Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

bảo hiểm nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.14 KB, 19 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Nông nghiệp có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân và
sản xuất nông nghiệp không những cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người,
đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và
công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm mà còn sản xuất ra những mặt hàng có
giá trị xuất khẩu, tăng thêm nguồn thu ngoại tệ. Hiện tại cũng như trong tương lai,
nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài người,
không ngành nào có thể thay thế được. Trên 40% số lao động trên thế giới đang
tham gia vào hoạt động nông nghiệp. Đảm bảo an ninh lương thực là mục tiêu phấn
đấu của mỗi quốc gia, góp phần ổn định chính trị, phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên nông nghiệp là một lĩnh vực rất nhiều rủi ro mang tính khách quan
và gây thiệt hại có tính hệ thống để lại hậu quả nghiêm trọng. Chính vì vậy bảo
hiểm nông nghiệp là một yêu cầu cần thiết và có một ý nghĩa to lớn đối với nền
kinh tế quốc dân. Song lĩnh vực này chưa phát triển như mong đợi đặc biệt ở các
nước nông nghiệp như Việt Nam. Trong phạm vi bài tiểu luận này chúng tôi muốn
đưa ra thực trạng bảo hiểm nông nghiệp trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng.
.
1
NỘI DUNG
I. Tổng quan Bảo hiểm nông nghiệp:
1. Khái niệm bảo hiểm nông nghiệp:
Bảo hiểm nông nghiệp là một nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ có đối tượng
bảo hiểm là các rủi ro phát sinh trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và đời sống
nông thôn, bao gồm những rủi ro gắn liền với: cây trồng, vật nuôi, vật tư, hàng hóa,
nguyên vật liệu nhà xưởng.
Các loại rủi ro thường gặp trong nông nghiệp:
a. Nhóm rủi ro liên quan đến thời tiết : là những rủi ro liên quan tới các
hiện tượng thời tiết không được dự đoán và không thể dự đoán ví dụ như tác động
của thời tiết và khí tượng học và sản xuất nông nghiệp.
b. Rủi ro liên quan đến sản xuất nông nghiệp: Những rủi ro liên quan đến


các nhân tố như là sâu bệnh, bệnh dịch ở cây trồng và vật nuôi và ảnh hưởng của
dây chuyền chế biến trong sản xuất nông nghiệp.
c. Rủi ro mang tính kinh tế : những rủi ro liên quan tới sự biến động của
giá nông phẩm và các nguyên liệu đầu vào do sự biến động khó dự đoán của thị
trường.
d. Những rủi ro tài chính và hoạt động thương mại : những rủi ro này do
sự tác động của các lĩnh vực sản xuất khác tới sản xuất nông nghiệp.
e. Những rủi ro liên quan đến thể chế : là những rủi ro xuất phát từ các
chính sách nông nghiệp của nhà nước
f. Rủi ro về môi trường: những rủi ro do những tác động tiêu cực của các
hoạt động ngoại ứng ảnh hưởng đến môi trường sản xuất nông nghiệp.
2. Vai trò của bảo hiểm nông nghiệp
Rủi ro là một nhân tố không thể tránh khỏi nhưng lại là một yếu tố có khả
năng quản lí được trong sản xuất và kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp. Các sản
phẩm nông nghiệp thay đổi từ năm này qua năm khác do tính chất khó dự đoán của
thời tiết, sâu bệnh, và các điều kiện thị trường,chính điều này đã làm hoa lợi và giá
nông phẩm biến động.Những thay đổi trên làm cho thu nhập của nông dân cũng trở
2
nên bấp bênh. Sự bấp bênh trong thu nhập tương lai càng gây khó khăn cho người
dân khi đưa ra quyết định sản xuất ngắn hạn và kế hoạch dài hạn. Khi những bất ổn
làm giảm đáng kể thu nhập trong ngắn hạn, điều đó có thể sẽ tác động nghiêm
trọng làm cho người dân không có điều kiện đầu tư cho các biện pháp quản lí rủi ro
hiệu quả, đặc biệt khi những biến động này tác động tới toàn bộ nền nông nghiệp.
Những tổn thất nặng nề này có thể làm cho người nông dân chưa thanh toán được
nợ nần và rồi trở thành những người không có khả năng chi trả. Các tổ chức tài
chính sẽ không muốn cho những người nông dân vay tiền vì rủi ro nợ xấu quá cao.
Điều này đã bó buộc người nông dân, khiến họ không có khả năng mở rộng sản
xuất, đa dạng hóa và hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp.
Chính vì vậy bảo hiểm nông nghiệp có vai trò vô cùng quan trọng, hỗ trợ cho
người nông dân giảm bớt những thiệt hại mà họ gặp phải khi đối mặt với các rủi ro.

Về cơ bản bảo hiểm nông nghiệp thực hiện những chức năng sau:
a. Đem lại lợi ích cho xã hội. Nhờ bảo hiểm nông nghiệp hỗ trợ làm
giảm những rủi ro liên quan đến sản xuất mà thu nhập của người nông dân được
đảm bảo ổn định. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu ở các vùng nông thôn có thu nhập
thấp nên mức thu nhập ổn định sẽ giúp đảm bảo ổn định xã hội từ đó tác động tích
cực đến nền kinh tế đặc biệt ở các nước nông nghiệp
b. Chức năng thứ hai đảm bảo ổn định xã hội ở khu vực nông thôn, nhờ
có bảo hiểm nông dân yên tâm duy trì sản xuất mà không bị đeo bám bởi nỗi lo về
nợ nần ngày càng tăng.
3. Những vấn đề còn vướng mắc trong việc bán các sản phẩm bảo hiểm nông
nghiệp
Việc cung cấp các sản phẩm nông nghiệp thì không dễ dàng gì. Trên thị
trường không có mấy hãng bảo hiểm nông nghiệp. Những thất bại của thị trường và
của chính phủ có thể kể tới như sau :
Đầu tiên, các hãng bảo hiểm tư nhân không có khả năng đối phó với những
rủi ro lớn và gần như không thể tránh khỏi trong lĩnh vực nông nghiệp. Nhũng rủi
3
ro này bắt nguồn từ thảm họa thiên nhiên, gây thiệt hại cho một só lượng lớn nông
dân trên diện rộng. Thậm chí trong trường hợp được tái bảo hiểm thì cũng không dễ
dàng gì để tính được những khoản phí bảo hiểm chính xác công bằng để có thể đủ
lượng tiền dự trữ bảo hiểm cho những rủi ro xác xuất thấp nhưng thiệt hại rất lớn.
Kinh doanh bảo hiểm nông nghiệp có độ rủi ro cao gấp 20 lần so với kinh doanh
các loại hình bảo hiểm khác.
Thứ hai, Do thông tin bất cân xứng khiến người mua có những lựa chọn đối
nghịch và những vấn đề rủi ro mang tính đạo đức chính điều này đã làm tăng chi
phí và càng tăng mức độ rủi ro khi triển khai sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp ra thị
trường hơn bất cứ sản phẩm bảo hiểm nào khác. Những lựa chọn đối nghịch trong
thị trường bảo hiểm là những tình huống mà người bán bảo hiểm nhận thấy rằng
việc phân biệt giữa những đối tượng bảo hiểm rủi ro cao và đối tượng bảo hiểm rủi
ro thấp là không khả thi và quá tốn kém. Khi đó mức giá của hơp đồng bảo hiểm sẽ

là mức phí của hợp đồng bảo hiểm dùng chung cho tất cả các cá nhân mua bảo
hiểm. Điều này là không hề hợp lí. Nó dẫn đến việc định giá quá thấp những khách
hàng có rủi ro cao và định giá quá cao những khách hàng có rủi ro thấp do đồng
nhất các hợp đồng bảo hiểm. Dần dần những khách hàng có rủi ro thấp sẽ không
mua bảo hiểm nữa và công ty bảo hiểm sẽ chỉ còn lại những khách hàng với rủi ro
cao cùng những khoản bồi thường lớn làm giảm lợi nhuận của họ. Rủi ro đạo đức
chính là khi bán bảo hiểm cho người dân thì một bộ phận người mua bảo hiểm sẽ
không còn chăm lo nhiều đến sản xuất nông nghiệp hay họ hoàn toàn lơ là sản xuất
nông nghiệp điều này làm cho tiền bồi thường tăng lên.
Tất cả các lĩnh vực bảo hiểm đều phải đối mặt với hai vấn đề trên tuy nhiên
trong bảo hiểm nông nghiệp thì hai vấn đề này nghiêm trọng hơn. Bởi vì thu thập
thông tin về khách hàng và việc quản lí hành vi của người mua bảo hiểm tốn kém
hơn. Bởi vì sự phân tán về mặt địa lí của những khách hàng ở các vùng quê và
phương thức sản xuất đặc trưng khác biệt hoàn toàn ở từng vùng. Chi phí hành
chính chi cho việc quả lí hiệu quả và chi phí để phân ra đâu là những bồi thường
4
cho tổn thất hợp pháp và những bồi thường cho tổn thất không trung thực. Nếu bảo
hiểm cho cả những rủi ro mất mát quá nhỏ thì sẽ không thể ngăn cản được những
hành vi thờ ơ hay lơ là của người mua bảo hiểm. Thị trường có thể càng trở nên rất
nhỏ và những khoảng lợi thu được từ việc phân tán rủi ro sẽ mất đi và lúc đo cũng
không còn cần đến người trung gian đứng ra làm bảo hiểm nữa
Hai vướng mắc trên làm các hãng bảo hiểm tư nhân không tồn tại được trong
lĩnh vực bảo hiểm nông nghiệp và nếu tồn tại được thì cũng không đủ khả năng bán
bảo hiểm cho lượng lớn nông dân
Thực tế chỉ ra rằng ở các nước phát triển bảo hiểm nông nghiệp rất hạn chế
đối với những sản phẩm đơn lẻ nhiều rủi ro, cụ thể bảo hiểm mưa và mưa đá thì dễ
đưa ra được những khoản phí hợp lí phù hợp cũng như dễ xác định mức độ thiệt hại
cũng như khoản bồi thường. Chính phủ đã hỗ trợ cho những người cung cấp bảo
hiểm không có đủ khả năng để đưa ra thị trường các sản phẩm bảo hiểm nông
nghiệp. chính phủ trở thành nhà cung cấp bảo hiểm nông nghiệp trực tiếp hoặc gián

tiếp. Kinh nghiệm rút ra từ những chương trình bảo hiểm có sự hỗ trợ của chính
phủ chính là không có tính kinh tế nhưng lại hỗ trợ nhiều cho người nông dân.
Các chương trình của chính phủ bao gồm hỗ trợ cho các thiệt hại thực sự lớn
và những khoảng trợ cấp lớn cho người cấp bảo hiểm nông nghiệp.
Các mô hình bảo hiểm trong nông nghiệp ở một số nước có thu nhập cao như
Mỹ, Tây Ban Nha, Pháp, và Italy thì chính phủ có vai trò chính trong việc (1) cung
cấp những khoản trợ cấp phí bảo hiểm cho nông dân (2) trợ cấp cho những nhà bảo
hiểm tư nhân để có thể chi trả được những chi phí hành chính liên quan đến các
hợp đồng bảo hiểm đã định sẵn.(3) trợ cấp cho hoạt động tái bảo hiểm. Thêm vào
đó, khi tồn tại các chương trình bảo hiểm của chính phủ thì các công ty tư nhân
cũng không dễ dàng gì tạo ra được những sản phẩm quản lí rủi ro mới. Xét trên
phương diện tích cực, tại vòng đàm phán Uruguay đã được thông qua, các bên
tham gia đã cùng nhất trí với đề xuất cắt giảm và dần hủy bỏ khoản trợ cấp trực tiếp
cho người nông dân, thì các chương trình bảo hiểm có sự hỗ trợ của chính phủ đã
5
trở thành một phương thức thay thế trong việc chuyển các khoản hỗ trợ cho người
nông dân và duy trì mức thu nhập cho họ . Việc áp dụng nguyên những mô hình
bảo hiểm nông nghiệp ở các nước phát triển vào các nước đang phát triển với
những khó khăn như là thâm hụt ngân sách định kì, và mối quan ngại lớn đối với
việc kiềm chế lạm phát cũng như điều tiết hợp lí chi tiêu ở khu vực công cộng sẽ là
một hành động không mấy khôn ngoan.
Nói tóm lại, các chương trình bảo hiểm nông nghiệp truyền thống thì đều
thất bại về mặt tài chính do chi phí quản trị cao, sự do dự của các hãng bảo hiểm,
vấn đề về sự lựa chọn bất lợi và vấn đề rủi ro đạo đức.
Thêm vào đó, chính phủ và các tổ chức từ thiện trên thế giới thường nhiều
lần can thiệp bằng những khoản hỗ trợ khẩn cấp nhằm đối phó với rủi ro khi sản
xuất nông nghiệp gặp phải những thảm họa gây thiệt hại lớn. Về mặt lí thuyêt thì
những hỗ trợ như vậy sẽ giúp đỡ hầu hết những người nghèo không có bảo hiểm
bằng cách chuyển thẳng những hỗ trợ đến những hộ dân nghèo bị thiệt hại. Tuy
nhiên trên thực tế thì điều này không đúng như vậy. Vì những hỗ trợ chống lại

thảm họa này thường dưới dạng những khoản cho vay ưu đãi và những người dân
nông thôn nghèo thì lại không thể vay ngay được. Một nhân tố khác gây cản trở
đến sự phát triển của bảo hiểm nông nghiệp là sự hỗ trợ khẩn cấp(post hoc) này thì
hầu như là cho không nên các hộ gia đình thường mong đợi chính phủ hỗ trợ khi họ
gặp phải những thiệt hại mất mát mà do những thảm họa thiên nhiên gây ra. Chính
điều này làm cho những người dân nghèo không mấy mặn mà với việc mua bảo
hiểm. Tuy nhiên, điều này không phải là vấn đề quan trọng nhất bởi vì những hỗ
trợ nhằm khắc phục thảm họa thì thực sự là cần thiết. Vấn đề là ở chỗ do những hỗ
trợ này không thực sự minh bạch đã tạo ra thêm những rủi ro trong việc đưa ra
quyết định của người sản xuất. Những quy định trong hỗ trợ chống lại những thảm
họa cần phải được thể hiện một cách minh bạch rõ ràng để giúp cho người sản xuất
ước lượng được chính xác những chi phí thực tế của rủi ro mà họ phải đối mặt và
6
đưa ra những quyết sách có đầy đủ thông tin khi mua các sản phẩm bảo hiểm nông
nghiệp
4. Những đổi mới trong lĩnh vực bảo hiểm (Bảo hiểm theo chỉ số)
Những tiến bộ về tài chính và công nghệ gần đây trong thị trường bảo hiểm
đã mang lại những phương thức mới để giải quyết những rủi ro trong nông nghiệp,
đặc biệt là những rủi ro liên quan đến khí hậu.
Hầu hết các phương tiện mới này đều sử dụng một vài chỉ số mà từ đó tỷ lệ
các khả năng và các sự kiện xảy ra có thể dự liệu được.
Ngoài ra, những cải tiến về công nghệ như vệ tinh dự báo thời tiết, hình ảnh
vệ tinh, thời tiết thực tế ở mặt đất, và các mô hình máy tính cảnh báo sớm cũng
giúp loại bỏ một vài chi phí tốn kém cho bảo hiểm nông nghiệp. Đặc tính thông số
của các phương tiện dựa trên chỉ số và những cải tiến trong công nghệ đã giảm đi
rất nhiều hay thậm chí là loại bỏ hầu hết các vấn đề truyền thống mà bảo hiểm nông
nghiệp thường gặp phải, như rủi ro đạo đức, chi phí giao dịch cao, lựa chọn đối
nghịch và thông tin bất cân xứng.
Nét đặc trưng cơ bản nhất của bảo hiểm theo chỉ số là dựa trên các chỉ số
khách quan của từng đối tượng bảo hiểm(đối với cây trồng, đó là chỉ số thời tiết),

mức bồi thường tương ứng với mỗi chỉ số (quy định trong hợp đồng bảo hiểm) làm
căn cứ xét bồi thường do đó không cần tiến hành giám định để xác định mức độ
thiệt hại của từng cá nhân. Mức độ bồi thường được tính trên cơ sở năng suất bình
quân chung nhiều năm của cả vùng hay tiểu vùng sinh thái.
Cụ thể, bảo hiểm theo chỉ số là việc bảo hiểm dựa vào chỉ số về một số yếu
tố khách quan có thể gây rủi ro đến sản lượng và năng suất cây trồng vật nuôi, như
lượng mưa, lũ lụt, hạn hán. Chỉ số về lượng mưa, hạn hán hay nhiệt độ được tính
toán dựa vào các số liệu thu thập từ nhiều năm trước của các cơ quan chức năng
của Nhà nước.
Chúng ta có thể chia những phương tiện bảo hiểm nông nghiệp mới này
thành 2 loại chính: chỉ sô thời tiết và chỉ số sản lượng-khu vực.
7

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×