính sách
xã hội. Song chính sách xã hội không phụ thuộc một cách thụ động vào điều
kiện kinh tế. Giữa kinh tế và xã hội, giữa chính sách kinh tế và chính sách xã
hội có mối quan hệ biện chứng, tác động ảnh hưởng qua lại với nhau. Chính
sách kinh tế phải hướng tới mục tiêu xã hội, tạo điều kiện vật chất để giải
quyết các vấn đề xã hội, tìm động lực từ các nhân tố xã hội, lấy hiệu qủa phục
vụ xã hội làm thước đo cao nhất để xác định các phương án và kết quả hoạt
động kinh tế. Ngược lại chính sách xã hội phải góp phần thúc đẩy tăng
trưởng, phát triển kinh tế, tạo môi trường xã hội thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế, làm nảy sinh những nhân tố động lực cho phát triển kinh tế. Như vậy,
cần phải kết hợp chặt chẽ và giải quyết hài hoà quan hệ giữa chính sách kinh
tế và chính sách xã hội với từng thời kỳ và điều kiện của từng quốc gia mới
phát huy được sức mạnh của cả hai loại chính sách này.
Như vậy, chính sách xã hội chỉ có thể xem là đúng đắn, khoa học và
khả thi nếu nó đáp ứng được mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển
xã hội. Trong thực tế, mối quan hệ giữa tăng trưởng nhanh với công bằng
trong chính sách xã hội là vấn đề thời sự của nhiều quốc gia. Tăng trưởng
kinh tế tạo điều kiện vật chất cần thiết cho sự biến đổi mọi mặt đời sống xã
hội. Ngược lại, thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội trên các mặt của đời sống
xã hội sẽ tạo động lực xã hội to lớn đẩy nhanh sự phát triển kinh tế.
Điều kiện chính trị. Chính sách xã hội là một dạng biểu hiện đặc biệt
của quá trình hoạt động chính trị. Bởi vậy khi nghiên cứu chính sách xã hội,
chúng ta cần phải đặt nó trong bối cảnh chính trị chung của toàn xã hội. Nói
cách khác, nghiên cứu chính sách xã hội tức là phải nghiên cứu một cách

nghiêm túc và đầy đủ sự vận động có quy luật của mối quan hệ gắn bó, sự
23
thống nhất hữu cơ giữa chính sách xã hội với toàn bộ hệ thống chính trị của
xã hội, nghiên cứu sự tác động tương hỗ giữa chính sách xã hội với thể chế xã
hội, mức độ của nền dân chủ xã hội, sự bình đẳng và công bằng xã hội.
Chính sách xã hội là sản phẩm của hệ tư tưởng, đường lối chính trị của
một giai cấp cầm quyền nhân danh xã hội. Bởi vậy, về thực chất, không thể có
được chính sách xã hội hoàn toàn tiến bộ trong điều kiện của một hệ thống
chính trị, một cơ chế xã hội lạc hậu, và ngược lại, cũng không thể tồn tại một
hệ thống chính trị nào được coi là tiến bộ khi những chính sách xã hội ban
hành luôn đi ngược quyền lợi chung của con người.
Giữa chính sách xã hội và hệ thống chính trị có sự thống nhất trong bản
chất, chúng luôn được đặt trong mối quan hệ gắn bó đồng bộ. Tuỳ theo những
hoàn cảnh xã hội cụ thể, chính phủ các nước có sự ưu tiên những mục tiêu
chính trị hơn là mục tiêu xã hội và ngược lại, nhưng giữa chúng không thể
tách rời nhau. Hệ thống chính trị là phương tiện biểu hiện, công cụ thực hiện
những mục tiêu xã hội, còn chính sách xã hội lại là sự phản ánh tập trung
những quan điểm tư tưởng cơ bản của hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị
quy định mục tiêu của chính sách xã hội, trả lời cho câu hỏi: Chính sách xã
hội nhằm mục đích gì? thực hiện chính sách xã hội như thế nào để mang lại
hiệu quả cao nhất? Do vậy, hệ thống chính trị tiến bộ, cơ chế chính trị hợp lý
là điều kiện tốt nhất để ban hành, vận dụng và thực thi có hiệu quả chính sách
xã hội tiến bộ, và ngược lại, sẽ không có và không thể thực hiện chính sách xã
hội tiến bộ trong một hệ thống chính trị phản tiến bộ. Cũng như vậy, theo một
logíc tất yếu, thông qua hệ thống chính sách xã hội, việc thực thi chính sách
xã hội ở từng quốc gia có thể đánh giá được mức độ tiến bộ của hệ thống
chính trị và cơ chế chính trị ở quốc gia đó.
Trong việc ban hành, vận dụng và thực thi chính sách xã hội, vai trò
của các tổ chức chính trị quần chúng, với tư cách là “là lực lượng giám sát”,
“lực lượng tham mưu”, “lực lượng thực hiện chính sách xã hội” là rất quan

24
trọng. Bởi xét cho cùng, con người là mục tiêu và đối tượng của chính sách xã
hội và cũng chính là lực lượng thực hiện chính sách này. Con người với tính
cách là con người họ phải được hưởng những gì? xã hội thoả mãn nhu cầu đó
chưa? chính sách xã hội đã tạo ra động lực cho họ sống, lao động và sáng tạo
như thế nào? những chủ trương tiến bộ, hợp lý của chính sách xã hội đã đến
được với họ chưa, còn vướng mắc ở khâu nào? Để giải đáp loạt vấn đề trên,
trước hết phải phát huy tinh thần dân chủ trong nhân dân để họ không chỉ là
người thừa hưởng chính sách xã hội mà còn là người thực hiện, người thiết kế
chính sách xã hội của chính họ. Không thể có công bằng xã hội nếu không có
một cơ chế chính trị đảm bảo cho việc thực thi dân chủ hoá đời sống xã hội
mà chính sách xã hội tồn tại ở trong đó. Ở nước ta, việc hướng các chính sách
vào việc phục vụ con người và sự phát triển toàn diện con người chỉ có thể
được thực hiện bằng sự phát huy khả năng của chính con người, bằng việc
tăng cường những hoạt động tự do và tự giác của con người, bằng dân chủ
hoá thực sự toàn bộ hoạt động vật chất, trí tuệ, văn hoá và tinh thần của con
người.
Với ý nghĩa đó, việc ban hành chính sách xã hội phải kết hợp chặt chẽ
với việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính trị hợp lý, tạo môi trường chính
trị thuận lợi cho việc thực hiện những chính sách này.
Cơ cấu xã hội. Chính sách xã hội do những chủ thể nhất định ban hành.
Nó tác động đến đối tượng tồn tại trong những điều kiện chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội khác nhau. Do vậy, không thể có chính sách chung cho tất cả
và cũng không thể có chính sách cho một đối tượng.
Trong thực tế, chính sách xã hội bao giờ cũng được vạch ra từ những
điều kiện khách quan của xã hội nhằm làm thoả mãn tương đối nhu cầu của
xã hội. Xã hội luôn luôn biến đổi nên nhu cầu của các đối tượng chính sách xã
hội cũng thường xuyên thay đổi. Bởi vậy, chính sách xã hội không phải là bất
di bất dịch. Nó có những đặc điểm riêng biệt, có quá trình vận động và hoàn
25

×