Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC và THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH xã hội của ĐẢNG TA từ đổi mới đến NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.49 KB, 26 trang )

QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỪ SAU ĐỔI MỚI ĐẾN NAY
MỞ ĐẦU
Trong tiến trình cách mạng XHCN ở nước ta, có thể khẳng định rằng,
mục tiêu cao nhất trong toàn bộ hoạt động lý luận và thực tiễn của Đảng cộng
sản Việt Nam, của nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là nhằm chăm lo lợi
ích, hạnh phúc của người lao động "lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Do đó, trong toàn bộ
chiến lược cách mạng XHCN, cùng với mục tiêu kinh tế, chính sách kinh tế
và các mục tiêu, chính sách trên các lĩnh vực khác, Đảng, Nhà nước ta luôn
quan tâm đến mục tiêu xã hội, chính sách xã hội phù hợp với từng thời kỳ
cách mạng. Trong các văn kiện đại hội, Đảng ta đều xác định: "Chính sách xã
hội bao trùm mọi mặt cuộc sống con người. Coi nhẹ chính sách xã hội cũng là
coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN"
1
; "chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to
lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
CNXH"
2
. Trong Văn kiện Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh: "Cùng với đẩy
mạnh phát triển kinh tế, Đảng ta chủ trương giải quyết tốt các vấn đề xã hội,
coi đây là một hướng chiến lược thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta. Thực
hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội,
thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ để phát triển sản
xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong quan hệ xã
hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp"
1
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VI, Nxb ST, H. 1986, Tr. 86.
2
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb ST, H. 1991, Tr. 13.


1
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỌ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Khái niệm về chính sách xã hội.
Khái niệm chính sách xã hội, nội dung và tính chất đặc trưng của nó đã
được thảo luận ở một số cuộc hội thảo Quốc gia và quốc tế. Đương nhiên
xung quanh chủ đề này luôn luôn có những cách tiếp cận và quan điểm khác
nhau. Chính sách xã hội chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ chính trị xã hội,
các yếu tố về kinh tế, văn hóa dân số các giá trị về chuẩn mực truyền
thống…thực tiễn chính sách xã hội ở nước này hay nước khác cũng rất khác
nhau như vậy phải xem xét chúng trong những điều kiện không gian và thời
gian cụ thể.Ở nước ta hiện nay, chính sách xã hội được nhìn nhận ở 2 cấp độ:
- Thứ nhất: Chính sách xã hội theo nghĩa hẹp là một hệ thống đảm bảo
xã hội được nhà nước quy định trong pháp luật, nhằm khắc phục những rủi ro
và biến cố đó là tuổi già, thất nghiệp,ốm đau, tai nạn…
- Thứ hai: Theo nghĩa rộng, chính sách xã hội bao quát một số các lĩnh
vực: Các hệ thống bảo hiểm xã hội, trợ giúp gia đình, nhà ở, giáo dục, tham
gia quản lý xí nghiệp, quản lý xã hội.
Chính sách xã hội được xem như sự tác động có định hướng hỗ trợ của
Nhà nước vào sự phân phối, ổn định và phát triển các điều kiện sống của con
người của các nhóm xã hội khác nhau trong các lĩnh vực thu nhập, việc làm,
sức khỏe, nhà ở và giáo dục trên cơ sở mở rộng bình đẳng và công bằng xã
hội trong một bối cảnh lịch sử và cấu trúc xã hội nhất định.
Hệ thống chính sách xã hội hiện đại của các Quốc gia thường là sự kết
hợp của ba mô thức cơ bản:
+ Mô thức thứ nhất, được gọi là hệ thống đảm bảo toàn dân cung cấp
một sự bảo đảm kinh tế- xã hội cho mọi người , khôngphân biệt địa vị nghề
2
nghiệp cũng như giới chủng tộc. Bảo hiểm xã hội được tổ chức bắt buộc và

thống nhất. Phần lớn chi tiêu xã hội được tổ chức bắt buộc và thống nhất.
Phần lớn chi tiêu xã hội được lấy từ thuế, khóa.
Thu nhập của dân chúng được tái phân phối mạnh mẽ nhằm thu hẹp bất
bình đẳng xã hội thông qua các dịch vụ xã hội cơ bản do Nhà nước đảm
trách.
+ Mô thức thứ hai, được gọi là hệ thống bảo hiểm xã hội, cốt lõi của mô
thức này là khoản đóng góp bảo hiểm phụ thuộc vào thu nhập của người
được bảo hiểm vị thế kinh tế xã hội mà người đó đạt được.
+ Mô thức thứ ba, bảo đảm có chọn lọc. Cơ sở của mô thức này là hệ
thốngbảo đảm tự nguyện. Trách nhiệm của Nhà nước được giới hạn trong
việc đảm bảo khuân khổ pháp lý do các hoạt động bảo hiểm tự nguyện đảm
bảo khuân khổ pháp lý do các hoạt động bảo hiểm tự nguyện tiến hành một
số chương trình hỗ trợ cho các nhóm dân cư đặc biệt có nhu cầu.
Mô thức này đáp ứng yêu cầu bảo đảm mức độ hoạt động tư do của cơ
chế thị trường đồng thời đỏi hỏi Nhà nước phải chú trọng chính sách xã hội
cho người nghèo.
Theo giáo sư Phạm Như Cương thì: “CSXH trước hết là một khoa học,
CSXH phải là thành tựu của những cuộc nghiên cứu nghiêm túc của khoa học
xã hội trả lời những câu hỏi của cuộc sống. ở dạng hoạt động thực tiễn, đặc
thù này, CSXH cần phải xem xét như một lĩnh vực khoa học đặc thù, bám
chắc vào sự hoạt động của thực tiễn, khoa học nghiên cứu về CSXH cần phải
mạnh dạn trả lời những câu hỏi đang đặt ra từ thực trạng kinh tế nước ta
hiện nay”.
(3)

Khi đề cập đến chính sách xã hội (CSXH), trong từ điển Chủ nghĩa cộng
sản khoa học viết: "CSXH - một bộ phận cấu thành chính sách chung của một
chính đảng hay một chính quyền nhà nước nhất định, nó bao gồm việc giải
3
Phạm như Cương:”góp phần nghiên cứu CSXH”. NXB Khoa học XH, HN 1998, tr 39 - 40.

3
quyết một phạm vi ít nhiều rộng rãi các vấn đề xã hội phù hợp với thực chất
giai cấp và những mục tiêu hoạt động của đảng đó, của chính quyền nhà
nước đó"
4
. Trong Văn kiện nghị quyết Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt
Nam chỉ rõ: "CSXH bao trùm mọi mặt cuộc sống con người: điều kiện lao
động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp,
quan hệ dân tộc. Coi nhẹ chính sách xã hội là coi nhẹ yếu tố con người trong
sự nghiệp xây dựng CNXH" và trong một số công trình khoa học khác cũng
đề cập với ý nghĩa tương tự. Từ những quan niệm trên có thể hiểu về chính
sách xã hội ở nước ta hiện nay là "một bộ phận trong chính sách chung của
Đảng, nhà nước; là tất cả những biện pháp chủ yếu bao trùm lên mọi mặt
cuộc sống con người nhằm giải quyết những vấn đề xã hội, phù hợp với lợi
ích của công nhân, nhân dân lao động và phù hợp với mục tiêu của cách
mạng XHCN".
Khái niệm trên đây phản ánh một số nội dung sau đây:
Trước hết, CSXH là một bộ phận cấu thành chính sách chung cùng với
các chính sách khác thực hiện thắng lợi những mục tiêu cách mạng của Đảng
cộng sản và nhà nước XHCN.
Hai là, CSXH trực tiếp giải quyết những vấn đề xã hội, từ xác định địa
vị con người trong xã hội đến hình thành, xác lập các điều kiện và nội dung
hoạt động sống của họ; từ việc hình thành và thực hiện các nhu cầu trong đời
sống đến việc phát huy những khả năng của con người nhằm đạt tới sự phát
triển toàn diện của các cá nhân. Đây cũng là phương hướng hoạt động cơ bản
của Đảng, Nhà nước ta và các tổ chức xã hội trong lãnh đạo và quản lý.
Ba là, thực chất của chính sách xã hội là phát huy yếu tố con người, lấy
việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động của Đảng
4
Từ điển “Chủ nghĩa cộng sản khoa học”, Nxb ST, H. 1986, tr.44.

4
và nhà nước, trong đó phục vụ con người là mục đích, phát huy yếu tố con
người là hệ quả.
2. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của chính sách xã hội của chính
sách xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
* Đặc trưng cơ bản của chính sách xã hội
Chính sách an sinh xã hội có đặc trưng rất cơ bản là hướng vào phát triển
con người với những giá trị và chuẩn mực xã hội tiến bộ; mang tính xã hội,
nhân văn và nhân đạo sâu sắc; thể hiện trách nhiệm cao của Nhà nước, của
cộng đồng xã hội và của mọi công dân; đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội to
lớn. Chính sách an sinh xã hội liên quan chặt chẽ với văn hóa, truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. Có thể nói rằng, chính sách an sinh xã hội gắn liền với
phát triển, là yếu tố của phát triển, đầu tư cho chính sách an sinh xã hội cũng
chính là đầu tư cho phát triển.
- Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta luôn lấy con người, các
nhóm người trong cộng đồng làm đối tượng tác động để phát triển toàn diện
và hoàn thiện con người.
- Chính sách xã hội ở nước ta hiện nay mang tính xã hội, nhân văn và
nhân đạo sâu sắc.
- Chính sách xã hội ở nước ta hiện nay thể hiện trách nhiệm rất cao,
hướng vào sự trợ giúp, tạo điều kiện để mỗi người tự vươn lên, hoà nhập vào
cộng đồng tạo nên hệ thống an ninh xã hội.
- Hiệu quả của chính sách xã hội ở nước ta hiện nay là ổn định xã hội,
nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm công bằng xã hội.
- Chính sách xã hội ở nước ta hiện nay còn thể hiện tính kế thừa lịch sử. Kế
thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc như: yêu nước, tương thân,
tương ái, đùm bọc giúp đỡ nhau, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa
5
Chính sách an sinh xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng khi nước ta
chuyển mạnh từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang kinh tế thị

trường, kinh tế nông thôn vẫn phát triển chậm hơn thành thị, đặc biệt là vùng
miền núi, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số; người nghèo phần lớn tập
trung ở khu vực nông thôn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa là
một xu thế khách quan, là yếu tố quyết định thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cơ cấu lao động nông thôn theo hướng hiện đại, song quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động nông thôn diễn ra khá chậm chạp tạo sức ép về việc làm
rất lớn đối với nông dân, nhất là tình trạng thiếu việc làm rất nghiêm trọng.
Phát triển kinh tế thị trường, trong đó có thị trường lao động mở ra
khả năng to lớn về cơ hội việc làm cho mọi người lao động có nhu cầu, song
đối với khu vực nông thôn, một mặt, khả năng cạnh tranh của lao động còn rất
yếu kém do phần lớn chưa qua đào tạo, nhất là đào tạo nghề, nên khó đáp ứng
được yêu cầu của thị trường lao động, họ chỉ có thể tham gia vào thị trường
lao động giản đơn với thu nhập thấp; mặt khác, do tác động mặt trái của cơ
chế thị trường cũng phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc và phần lớn tập
trung vào khu vực nông thôn. Vì vậy, nếu không đặt đúng vị trí chiến lược
của nông thôn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, không gắn chặt
giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với nông
dân ngang tầm với kinh tế sẽ là rào cản rất lớn trên con đường phát triển đất
nước.
Chính sách an sinh xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản
của quốc gia hướng vào bảo vệ, bảo đảm an toàn cho các thành viên trong xã
hội trong các trường hợp rủi ro dẫn đến bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc
phải tăng chi phí đột xuất do nhiều nguyên nhân khác nhau - gọi là "rủi ro xã
hội". An sinh xã hội dựa trên nguyên tắc chia sẻ trách nhiệm và công bằng xã
hội, là một trong những chỉ báo quan trọng của một xã hội phát triển.
6
Chính sách an sinh xã hội có hai chức năng cơ bản là: 1) bảo đảm an
toàn cho mọi thành viên trong xã hội ở mức tối thiểu về thu nhập, dịch vụ y tế
và xã hội để cho phép họ có một cuộc sống xã hội có ý nghĩa, và 2) duy trì thu
nhập, khi các thành viên xã hội đang hoạt động kinh tế hoặc mọi công dân khi

nghỉ hưu, cho phép họ duy trì được mức sống hiện tại trong các trường hợp
thất nghiệp, ốm đau, thai sản, tuổi già, tàn tật, mà không có khả năng tạo thu
nhập.
Xã hội càng phát triển, đời sống con người càng phong phú, nhu cầu
đáp ứng về an sinh xã hội càng đa dạng và tăng lên. Các nhu cầu về an sinh xã
hội cơ bản bao gồm bảo hiểm xã hội; duy trì mức thu nhập đủ sống khi gặp
rủi ro thông qua chính sách trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội; tiếp cận dịch vụ
xã hội cơ bản.
* Vai trò của chính sách xã hội.
Chính sách xã hội có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc, quốc gia. Xã hội càng phát triển thì vấn đề xã
hội ngày càng phức tạp hơn. Để duy trì sự ổn định và phát triển XH tốt đẹp thì
đó là nhiệm vụ cơ bản của giai cấp cầm quyền, là đề ra được các CSXH nhằm
mục đích là xây dựng một XH vững mạnh và điều hòa mối quan hệ trong XH.
Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của đời sống con người, điều kiện
lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai
cấp, quan hệ dân tộc. Coi nhẹ chính sách xã hội là coi nhẹ yếu tố “ Con người
trong sự nghiệp xây dựng XHCH”. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta trong những
năm qua đã ban hành nhiều CSXH mới phù hợp với sự phát triển của xã hội
như : Chính sách BHXH, chính sách văn hóa, giáo dục, y tế…những chính
sách này góp phần quan trọng trong việc phát triển con người, phát triển XH.
7
Xác định đúng tầm quan trọng chiến lược của việc hoạch định chính
sách xã hội trong sự phát triển của đất nước nên Nghị quyết đại hội Đảng lần
thứ VI đã đề ra: “ Giữ vững ổn định chính trị và phát triển bền vững của đất
nước, tạo điều kiện thuận lợi, tận dụng thời cơ để vượt qua khó khăn, thách
thức đưa đất nước ta tiến bước vững chắc theo hướng dân giàu và nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Để thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội IX của Đảng: "Phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN", chính sách xã hội lại càng có
vai trò rất quan trọng. Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta luôn
coi chính sách xã hội là một chính sách trọng yếu trong hệ thống chính sách
chung, "CSXH đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy
mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội"
5
và trong Văn kiện Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh: "Giải quyết tốt các
vấn đề xã hội được coi là một hướng chiến lược phản ánh bản chất ưu việt của
chế độ ta"
6
.
Như vậy, CSXH thực sự là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống
chính sách chung của Đảng và Nhà nước ta, thực hiện tốt CSXH, chính là đặt
đúng vị trí của yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc;
CSXH là một công cụ, là động lực cơ bản thúc đẩy nhanh sự nghiệp CNH,
HĐH, thúc đẩy nhanh sự tiến bộ xã hội mà hạt nhân của nó là thực hiện công
bằng xã hội; đồng thời CSXH, còn là nhân tố bảo đảm sự ổn định về chính trị,
phát triển về kinh tế, về xã hội, về văn hoá trong tình hình hiện nay.
Phương hướng cơ bản nhất của CSXH của Đảng, Nhà nước ta là phải thể
hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm về "sự thống nhất giữa chính sách kinh tế
với chính sách xã hội, thực hiện đồng thời chính sách kinh tế và chính sách xã
5
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb ST, H. 1991, Tr. 13.
6
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, Tr. 33.
8
hội. CSXH và chính sách kinh tế quan hệ chặt chẽ với nhau, sự phát triển về
kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện mục tiêu xã hội và những mục tiêu
xã hội lại là mục đích và động lực của hoạt động kinh tế. Thực tế chứng minh

rằng, không một chủ trương, chính sách và hoạt động kinh tế nào lại không
đem lại những hệ quả xã hội nhất định. Ngược lại, không một chính sách xã
hội nào lại không tác động đến hoạt động kinh tế. Chính sách kinh tế đúng
phải nhằm phục vụ các mục tiêu xã hội, CSXH chỉ đúng đắn khi được xây
dựng trên cơ sở của trình độ phát triển kinh tế và có tác dụng thúc đẩy phát
triển kinh tế.
Sự thống nhất giữa chính sách kinh tế với CSXH phải được thể hiện
trong mỗi chính sách kinh tế, mỗi CSXH, trong cả nhiệm vụ bao trùm, mục
tiêu tổng quát của từng thời kỳ cách mạng, trong cả tư tưởng chỉ đạo của các
kế hoạch phát triển kinh tế và nhiệm vụ của CSXH. Điều này, ngay từ Đại hội
VI của Đảng cũng đã chỉ rõ: "Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất
để thực hiện CSXH, nhưng những mục tiêu xã hội là mục đích của các hoạt
động kinh tế. Ngay trong khuôn khổ của hoạt động kinh tế, CSXH có ảnh
hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, là một nhân tố
quan trọng để phát triển sản xuất"
7
. Là sai lầm, nếu tách rời sự kết hợp giữa
chính sách kinh tế với CSXH, quan điểm kinh tế thuần tuý, hoặc quá nhấn
mạnh vấn đề xã hội, các mục tiêu về xã hội mà không căn cứ vào trình độ
phát triển và khả năng kinh tế.
Những cơ sở lý luận thực tiễn trên phản ánh sự khác nhau căn bản với
những cơ sở của chính sách xã hội dưới CNTB. Dưới CNTB, chính sách xã
hội đó là tổng hợp những biện pháp giải quyết những vấn đề xã hội do nhà
nước tư sản tiến hành đối với quần chúng nhân dân lao động. Với sự mô tả
dưới hình thức "sự quan tâm" đến nhu cầu trong đời sống của người lao động
7
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VI, Nxb ST, H. 1987, Tr. 86
9
như: tiền lương, thất nghiệp, già nua, người nghèo đông con, người mất khả
năng lao động, nơi ăn chốn ở, về y tế, vấn đề giáo dục, vấn đề môi trường, các

bệnh hoạn xã hội Nhưng thực chất chỉ là cái van bảo hiểm xã hội" để lừa
bịp, xoa dịu tinh thần đấu tranh của nhân dân lao động. Đó chỉ là sự phản ứng,
thích nghi, là những biện pháp bổ sung cho sự áp bức bóc lột quần chúng lao
động và để củng cố địa vị thống trị của giai cấp tư sản mà thôi.
Ở các nước TBCN, trên thực tế chỉ nhấn mạnh đến tăng trưởng kinh tế,
coi nhẹ mặt xã hội, con người. Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới, nhất là
đối với các nước TBCN cho thấy, nếu chỉ nhấn mạnh đến tăng trưởng kinh tế
mà không quan tâm đến giải quyết vấn đề xã hội thì sẽ dẫn tới hàng loạt tệ
nạn xã hội, bệnh hoạn xã hội. Chính tệ nạn xã hội đó đã trở thành lực cản kìm
hãm sự phát triển kinh tế, hơn nữa còn đe doạ đến sự tồn vong của xã hội.
Điều này cũng đã có một số học giả tư sản đã nhận ra mặt trái của xã hội tư
bản. Thí dụ, như trong cuốn sách "giá trị phát triển tự do", Ri sắc bec nơ cho
rằng: "Trong các nền văn minh phát triển của chúng ta tồn tại tình trạng kém
phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, đạo đức và tình người"; Bredinxki thì
nói tới 20 khuyết tật của CNTB. Trong cuốn sách "cải cách cơ cấu nền kinh tế
thế giới", chị Gioiskôncô thì cho rằng "Các nước tư bản đang ở tình trạng
khủng hoảng toàn diện, mấy chục năm nay tìm cách giải thoát bằng cải cách
cơ cấu, nhưng làm cho tư bản dấn sâu vào: tăng trưởng kinh tế kéo theo hàng
loạt vấn đề xã hội nghiêm trọng, thất nghiệp tăng dài hạn, nghèo đói tăng,
phân biệt chủng tộc tăng. Trong cuốn sách "Thế kỷ XXI nước Mỹ nhìn lại",
Đavít ham đis tan cho rằng "Nếu hạnh phúc 65 triệu người Mỹ dưới 18 tuổi
có 22% sống dưới mức nghèo đói, nạn đâm chém ngày càng tăng, thì sẽ thấy
bệnh hoạn của nước Mỹ". Còn ông Lý Quang Diệu khi đánh giá về nước Mỹ
thì cho rằng: "Nền văn minh nước Mỹ xuống cấp nghiêm trọng". Ông nói:
"Là một người Đông Nam Á, nhìn kỹ tôi lại thấy có sự hấp dẫn đối với
10
CNCS", bởi vì ở Mỹ tệ nạn mua sắm súng đạn, ma tuý, người sống lang thang
tăng và đông. Theo tôi, đó là sự xuống cấp của một xã hội văn minh. Gần đây
một tài liệu của Mỹ mới công bố: 20% số dân là người giàu có chiếm 85%
tài sản của xã hội; 80% số dân là người nghèo chia nhau 15% tài sản còn lại;

35 triệu người sống dưới mức nghèo khổ. Hơn 6 triệu người thất nghiệp. Tình
trạng bạo lực cướp bóc, bắt cóc trẻ em, lối sống sa đoạ, loạn luân liên tục xảy
ra. Cả nước Mỹ có 200 triệu khẩu súng trong dân; mỗi ngày có gần 10 vạn
học sinh mang súng tới trường; cô giáo cho điểm xấu bị học sinh doạ giết. Cứ
5 người thì có một em không biết bố; 80% số cuộc hôn nhân đưa tới ly hôn "
Nhìn sang khu vực thế giới thứ 3 với gần 170 nước, từ 1/2 thế kỷ nay,
các nước đang phát triển chiếm tới 3/4 dân số thế giới lần lượt thoát khỏi sự
áp bức, nô dịch của chủ nghĩa thực dân và từng bước có sự phát triển với sự
giúp đỡ của một số tổ chức quốc tế, đặc biệt là tổ chức tài chính quốc tế.
Song, chỉ có một số rất ít trở thành nước công nghiệp, còn đa số không thành
công, thậm chí thất bại. Trong cuốn sách "Những thành công và thất vọng",
nhà sử học người Pháp Pi ê so lát cho rằng: "các nước này bước vào cuộc
phiêu lưu phát triển kinh tế, thì đại đa số phải trả một giá rất đắt. Nghĩa là sai
lầm trong toàn bộ, trước hết là sai lầm về mô hình. Mô hình này chỉ tính đến
sự tăng trưởng kinh tế đã được phương Tây vạch ra. Mô hình đó coi nhẹ con
người", và ông đã đưa ra một loạt những số liệu ở các nước Châu Phi, Châu
Á, Châu Mỹ để chứng minh sự nhận định của mình.
II. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
XÃ HỘI CỦA ĐẢNG TA TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY
1. Phương hướng, nhiệm vụ chính của chính sách xã hội trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
* Phương hướng, nhiệm vụ chính của chính sách xã hội.
11
Những quan điểm về CSXH đã xác định trong Đại hội VIII của Đảng
như: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển; thực hiện nhiều hình thức
phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu ; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói giảm
nghèo. Thu hẹp dần sự khác biệt giữa các giai tầng xã hội, giữa các vùng
miền ; phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc "uống nước nhớ nguồn";

đền ơn đáp nghĩa", "nhân hậu thuỷ chung" ; các vấn đề CSXH đều giải
quyết theo tinh thần xã hội hoá, nhà nước đóng vai trò nòng cốt, đồng thời
động viên các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước tham gia giải quyết vấn
đề xã hội"
8
. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng
định "Hệ thống chính sách xã hội phản ánh những giá trị nhân văn của nền
văn hoá Việt Nam, thể hiện lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói
chung và của từng công dân, điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích giữa con
người với con người, giữa con người với xã hội, nhằm mục đích cao nhất là
thoả mãn những nhu cầu ngày càng cao về đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Mọi chính sách xã hội được thực hiện theo tinh thần xã hội hoá"
9
.
Trong văn kiện “Báo cáo chính trị” trình bày tại Đại hội X, trên cơ sở kế
thừa và phát triển các quan điểm về cơ sở xã hội của các kỳ đại hội trước.
Đảng ta khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu
xã hội trên bình diện cả nước cũng như ở từng lĩnh vực, địa phương thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó
hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ cống hiến và hưởng thụ”.
8
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 113 - 114.
9
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H 2001, Tr. 34.
12
Khuyến khích và tạo điều kiện để mọi người dân làm giàu chính đáng,
thực hiện có hiệu quả chính sách xoá đói giảm nghèo xây dựng hoàn chỉnh
hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ công cộng thiết yếu.
Tăng nguồn đầu tư của Nhà nước để phát triển các lĩnh vực xã hội và

thực hiện các mục tiêu xã hội, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá.
Để thực hiện phương hướng trên, nhiệm vụ chủ yếu của CSXH phải tập
trung vào: tạo cho quần chúng lao động những điều kiện sống, điều kiện lao
động, điều kiện sinh hoạt vật chất và văn hoá, chính trị và xã hội ngày càng
tốt hơn; hình thành những nhu cầu của con người theo những tiêu chuẩn hợp
lý, tạo ra những định hướng đúng cho hoạt động của con người, khiến họ phát
huy tối đa tính tích cực trong lao động, trong hoạt động xã hội, hoạt động
chính trị nhằm phục vụ xã hội, xây dựng và phát triển lối sống XHCN; điều
chỉnh các quan hệ xã hội giữa các giai cấp, các tầng lớp và các nhóm xã hội
nhằm không ngừng phát triển, hoàn thiện cơ cấu xã hội - giai cấp XHCN ở
nước ta.
* Những nội dung cơ bản cấp bách của chính sách xã hội trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Thứ nhất là, vấn đề dân số và việc làm. Thực tế ở nước ta từ năm 1979
đến nay, dân số tăng bình quân hàng năm là 2% nhưng thu nhập quốc dân chỉ
tăng từ 4 đến 5%, nên đã gây ra mất cân đối gay gắt giữa tốc độ phát triển
kinh tế với mức tăng dân số. Dân số tăng nhanh còn ảnh hưởng không tốt đến
các vấn đề xã hội khác, đến môi trường và hệ sinh thái.
Việc làm cho người lao động xã hội đang là vấn đề kinh tế - xã hội -
chính trị bức xúc, đặc biệt là đối với thanh niên. Ở nước ta, việc làm đang
chịu sức ép lớn của sự gia tăng dân số và nguồn lao động hàng năm bình quân
tăng từ 3,2 đến 3,5%, hàng triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Theo dự
13
báo của các nhà khoa học, sau những năm 2000, Việt Nam vẫn là nước dư
thừa lao động, vì: do chấn chỉnh bộ máy nhà nước, nên cũng có hàng triệu
người phải chuyển ra ngoài để tìm việc làm; hàng chục vạn người từ các nước
Đông Âu về theo thời hạn hoặc trước thời hạn; hàng vạn lao động xuất khẩu
bất hợp pháp nay tự nguyện hồi hương; hàng năm có hàng chục vạn bộ đội
xuất ngũ; học sinh bỏ học, sinh viên tốt nghiệp đại học chưa tìm được việc
làm Vì vậy, giải quyết việc làm là một nội dung lớn, cấp bách ở nước ta

hiện nay.
Thứ hai là, xung quanh vấn đề xoá đói giảm nghèo. Chế độ XHCN mà
chúng ta xây dựng là một chế độ như Bác Hồ nói: "Ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành". Phấn đấu cho một xã hội không còn nghèo đói
đó là mục tiêu, là quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta, nó phản ánh bản chất
tốt đẹp của CNXH, "xoá đói giảm nghèo là một sự nghiệp XHCN cao quý,
phát huy truyền thống nhân ái, đùm bọc lẫn nhau, thúc đẩy tiến bộ đồng đều
khắp cả nước". Tuy trong năm năm qua, với kết quả đầu tư của Đảng, nhà
nước, cùng với sự vươn lên của nhân dân, chúng ta đã giảm từ 20% xuống
11% hộ nghèo, song hiện tại vẫn còn hàng nghìn xã, hàng nghìn hộ nghèo,
đặc biệt là có từ 1,2 - 1,5 triệu người phải thường xuyên cứu tế; sự chênh lệch
giàu nghèo có vùng có xu hướng tăng. Đó là vấn đề xã hội bức xúc ở nước ta
hiện nay. Để giải quyết tốt vấn đề này, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã
xác định: "Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo. Thường
xuyên củng cố thành quả xoá đói giảm nghèo".
Thứ ba là, về tiền lương và thu nhập. Tiến hành cải cách, cơ bản tiền
lương đối với cán bộ, công chức nhà nước. Tiền tệ hoá đầy đủ tiền lương,
điều chỉnh tiền lương bảo đảm mức sống tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập
trong xã hội. Hệ thống thang, bậc lương bảo đảm tương quan, hợp lý khuyến
khích người giỏi, lao động có năng suất cao, thay đổi cơ chế tài chính đối với
14
khu vực sự nghiệp, tạo điều kiện đổi mới chế độ tiền lương của khu vực này.
Thông qua cải cách chế độ tiền lương, thúc đẩy việc tinh giảm biên chế bộ
máy công quyền.
Thứ tư là, phát triển y tế, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, đây là mục đích cao nhất
của CSXH và chính sách kinh tế, phản ánh tính hơn hẳn của CNXH so với
CNTB. Đồng thời nó phản ánh bản chất tốt đẹp của CNXH, rằng không chỉ
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần mà còn tạo điều kiện mọi mặt để bảo vệ
sức khoẻ cho nhân dân lao động. Trong văn kiện nghị quyết Đại hội IX của

Đảng đã xác định rõ một số nội dung cần làm xung quanh vấn đề này là:
Nâng cao tính công bằng và hiệu quả trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ chăm
sóc vào bảo vệ sức khỏe nhân dân; tiếp tục thực hiện các chương trình mục
tiêu về y tế quốc gia; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ ở các tuyến,
chất lượng phòng chống dịch, khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu,
bảo vệ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi, người bị di chứng
chiến tranh, người nghèo, đồng bào dân tộc ít người, người có công với cách
mạng ; củng cố và nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở; thực hiện chính sách quốc
gia về thuốc; đổi mới cơ chế chính sách viện phí, có chính sách trợ giúp cho
người nghèo được khám chữa bệnh; mở rộng y tế tự nguyện, tiến tới bảo hiểm
y tế toàn dân
Thứ năm là, về bảo hiểm và bảo trợ xã hội. Dưới CNXH, giải quyết tốt
vấn đề này là bản chất của CNXH. Xây dựng và thực hiện chính sách bảo
hiểm, bảo trợ xã hội là một bộ phận quan trọng trong chính sách xã hội và thực
hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay, nó không những phản ánh bản chất
của CNXH, mà nó còn là vấn đề nảy sinh từ nhu cầu cuộc sống cộng đồng và
trở thành quy luật cuộc sống con người. Hơn nữa, vấn đề bảo hiểm, bảo trợ ở
15
nước ta hiện nay cũng đang là vấn đề bức bách, một mặt là do thực trạng kinh
tế - xã hội còn thấp, mặt khác là do hậu quả của chiến tranh để lại nặng nề.
Thứ sáu là, đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội và bệnh dịch AIDS.
Trong bối cảnh hoà nhập quốc tế và giao lưu rộng rãi với các nước trên thế
giới, việc phòng chống các bệnh hoạn xã hội ở các nước đang lây lan mạnh
vào nước ta cũng đang là vấn đề cần được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội
quan tâm giải quyết. Thực tế với hàng trăm ngàn gái mãi dâm; hàng chục
nghìn người nhiễm HIV; số nghiện ma tuý đặc biệt trong thanh thiếu niên
chiếm từ 70 - 80% trong số nghiện hút; tội phạm xã hội ngày càng có chiều
hướng gia tăng Thực trạng trên đang làm băng hoại thuần phong mỹ tục của
dân tộc ta. Đẩy lùi nạn ma tuý, mãi dâm kết hợp với giáo dục nếp sống lành
mạnh trong toàn xã hội, ngăn chặn đại dịch AIDS trong điều kiện phù hợp,

đồng thời giúp những người nhiễm HIV sống lao động có ý nghĩa trong cộng
đồng. Đề cao trách nhiệm tập thể, cá nhân lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng,
chính quyền, mặt trận, đoàn thể đối với tình trạng tệ nạn xã hội trên từng địa
bàn. Phát huy vai trò của từng cá nhân, từng cộng đồng tham gia đấu tranh
đẩy lùi những tệ nạn này.
2. Quá trình thực hiện và kết quả đạt được trong thực hiện chính sách
xã hội của Đảng ta từ sau đổi mới (1986) đến nay
Hơn 25 năm đổi mới vừa qua, trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta
đã không ngừng nâng cao nhận thức, tổ chức thực hiện ngày càng có hiệu quả
các hệ thống chính sách, trong đó có chính sách xã hội (CSXH), điều này đã
góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm an sinh xã
hội.
Tại Đại hội VI (1986) Đảng ta đã chỉ rõ: “Cần thể hiện đầy đủ trong
thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách
kinh tế và CSXH, khắc phục thái độ coi nhẹ CSXH tức là coi nhẹ yếu tố con
16
người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Trên cơ sở khẳng định
quan điểm lấy việc phục vụ con người là mục đích cao nhất trong mọi hoạt
động của Đảng và Nhà nước, Đảng ta khẳng định: “CSXH bao trùm mọi mặt
của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn
hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc coi nhẹ CSXH tức
là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Đây
là lần đầu tiên khái niệm CSXH được đề cập trong văn kiện với tư cách là
một hệ thống nằm trong tổ hợp chính sách kinh tế - xã hội của quốc gia.
CSXH không tồn tại độc lập mà nó luôn gắn liền với chính sách kinh
tế, Đảng xác định: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực
hiện CSXH, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động
kinh tế”. Sau 05 năm đổi mới, thực hiện CSXH đã đạt được những tiến bộ
nhất định, đời sống của một bộ phận nhân dân so với 05 năm trước ổn định
hơn và nhiều mặt được cải thiện. Tuy nhiên, CSXH vẫn chưa được quan tâm

đúng với tầm quan trọng của nó và còn nhiều thiếu sót nên đại bộ phận nhân
dân, nhất là cán bộ công chức nhà nước vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Kế thừa và phát triển quan điểm của Đại hội VI, Đại hội Đảng lần thứ
VII tiếp tục khẳng định vai trò của CSXH đối với phát triển kinh tế: “Coi phát
triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các CSXH, thực hiện tốt CSXH
là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế”. Chính vì thế, “Cần huy động mọi khả
năng của Nhà nước và của nhân dân, Trung ương và địa phương để cùng nhau
giải quyết những vấn đề của CSXH. Xây dựng các quỹ BHXH của nhân dân
trong tất cả các thành phần kinh tế; phát triển các hiệp hội từ thiện nhân đạo
để phát huy truyền thống nhân ái tương trợ lẫn nhau của dân tộc ta, đồng thời
hỗ trợ Nhà nước trong việc giải quyết những vấn đề xã hội”. CSXH bảo đảm
và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội
về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất… CSXH
17
cũng nhằm xây dựng nền văn hoá mới, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp,
phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ.
Trên cơ sở những nhận thức mới về phát triển xã hội được hình thành
từ thực tiễn phát triển đất nước sau 10 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ
VIII đề ra một hệ thống quan điểm: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát
triển… Các vấn đề CSXH đều giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nước
giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp,
các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia
giải quyết những vấn đề xã hội”. Các quan điểm cơ bản nêu trên đã định hình
tổng thể tư duy lý luận của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kỳ
đổi mới. Nó vừa thích ứng với nhu cầu tạo động lực cho sự phát triển bền
vững, vừa hướng tới giá trị công bằng và tiến bộ xã hội.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đại hội VIII, các CSXH có sự đổi
mới. Chính sách lao động và việc làm đã gắn kết với quá trình chuyển dịch cơ
cấu nền kinh tế, phát triển sản xuất. Chính sách xoá đói giảm nghèo được đặc

biệt coi trọng với việc hình thành Chương trình quốc gia theo Quyết định 133
của Thủ tướng Chính phủ (23 - 07 - 1998). Ưu đãi người có công được luật
hoá bằng Pháp lệnh do Quốc hội ban lệnh với những chế độ trợ cấp ưu đãi
đặc biệt. Bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được đảm bảo bằng mở
rộng mạng lưới y tế đến cộng đồng dân cư, thực hiện chế độ bảo hiểm y tế.
Phòng và chống tệ nạn xã hội được đảm bảo bằng luật pháp; Mở rộng các
hoạt động đền ơn đáp nghĩa những người có công với nước, đảm bảo cho
người có công và gia đình có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình
của xã, phường nơi cư trú.
Đại hội Đảng lần thứ IX và các Hội nghị Trung ương Khoá IX đã cụ
thể hoá và bổ sung các quan điểm về CSXH của Đại hội VIII, với những nội
dung cơ bản: Giải quyết CSXH phải gắn liền với quá trình xây dựng thể chế
18
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là “phát triển thị
trường lao động; người lao động được tìm và tạo việc làm ở mọi nơi trong
nước; đẩy mạnh xuất khẩu lao động với sự tham gia của các thành phần kinh
tế”. Trong giải quyết các CSXH, Nhà nước vừa là người điều tiết, vừa là nhà
đầu tư. Coi trọng công bằng trong hưởng thụ các dịch vụ xã hội, đặc biệt là
công bằng trong thụ hưởng dịch vụ giáo dục và chăm sóc y tế, với việc tạo cơ
hội cho những đối trọng, những vùng còn khó khăn có cơ hội được chăm sóc
tốt hơn. Xã hội hoá việc giải quyết các vấn đề xã hội, động viên toàn xã hội
tham gia giải quyết các vấn đề xã hội. Đồng thời, “thực hiện các chính sách
xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng
trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao
động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân
dân làm giàu hợp pháp”.
Đại hội Đảng lần thứ X của Đảng, trong khi khẳng định những thành
tựu đạt được là cơ bản, đồng thời cũng chỉ rõ những hạn chế trong việc tổ
chức thực hiện một số CSXH như: Kết quả xoá đói giảm nghèo chưa thật
vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn lớn; khoảng cách chênh lệch về thu nhập,

mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng doãng ra;
nhu cầu về việc làm ở thành thị và nông thôn chưa được đáp ứng tốt; tội phạm
và tệ nạn xã hội có chiều hướng tăng Để khắc phục tình trạng trên, Đại hội
X đề ra chủ trương: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội
trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt
các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ,
cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát
triển kinh tế - xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc”.
Đồng thời xác định rõ trách nhiệm: “Xây dựng hệ thống an sinh xã hội
đa dạng; phát triển mạnh hệ thống BHXH, tiến tới BHYT toàn dân. Đổi mới
19
và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, tạo
cơ hội cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ. Xây
dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người Việt
Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi. Thực hiện tốt các chính
sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, các chính sách ưu đãi xã hội”. Những
vấn đề xã hội đã được Đại hội Đảng lần thứ X nhận thức và giải quyết toàn
diện cả ở góc độ mục tiêu và hệ thống giải pháp trong tổng thể các chính sách
phát triển, mà ở đó con người thực sự là trung tâm, là động lực và mục tiêu
của phát triển xã hội bền vững.
Trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khẳng định: Phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng
trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã
hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với
người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế
khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố
quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, đổi mới quan hệ phân
phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, người

lao động; khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của quan hệ
phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay.
Đặc biệt, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định việc
xây dựng và thực hiện một CSXH đúng đắn, công bằng vì con người là động
lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển
văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước
và từng chính sách; Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính
20
sách đối với người và gia đình có công với nước. Chú trọng cải thiện điều
kiện sống, lao động và học tập của thanh, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ
em. Chăm lo đời sống những người già cả, neo đơn, tàn tật, mất sức lao động
và trẻ mồ côi. Hạn chế, tiến tới đẩy lùi và giảm tác hại của tệ nạn xã hội. Bảo
đảm quy mô hợp lý và chất lượng dân số.
Trong những năm qua, công tác giải quyết việc làm, xoá đói, giảm
nghèo, thực hiện chính sách với người và gia đình có công, chính sách an sinh
xã hội đạt kết quả tích cực: Từ năm 2000-2005, đã tạo việc làm cho 7,5 triệu
lao động và trong 05 năm (2006-2011), đã giải quyết được việc làm cho trên
08 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5%, tỷ lệ hộ
nghèo giảm còn 9,5%. Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc và
bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ đạt được một
số kết quả quan trọng; mức hưởng thụ các dịch vụ y tế của nhân dân tăng lên,
đặc biệt với trẻ em, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Chỉ số phát triển
con người không ngừng tăng lên; Việt Nam đã hoàn thành phần lớn các Mục
tiêu Thiên niên kỷ: Chỉ số phát triển con người tăng từ mức 0,683 (năm 2000)
lên 0,733 (năm 2008), xếp thứ 100/177 nước, thuộc nhóm trung bình cao;
hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) do Liên hợp quốc đặt ra
cho các nước đang phát triển đến năm 2015.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhìn chung, không ngừng được nâng cao:
GDP bình quân năm tăng, giai đoạn 1986-1990, GDP tăng 4,4%/năm; Giai
đoạn 1991-1995, GDP tăng 8,2%/năm; Giai đoạn 1996-2000, GDP tăng
7%/năm; Giai đoạn 2000-2005, GDP tăng 7,5%/năm; Giai đoạn 2006-2011,
GDP đạt 7%/năm, tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn
2001 - 2005, đạt 42,9% GDP. Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm
2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000;
GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Cùng với đó, công tác giáo dục,
đào tạo đã đạt một số kết quả bước đầu. Trong vòng 12 năm qua (từ 1998 -
21
2010), Nhà nước tăng dần đầu tư giáo dục, đào tạo từ mức hơn 13% lên 20%
tổng chi ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, Nhà nước thực hiện chế độ miễn
giảm học phí (đã có 53% số học sinh, sinh viên được miễn giảm học phí), chế
độ cấp học bổng chính sách; chế độ chính sách tín dụng sinh viên (đến nay đã
có khoảng 1,6 triệu học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn
để học tập với số tiền 18.000 tỷ đồng). Việc huy động các nguồn lực xã hội
cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng
khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm. Quy mô giáo dục
tiếp tục được phát triển. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt
chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm
2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm việc.
Đối với công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình đã tạo ra sự chuyển biến
tích cực về nhận thức, thái độ, hành vi của người dân về dân số - kế hoạch hóa
gia đình. Quy mô gia đình ít con ngày càng được chấp nhận rộng rãi; hiểu biết
và thực hành về kế hoạch hóa gia đình được nâng lên rõ rệt. Tỷ lệ sử dụng các
biện pháp trách thai của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ tiếp tục tăng,
từ 73,9% (năm 2000) tăng lên 76,8% (năm 2005) và 80,3% (năm 2010). Bên
cạnh đó, mạng lưới cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch
hóa gia đình được mở rộng từ trung ương đến địa phương. Ngoài hệ thống y
tế công lập còn có hàng chục nghìn cơ sở y tế tư nhân cung cấp dịch vụ chăm

sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình. Quy mô trung bình của một gia
đình Việt Nam đã giảm từ 4,6 người (năm 1999) xuống còn 3,8 người (năm
2009), gia đình hạt nhân chiếm tới 2/3 tổng số gia đình. Quy mô gia đình nhỏ
đã góp phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế gia đình, tạo điều kiện xây
dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, Nhà nước về ưu đãi
xã hội, hệ thống chính sách ưu đãi người có công được xây dựng ngày càng
phù hợp hơn với các đối tượng và dần được hoàn thiện. Phong trào “Ðền ơn
22
đáp nghĩa” với năm chương trình hành động cụ thể đã trở thành phong trào
cách mạng sâu rộng trong toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân ta. Quỹ “Ðền ơn
đáp nghĩa” được sử dụng hiệu quả trong việc xây dựng cải tạo nhà tình nghĩa,
chăm sóc bố mẹ liệt sỹ, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, thăm hỏi
tặng quà và giúp đỡ thương binh, bệnh binh, gia đình người có công với cách
mạng Mỗi năm, cả nước xây dựng, sửa chữa hơn 15.000 nhà tình nghĩa trị
giá hơn 292 tỷ đồng. Quỹ đền ơn đáp nghĩa huy động được 232,4 tỷ đồng.
Xây dựng 2.147 công trình và sửa chữa 818 công trình tưởng nhớ liệt sĩ trị giá
hơn 220 tỷ đồng. Sự nỗ lực của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân ta và bản thân
người có công đã thu được những kết quả khả quan. 85% số xã, phường đạt
tiêu chuẩn xã phường làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ và người có công,
90% số gia đình chính sách có mức sống trung bình trở lên so với dân cư
cùng địa bàn cư trú, nhiều tấm gương người có công điển hình về đạo đức lối
sống.
Đối với công tác BHXH cũng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng:
Năm 1996 đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là 2,85 triệu người, thì đến
tháng 07/2011 số người tham gia BHXH, BHYT trên 53 triệu người, trong đó
có trên 9,6 triệu người tham gia BHXH, BHYT bắt buộc (trong đó có trên 7,4
triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp). Diện bao phủ BHYT đã tăng vượt
bậc, từ 45% dân số trước khi thực hiện Luật BHYT lên trên 60% dân số (50,7
triệu người tham gia và gần 2 triệu trẻ em dưới 6 tuổi không có thẻ BHYT

nhưng vẫn được đảm bảo quyền lợi khám, chữa bệnh BHYT). Năm 2010 có
trên 106 triệu lượt người có thẻ BHYT đi khám, chữa bệnh và được quỹ
BHYT chi trả trên 19.000 tỷ đồng. Số người tham gia BHYT tăng nhanh đã
góp phần củng cố và tạo nguồn tài chính ổn định, vững chắc cho công tác
khám, chữa bệnh BHYT và tạo tiền đề để xây dựng và triển khai thực hiện lộ
trình BHYT toàn dân.
23
Năm 2010, BHXH các tỉnh, thành phố, Bộ Quốc phòng, CAND, Ban
Cơ yếu Chính phủ đã giải quyết chế độ cho 140.200 người hưởng BHXH
hàng tháng; 590.100 người hưởng BHXH một lần; trên 4,7 triệu lượt người
hưởng chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức - phục hồi sức khỏe. Chi BHXH
bắt buộc ước thực hiện là 65.844 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2009, do tăng
số người hưởng chế độ và do điều chỉnh mức lương tối thiểu chung lên
730.000 đồng vào tháng 05/2010. Đây cũng là năm đầu tiên thực hiện chi trả
trợ cấp thất nghiệp. Số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp là
156.765 (chiếm 96% số người nộp hồ sơ); số người được tư vấn giới thiệu
việc làm là 125.562 (chiếm 80% số người hưởng trợ cấp thất nghiệp). Tính cả
giai đoạn 2007-2010, Chính phủ đã 04 lần điều chỉnh lương hưu với mức điều
chỉnh tăng thêm 62,7% so với lương hưu của tháng 12/2006. Đến năm 2010,
tổng số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng là 1.796.734 người, với mức
lương hưu bình quân là 2.197.199 đồng/người/tháng.
Thực tiễn thực hiện mục tiêu phát triển xã hội trong hơn 25 năm qua,
với những nỗ lực, cố gắng không ngừng, tư duy lý luận của Đảng về CSXH
đã từng bước được bổ sung, hoàn thiện: Từ chỗ không đặt đúng tầm quan
trọng của CSXH trong mối quan hệ tương tác với chính sách kinh tế đã đi đến
thống nhất chính sách kinh tế với CSXH; Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo
đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát hiện. Từ chỗ Nhà
nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần dần chuyển trọng
tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao
động đều tham gia tạo việc làm. Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hoá giàu

- nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích
cực xoá đói, giảm nghèo, coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết
cho sự phát triển. Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề
xã hội có chuyển biến tích cực, đảm bảo quá trình tăng trưởng kinh tế vững
chắc, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước.
24
Tài liệu tham khảo
1. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI
2. Phạm như Cương:”góp phần nghiên cứu CSXH”. NXB Khoa học
XH, HN 1998, tr 39 - 40.
3. Phạm Ngọc Quang, Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Cộng sản
điện tử, số 8 (178) năm 2009.
4. Dương Minh Đỗ, Thực hiện tốt hơn nữa chính sách ưu đãi người có
công, Tạp chí Cộng sản điện tử, số 14 (182) năm 2009
5. Nguồn. Báo nhân dân điện tử: Hội nghị biểu dương người có công
tiêu biểu toàn quốc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"
năm 2010, , Thứ bảy, ngày 17/07/2010.
6. Báo Sức khỏe - Đời sống: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế góp phần
bảo đảm an sinh xã hội, http:suckhoedoisong.vn, thứ tư 14/04/2010.
7. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Hơn 61.000 người tham gia
bảo hiểm xã hội tự nguyện, , ngày 25/03/2011.
8. Từ điển “Chủ nghĩa cộng sản khoa học”, Nxb ST, H. 1986, tr.44.
MỤC LỤC
25

×