Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

giải pháp hạn chế rủi ro tín trong cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương việt nam chi nhánh hoàn kiếm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.74 KB, 95 trang )

Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng là lĩnh vực hoạt động có tính nhạy cảm cao, ảnh hưởng đến nền
kinh tế xã hội. Ngân hàng là trung tâm phân phối cho nền kinh tế, đóng vai trò thu
hút nguồn vốn nhàn rỗi từ những người tạm thời thừa vốn và đem cho những người
hiện tại đang có nhu cầu về vay vốn. Nếu một ngân hàng nào đó gặp rủi ro, lâm vào
tình trạng thiếu khả năng thanh toán, có nguy cơ hoặc thực sự đi đến phá sản, dễ
gây tâm lý hoảng loạn khiến cho mọi người đổ xô đi rút tiền gửi của mình thật
nhanh để tránh tổn thất, gây đổ vỡ hệ thống. Trong số những rủi ro mà ngân hàng
gặp phải, rủi ro tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất, các con số thống kê và nhiều
nghiên cứu cho thấy, rủi ro tín dụng chiếm tới 70% trong tổng rủi ro hoạt động của
ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vốn cho kinh doanh và tiêu
dùng ngày càng tăng, dẫn đến mức độ tăng trưởng tín dụng cũng tăng tương ứng.
Tăng trưởng tín dụng kéo theo sù gia tăng rủi ro tín dụng. Những năm trước đây,
nền kinh tế của nước ta có tốc độ phát triển cao, với chính sách khuyến khích các
ngành nghề sản xuất ở hầu hết các lĩnh vực khiến cho số lượng các doanh nghiệp
nhỏ và vừa trong nền kinh tế của nước ta tăng rất nhanh và chiếm tỷ trọng lớn theo
điều tra tỷ trọng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 95% tổng số doanh nghiệp của
cả nước và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Năm 2010 không còn là giai
đoạn tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế nhưng ảnh hưởng của nó vẫn khá
nghiêm trọng đến hoạt động của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này làm gia
tăng rủi ro tín dụng, hạn chế việc mở rộng tín dụng. Như vậy dù xét trên khía phát
triển tín dụng hay đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng thì việc phòng ngừa và
hạn chế rủi ro tín dụng nói chung và rủi ro tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ nói riêng đặc biệt được quan tâm
Trong quá trình thực tập tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương
Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm, em nhận thấy rằng cũng như nhiều ngân hàng
thương mại khác tín dụng là mảng kinh doanh có khả năng sinh lời cao nhất của
ngân hàng, những rủi ro mà nó đem lại cho ngân hàng cũng không phải là nhỏ, hơn
Nguyễn Thị Ngọc Mai


Líp: NHK-K10
1
nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn trong số khách hàng của ngân
hàng vì vậy việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ là rất quan trọng. Bởi vậy em chọn đề tài : ”Giải pháp hạn chế rủi ro
tín trong cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm ”. Với mục đích chủ yếu góp phần nào đó
giúp Ngân hàng có những giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ với khả năng hiện có của ngân hàng.
2. Mục đích nghiên cứu của khóa luận
Nghiên cứu lý luận về tín dụng để có cái nhìn khái quát về hoạt động của
ngân hàng, khái quát chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ,rủi ro tín dụng là gì, các
dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng, các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng và các
biện pháp chung nhất đưa ra nhằm mục đích phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
Nghiên cứu kinh nghiệm phòng ngừa rủi ro tín dụng của một số nước trên
thế giới qua đó rót ra những bài học cho Việt Nam
Nghiên cứu thực trạng rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ từ đó
đưa ra những giải pháp cụ thể để phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng cho Ngân
hàng
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Đề tài này chỉ đề cập đến rủi ro tín dụng và các biện pháp phòng
ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là NHTMCP Ngoại thương Việt Nam chi
nhánh Hoàn Kiếm
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, suy luận logic kết hợp
với phương pháp duy vật lịch sử, sử dụng số liệu thực tế để luận chứng thông qua
các phương pháp: So sánh, thống kê, đồ thị, bảng biểu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu kết luận, khóa luận được kết cấu thành ba chương

Chương I: Cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng trong cho vay DNVVN tại
NHTM
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
2
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
NHTMCP Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín
dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTMCP Ngoại thương Việt Nam chi
nhánh Hoàn Kiếm
Chương 1
Cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng trong
cho vay DNVVN tại NHTM
1.1 Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1 Khái quát chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Muốn hiểu DNVVN là gì trước hết ta cần tìm hiểu thế nào là doanh nghiệp.
Theo luật Doanh nghiệp năm 2005: Doanh nghiệp là một TCKT có tên riêng, có tài
sản riêng, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng và phong
phú. Tùy theo từng cách tiếp cận khác nhau mà người ta có thể chia doanh nghiệp
thành các loại khác nhau trong đó dựa theo quy mô có thể chia doanh nghiệp thành
doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN).
Việc quy định thế nào là doanh nghiệp lớn, thế nào là DNVVN là tùy thuộc
vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của từng quốc gia và nó cũng thay đổi theo từng
thời kỳ, từng giai đoạn phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó mỗi nước lại chọn cho mình
những tiêu chí khác nhau để phân chia doanh nghiệp thành doanh nghiệp lớn và
DNVVN cho phù hợp với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước trong
từng thời kỳ, từng giai đoạn của nền kinh tế.

Bảng 1.1 : Tiêu chí xác định DNVVN ở một số quốc gia
Tên nước Sè lao động Tổng số vốn hoặc giá trị tài sản
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
3
Nhật
< 50 trong bán lẻ
< 100 trong bán
buôn
< 300 ngành khác
< 10 triệu yên
< 30 triệu yên
< 100 triệu yên
Mỹ < 500 < 3,5 triệu USD
Thái Lan < 100 < 20 triệu bạt
Singapore < 100 < 499 triệu SD
Phillipines < 200 < 100 triệu Pê-sô
Indonesia < 100 < 0,6 tỷ ru-bi
(Nguồn: Tạp chí NCKH năm 1999 và 1995)
Ơ Việt Nam, tiêu chí xác định DNVVN đó được quy định cụ thể tại Nghị
định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 do chính phủ ban hành: “DNVVN là cơ
sở SXKD độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký
không vượt quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không vượt quá
300 người”. Theo cách phân loại này thì hiện nay Việt Nam có khoảng 200.000
DNVVN chiếm hơn 90% trong tổng số doanh nghiệp. Việc xác định DNVVN như
trên là phù hợp với thực tế khách quan của nước ra vì các doanh nghiệp với nguồn
vốn có hạn, lao động dồi dào, đáp ứng được yêu cầu bức bách của xã hội là đảm
bảo công ăn việc làm, nâng cao mức sống của đại đa số nhân dân lao động, đưa
nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo.
1.1.1.2. Đặc điểm của DNVVN

Một là, DNVVN có vốn đầu tư ban đầu Ýt, thu hồi vốn nhanh và hiệu quả.
Số vốn đăng ký ban đầu của DNVVN không quá 10 tỷ đồng và chu kỳ SXKD của
doanh nghiệp ngắn nên khả năng thu hồi vốn nhanh, tăng tốc độ quay vòng để đầu
tư vào công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh
hiệu quả.
Hai là, DNVVN tồn tại và phát triển ở hầu hết các lĩnh vực, các thành phần
kinh tế: các DNVVN hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế: thương mại,
dịch vụ, công nghiệp, xây dựng, nông lâm ngư nghiệp và hoạt động dưới mọi hình
thức như: DNNN, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. và các cơ sở kinh tế cá thể.
Ba là, DNVVN có tính năng động cao: trước những thay đổi của thị trường,
các DNVVN có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
4
nhanh vì vốn đầu tư Ýt, quy mô nhỏ và thu hồi vốn nhanh. Mặt khác do DNVVN
tồn tại ở mọi thành phần kinh tế nên chỉ cần không thích ứng được với nhu cầu của
thị trường, với loại hình kinh tế - xã hội này thì nó sẽ chuyển hướng sang loại hình
khác cho phù hợp với thị trường.
Bốn là: Năng lực kinh doanh còn hạn chế: Do quy mô vốn nhỏ nên các
DNVVN không có điều kiện đầu tư quá nhiều vào nâng cấp, đổi mới máy móc, mua
sắm thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại. Việc sử dụng các công nghệ lạc hậu dẫn
đến chất lượng sản phẩm không cao, tính cạnh tranh trên thị trường kém. DNVVN
cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm, thâm nhập thị trường và phân phối
sản phẩm do thiếu thông tin về thị trường, công tác marketing còn kém hiệu quả.
Điều đó làm cho các mặt hàng của Doanh nghiệp vừa và nhỏ khó tiêu thụ trên thị
trường.
Năm là, năng lực quản lý còn thấp: Đây là loại hình kinh tế còn non trẻ nên
trình độ, kỹ năng của nhà lãnh đạo doanh nghiệp cũng như của người lao động còn
hạn chế. Số lượng DNVVN có chủ doanh nghiệp, giám đốc giỏi, trình độ chuyên

môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và
giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản
lý, còn thiếu kiến thức kinh tế-xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh. Mặt khác,
DNVVN Ýt có khả năng thu hút được những nhà quản lý và lao động có trình độ,
tay nghề cao do khó có thể trả lương cao và có các chính sách đãi ngộ hấp dẫn để
thu hút và giữ chân những nhà quản lý cũng như những người lao động giỏi.
1.1.2 Tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
1.1.2.1 Khái niệm tín dụng
1.1.2.1.1 Khái niệm
Theo K.Mác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ
người sở hữu này sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với
một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Như vậy tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay
thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền
tệ hoặc hàng hóa.
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
5
Trên cơ sở khái niệm về tín dụng, ta có khái niệm về tín dụng Ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các chủ thể trong nền
kinh tế như doanh nghiệp, nhà nước, cá nhân, hộ gia đình. Trong đó Ngân hàng
đóng vai trò là một trung gian tài chính thực hiện huy động vốn nhàn rỗi trong dân
cư để cho vay lại với nền kinh tế.
1.1.2.1.2 Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Từ khái niệm trên ra rót ra được một số đặc điểm cơ bản của tín dụng Ngân
hàng như sau:
Thứ nhất: tín dụng Ngân hàng được thiết lập trên cơ sở lòng tin
Đây là điều kiện tiên quyết trong quan hệ tín dụng Ngân hàng. Điều này
được thể hiện ở chỗ khi Ngân hàng cấp tiền vay cho khách hàng thì Ngân hàng đã
có sự tin tưởng vào khả năng trả nợ và sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng. Cơ sở của

sự tin tưởng này thông thường là uy tín của người vay, giá trị tài sản đảm bảo hay
bảo lãnh của một bên thứ ba
Thứ hai: tín dụng Ngân hàng mang tính hoàn trả
Đây là thuộc tính riêng có của tín dụng Ngân hàng. Tính hoàn trả của tín
dụng Ngân hàng có nghĩa Ngân hàng chỉ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị
cho người sử dụng và sau một thời gian nhất định khách hàng phải hoàn trả cho
Ngân hàng một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Phần tăng thêm chính là
lãi suất của khoản vay. Việc hoàn trả có thể được thực hiện làm nhiều lần trong kỳ
hoặc vào cuối kỳ tùy theo thảo thuận giữa Ngân hàng và khách hàng.
Thứ ba: Tín dụng ngân hàng có tính thời hạn.
Để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn, Ngân hàng phải xác định rõ thời gian cho
vay. Đây là căn cứ để Ngân hàng điều hòa giữa thời gian huy động và thời gian cho
vay nhằm giảm thiểu rủi ro thanh khoản vì bản thân Ngân hàng cũng phải đi vay từ
các thành phần kinh tế khác và cũng phải hoàn trả khi đến hạn . Việc xác định thời
gian vay vốn căn cứ vào quá trình luân chuyển vốn của khách hàng, tính ổn định
của nguồn vốn.
1.1.2.1.3 Phân loại tín dụng
Phân loại tín dụng Ngân hàng là việc sắp xếp các khoản vay theo từng nhóm
dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại tín dụng có ý nghĩa quan trọng
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
6
đối với hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Các Ngân hàng thường phân loại tín
dụng theo các tiêu thức cơ bản sau:
Căn cứ vào thời hạn vay
 Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm,
được sử dụng để bổ xung sự thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp
và phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt cá nhân
 Tín dông trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5
năm. Loại tín dụng này được cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ

thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn
nhanh.
 Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm,
được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới,
các công trình thuộc hạ tầng cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô
lớn.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
 Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng cấp cho các
nhà doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng
hóa.
 Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cấp cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng như mua sắm hàng hóa, nhà cửa, xe cộ.
Căn cứ vào mức độ đảm bảo
 Tín dụng có đảm bảo: là hình thức cấp tín dụng có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc người bảo lãnh đứng ra bảo lãnh cho khoản nợ vay.
 Tín dụng không đảm bảo: Là hình thức cấp tín dụng không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc người bảo lãnh đứng ra đảm bảo cho khoản nợ vay mà việc cho
vay chỉ dựa trên uy tín của khách hàng.
Căn cứ vào xuất xứ của tín dụng
 Tín dụng trực tiếp: là hình thức cấp tín dụng không qua mét trung gian tài
chính như NHTM hoặc TCTD
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
7
 Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng giữa người có tiền (hoặc
hàng hóa ) với người cần sử dụng tiền ( hoặc hàng hóa ) đó thông qua mét trung
gian tài chính
1.1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào thì vốn có vai trò rất quan trọng, nó là
yếu tố cơ bản không thể thiếu trong mọi quy trình SXKD. Nó là điều kiện để doanh

nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới máy móc thiết bị, tạo công ăn việc
làm cho xã hội, tăng chất lượng sản phẩm, tăng thu nhập cho người lao động từ đó
nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, góp phần nâng cao
hiệu quả SXKD. Đặc biệt đối với các DNVVN với quy mô vốn Ýt, khả năng tài
chính không cao, để mở rộng sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh thì doanh
nghiệp không thế tự mình đáp ứng nhu cầu về vốn. Chính vì vậy nguồn vốn tín
dụng ngân hàng là một giải pháp tối ưu cho các DNVVN, vai trò của nó đối với các
DNVVN thể hiện ở:
 Tín dụng ngân hàng là công cụ tích tụ tập trung vốn hỗ trợ cho các
DNVVN tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường mở rộng sản xuất theo chiều rộng
và theo chiều sâu là yêu cầu khách quan của việc tồn tại của các doanh nghiệp nhất
là đối với các DNVVN. Thực hiện yêu cầu Êy, nếu chỉ dựa vào bản thân doanh
nghiệp từ nguồn lợi nhuận thu được thì phải tích lũy một thời gian rất lâu mà không
phải doanh nghiệp nào cũng làm được điều này. Nhưng thông qua hỗ trợ của tín
dụng Ngân hàng thì việc này được thực hiện một cách nhanh chóng. Với tư cách là
trung tâm tín dụng, các NHTM có vai trò quan trọng trong tích tụ, tập trung mọi
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để đáp ứng cho doanh nghiệp thực hiện tái
sản xuất theo chiều rộng và theo chiều sâu hoặc bù đắp thiếu hụt để vốn trong các
doanh nghiệp chu chuyển bình thường.
 Tín dông Ngân hàng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các
DNVVN
Trong điều kiện hội nhập kinh tế buộc các doanh nghiệp phải nâng cao khả
năng cạnh tranh để đủ sức đứng vững trên thị trường, đặc biệt là các DNVVN phải
không ngừng nỗ lực để tồn tại và phát triển. Nhưng do trình độ quản lý còn yếu
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
8
kém, năng lực tài chính hạn chế, năng suất lao động chưa cao, chưa xây dựng được
thương hiệu mạnh đã khiến cho năng lực cạnh tranh của các DNVVN còn hạn chế.

Để tăng tính cạnh tranh của các DNVVN cần nâng cao năng lực quản lý của lãnh
đạo, đổi mới máy móc công nghệ, có chiến lược marketing phù hợp nhưng để làm
được điều đó thì một trong những yếu tố quan trọng và cần thiết đó là vốn. Trong
khi vốn tự có là có hạn và khả năng tích lũy của doanh nghiệp thấp buộc các doanh
nghiệp phải tìm đến vốn tín dụng Ngân hàng. Với các chính sách hợp lý, nguồn vốn
Ngân hàng giúp cho các DNVVN giải quyết khó khăn nâng cao khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp, giúp cho các doanh nghiệp đứng vững trên thị trường.
 Tín dông Ngân hàng góp phần hình thành cơ cÊu vèn tèi ưu cho
DNVVN
Trong nền kinh tế thị trường hiếm có doanh nghiệp nào có thể tự đáp ứng các
nhu cầu vốn cho SXKD điều này làm hạn chế khả năng sản xuất của doanh nghiệp,
giảm động lực cho doanh nghiệp và làm tăng giá vốn của doanh nghiệp. Thông
thường ngoài vốn tự có, các doanh nghiệp phải sử dụng vốn vay của ngân hàng hay
các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp muốn vay bao nhiêu cũng
được mà quy mô của khoản vốn vay tùy thuộc vào các điều kiện của doanh nghiệp,
chính sách của Ngân hàng. Ngoài ra nếu vay quá nhiều sẽ làm giảm lợi nhuận của
doanh nghiệp do tăng chi phí lãi suất. Do vậy buộc các doanh nghiệp phải xây dùng
cho mình cơ cấu vốn tối ưu. Đó là sự kết hợp hợp lý nhất nguồn vốn tự có với
nguồn vốn tín dụng với mục đích tối đa hóa lợi nhuận với mức giá vốn bình quân là
tối thiểu.
 Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
DNVVN
Một nguyên tắc quan trọng khi doanh nghiệp sử dụng vốn tín dụng của Ngân
hàng đó là: doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng, phải có trách nhiệm
hoàn trả gốc và lãi đầy đủ đúng kỳ hạn ngân hàng cho dù doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả hay không. Nếu quá hạn ngân hàng không trả được nợ vay thì hoàn toàn
phải chịu tổn thất kề kinh tế do phạt lãi suất quá hạn rất cao và đặc biệt nghiêm
trọng đó là làm mất lòng tin với ngân hàng cấp tín dụng. Hơn nữa, khi thực hiện
phương án cho vay ngân hàng chỉ quan tâm đến những khách hàng có uy tín làm ăn
Nguyễn Thị Ngọc Mai

Líp: NHK-K10
9
hiệu quả, có khả năng tài chính lành mạnh có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Chính
vì vậy ngay từ khâu lập phương án SXKD doanh nghiệp phải quan tâm tới việc sử
dụng vốn sao cho có hiệu quả làm tăng nhanh vòng quay của vốn, đảm bảo tỷ suất
lợi nhuận cao hơn lãi suất tiền vay thì kinh doanh mới có lãi. Như vậy hoạt động tín
dụng ngân hàng thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn.
1.2. Rủi ro tín dụng trong cho vay DNVVN
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Trong những năm gần đây hoạt động kinh doanh tiền tệ-ngân hàng của Việt
Nam phát triển mạnh mẽ. Điều này thể hiện ở chỗ trong vài năm gần đây số lượng
các Ngân hàng ở nước ta ngày càng nhiều với nhiều loại hình khác nhau. Tính hấp
dẫn kinh doanh tiền tệ cao hơn các ngành khác. Lợi nhuận trên vốn tự có của nhiều
ngân hàng đạt 10-12% cao hơn so với nhiều ngành công nghiệp. Tuy nhiên đầu tư
trong lĩnh vực tài chính có rủi ro lớn mà trong đó rủi ro tín dụng chiếm tỷ trọng lớn
nhất.
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có mà ngân hàng phải gánh chịu
khi ngân hàng cấp tín dụng. Là những thiệt hại, mất mát mà ngân hàng gánh chịu do
người vay vốn hay người sử dụng vốn không trả đúng hạn, không thực hiện nghĩa
vụ như cam kết trong hợp đồng tín dụng vì bất kể lý do gì.
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng tức là khi cấp tín dụng ngân hàng
không thể biết chính xác rủi ro có xảy ra hay không và mức độ xảy ra như thế nào
nhưng ngân hàng có thể dự báo, ước lượng nó để biết được ngân hàng có thể đối
phó với rủi ro đó không và đối phó bằng cách nào, giả sử rủi ro đó có xảy ra trong
tương lai như dự kiến thì cũng không làm ảnh hưởng quá nghiêm trọng đến ngân
hàng. Mặt khác rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có đối với các khoản cấp
tín dụng của ngân hàng nên đối với mọi khoản cấp tín dụng ngân hàng đều phải
xem xét kỹ lưỡng để ra quyết định hợp lý đồng thời luôn giám sát theo dõi chúng
một cách thường xuyên và chặt chẽ.
Có thể phân loại rủi ro tín dụng thành: rủi ro đọng vốn và rủi ro mất vốn

Rủi ro đọng vốn xảy ra khi khách hàng không thể trả nợ đúng thời hạn đã
thoả thuận với ngân hàng hay nói cách khác khách hàng đã trì hoãn trả nợ. Điều này
ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng, gây cản trở khó khăn cho việc
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
10
chi trả cho người gửi tiền, tăng chi phí cho ngân hàng ( chi phí cơ hội, chi phí xử lý
nợ quá hạn và nợ khó đòi, chi phí giám sát và chi phí pháp lý).
Rủi ro mất vốn là rủi ro xảy ra khi ngân hàng không thể đòi lại được tiền của
khách hàng do doanh nghiệp đi vay đã mất khả năng chi trả. Trong trường hợp này
ngân hàng chỉ còn trông chờ vào giá trị thanh lý tài sản của doanh nghiệp để đỡ một
phần nợ gốc. Tuy nhiên vấn đề này hết sức khó khăn vì:
• Giá trị của tài sản thanh lý bị giảm rất nhiều so với thời điểm thẩm định ban đầu
• Bản thân tài sản thanh lý đó rất khó bán do tâm lý không ai muốn mua chóng
• Giá trị của tài sản thanh lý thường bị chia sẻ với các chủ nợ ưu tiên trước như:
nộp thuế cho nhà nước, trả lương cán bộ công nhân viên Vì vậy, nhiều khi giá trị
còn lại về ngân hàng còn Ýt hơn hoặc có khi chi phí phát sinh trong quá trình thanh
lý gần bằng hoặc thậm chí lớn hơn số tiền nhận được
Nói chung các món nợ thuộc loại rủi ro này rất phức tạp, khó thu hồi và gánh
nặng thực sự đối với ngân hàng.
1.2.2. Đo lường rủi ro tín dụng của một khách hàng vay
Như đã phân tích ở trên rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có của ngân
hàng, ngân hàng không thể biết chính xác nó xảy ra hay không xảy ra và ảnh hưởng
của nó đến ngân hàng thế nào nhưng ngân hàng có thể dự báo trước, đo lường trước
rủi ro tín dụng với mỗi khoản vay hoặc đối với một danh mục cho vay để đưa ra
quyết định có nên cho vay hay không và thực hiện các biện pháp giám sát phù hợp
sau khi cho vay.
Đo lường rủi ro của một khách hàng vay giúp cho ngân hàng đánh giá chất
lượng của khách hàng đó như thế nào trước khi ra quyết định cho vay hay không
cho vay, các ngân hàng thường sử dụng mô hình điểm số để đo lường rủi ro.

Mô hình điểm số tín dụng được thiết lập dựa vào các chỉ tiêu tài chính quan
trọng được phản ánh từ số liệu thống kê trong lịch sử. Các mô hình điểm tín dụng
thường sử dụng các số liệu phản ánh đặc điểm của người vay để tính toán sác xuất
rủi ro TD hoặc để phân loại khách hàng trên cơ sở mức độ rủi ro đã được xác định.
Bằng việc lựa chọn và kết hợp các đặc điểm tài chính và kinh doanh của người vay,
các TCTD có thể xác định mức ảnh hưởng của các nhân tố đến rủi ro tín dụng, so
sánh mức quan trọng của các nhân tố, cải thiện việc đánh giá rủi ro tín dụng, có căn
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
11
cứ chính xác hơn trọng việc sàng lọc, lựa chọn các đơn xin vay và tính toán chính
xác hơn mức dự trữ cần thiết cho các rủi ro tín dụng dự tính.
Để sử dụng mô hình này, các tổ chức tín dụng phải xác định các chỉ tiêu
phản ánh các đặc điểm tài chính và kinh doanh có liên quan đến rủi ro TD cho từng
đối tượng vay cụ thể:
 Đối với cho vay tiêu dùng, có thể lựa chọn các chỉ tiêu: thu nhập, tài sản,
lứa tuổi, nghề nghiệp và địa điểm
 Đối với cho vay các doanh nghiệp, có thể lựa chọn các chỉ tiêu: tỷ lệ Nợ/
Vốn tự có, tỷ lệ lợi nhuận/ Tổng tài sản, Lợi nhuận/Vốn tự có, Doanh thu/tổng tài
sản.
Sau khi các dữ liệu đã được xác định, kỹ thuật thống kê sẽ được sử dụng để
tính toán xác suất rủi ro tín dụng hoặc để phân loại rủi ro TD. Mô hình tính điểm tín
dụng bao gồm nhiều loại, ở đây xin giới thiệu hai mô hình cơ bản: Mô hình sác xuất
tuyến tính và mô hình phân biệt tuyến tính
Cả hai mô hình này đều có ưu điểm là đơn giản, nhanh chóng, phản ánh khá
toàn diện. Bên cạnh đó chúng cũng tồn tại những nhược điểm nhất định:
Mô hình xác suất tuyến tính có nhược điểm là có thể không đủ số liệu thống
kê để xây dựng mô hình, trong trường hợp đó dự báo không chính xác. Còn mô
hình phân biệt tuyến tính có nhược điểm là: Thứ nhất mô hình này chỉ cho phép
phân loại hai nhóm người vay có rủi ro và không có rủi ro. Tuy nhiên trong thực tế

mức độ RRTD tiềm năng của mỗi khách hàng là như nhau từ mức thấp như chậm
trả lãi, không trả được lãi cho đến mức mất hoàn toàn cả vốn và lãi của khoản vay.
Thứ hai, không có lý do thuyết phục để chứng minh rằng các thông số phản ánh tầm
quan trọng của các chỉ số trong công thức atlman là bất biến. Tương tự như vậy, bản
thân các chỉ số được chọn cũng không phải là bất biến, đặc biệt khi các điều kiện
kinh doanh cũng như điều kiện thị trường tài chính đang thay đổi liên tục. Thứ ba,
mô hình không tính đến một số nhân tố khó định lượng nhưng có thể đóng một vai
trò quan trọng ảnh hưởng đến mức độ rủi ro của các khoản vay ( danh tiếng của
khách hàng, mối quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng hay các yếu tố vĩ
mô như chu kỳ biến động của nền kinh tế.
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
12
1.2.3 Các tiêu chí để đánh giá việc hạn chế rủi ro tín dụng
Các mô hình điểm số, mô hình xác định giá trị rủi ro tới hạn trên đây nhằm
đo lường rủi ro tín dụng của từng khoản cho vay, hoặc của một danh mục cho vay
của ngân hàng, nhưng các mô hình đó chỉ là dự đoán khả năng rủi ro trước khi ra
quyết định cho vay, chính vì vậy trên thực tế có thể có những sai lệch. Vì vậy ngân
hàng còn sử dụng một số chỉ số để đánh giá việc hạn chế rủi ro tín dụng dựa trên
các số liệu lịch sử. Từ đó đưa ra được kết quả của công tác hạn chế rủi ro tín dụng
qua từng thời kì đã đạt được kết quả như thế nào .
 Tình hình nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn
Số dư nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn cao, số dư nợ quá hạn lớn sẽ làm tăng chi phí ( chi phí thực
tế và chi phí cơ hội) như vậy sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng
Tỷ lệ khách hàng
Sè KH quá hạn
Tổng sè KH có dư nợ

Tỷ lệ khách hàng có nợ quá hạn cao chứng tỏ rủi ro tín dụng tập trung nhiều
ở khách hàng, ngược lại tỷ lệ này thấp chứng tỏ rủi ro tín dụng chỉ tập trung ở một
số Ýt khách hàng lớn. Trong trường hợp nhiều khách hàng có nợ quá hạn thì
nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng có thể mang tính chu kỳ, là rủi ro hệ thống hay
do việc thẩm định khách hàng của ngân hàng không tốt
 Tình hình rủi ro mất vốn
Tỷ lệ dự phòng RRTD
Dự phòng RRTD được trích lập
Dư nợ cho kỳ báo cáo
Trong nhiều trường hợp các ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn như nhau nhưng
mức độ rủi ro tín dụng khác nhau do tỷ lệ trích lập dự phòng ở các nhóm là khác
nhau. Ví dụ tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể ở nhóm 5 cao hơn các nhóm còn lại
Tỷ lệ mất vốn
Mất vốn đã xóa cho kỳ báo cáo
Dư nợ trung bình cho kỳ báo cáo
Mất vốn đã xóa cho kỳ báo cáo chính là số dự phòng đã sử dụng để đưa nợ ra
khỏi bảng cân đối; dư nợ trung bình cho kỳ báo cáo chính là trung bình cộng giữa
dư nợ đầu kỳ và dư nợ cuối kỳ báo cáo. Ngân hàng có tỷ lệ mất vốn càng cao thì rủi
ro tín dụng càng cao.
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
13
 Khả năng bù đắp rủi ro
Hệ số khả năng bù đắp
Dự phòng RRTD được trích lập
Dư nợ bị thất thoát
Nếu hệ số này lớn hơn 1 thì ngân hàng có khả năng bù đắp rủi ro, số dự
phòng rủi ro lớn hơn số thất thoát thực sự NH phải gánh chịu.
Hệ số khả năng bù đắp RRTD
Dự phòng RRTD được trích lập

NQH khó đòi
Hệ số này càng cao thì khả năng bù đắp tín dụng của ngân hàng càng cao
 Mức độ tập trung tín dụng
Tỷ trọng dư nợ theo từng ngành
Dư nợ theo từng ngành
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn theo ngành
Nợ quá hạn từng ngành
Dư nợ theo từng ngành
Tỷ lệ này xác định mức độ tập trung tín dụng theo từng ngành kinh doanh.
Nếu ngành nào có tỷ trọng dư nợ cao trong khi tỷ lệ nợ quá hạn của ngành đó lại
thấp thì phát triển tín dụng ở ngành đó Ýt rủi ro. Nhưng nếu ngành nào có tỷ lệ nợ
quá hạn trong ngành cao thì chứng tỏ rủi ro tín dụng tập trung nhiều ở ngành đó,
ngân hàng cần chặt chẽ trong việc mở rộng tín dụng đối với ngành đó.
Một số ngành nghề có mức độ tập trung tín dụng cao, tuy chưa phát sinh nợ
quá hạn nhưng ngân hàng cũng phải chú ý đánh giá đúng mức độ tủi ro tiềm Èn để
có biện pháp phòng ngừa tránh rủi ro xảy ra cho ngân hàng.
1.2.4 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong cho vay DNVVN
1.2.4.1 Các nguyên nhân khách quan
1.2.4.1.1 Nguyên nhân từ chính trị pháp luật
Hoạt động của ngân hàng luôn chịu ảnh hưởng của môi trường chính trị và
hệ thống pháp luật cụ thể. Mỗi khi môi trường chính trị có biến động hoặc pháp luật
thay đổi thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Nếu như trong nước diễn ra sự mất ổn định về chính trị thì ngay lập tức tình
hình kinh tế của đất nước sẽ thay đổi theo chiều hướng xấu, kinh doanh bị ngừng
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
14
trệ, thu nhập giảm do đó khả năng trả nợ của ngân hàng giảm làm cho rủi ro tín
dụng có nguy cơ gia tăng.

Chính sách hay pháp luật thay đổi thường xuyên, không nhất quán, mâu
thuẫn, không rõ ràng cũng làm gia tăng rủi ro tín dụng. Chẳng hạn nhà nước có
chính sách tăng thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ làm cho khả năng trả nợ của khách
hàng giảm, rủi ro tín dụng tăng lên
Như vậy tác động xấu từ sự bất ổn định của môi trường chính trị và hệ thống
pháp luật kể trên ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp, khách hàng của ngân
hàng và qua đó gián tiếp tăng thêm nguy cơ rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
1.2.4.1.2. Môi trường kinh tế
Các DN là đối tượng khách hàng lớn đối với ngân hàng. Không có một doanh
nghiệp nào có thể hoạt động tách biệt khỏi nền kinh tế. Nhất là đối với các DNVVN
với số lượng lớn linh hoạt trong các hoạt động, có mặt trong hầu hết tất cả các
ngành nghề các lĩnh vực và có tầm quan trọng trong nền kinh tế, các vấn đề của nền
kinh tế như tính chu kỳ của nền kinh tế, vấn đề lạm phát thất nghiệp tác động trực
tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp, đó có thể là nguyên nhân sâu xa của rủi ro
đọng vốn và rủi ro mất vốn
1.2.4.1.3. Môi trường văn hóa, xã hội và công nghệ
Môi trường văn hóa xã hội thay đổi, xu thế tiêu thụ của thị trường còng thay
đổi. DNVVN hoạt động trong hầu hết các ngành nghề các lĩnh vực, đáp ứng đầy đủ
nhu cầu tiêu thụ của xã hội. Tuy nhiên nó cũng chịu tác động rất lớn bởi yếu tố văn
hóa xã hội. Một khi văn hóa xã hội thay đổi làm thay đổi xu thế tiêu thụ, giảm sức
tiêu thụ một mặt hàng nào đó thì các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản
xuất lưu thông mặt hàng đó chắc chắn sẽ gặp khó khăn do không bán được hàng,
hàng tồn kho tăng, giảm thu nhập và sẽ lâm vào tình trạng không có đủ khả năng trả
nợ cho ngân hàng, rủi ro cho ngân hàng tăng nhanh. Ví dụ tháng 9/2008 qua cơn
bão melinine trên toàn thế giới ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp chế
biến sản xuất sữa của nước ta, do tâm lý lo sợ của xã hội, lượng sữa tiêu thụ giảm
nhanh chóng, sữa sản xuất ra không tiêu thụ được gây khó khăn cho các doanh
nghiệp sản xuất sữa mà điển hình có thể nói đến là công ty sữa Hà Nội. Chính điều
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10

15
này làm khả năng trả nợ của các công ty này giảm sút nhanh chóng, gây rủi ro cao
cho các ngân hàng cung cấp các dịch vụ tín dụng cho các công ty này.
Môi trường công nghệ trong nước và thực trạng ứng dụng công nghệ của
từng doanh nghiệp cũng tác động trực tiếp đến hoạt động, khả năng tiêu thụ, doanh
thu lợi nhuận. Doanh nghiệp nào có công nghệ tiên tiến ứng dụng khoa học kỹ thuật
hiện đại, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng tốt tính cạnh tranh trên thị trường cao
được người tiêu dùng ưa chuộng sẽ làm tăng doanh thu, tăng khả năng trả nợ cho
ngân hàng. Đối với các DNVVN hiện nay, thực trạng áp dụng khoa học kỹ thuật
công nghệ vào sản xuất là rất hạn chế do tiềm lực tài chính có hạn do đó làm giảm
sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả
nợ của DNVVN, làm tăng rủi ro cho ngân hàng.
1.2.4.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng
Khi khách hàng gặp rủi ro, sự cố bất thường sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả
nợ ngân hàng của khách hàng.
Đối với các DNVVN có các rủi ro dẫn đến việc hạn chế khả năng trả nợ cho
ngân hàng đó là: rủi kinh doanh, rủi ro tài chính của doanh nghiệp và rủi ro đạo đức
Rủi ro kinh doanh: là rủi ro mà các doanh nghiệp thường gặp phải trong
kinh doanh bao gồm: rủi ro do thị trường cung cấp, rủi ro do thị trường tiêu thụ hay
do công tác quản lý của doanh nghiệp còn yếu kém. Các DNVVN với thị trường
tiêu thụ có quy mô nhỏ hầu hết các DNVVN chỉ có thị trường tiêu thụ ở một tỉnh
hay một vùng kinh tế, còn chưa chủ động trong cung cấp nguyên liệu đầu vào, phụ
thuộc nhiều vào các doanh nghiệp cung cấp. Thêm nữa trình độ quản lý của lãnh
đạo doanh nghiệp chưa cao, bộ máy quản lý còn mang tính chất gia đình vì vậy ảnh
hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. ảnh hưởng đến
khả năng trả nợ ngân hàng
Rủi ro tài chính của doanh nghiệp: là rủi ro xảy ra khi doanh nghiệp không
đối phó được với các nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi cho chủ nợ do doanh nghiệp vay nợ
quá nhiều, cơ cấu nguồn vốn không phù hợp với cơ cấu tài sản của doanh nghiệp,
doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài dẫn đến căng thẳng về tài

chính.
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
16
Rủi ro đạo đức của doanh nghiệp: khi nước ta ra nhập wto, với chính sách
khuyến khích phát triển các ngành nghề các lĩnh vực kinh tế như hiện nay của nhà
nước ta, các DNVVN được thành lập một cách dễ dàng chính vì vậy số lượng
DNVVN trong những năm gần đây ở nước ta tăng nhanh chóng . Khi cấp giấy phép
thành lập doanh nghiệp các cơ quan chức năng hầu như không kiểm tra đến việc các
doanh nghiệp đó có vốn có đúng như đăng ký hay không, không kiểm tra xem các
doanh nghiệp đó hoạt động thế nào, chính vì vậy đây là một kẽ hở để một số kẻ lừa
đảo chiếm đoạt tài sản của ngân hàng, họ cứ thành lập doanh nghiệp rồi đi vay tiền
ngân hàng nhưng thực chất họ không sản xuất hay kinh doanh gì, đây là một điều
đáng lo ngại cho các ngân hàng. Ngoài ra cũng có trường hợp các doanh nghiệp làm
ăn tốt nhưng lại không có thiện chí trả nợ cho ngân hàng điều này trực tiếp gây ra
rủi ro đọng vốn và rủi ro mất vốn cho ngân hàng.
1.2.4.3. Các nguyên nhân từ phía ngân hàng
Các nguyên nhân kể trên diễn ra ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng, bên
cạnh đó còn có các nguyên nhân do chính bản thân ngân hàng, bên trong ngân hàng.
đây cũng là điểm yếu của ngân hàng.
Ngân hàng tập trung tín dụng quá cao, tập trung tín dụng vào một số khách
hàng lớn, hay tập trung tín dụng cho vay một số ngành nghề nhất định rất dễ dẫn
đến rủi ro vì nó vi phạm nguyên tắc “ không nên bỏ tất cả trứng vào một giỏ” trong
kinh doanh.
Chính sách tín dụng không hợp lý thể hiện ở chỗ ngân hàng quá đề cao mục
tiêu lợi nhuận mà không để ý đến mục tiêu an toàn, lành mạnh. NH quá quan tâm
đến doanh số đến lợi nhuận mà đơn giản hóa việc phân tích đánh giá khách hàng,
hoặc do ngân hàng chủ trương đơn giản hóa việc phân tích khách hàng để thu hút
nhiều khách hàng đến với ngân hàng, nhưng trong số khách hàng đó có những
khách hàng không đủ khả năng thanh toán điều này làm tăng rủi ro tín dụng cho

ngân hàng. Hay chính sách tín dụng của ngân hàng có thay đổi liên tục nhưng ngân
hàng vẫn chưa cập nhập kịp thời những thay đổi đó
Thiết kế sản phẩm dịch vụ không phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Ngân
hàng định kỳ hạn không phù hợp, thời hạn cho vay quá dài hoặc quá ngắn dẫn đến
tình trạng khi đến hạn trả nợ thì khách hàng không có tiền còn khi khách hàng có
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
17
tiền thì chưa đến hạn trả nợ. Hoặc khi ngân hàng chỉ chú trọng cho vay trung dài
hạn mà không muốn cấp tín dụng ngắn hạn trong khi doanh nghiệp lại cần cả vốn
ngắn hạn và vốn dài hạn, điều này ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của doanh
nghiệp làm giảm hiệu quả sử dụng vốn vay, tăng rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Khâu giám sát đánh giá tín dụng không được chú trọng, không thường xuyên
dẫn đến việc chậm phát hiện những món vay có dấu hiệu rủi ro do đó khó xử lý
hơn.
Cán bộ tín dụng thiếu năng lực, nhiều khi chưa bắt kịp cơ chế thị trường luôn
biến động, dẫn đến hạn chế trong các món vay. Hoặc do trình độ còn hạn chế, thiếu
kinh nghiệm trong thẩm định, đánh giá tín dụng nên cho vay những khách hàng có
chất lượng kém. Trong một số trường hợp khác là do động cơ thu lợi cá nhân, cán
bộ có thái độ không thận trọng với vấn đề rủi ro hoặc do thiếu thông tin trong quá
trình đưa ra quyết định cho vay. Đây là nguyên nhân chính gây ra sai sót trong quá
trình cho vay. Bên cạnh đó bản thân việc cạnh tranh của các ngân hàng thương mại
trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân
hàng trong nước với hệ thống tài chính chưa mạnh, trình độ quản lý chưa cao gặp
phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính
lớn và lành mạnh sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút. Thực tế nếu cán bộ tín
dụng có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt, ban lãnh đạo điều hành NH có khả
năng quản lý điều hành vốn có hiệu quả thì giảm được tới 70% rủi ro cho ngân
hàng.
1.2.4.4. Nguyên nhân từ phía bảo đảm tín dụng

Bảo đảm tín dụng cũng một trong những yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín
dụng. Trong trường hợp ngân hàng yêu cầu khách hàng bảo đảm bằng tài sản thì rủi
ro xảy ra khi tài sản đảm bảo giảm giá trên thị trường, khó định giá, tính khả mại
của tài sản thấp ( đặc biệt là các tài sản chuyên dụng), tài sản đang có tranh chấp về
mặt pháp lý.
Trong trường hợp khách hàng dùng một tài sản để đảm bảo cho các khoản
vay ở các ngân hàng khác nhau, nếu ngân hàng không đăng ký giao dịch bảo đảm
theo quy định của pháp luật thì rủi ro sẽ đến với ngân hàng khi khách hàng không
trả được nợ mà ngân hàng kia đã đăng ký giao dịch đảm bảo theo đúng quy định
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
18
của pháp luật. Vì vậy các ngân hàng phải đặc biệt quan tâm tới việc thực hiện đăng
ký giao dịch đảm bảo
Trong trường hợp bảo đảm đối nhân nguyên nhân gây ra rủi ro là người bảo
lãnh từ chối nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng có thể do người bảo lãnh cố tình
không thực hiện hoặc do bản thân họ đang gặp khó khăn về tài chính.
Mỗi một khoản vay có vấn đề do rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy
tùy vào từng hoàn cảnh cụ thể mà ta xem xét để có thể phát hiện kịp thời những
khoản vay có vấn đề và biện pháp khắc phục.
1.2.5. Hậu quả của rủi ro tín dụng trong cho vay DNVVN
1.2.5.1. Đối với NH
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng bị đọng vốn hoặc mất vốn. Điều này
làm giảm lợi nhuận kinh doanh tức là lợi nhuận của ngân hàng giảm tức là thu nhập
giảm. Thu nhập giảm làm cho việc mở rộng tín dụng sẽ gặp khó khăn, ngân hàng
mất cơ hội tìm kiếm quan hệ với các khách hàng có chất lượng tốt, ảnh hưởng tới kế
hoạch sử dụng vốn của ngân hàng. Các khoản cho vay có thể mất hoặc khó đòi
trong khi tiền gửi của khách hàng vẫn phải trả lãi, ngoài ra làm giảm khả năng hoàn
trả các khoản tiền gửi của khách hàng đến hạn. Điều này làm giảm uy tín của ngân
hàng. Nếu mức độ xảy ra quá nghiêm trọng, nguồn vốn của ngân hàng không đủ bù

đắp, vốn khả dụng bị thiếu, lòng tin của khách hàng suy giảm thì tất yếu sẽ dẫn tới
phá sản ngân hàng.
1.2.5.2. Đối với DNVVN
Tín dụng ngân hàng là công cụ tích tụ tập trung vốn hỗ trợ cho các DNVVN
tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu. Một khi có rủi ro tín dụng
xảy ra, ngân hàng bị đọng vốn hoặc mất vốn do đó ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng
vốn của ngân hàng. Ngân hàng mất cơ hội tìm kiếm thiết lập quan hệ tín dụng với
các khách hàng mới có chất lượng tín dụng tốt. Do đó các doanh nghiệp đó không
có được nguồn vốn tài trợ từ bên ngoài một cách kịp thời gây chậm chế khó khăn
trong việc mở rộng sản xuất theo chiều rộng và theo chiều sâu, kìm hãm sự phát
triển của các doanh nghiệp có tiềm năng. . Các DNVVN không có vốn cho mua sắm
máy móc thiết bị đổi mới công nghệ dẫn tới chất lượng sản phẩm không được cải
thiện, cộng với không có vốn cho mở rộng các kênh phân phối làm cho sức cạnh
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
19
tranh của sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường giảm, sức cạnh tranh của
doanh nghiệp vì thế cũng đi xuống
Do trình độ của hầu hết lãnh đạo các DNVVN đều hạn chế, nên việc lập kế
hoạch sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ cấu vốn không hợp lý, nếu cán bộ tín dụng
không chú trọng đến khâu thẩm định tín dụng sẽ không phát hiện các điểm không
hợp lý trong phương án kinh doanh cũng như cơ cấu vốn do đó sẽ không tư vấn
được cho DNVVN, điều này dẫn đến việc kinh doanh của các DNVVN không hiệu
quả. Hiệu quả sử dụng vốn của DNVVN cũng vì thế mà giảm sút.
Trong nền kinh tế, các doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau liên
hệ mật thiết với nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hoạt động của nhau. Mét
doanh nghiệp dù không có mối quan hệ tín dụng với ngân hàng nhưng khách hàng
của ngân hàng là doanh nghiệp khác có quan hệ với doanh nghiệp này, khi doanh
nghiệp chịu tác động do rủi ro tín dụng thì các doanh nghiệp khác cũng chịu ảnh
hưởng. Chính vì vậy mà rủi ro tín dụng tác động tới tất cả các DN trong nền kinh tế.

Vai trò của các DNVVN trong nền kinh tế cũng vì thế mà giảm xuống.
1.2.5.3. Đối với nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên quan
đến rất nhiều thành phần kinh tế từ cá nhân, hộ gia đinh, các tổ chức kinh tế cho tới
các tổ chức tín dụng khác. Vì vậy, kết quả kinh doanh của ngân hàng phản ánh kết
quả kinh doanh của nền kinh tế và đương nhiên nó phụ thuộc rất lớn vào tình hình
tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các khách hàng. Hoạt động kinh
doanh của ngân hàng không thể có kết quả tốt khi hoạt động kinh doanh của nền
kinh tế chưa tốt hay nói cách khác hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ có nhiều
rủi ro khi hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro.
NHTM có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nó được coi là mạnh máu của
nền kinh tế. Rủi ro tín dụng gây hậu quả nghiêm trọng cho hoạt động của ngân hàng
như đã phân tích ở trên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các ngành nghề trong nền
kinh tế, làm suy yếu nền kinh tế. Một ví dụ điển hình có thể nêu lên rõ ràng nhất
ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế đó là xuất phát từ rủi ro tín dụng
trong cho vay mua nhà tại Mỹ đã là nguyên nhân gây cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới từ giữa năm 2008
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
20
DNVVN có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nhất là các nước đang phát
triển như nước ra khi các DNVVN chiếm tới trên 90% các doanh nghiệp trong nền
kinh tế, hoạt động trong hầu hết các ngành nghề các lĩnh vực. Ơ nước ta theo thống
kê của Bộ kế hoạch và đầu tư thì mỗi năm các DNVVN ở Việt Nam tạo ra khoảng
25-27% trong GDP của cả nước, 31% tổng giá trị sản lượng công nghiệp. Khi rủi ro
tín dụng ảnh hưởng không tốt tới hoạt động của các DNVVN, thu nhập của doanh
nghiệp giảm, thu nhập của người lao động cũng giảm làm giảm sức tiêu thụ của xã
hội. Mặt khác, phản ứng dây chuyền giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế là rất
nguy hiểm dễ dẫn đến tình trạng suy thoái nền kinh tế.
Rủi ro xảy ra dẫn tới tình trạng mất ổn định trên thị trường tiền tệ, gây khó

khăn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, làm ảnh hưởng tiêu cực đối với
nền kinh tế và đời sống xã hội. Do đó, phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng không
những là vấn đề sống còn đối với ngân hàng mà còn là yêu cầu cấp thiết của nền
kinh tế góp phần vào sự ổn định và phát triển của toàn xã hội.
1.2.6 Mối liên hệ giữa hạn chế RRTD và mở rộng bền vững tín dụng
Mục tiêu hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện nay đều ưu tiên sự tăng
trưởng lợi nhuận trên cơ sở bền vững và ổn định. Vì vậy bên cạnh công tác hạn chế
RRTD ngân hàng cần chú trọng phát triển song song mở rộng bền vững các khoản
tín dụng. Hoạt động cho vay là hoạt động tiền Èn nhiều rủi ro , tuy nhiên không
phải vì thế mà ngân hàng không cho vay và thực hiện thu hẹp tín dụng. Một khi
ngân hàng mở rộng khối lượng tín dụng thì RRTD càng tăng , ảnh hưởng đến hiệu
quả tín dụngvà lợi nhuận của ngân hàng. Vấn đề đặt ra là Ngân hàng sẽ làm như thế
nào để hạn chế được RRTD ở mức thấp nhất nhưng vẫn tăng được hiệu quả tín
dụng ở cả khối lương và chất lượng để đảm bảo mục tiêu hoạt động của mình.
1.3. Kinh nghiệm phòng ngừa rủi ro tín dụng trong cho vay DNVVN ở một số
quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam
1.3.1 Kinh nghiệm phòng ngừa rủi ro tín dụng trong cho vay DNVVN của một
số quốc gia trên thế giới
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
21
Hàn Quốc là một trong những quốc gia châu Á có nền kinh tế phát triển
mạnh mẽ trong những năm vừa qua. Hàn Quốc là một nước nghèo tài nguyên, trước
những năm 60 của thập kỷ XX vẫn là một đất nước chưa phát triển, nhưng đến giữa
thập niên 60 kinh tế Hàn Quốc bắt đầu phát triển với tốc độ nhanh, đến giữa thập
niên 80 đã trở thành một nước công nghiệp phát triển mới (nics). Để có sự phát triển
đó các DNVVN Hàn Quốc đóng một phần rất quan trọng.
Để phát triển, các DNVVN của Hàn Quốc đã nhận được sự giúp đỡ về vốn
rất lớn từ các ngân hàng Hàn Quốc, tuy nhiên vấn đề khó khăn đối với cho vay

DNVVN mà bất cứ ngân hàng thương mại nào là đặc thù khoản cho vay giá trị thấp,
khối lượng khách hàng nhiều, phân bổ rộng khắp, DNVVN luôn trong tình trạng
thiếu vốn, các kỹ năng về tài chính và thông tin còn hạn chế… Chính vì vậy co vay
các DNVVN luôn gặp 3 vấn đề lớn: Chi phí quản lý khoản vay lớn, chi phí huy
động cao và rủi ro lớn.
Để hạn chế rủi ro tín dụng, các ngân hàng Hàn Quốc có một hệ thống xếp
hạng tín dụng hiệu quả ( bao gồm: cơ sở dữ liệu, mô hình ibk có trên 20 mô hình
chấm điểm và xếp hạng tín dụng theo quy mô, theo ngành và theo lịch sử phát triển
của DN… và công nghệ thông tin); phải duy trì đầy đủ cán bộ tín dụng có năng lực,
thẩm định tín dụng phải có năng lực và hiệu quả, các khoản vay phải có tài sản đảm
bảo, các ngân hàng Hàn Quốc hầu như không đặt ra một tỷ lệ cho vay không có tài
sản đảm bảo đối với DNVVN.
Các ngân hàng Hàn Quốc xây dựng một số sản phẩm tín dụng đặc biệt đối
với DNVVN đó là:
- Cho vay với lãi suất tăng dần có quyền lựa chọn vốn hoá khoản vay trong
doanh nghiệp: sản phẩm cho vay này chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp thiếu vốn
lưu động và ngân hàng dự đoán tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn có xu
hướng phát triển. Lãi suất của ngân hàng tăng dần trong 3 năm từ khi cho vay và
ngân hàng có quyền chuyển đổi khoản vay thành vốn góp hoặc trái phiếu có quyền
chuyển đổi của chính doanh nghiệp vay vốn. Việc này làm cho ngân hàng nắm bắt
khá rõ tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó phát hiện kịp thời những dấu
hiệu rủi ro để có biện pháp phòng tránh hữu hiệu
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
22
- Cho vay theo mạng lưới: trên cơ sở cam kết thanh toán và thư giới thiệu
của nhà thầu chính, Ngân hàng sẽ cung cấp cho các nhà thầu phụ, các nhà thầu phụ
này sẽ mở tài khoản tại ngân hàng. Nhà thầu chính sẽ thanh toán cho nhà thầu phụ
để trả nợ cho ngân hàng, ngân hàng sẽ thu nợ trên cơ sở xem xét dòng tiền của
phương án, kế hoạch vay vốn.

Ngoài ra còn có các sản phẩm cho cay công nghệ cao, cho vay thanh toán,
cho vay dựa trên tiềm lực tài chính của posco.
Một biện pháp nữa góp phần không nhỏ vào hạn chế rủi ro tín dụng trong
cho vay DNVVN tại các ngân hàng Hàn Quốc là các ngân hàng Hàn Quốc thường
xuyên tổ chức những khoá học ngắn nhằm nâng cao trình độ cho các cán bộ quản
lý, cán bộ lập kế hoạch của các DNVVN, giúp nâng cao năng lực quản lý kinh
doanh, lập dự án kinh doanh hiệu quả, đồng thời cũng tạo được lòng tin của khách
hàng, giúp khách hàng hiểu rõ chính sách tín dụng, các sản phẩm tín dụng mà ngân
hàng cung cấp cho các DNVVN. Qua đó ngân hàng tư vấn cho DNVVN trong việc
lập kế hoạch tài chính, kinh doanh. Từ đó giảm thiểu rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Chính phủ Hàn Quốc cũng có công rất lớn trong việc hạn chế rủi ro tín dụng
trong cho vay các DNVVN của các ngân hàng Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc
thành lập Bộ DNVVN, bộ vạch ra định hướng cho DNVVN theo từng giai đoạn
phát triển của quốc gia, gắn với sự đa dạng hoá của kinh doanh toàn cầu. Những
định hướng nuôi dưỡng và phát triển DNVVN gần đây đã cho thấy DNVVN Hàn
Quốc đã thực sự đóng góp lớn trong gia tăng GDP trong nước và hơn thế nữa các
DNVVN ngày càng chuyển mình nhanh hơn để xâm nhập thị trường thế giới, do đó
góp phần không nhỏ trong việc nâng cao khả năng trả nợ các khoản vay của
DNVVN cho các ngân hàng, giảm rủi ro.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Đài Loan
Đài Loan cũng là một trong những nền kinh tế phát triển mạnh trong khu vực
châu Á cũng như trên thế giới. Đài Loan cũng là nước có nhiều nhà đầu tư đầu tư
vào thị trường Việt Nam. Cũng như nhiều quốc gia khác, DNVVN đóng vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế. Các DNVVN Đài Loan cũng được các ngân
hàng Đài Loan hỗ trợ. Tuy nhiên các ngân hàng Đài Loan có các biện pháp rất tốt
nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10
23
Một mặt, các ngân hàng này đầu tư xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng

hiệu quả cao. Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Thuê người nước ngoài
vào một số vị trí lãnh đạo, áp dụng các biện pháp quản lý, kiểm soát rủi ro theo
phương Tây, và cho phép người đứng đầu mỗi ngân hàng quyền được sa thải những
giám đốc điều hành không hiệu quả. Các biện pháp này nhằm nâng cao năng lực
quản lý, hạn chế rủi ro từ phía ngân hàng
Mặt khác, không chỉ dừng lại ở phía ngân hàng, các ngân hàng có những
biện pháp hỗ trợ nâng cao hoạt động của các DNVVN, đây chính là gốc để phòng
ngừa rủi ro tín dụng trong cho vay DNVVN. Tại Đài Loan có trung tâm Hỗ trợ tích
hợp Doanh nghiệp vừa và nhỏ (sbiac) được thành lập từ năm 1982 với nguồn tài
chính được quyên góp từ 7 ngân hàng lớn tại Đài Loan, với mục đích khuyến khích
sự phát triển và cạnh tranh của các DNVVN đang trải qua những khó khăn về tài
chính nhưng được đánh giá là có tiềm năng mạnh bằng cách tư vấn và giúp họ nhận
được các khoản vay, sử dụng các khoản vay có hiệu quả. Trong hơn hai thập kỷ đi
vào hoạt động, sbiac không ngừng mở rộng dịch vụ của mình bao gồm các chương
trình đào tạo tại chỗ đối với những người lao động trong doanh nghiệp ở tất cả các
cấp độ…đặc biệt phải kể đến nhóm dịch vụ tài chính thiết lập đường dây nóng miễn
phí để giải đáp các thắc mắc, tuỳ thuộc vào nhu cầu của người gọi, các chuyên gia c
ó thể sẽ đưa ra những lời khuyên ngay lập tức hoặc xắp xếp các cuộc tư vấn trực
tiếp hoặc qua điện thoại với những chuyên gia tư vấn đầy kinh nghiệm. Ngoài ra,
nhóm dịch vụ tài chính DNVVN còn có những biện pháp hỗ trợ các DNVVN trong
việc xây dựng hệ thống kế toán tin cậy và quản lý tài chính hợp lý. Việc thiếu minh
bạch trong các tuyên bố tài chính, thiếu những nguồn tài nguyên cần thiết để theo
kịp với những tiến bộ trong quản lý tài chính thường là nguyên nhân đóng cánh cửa
cho họ vay từ các ngân hàng, hoặc sử dụng vốn vay không hiệu quả, gia tăng rủi ro
tín dụng cho ngân hàng. Chính vì vậy nhóm dịch vụ hỗ trợ tài chính có tác dụng rất
lớn giúp các doanh nghiệp hạn chế rủi ro tín dụng bằng cách hạn chế các rủi ro xuất
phát từ phía khách hàng.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10

24
Từ kinh nghiệm trong công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng trong cho vay
DNVVN của Hàn Quốc và Đài Loan, có thể rót ra một số bài học cho các ngân
hàng thương mại Việt Nam trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
- Trong công tác quản lý: bài học từ Đài Loan có thể được áp dụng đó là có
thể tuyển dụng một số chuyên gia nước ngoài có chuyên môn cao cho các vị trí cao.
Mở rộng tham gia của ngân hàng nước ngoài vào thị trường Việt Nam ( điều này
đang được thực hiện tại nước ta).
- Trong công tác cho vay: Ngân hàng phải thường xuyên tiếp xúc với khách
hàng, thông qua tiếp xúc khách hàng cán bộ tín dụng có thể phát hiện ra những biểu
hiện của khách hàng có thể dẫn đến rủi ro tín dụng. Tiếp xúc với khách hàng không
phải là việc đơn giản đòi hỏi cán bộ tín dụng phải thật nhạy cảm, nắm bắt được tâm
lý của người đang giao tiếp. Đồng thời ngân hàng cũng phải quy định rõ ràng về
việc yêu cầu tài sản đảm bảo để thuận lợi cho khách hàng và đảm bảo tối thiểu rủi
ro cho ngân hàng.
- Một biện pháp phòng ngừa rủi ro trong cho vay DNVVN mà các ngân hàng
Việt Nam nên học tập, đó là việc chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng xuất phát từ
phía khách hàng bằng cách có những biện pháp hỗ trợ, tư vấn cho các DNVVN
trong việc nâng cao năng lực quản lý tài chính. Các ngân hàng không chỉ dừng lại ở
việc cung cấp các sản phẩm tín dụng mà ngoài ra nên có các sản phẩm, dịch vụ tư
vấn tài chính. Thông qua các dịch vụ đó, ngân hàng hiểu rõ về khách hàng, khách
hàng tin cậy vào ngân hàng, năng lực quản lý tài chính, năng lực lập kế hoạch, thực
hiện kế hoạch kinh doanh được nâng cao. Do đó, khách hàng sử dụng các sản phẩm
tín dụng của ngân hàng một cách hiệu quả hơn, nâng cao khả năng trả nợ cho ngân
hàng. Giảm rủi ro cho ngân hàng.
Chương II:
Thực trạng rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTMCP
Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Líp: NHK-K10

25

×