SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM DẠY HỌC
ÐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO
CHUẨN KIẾN THỨC KỸ NĂNG
1. ÐẶT VẤN ÐỀ :
Luật Giáo dục 2005: “PPGD PT phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của HS, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng PP tự học, rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho HS”
Định hướng đổi mới PPDH “Tích cực hoá hoạt động học tập của HS nhằm phát huy
tính tích cực chủ động của HS trong học tập"
Cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học là giúp HS hướng tới hoạt động học tập chủ
động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Chú ý tới việc rèn luyện kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng vận dụng vào thực tiễn, hình thành
và phát triển các phẩm chất tư duy độc lập, sáng tạo. Dạy học tạo nên các trạng thái tinh
thần, tâm lý tích cực cho người học .
Với nhu cầu của một xã hội hoá GD đòi hỏi ngành GD phải đổi mới phương pháp
dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức sâu sắc, biết tự giác chủ động sáng
tạo trong công việc. Nhìn lại việc học tập của học sinh ở trường, tôi thấy nhận thức của
các em còn nhiều hạn chế, ý thức tự học, tự rèn luyện rất ít, điều kiện học tập còn nhiều
thiếu thốn.
Các em chưa xác định được tầm quan trọng của việc học nên không ham học đặc
biệt là môn học thể dục . Là một người đứng trong ngành nghề dạy học tôi luôn băn
khoăn là làm thế nào để phát huy tính tích cực , chủ động, tự giác của học sinh trong học
tập đặc biệt là theo chuẩn kiến thức kỹ năng và giảm tải . Đây là một vấn đề nóng bỏng
cần phải thực hiện nhanh và đúng cách để những thế hệ do chúng ta đào tạo là đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. GIẢI QUYẾT VẤN ÐỀ :
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN :
2.1.1 Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:
Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp quy của Nhà nước, Bộ GD-
ĐT, các tài liệu chuyên môn, SGK và các tài liệu khác để phân tích tổng hợp hệ
thống những thông tin có liên quan đến đề tài.
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn giáo dục:
- Trao đổi với giáo viên dạy thể dục trong và ngoài trường và cùng trao đổi với học sinh
- Sử dụng phiếu điều tra
Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Giảng dạy thực nghiệm một số giờ ở trường
- Phân tích kết qủa thực nghiệm.
Phương pháp thống kê toán học để xử lí số liệu các kết quả thực nghiệm.
Phân tích - đánh giá định lượng các tiết kiểm tra thông qua các tham số đặc
trưng.
Phân tích định tính: Phân tích kết quả tiết kiểm tra đánh giá của HS để thấy rõ:
- Về hứng thú học tập và mức độ tích cực của học tập.
- Mức độ nắm vững và độ bền đối với kiến thức học tập để hình thành kỹ năng.
Ngoài các phương pháp trên tôi còn sử dụng một số phương pháp khác nữa trong quá
trình nghiên cứu.
2.1.2 Các giả thiết nghiên cứu
- Dạy và học không qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
- Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
- Sắp xếp nội dung một cách hợp lý :
- Sử dụng các phương tiện dạy học một cách hợp lý, hiệu quả :
- Áp dụng hình thức lên lớp một cách linh hoạt :
- Đổi mới phương pháp dạy học :
- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ÐỀ :
- Điều kiện về sân bãi tập luyện, trang thiết bị dụng cụ còn thiếu rất nhiều nên rất khó
khăn cho việc đổi mới PPDH.
- Chương trình thể dục trước đây với mục tiêu kiến thức là mục tiêu quan trọng nhất.
Điều này, phù hợp với mục tiêu của nhiều môn học ở nhiều nước trên thế giới. Xuất phát
từ mục tiêu đó, giáo viên khi lên lớp đã giảng giải, phân tích các động tác một cách tỉ mỉ.
Điều này rất cần thiết, nhưng vì sử dụng thời gian quá nhiều để giảng giải, phân tích nên
học sinh không có nhiều thời gian để luyện tập, mà khi đã luyện tập ít thì việc hình thành
kỹ thuật, rèn luyện kỹ năng, rèn luyện thể lực cũng chưa đạt yêu cầu.
Mặt khác, xuất phát từ những yếu tố khách quan lẫn chủ quan, nên chương trình thể dục
còn cứng nhắc chưa đáp ứng được sở thích của học sinh. Ở những nước tiên tiến trên thế
giới, khi học thể dục học sinh sẽ được tùy ý chọn môn mình ham thích.
- Trong quá trình lên lớp, vẫn còn thực hiện các bước lên lớp một cách cứng nhắc, tuần
tự đi từ bước này sang bước khác, làm cho giờ học nhàm chán, nặng nề. Chưa kết hợp và
giải quyết hài hòa giữa các bước lên lớp.
- Các hình thức lên lớp thì đơn điệu, phần lớn giáo viên chỉ sử dụng phương pháp dòng
chảy.
- Khâu tổ chức chưa tính toán hết, nên trong giờ học mất nhiều thời gian tập hợp cũng
như luân chuyển đội hình làm ảnh hưỏng không nhỏ đến thời gian luyện tập của học sinh
- Chưa tận dụng hết những dụng cụ và điều kiện sân tập để tổ chức cho học sinh luyện
tập.
- Cách đánh giá xếp loại kết quả học tập của học sinh còn những điều chưa hợp lý .
Với những hiện trạng trên, làm cho chất lượng giờ dạy chưa thật đạt yêu cầu và học sinh
chưa phát huy được tính tích cực, tự giác trong học tập nói chung và tích cực, tự giác tập
luyện thể dục thể thao nói riêng. Thực tế và mục tiêu còn có một khoảng cách cần được
khắc phục nhằm thực hiện có chất lượng mục tiêu rèn luyện kỹ năng và rèn luyện thể
lực, góp phần nâng cao sức khỏe cho học sinh
2.2 : CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ÐỀ:
Đổi mới PPDH không có nghĩa l loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống
mà phải lựa chọn, kết hợp hết sức mềm dẻo các phương pháp dạy học tích cực đối với nội
dung học cụ thể (học mới và ôn các nội dung thực hnh, lí thuyết và một số tình huống
gắn liền với hoạt động thực tiễn).
Điều quan trọng nhất là: giúp HS luôn tự tin, tìm thấy hứng thú trong học tập, từ đó HS
sẽ có thái độ tự giác, tích cực và mong muốn được sáng tạo trong việc giải quyết các
nhiệm vụ vận động. Đổi mới cách tổ chức giờ học thể dục sao cho khoa học, phù hợp với
thực tế cơ sở vật chất của nhà trường, tổ chức phân nhóm (không và có quay vòng), phải
hợp lý giữa tập đồng loạt với tập lần lượt để tăng thời gian cho HS tập luyện đạt đến
lượng vận động hợp lí. Việc đổi mới phương pháp dạy học môn thể dục ở trung học cơ sở
nên được thực hiện theo các yêu cầu sau:
- Dạy học tiến hành thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh;
- Dạy học kết hợp giữa hình thức học cá nhân với hình thức học theo nhóm, theo lớp, thể
hiện mối quan hệ tích cực giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với học sinh.
- Sử dụng Chuẩn KT, KN để xác định mục tiêu tiết dạy đã được trình bày cụ thể trong tài
liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Thể dục THCS.
- Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo vận động, phát triển thể chất, rèn
luyện phẩm chất, ý chí và gắn nội dung bài học với yêu cầu của thực tiễn cuộc sống;
- Tăng cường vận dụng phương pháp trò chơi, thi đấu vào giờ học, tạo không khí sôi nổi,
lôi cuốn học sinh học tập. Tổ chức các tổ nhóm để HS có điều kiện tự quản, điều khiển và
tham gia nhận xét đánh giá kết quả học tập, phối hợp giữa dạy học trên lớp và các hoạt
động TDTT ngoại khóa (có tổ chức) và tự học, tự tập để rèn luyện cho HS thói quen rèn
luyện thân thể, giao bài tập về nhà cho HS tập luyện. Hàng năm theo dõi định kỳ tổ
chức kiểm tra khỏe HS vào đầu năm học, phân loại sức khỏe, tiến tới dạy học theo nhóm
sức khỏe. Việc đổi mới PPDH cần sử dụng có hiệu quả trang thiết bị dạy học, khai thác,
sử dụng có hiệu quả công nghệ thông tin, về học và ôn tập nội dung môn thể dục cần lưu
ý:
- Đối với những bài tập, động tác học mới.
+ Khai thác vốn kiến thức, kĩ năng của HS để vận dụng sự chuyển tốt các kĩ năng, kĩ
xảo vận động vào học bi mới, giải quyết nhiệm vụ vận động trong tình huống
khác nhau.
+ GV cần sử dụng một cách hợp lí tranh ảnh kĩ thuật, mô hình, làm mẫu động tác, tạo
điều kiện để HS tăng cường hoạt động, phát huy tính tích cực, sáng tạo để chiếm lĩnh nội
dung học, hình thành kĩ năng (kĩ thuật động tác và khả năng vận dụng kiến thức).
+ Khi học động tác mới, GV làm mẫu động tác cần thiết và không thể thiếu đựợc nhưng
cũng cần phải tạo nhu cầu cho HS tự tập, tự nghiên cứu, tự giải quyết nhiệm vụ
được giao, mong muốn được GV làm mẫu sau một số lần tự tập, như vậy khi GV làm
mẫu mới có hiệu quả thực sự, kích thích được hứng thú của HS.
+ Khi giảng giải, phân tích kĩ thuật động tác, trình bày ngắn gọn, đủ ý, dễ hiểu, dễ nhớ.
Trong quá trình ôn tập, GV sẽ bổ sung dần, đặc biệt bồi dưỡng cho HS khả năng tự liên
hệ vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Cần xây dựng một số đề kiểm tra bám sát nội dung đã học, lựa chọn những câu hỏi
ngắn gọn, dễ nhớ,được minh hoạ bằng động tác hoặc những hoạt động trong tiết học,
giúp HS làm giàu vốn kiến thức hỗ trợ tốt cho việc hình thành kĩ năng vận động và khả
năng diễn đạt (nhận xét, tự nhận xét) của HS.
+ Việc tổ chức học tập có ảnh hưởng lớn đến chất lượng dạy và học, GV cần tổ chức
cho HS dành nhiều thời gian luyện tập, tránh những hoạt động thừa, không phục
vụ cho tiết dạy.
+ Chú ý tới từng nhóm sức khỏe, đặc biệt trong luyện tập chạy bền, giáo dục sức mạnh
…và một số nội dung khác của chương trình.
- Đối với bài ôn tập :
+ Cần thường xuyên thay đổi hình thức tổ chức tập luyện, kiểm tra.
+ Áp dụng các hình thức thi đấu, thi đua, trình diễn, tạo tình huống giúp HS vận dụng
được những kiến thức, kĩ năng vốn có vào thực tiễn.
+ Với những HS thực hiện động tác hoặc đã tập còn nhiều sai sót kĩ thuật, cần cho thực
hiện các bài tập bổ trợ riêng biệt để nhanh chóng hoàn thành động tác, bài tập.
+ Tạo điều kiện thuận lợi trong dạy học để HS được tự nhận xét, đánh giá và trực tiếp
sửa chữa những sai thường mắc cho bản thân và cho bạn.
Để việc tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng, trước hết GV cần nắm vững tổng
thể cấu trúc Chương trình, các nội dung từ lớp 6 đến lớp 9 theo mạch KT, KN từ đó mới
sắp xếp lựa chọn một cách hệ thống các động tác, đã tập, trò chơi vận động sao cho vận
dụng triệt để được sự chuyển tốt các kĩ năng vận động theo mạch nội dung mà HS đã có
từ lớp trước hay kỹ năng tương đương.
- Tổ chức kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức, kỹ năng
+ Quan niệm đánh giá theo chuẩn KT, KN
Chuẩn KT, KN của Chương trình cấp học là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về KT, KN của
các môn học mà HS cần phải và có thể đạt được sau từng giai đoạn học tập trong cấp học.
Chuẩn KT, KN của CTGDPT có những đặc điểm:
+ Chuẩn KT, KN là thành phần của CTGDPT đảm bảo việc chỉ đạo dạy học, kiểm tra,
đánh giá theo chuẩn sẽ tạo nên sự thống nhất trong cả nước; làm hạn chế tình trạng dạy
học quá tải, đưa thêm nhiều nội dung nặng nề, quá cao so với chuẩn vào dạy học, kiểm
tra, đánh giá; góp phần tổ chức kiểm tra, đánh giá theo chuẩn.
+ Chuẩn được chi tiết, tường minh bởi các yêu cầu cụ thể, rõ ràng về KT, KN.
+ Chuẩn có tính tối thiểu, nhằm đảm bảo mọi học sinh cần phải và có thể đạt được những
yêu cầu cụ thể này.
- Các mức độ về KT, KN
Các mức độ về KT, KN được thể hiện cụ thể trong chuẩn KT, KN của CTGDPT.
Về kiến thức: Yêu cầu học sinh phải nhớ, biết, hiểu các kiến thức cơ bản trong chương
trình, sách giáo khoa, đó là nền tảng vững vàng để có thể phát triển năng lực nhận thức ở
cấp cao hơn.
Về kĩ năng: Biết vận dụng các kiến thức đã học để trả lời các câu hỏi,thực hành
thao tác; thực hiện được, thực hiện cơ bản đúng
Với môn Thể dục Kỹ năng chủ yếu đề cập dựa trên cơ sở phát triển thể lực, tri thức môn
học mà HS cần đạt ở các mức độ cơ bản, từ đơn giản đến phức tạp; nội dung bao gồm các
mức độ khác nhau của nhận thức và vốn vận động của HS.
- Yêu cầu đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá theo chuẩn KTKN của môn học
Đánh giá kết quả học tập thực chất là việc xem xét mức độ đạt được của hoạt động học
của HS so với mục tiêu đề ra đối với từng nội dung môn học, từng lớp học, cấp học, từng
giai đoạn dạy học động tác và kiến thức môn học. Mục tiêu được cụ thể hóa thành các
chuẩn KT, KN; từ các chuẩn này, khi tiến hành kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn
học cần phải thiết kế thành những tiêu chí, GV trong tổ chuyên môn cần thảo luận kĩ các
tiêu chí cơ bản nhằm kiểm tra được đầy đủ cả về định tính và định lượng kết quả học
tập của học sinh. Phối hợp giữa đánh giá của GV và tự đánh giá của HS, đảm bảo chính
xác, khách quan, công bằng; không hình thức, đối phó tránh gây áp lực nặng nề trong
kiểm tra, đánh giá .
Từng bước nâng cao chất lượng đề kiểm tra, đảm bảo vừa đánh giá theo chuẩn KT, KN,
vừa có khả năng phân hóa. Đổi mới ra đề kiểm tra 15 phút, kiểm tra lấy điểm 1
tiết, kiểm tra học kỳ theo hướng kiểm tra KT, KN cơ bản, năng lực vận dụng kiến thức và
kĩ năng vận động của HS, phù hợp với nội dung chương trình, thời gian quy định. Về
kiểm tra kiến thức của HS ở môn thể dục có thể kết hợp hợp lý giữa các hình thức kiểm
tra, vấn đáp, tự luận và trắc nghiệm phát huy ưu điểm và hạn chế nhược điểm của mỗi
hình thức. Kiểm tra về kĩ năng vận động (mức độ hoàn thành động tác và thành tích đạt
được) căn cứ vào chuẩn, tình hình thực tế về sức khỏe, thể lực của HS để xây dựng tiêu
chí cho phù hợp, đồng thời tham khảo trong Sách thể dục.
- Một số lưu ý khi đổi mới phương pháp dạy học :
Khi giáo viên sử dụng nhóm phương pháp dùng lời nói (phương pháp giảng giải, phát
vấn, đàm thoại, kể chuyện, mệnh lệnh) để truyền thụ kiến thức cho học sinh:
+ Nếu dạy động tác mới, giáo viên cần nói ngắn gọn, dễ hiểu, dùng thuật ngữ chính xác.
+ Khi phân tích kỹ thuật động tác tránh dài dòng mà cần xoáy vào trọng tâm vào những
yếu lĩnh kỹ thuật quan trọng.
+ Các động tác bổ trợ không nhất thiết phải phân tích mà chỉ cần làm mẫu và tổ chức
cho học sinh tập luyện ngay.
+ Trong thời gian học sinh nghỉ ngơi tích cực giữa 2 lần tập, giáo viên có thể phát vấn, kể
chuyện, trình bày ngắn gọn một vấn đề nào đó nhằm cung cấp thêm thông tin và gây
hưng phấn cho học sinh.
+ Khi giáo viên sử dụng nhóm phương pháp trực quan (làm mẫu, cho xem tranh ảnh,
biểu đồ, phim ) Thì phải chú ý đến vị trí làm mẫu, chọn hướng làm mẫu để học sinh
có thể nhìn rõ,nhìn thấy biên độ, góc độ động tác.
+ Làm mẫu phải chính xác, làm mẫu ít nhất 2-3 lần trước khi phân tích, giảng giải kỹ
thuât.
+ Tăng cường sử dụng tranh ảnh, biểu đồ giúp cho học sinh nắm được kỹ thuật một
cách nhanh hơn mà không tốn thời gian và có thể tự so sánh giữa động tác của mình với
tranh ảnh kỹ thuật.
- Lưu ý khi đánh giá kết quả học tập của học sinh:
Đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giáo dục.
+ Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở thành
khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn
trong cả một quá trình giáo dục.
+ Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả năng
thực hiện mục tiêu học tập của học sinh về tác động và nguyên nhân của tình hình đó
nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường cho bản thân
học sinh để học sinh học tập ngày một tiến bộ hơn.
Đổi mới phương pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng những yêu cầu mới của mục tiêu
nên việc kiểm tra, đánh giá phải chuyển biến mạnh theo hướng phát triển trí thông minh sáng
tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến thức kĩ năng đã học vào những
tình huống thực tế, làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ của học sinh trước những vấn đề nóng
hổi của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra, đánh giá chưa
thoát khỏi quỹ đạo học tập thụ động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực.
Thống nhất với quan điểm đổi mới đánh giá như trên việc kiểm tra, đánh giá sẽ hướng
vào việc bám sát mục tiêu của từng bài, từng chương và mục tiêu giáo dục của môn học ở
từng lớp cấp đặc biệt là theo chuẩn kiến thức – kỹ năng . Các câu hỏi bài tập sẽ đo được
mức độ thực hiện các mục tiêu được xác định.
+ Hướng tới yêu cầu kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan kết quả học tập của học
sinh, bộ công cụ đánh giá phải được bổ sung các hình thức đánh giá khác như đưa thêm
dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm; chú ý hơn tới đánh giá cả quá trình lĩnh hội tri thức và
các kỹ năng của học sinh, quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực, chủ động của học sinh
trong từng tiết học, kể cả ở tiết tiếp thu tri thức mới lẫn tiết thực hành tập luyện. Điều này
đòi hỏi giáo viên bộ môn đầu tư nhiều công sức hơn cũng như công tâm hơn.
2.3. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm :
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Phát huy tính tích cực tự giác trong học
tập “. Với những biện pháp trên, tôi đã thu được kết quả như sau:
- Chất lượng giảng dạy đạt kết quả rõ rệt năm sau cao hơn năm trước.
- Giáo viên nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong quá trình giáo dục cho học sinh.
- Học sinh học tập tích cực, tự giác chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức để đạt được
những kỹ năng theo yêu cầu. Không khí lớp học sôi nổi, hào hứng, học sinh thích thú với
môn học thể dục hơn .
3. KẾT LUẬN :
Ở trường THCS Phước Tân hiện nay nói chung và các lóp7,8,9 tôi đang nghiên cứu
nói riêng với Phương pháp dạy và học không qua tổ chức các hoạt động học tập của học
sinh.Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác, Sắp xếp nội dung một cách
hợp lý sử dụng các phương tiện dạy học hợp lý, hiệu quả, áp dụng hình thức lên lớp một
cách linh hoạt, đổi mới phương pháp dạy học, kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá
của trò và dựa vào chuẩn kiến thức kỹ năng , đã làm cho HS học tập một cách tích cực, tự
giác, độc lập và sáng tạo.Mặt khác còn kích thích được phong trào thi đua học tập trong
lớp, trong trường. Do đó, kết quả mang lại rất khả quan; nhiều em rụt rè nay đã hăng hái
tập luyện, lớp học sôi nổi, HS hứng thú, tiếp thu kiến thức nhanh chóng để hình thành các
kỹ năng . Dạy học theo hướng tích cực, tự giác, độc lập và sáng tạo sẽ huy động được
năng lực, nghệ thuật sư phạm của GV. Thực tế cho thấy rằng người GV không chỉ cung
cấp cho HS những tri thức, kĩ năng cần thiết mà còn truyền đến cho các em cả lương tâm,
tình cảm và trách nhiệm của chính mình.
Qua những lần áp dụng phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự
giác học tập của học sinh đặc biệt là bám vào chuẩn kiến thức kỹ năng bản thân tôi đã rút
ra cho mình những bài học bổ ích.
- Dạy học vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Muốn dạy học có
hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đào tạo hiện nay của Đảng và Nhà nước. Đòi hỏi người
GV phải nổ lực, sáng tạo, không ngừng cải tiến phương pháp để nâng cao hiệu quả giảng
dạy.Thực hiện tốt chủ đề năm học.
- Muốn nâng cao hiệu quả học tập gây được hứng thú trong quá trình giảng dạy, đòi
hỏi người giáo viên phải chuẩn bị tốt :
+ Kế hoạch dạy học, phải bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng. Lựa chọn phương pháp dạy
học phù hợp và có hiệu quả.Sử dụng tối đa DDDH và có hiệu quả trong từng tiết dạy.
+ Phải có vốn hiểu biết nhất định và kiến thức xã hội, kiến thức y khoa, kiến thức giải
phẩu học
+ Cần tạo điều kiện để HS tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức.
- Để đạt được những mong muốn đó, bản thân tôi ngay từ bây giờ tôi xác định rằng
muốn trở thành một người GV thực sự thì trước hết phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, lòng
say mê nghề nghiệp và ý chí quyết tâm cao. Phải có ý thức trách nhiệm đối với bản thân,
đối với nghề nghiệp và xã hội.
- Để chuẩn bị cho một giờ lên lớp, GV cần phải chuẩn bị thật chu đáo về mọi công
việc như: DDDH, giáo án. Khi đứng lớp phải bình tĩnh, tự tin, tác phong nhanh nhẹn,
ngôn ngữ truyền đạt rõ ràng để làm sao hướng đẫn HS cho hiểu nội dung bài một cách dễ
dàng. Đồng thời khai thác nội dung tập luyện trong tết học để phát huy tính tích cực tự
giác và sáng tạo của học sinh.
4. Phần cuối :
xác nhận của nhà trường
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.Giáo dục học (Nguyễn Sinh Huy-NXBGD- 1997)
2.Tâm lí học (Phạm Minh Hạc -NXBGD- 1996)
3.Luật giáo dục (NXB Chính trị Quốc Gia-1998)
4.Chuyên đề : Một số PP và Hình thức tổ chức dạy học .
5.Tài liệu bồi dưỡng giáo viên. Chuẩn kiến thức kỹ năng
6. Chuyên đề bồi dưỡng cán bộ quản lý và giáo viên thcs
7. Quy chế đánh giá xếp loại đánh giá học sinh THCS và THPT của bộ giáo dục.
8.Thể dục - Sách giáo viên