Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC TỰ GIÁC HỌC TẬP CHO HỌC SINH LỚP 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.92 KB, 15 trang )

1
ĐỀ TÀI:
LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC
TỰ GIÁC HỌC TẬP CHO HỌC SINH LỚP 1
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Hiện nay, phong trào đổi mới mục tiêu nội dung, chương trình sách giáo
khoa đang được triển khai rộng khắp ở nước ta. Việc đổi mới nội dung kéo
theo sự thay đổi về mặt phương pháp và hình thức tổ chức dạy học và nó
được thể hiện trong hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học
sinh. Việc đổi mới áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào thực tiễn dạy
học là phát huy tính cực độc lập tự giác, sáng tạo của học sinh trong quá trình
học tập.
Việc phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh trong vai trò
quan trọng trong quá trình dạy học, trong tình hình hiện nay, việc dạy học lấy
học sinh làm trung tâm đòi hỏi ở người học sinh yêu cầu cao là phải tích cực,
độc lập, tự giác. Tính tích cực, tự giác, độc lập giúp học sinh tự tin, chủ động
trong hoạt động học tập, trở thành chủ thể của hoạt đông học tập, bản chất của
phương pháp dạy học mới, chính là sự tích cực hoá hoạt động của người học,
lấy người học làm trung tâm. Trong đó thầy, cô giáo đóng vai trò là người tổ
chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh. Thông qua hoạt động học, mỗi
học sinh đều được bộc lộ mình và đều có cơ hội phát triển.
Năm học 2009 – 2010 Tôi quan sát theo dõi, thăm dò quá trình học của
học sinh toàn khối 1 của trường Tiểu học số 2 Hướng Hiệp. Qua mấy tuần
đầu học tập tôi thấy được học sinh trường tôi ít thuộc bài cũ, bài tập ở nhà
không làm đầy đủ. Kiến thức cũ không được củng cố nên lúc nào học bài mới
các em cũng lơ là, không chủ động trong việc lĩnh hội tri thức, kiến thức. Lớp
học trầm, chất lượng học tập thấp. Nếu tình trạng này kéo dài thì làm sao chất
lượng của các lớp được nâng cao. Mặt khác với lương tâm nghề giáo, tôi thấy
phải tìm cách giúp đỡ các em học tập tốt. Tôi nghĩ ngay đến việc làm thế nào
để xây dựng tính tích cực, tự giác học tập cho học sinh lớp1 và học sinh tiểu
học .Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học là ham chơi chưa


chú trọng đến việc học là để tiếp nhận kiến thức, và vừa là con em đồng bào
dân tộc thiểu số. Vì vậy xây dựng kĩ năng tự giác học tập cho học sinh tiểu
học có tác dụng mạnh mẽ và to lớn trong quá trình dạy học.Trong quá trình
dạy học, tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp thu kiến thức, kĩ năng, biến
những cái đó thành kiến thức kĩ năng của mình. Học như vậy khiến sự hiểu
GV: NGUYỄN THỊ HOÀI PHƯƠNG
2
biết của các em vững chắc hơn, hứng thú hơn, khơi dậy tư duy và phát triến
năng lực trí tuệ của các em. Vì vậy tôi chọn "Làm thế nào để phát huy tính
tích cực tự giác học tập cho học sinh tiểu học" là việc làm hết sức quan trọng
và cần thiết để nâng cao chất lượng học tập của học sinh tiểu học. Vì tôi nghỉ
rằng tự học là phương pháp tốt nhất để tiếp thu kiến thức một cách chủ động
vững chắc cho một quá trình tự vận động, quá trình tự giác để học sinh tiếp
thu kiến thức. Dù bài giảng có hay đến đâu, giáo viên có nhiệt tình đến mấy
cũng không thay thế được sự độc lập suy nghỉ, sự chọn lọc để tiếp thu kiến
thức mới của học sinh. Dạy học phát huy tính tích cực học tập của học sinh,
có tác dụng mạnh mẽ và to lớn trong quá trình dạy học. Trong dạy học, tạo
điều kiện để học sinh chủ động tiếp thu các kiến thức, kĩ năng, biến những cái
đó thành kiên thức, kỹ năng của mình. Học như vậy, khiến sự hiểu biết của
các em vững chắc hơn, hứng thú của các em sẽ được tăng cường hơn. Dạy
học phát huy tính tích cực giúp hoạt động tư duy của học sinh được khơi dậy
và phát triển, giúp hình thành và phát triển các năng lực hoạt động trí tuệ. Vì
vậy, tôi chọn sáng kiến "Làm thế nào để phát huy tính tích cực, tự giác học
tập của học sinh lớp 1".
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
1. Thế nào là tích cực, tự giác, độc lập:
Trong quá trình giáo dục học sinh với tư cách là đối tượng của hoạt động
giáo dục, vừa là chủ thể của quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện nhân cách của
mình. Như vậy, vai trò chủ đạo của giáo viên, toàn bộ các tác dộng giáo dục
của nhà trường sẽ không có hiệu quả, thực chất nếu không tạo ra được sự kết

hợp hài hoà giữa hoạt động của thầy và hoạt động tích cực sáng tạo của trò.
Từ trước đến nay, nhiều công trình nghiên cứu giáo dục cho thấy kết quả giáo
dục phụ thuộc rất nhiều vào sự hoạt động hưởng ứng tích cực, chủ động sáng
tạo của từng học sinh cũng như hoạt động tích cực, độc lập của tập thể học
sinh với tư cách vừa là đối tượng vừa là chủ thể của việc giáo dục.
Như vậy, tích cực, tự giác, độc lập có nghĩa là trong quá trình học tập,
người học sinh tự đặt ra mục đích học tập, tích cực tìm ra các biện pháp tối ưu
để vận dụng vào quá trình học tập, không chỉ thế, người học sinh phải luôn
hứng thú, say mê học tập, xem việc học là một nhiệm vụ của mình phải hoàn
thành.
Do đó, khi áp dụng vào thực tế giáo dục đòi hỏi ở người giáo viên trình
độ sư phạm vững, hiểu sâu sắc đối tượng để chọn nội dung, phương pháp và
GV: NGUYỄN THỊ HOÀI PHƯƠNG
3
hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhằm phát huy có hiệu quả mọi tiềm năng,
vốn kinh nghiệm của học sinh. Từ những yêu cầu chung, khơi gợi sự chú ý,
sự quan tâm tìm cách cụ thể hoá, tự xác định các yêu cầu các biện pháp phù
hợp với từng đối tượng học sinh.
Về thái độ, người giáo viên nên có thái độ khoan dung, biết lắng nghe và
tôn trọng, biết cách hỗ trợ, giúp đỡ các em đúng lúc, đúng chỗ nhưng không
làm thay. Trong những tình huống nhất định, đối với đối tượng cá biệt cần có
sự đối xử thích hợp, có thể linh hoạt trong cách ứng xử nhưng luôn có thái độ
chân thành. Ngoài ra người giáo viên biết tạo ra dư luận đúng đắn, kịp thời hỗ
trợ, đề cao, khuyến khích cái hay, cái mới, cái tốt trong mọi hoạt động của
học sinh, gây dụng lòng tin ở học sinh vào bản thân. Trong môi trường giáo
dục, cần có sự thông hiểu, lòng vị tha, sự quan tâm giữa các thành viên, trên
cơ sở tình cảm đạo đức trong sáng, mang tính nhân đạo cao thượng. Đây là
yếu tố tiềm ẩn nhưng có tác dụng cảm hoá, thuyết phục cao trong công tác
giáo dục.
2. Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh:

Quá trình dạy học gồm hai hoạt động có quan hệ hữu cơ:
- Hoạt động dạy của giáo viên
- Hoạt động học của học sinh
Cả hai hoạt động này đề được tiến hành nhằm thực hiện mục đích giáo
dục. Hoạt động học tập của học sinh chính là hoạt động nhận thức. Hoạt động
này chỉ có hiệu quả khi học sinh học tập một cách tích cực, chủ động, tự giác
với một động cơ nhận thức đúng đắn.
Kết quả học tập của học sinh là thước đo kết quả hoạt động của giáo viên
và học sinh. Trong quá trình dạy học, điểm tập trung là bản thân người học,
chứ không phải là người dạy, tức là hoạt động dạy học cần dựa trên nhu cầu,
hứng thú, thói quen và năng lực của người học ở các lứa tuổi khác nhau. Như
vậy mục đích của dạy học ở đây là trẻ em phát triển trên nhiều mặt, chứ
không chỉ nhằm lĩnh hội kiến thức. Do đó cần thật sự coi trọng việc hình
thành, phát triển những kĩ năng tự học và có khả năng đáp ứng yêu cầu của
dòng tri thức không ngừng gia tăng.
Chương trình và kế hoạch dạy học phải căn cứ vào nhu cầu, hứng thú,
năng lực của học sinh, giúp các em có được thái độ đúng và nắm được những
kiến thức, kỹ năng, kĩ xảo, phát huy đầy đủ nhất năng lực của mình. Vì vậy
trong khi dạy học cần tạo điều kiện cho HS chủ động tiếp thu các kiến thức,
GV: NGUYỄN THỊ HOÀI PHƯƠNG
4
kỹ năng.... biết biến những cái đó thành kiến thức, kỹ năng của mình. Nói
cách khác là biết điều cần học thành cái "vốn", cái "tài sản" của bản thân. Học
tập như vậy khiến sự hiểu biết của các em được vững chắc hơn, hứng thú của
các em được tăng cường hơn. Khi dạy học hoạt động tư duy của các em được
khơi dậy, phát triển và coi trọng. Đó chính là dạy học phát huy tính tích cực.
3. Tác dụng của việc dạy học phát huy tính tích cực:
Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh có tác dụng rất lớn. Dạy học
phát huy tính tích cực tạo điều kiện tối đa để phát huy vai trò chủ thể của
người học. Trong dạy học phát huy tính tích cực của học sinh, học sinh giữ

vai trò chủ động hơn. Người học không là người tiếp nhận thông tin một cách
bị động, không chủ yếu tiếp nhận thông tin từ giáo viên mà chủ động lĩnh hội
thông tin, suy nghĩ, tìm tòi, khám phá các khía cạnh khác nhau của thông tin,
sắp xếp lại thông tin. Người học hợp tác với các bạn cùng học để lĩnh hội
thông tin, để giúp đỡ nhau trong học tập. Dạy học phát huy tính tích cực
không chỉ giúp người học lĩnh hội nội dung kiến thức mà còn hình thành và
phát triển những kỹ năng học tập của mình, hình thành và phát triển cách học.
Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh nâng cao hiệu quả và chất lượng
dạy học, đảm bảo tính toàn diện, cụ thể làm cho học sinh:
- Nắm vững, hiểu sâu và hiểu sâu hơn kiến thức.
- Luôn luôn củng cố và phát triển cách học của mình.
- Phát triển những phẩm chất đạo đức cá nhân như tính kiên trì, lòng
nhẫn nại, tinh thần trách nhiệm và ý thức tập thể.
- Phát triển được tinh thần hợp tác và tương trợ lẫn nhau, tôn trọng lẫn
nhau.
4. Phát huy tính tích cực của học sinh:
Để phát huy tính tích cực của học sinh đòi hỏi ở người giáo viên rất
nhiều vấn đề. Khi học sinh đã tích cực tự giác, độc lập có nghĩa là học sinh đó
đã có nhu cầu, hứng thú làm việc. Để làm được điều đó, người giáo viên phải
có năng lực sư phạm, bao gồm:
a. Năng lực hiểu học sinh: Là năng lực hiểu biết thế giới nội tâm cuảu
trẻ. Biểu hiện của năng lực là sự quan sát tinh tế, sự nhảy cảm đối với trẻ về
trạng thái và những diễn biến tâm lý của các em. Do đó, giáo viên phải nắm
vững đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh.
GV: NGUYỄN THỊ HOÀI PHƯƠNG
5
b. Năng lực khoa học: Thể hiện sự hiểu biết và nắm vững nội dung,
chương trình sách giáo khoa. Để có năng lực khoa học, giáo viên cần thường
xuyên tự học, bồi dưỡng để nâng cao hiểu biết trình độ.
c. Năng lực tổ chức hoạt động của học sinh là năng lực tổ chức những

giờ học phù hợp với thời gian quy định, phù hợp với lượng kiến thức quy định
sẵn và gây hứng thú học tập cho học sinh. Muốn có năng lực này giáo viên
cần nắm vững đặc điểm của từng loại hình hoạt động. Biết cách tổ chức cho
học sinh tham gia hoạt động một cách khoa học, phải chuẩn bị kỹ lưỡng
những phương tiện dạy học cần thiết cho hoạt động dạy học, luôn theo dõi,
hướng dẫn kịp thời những em gặp khó khăn trong học tập.
d. Năng lực ngôn ngữ: Là sự biểu đạt rõ ràng, lạch lạc ý nghĩa và tình
cảm của mình bằng ngôn ngữ. Với giáo viên, ngôn ngữ là công cụ chủ yếu để
hành nghề. Những biểu hiện cụ thể của nó là:
- Ngôn ngữ của giáo viên phải ngắn gọn, trong sáng, giàu hình ảnh có
ngữ điệu, biểu cảm có màu sắc cảm xúc, phát âm mạch lạc, chính xác không
có những sai phạm tu từ học về ngữ pháp và ngữ âm học.
- Ngôn ngữ viết phải đúng câu, diễn tả được ý cần diễn đạt ngắn gọn, súc
tích.
e. Năng lực phân phối, chú ý: Là khả năng trong cùng một lúc có thể
chú ý được nhiều đối tượng. Biểu hiện của năng lực này là khi lên lớp vừa
chú ý đến bài giảng, chú ý đến lớp học và chú ý được từng em học sinh trong
lớp. Năng lực này là một trong những năng lực đặc trưng của người giáo viên.
Nó giúp giáo viên làm chủ được tiết lên lớp, giúp giáo viên có khả năng chú ý
đến mọi đối tượng để có những biến pháp giáo dục kịp thời, hợp lý.
g. óc tưởng tượng sư phạm, là khả năng mà người giáo viên có thể hình
dung trước được kết quả của mình, hình dung được tương lai của từng học
sinh trong lớp, dự kiến được tình huống có thể xảy ra trong quá trình giáo
dục.
Sáng kiến tập trung nghiên cứu việc phát huy tính tích cực của học sinh
lớp 1. Từ đó sẽ đề ra bài học kinh nghiệm và đề xuất biện pháp giúp học sinh
thực sự tích cực trong học tập.
- Xác định cơ sở lý luận về vịêc phát huy tính tích cực của học sinh.
- Tìm hiểu việc phát huy tính tích cực của học sinh hiện nay.
- Rút ra bài học kinh nghiệm và những biện pháp giúp học sinh thực sự

phát huy được tính tích cực trong học tập.
GV: NGUYỄN THỊ HOÀI PHƯƠNG
6
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng:
- Giáo viên khối 1.Trường Tiểu học số 2 Hướng Hiệp
- Học sinh lớp 1 Trường Tiểu học số 2 Hướng Hiệp
2. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện sáng kiến này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phân tích tổng hợp
IV.NỘI DUNG
1. Đặc điểm tình hình:
Hiện nay, phong trào đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa
đang được triển khai rộng khắp. Nội dung dạy học thay đổi kéo theo sự thay
đổi về phương pháp dạy học. Bản chất của phương pháp dạy học mới chính là
sự tích cực hoá hoạt động người học, tức là phát huy tính tích cực của người
học. Tuy nhiên việc phát huy tính tích cực của học sinh dân tộc thiểu số còn
nhiều vấn đề cần thảo luận, bàn cãi. Hiện nay, học sinh lớp 1 chưa tích cực, tự
giác tham gia vào quá trình dạy học. Học sinh rụt rè không chú động tìm tòi,
tiếp nhận tri thức. Học sinh chưa chủ động tham gia vào hoạt động học tập.
Nguyên nhân của tình trạng này do một số nguyên nhân sau:
- Điều kiện kinh tế: đời sống gia đình của các em đặc biệt khó khăn,đại
đa số gia đình là hộ nghèo. Điều kiện gia đình các em sống nhờ vào nương
rẫy nên thường xảy ra tình trạng ăn chưa đủ no nên không chú ý đến việc học
của con em mình.
- Điều kiện dân trí quá thấp, học sinh là người dân tộc thiểu số nên hạn
chế về ngôn ngữ tiếng việt dẫn đến hạn chế về hiểu nội dung và yêu cầu bài
học, phụ huynh ít quan tâm đến việc học của con mình mà phó mặc cho giáo

viên.
- Qua mấy tuần đầu Giáo viên theo dõi 70 % học sinh không đọc được,
viết được Tiếng việt, và hình thành các khái niệm về Toán học. Học sinh chưa
có ý thức tự giác học bài ở nhà.
- Do đồ dùng dạy học, sách giáo khoa còn thiếu nên ảnh hưởng tới sự
tích cực của học sinh.
- Giáo viên chưa tạo điều kiện để học sinh tìm tòi tiếp nhận tri thức, chưa
để HS chú trọng trong học tập.
- GV chưa coi trọng việc tổ chức các hoạt động của HS.
GV: NGUYỄN THỊ HOÀI PHƯƠNG

×