Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.54 KB, 32 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP TRONG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thế nào là Doanh nghiệp vừa và nhỏ? Rất nhiều các quốc gia, các cơ quan, tổ
chức, các nhà nghiên cứu kinh tế đã đưa ra những chỉ tiêu khác nhau để xác định
DNVVN nhằm mục đích phục vụ cho công tác quản lý và nghiên cứu của mình. Tuy
nhiên hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xác định quy mô doanh nghiệp
dựa trên hai tiêu thức chủ yếu: tổng vốn kinh doanh và tổng số lao động để phân biệt
quy mô lớn với quy mô vừa và nhỏ. Ở Việt Nam, căn cứ theo QĐ 48 dẫn chiếu Nghị
định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về “ Trợ giúp phát triển
DNVVN” điều 3 của NĐ 90 định nghĩa về DNVVN như sau: “Doanh nghiệp vừa và
nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo pháp luật
hiện hành, có vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng
năm không quá 300 người”.
Có sự khác biệt đáng kể giữa các DNVVN và các doanh nghiệp lớn. Sức mạnh
của các doanh nghiệp lớn chủ yếu xuất phát từ lợi thế vật chất, liên quan tới tính kinh tế
về qui mô và phạm vi, sự sẵn có của các công cụ tài chính rẻ tiền, cách thức bù trừ rủi
ro và có năng lực tốt hơn về con người và phương tiện chuyên môn hóa. Mặt khác, sức
mạnh tương đối của các doanh nghiệp nhỏ hơn lại xuất phát từ các lợi thế hành vi liên
quan tới các vấn đề như: động cơ làm việc của nhân viên cao hơn; dễ chấp nhận sự thay
đổi và ứng biến trong công việc hơn; tri thức ẩn chứa vào các kỹ năng độc đáo; truyền
thông hiệu quả hơn; sự linh hoạt do các quá trình ra quyết định ít quan liêu hơn; hợp tác
quản trị tốt hơn. Các đặc điểm chung của các DNVVN là thiếu tri thức và thiếu thời
gian để thu nhận kiến thức về các kỹ năng quản trị; hướng vào tăng trưởng và tầm nhìn
ngắn hạn, hướng ngoại kém, điều này đồng nghĩa với việc nhận thức quá chậm về các
dấu hiệu từ môi trường vị thế tài chính yếu khiến mức đầu tư thấp, và thiếu các phương
tiện để đào tạo nhân viên trong công ty. Ở Việt Nam hiện nay các DNVVN đang còn
gặp rất nhiều khó khăn trong việc đổi mới công nghệ, tiếp cận nguồn vốn tín dụng
chính thức, các chủ DNVVN thì chưa được đào tạo đầy đủ, bài bản có hệ thống, khả


năng cập nhật thông tin còn yếu, trình độ tổ chức, quản lý giám sát hoạt động sản xuất
kinh doanh còn non kém, đội ngũ lao động ít được đào tạo bài bản, thiếu kỹ năng... bù
lại bộ phận doanh nghiệp này lại góp phần giải quyết công ăn việc làm cho một số
lượng lao động lớn nhàn rỗi trong xã hội, do vậy giải quyết được phần lớn tình trạng
thất nghiệp trong nền kinh tế. Với những đặc điểm của các DNVVN như trên, cộng với
môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì việc hỗ trợ phát triển các DNVVN là
nhiệm vụ hết sức cần thiết đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của nền kinh tế.
1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế quốc dân
DNVVN có vai trò lớn trong sự tăng trưởng kinh tế của rất nhiều quốc gia, kể cả
các nước phát triển và đang phát triển. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay,
các DNVVN đã và đang đóng vai trò quan trọng về nhiều mặt, thường chiếm tỷ trọng
lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số các doanh nghiệp, nó được coi là “ chất xúc tác” thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế, góp phần quan trọng vào tổng sản phẩm kinh tế quốc
dân.
Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: Ở phần lớn các nền kinh tế, các DNVVN là
những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn, hỗ trợ sự ra đời của các doanh nghiệp
lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được
sự ổn định. Vì thế DNVVN được ví là “thanh giảm sốc” cho nền kinh tế.
Các DNVVN có quy mô nhỏ, nên thường dễ điều chỉnh hoạt động (xét về mặt lý
thuyết), do đó làm cho nền kinh tế năng động hơn. Thêm vào đó các DNVVN chuyên
môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn
chỉnh tạo ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng.
Nhờ việc tăng nguồn hàng xuất khẩu cho các quốc gia đã góp phần tăng nguồn
thu cho Ngân sách Nhà nước, đồng thời nó còn là trụ cột của kinh tế địa phương. Nếu
như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì
DNVVN lại có mặt ở khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào thu
ngân sách, thúc đẩy khai thác tiềm năng của các ngành nghề truyền thống như thủ công,
mỹ nghệ,... cải thiện thu nhập và giải quyết việc làm cho một bộ phận đông đảo dân cư;
góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống và thu hẹp khoảng cách phát triển
giữa các vùng của đất nước.

1.1.3. Quá trình phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Ở Việt Nam, các DNVVN ra đời từ rất sớm và được hình thành cùng với quá
trình hình thành của ngành nghề thủ công và làng nghề truyền thống trong nông thôn.
Hình thức tổ chức sản xuất lúc bấy giờ chủ yếu là kinh tế hộ gia đình, hoặc liên gia đình
trong từng làng xã, vừa mang tính chất sản xuất hàng hóa vừa mang tính sáng tạo nghệ
thuật. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, loại hình này được
duy trì và có phần đổi mới nhưng rất hạn chế. Sau ngày đất nước thống nhất, giai đoạn
1976–1985, các DNVVN ngoài quốc doanh không được khuyến khích phát triển nên đã
gặp rất nhiều khó khăn, nền kinh tế chủ yếu là các hợp tác xã sản xuất.
Đến năm 1986, Đại hội VI của Đảng đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sở hữu khác
nhau. Và kể từ đó, Việt Nam đã trải qua một quá trình chuyển đổi kinh tế mang tính
chất căn bản, một trong những nhân tố quan trọng của sự chuyển đổi này là sự phát
triển của khu vực kinh tế tư nhân mà phần lớn là các DNVVN. Nhận thức rõ vai trò của
các DNVVN trong nền kinh tế, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP về “
trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ”. Theo đó: “Phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Trong thời gian gần đây, cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước đối với các
doanh nghiệp, trong đó các DNVVN đã từng bước được hoàn thiện. Động lực kinh
doanh đã được phát huy, nhiều rào cản được loại bỏ, tạo điều kiện cho mọi doanh
nghiệp hoạt động trong và ngoài nước thúc đẩy sự phát triển năng động và có hiệu quả
của DNVVN. Hiện tại, DNVVN chiếm tới 97% trong tổng số doanh nghiệp của cả
nước (khoảng hơn 240.000 doanh nghiệp), và phân bố ở mọi ngành nghề như thương
mại, sửa chữa động cơ, xe máy, chế biến, xây dựng, kinh doanh tài sản, tư vấn, khách
sạn… Hàng năm, bộ phận doanh nghiệp này đã tạo ra khoảng 45% giá trị tổng sản
lượng công nghiệp, khoảng 26% GDP của cả nước. Các DNVVN chiếm ưu thế gần như
tuyệt đối trong các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống, hàng nông sản, thuỷ sản
chưa qua chế biến…
Nhìn chung, các DNVVN ở Việt Nam đang dần hoàn thiện và phát triển hơn.

Đặc biệt trong bối cảnh gia nhập WTO, thì DNVVN Việt Nam đang đứng trước thức
thách vô cùng lớn, đó là những khó khăn về môi trường kinh doanh, về vốn, trình độ
quản lý, cơ sở hạ tầng, và điều đặc biệt là Việt Nam chưa được công nhận là có nền
kinh tế thị trường, điều này tác động hạn chế đến khả năng cạnh tranh của các DNVVN
trong nước cũng như thị trường quốc tế. Song bên cạnh đó đã có những tác động tích
cực giúp cho các DNVVN có hành lang pháp lý, có môi trường bình đẳng công khai, có
điều kiện thuận lợi tiếp cận với thị trường thế giới. Việc giảm giá nguyên vật liệu nhập
khẩu phục vụ chi phí đầu vào giúp các doanh nghiệp Việt Nam thuận lợi hơn trong việc
đưa hàng hóa thâm nhập vào thị trường thế giới. Việt Nam được hưởng qui chế tối huệ
quốc tại 164 nước trên thế giới nên nhiều ngành hàng, mặt hàng được miễn giảm thuế,
xóa bỏ hạn ngạch. Đây là nguyên nhân cơ bản tác động tích cực đến hoạt động xuất
nhập khẩu của các DNVVN, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm,
giảm chi phí để nâng cao sức cạnh tranh… Nhận thức được vai trò quan trọng của các
DNVVN, để đối phó với những thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới thì
bên cạnh việc bản thân các DNVVN phải có chiến lược phát triển doanh nghiệp về giá,
sản phẩm, phân phối tiêu thụ sản phẩm, tiếp thị, quảng cáo, dịch vụ, hệ thống đối tác,
bạn hàng… thì Nhà nước ta đã có nhiều chính sách hỗ trợ để lực lượng này phát triển,
từ việc thành lập đến các điều kiện hỗ trợ khác như cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, vốn, kỹ
năng quản trị điều hành, năng lực kinh doanh và quảng bá, tiếp thị thương hiệu… Trong
đó, Nhà nước cũng có những chủ trương để các ngân hàng mở của cho DNVVN được
tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng, từ đó góp phần vào sự phát triển lâu dài của nền
kinh tế Việt Nam.
1.2. Phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ của ngân hàng thương mại
“Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp
với các chủ thể trong nền kinh tế” (Giáo trình Tài chính doanh nghiệp). Các quan hệ tài
chính bao gồm quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước; giữa doanh nghiệp với thị
trường tài chính; giữa doanh nghiệp với các thị trường khác như thị trường hàng hóa,
dịch vụ, thị trường sức lao động; và quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp giữa các bộ
phận sản xuất kinh doanh, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa quyền sử dụng đất và quyền sở

hữu vốn....
1.2.1. Quan niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính được các nhà quản lý bắt đầu chú ý từ cuối thế kỷ XIX. Từ
đầu thế kỷ XX đến nay, phân tích tài chính thực sự được phát triển và chú trọng hơn
bao giờ hết bởi nhu cầu quản lý doanh nghiệp ngày càng tăng, sự phát triển mạnh mẽ
của hệ thống tài chính, sự phát triển của các tập đoàn kinh doanh và khả năng sử dụng
rộng rãi công nghệ thông tin. Nghiên cứu phân tích tài chính là khâu quan trọng trong
quản lý doanh nghiệp. Vậy, phân tích TCDN là gì? Có rất nhiều các quan niệm khác
nhau:
“Phân tích tài chính bao gồm việc đánh giá các điều kiện tài chính của doanh
nghiệp trong quá khứ, hiện tại và tương lai” ( Quản trị tài chính căn bản – TS Nguyễn
Quang Thu, NXB Thống kê 2005). Khái niệm này chưa cho thấy được mục tiêu của
phân tích tài chính vì nó chưa chỉ ra được nguồn thông tin trong phân tích tài chính là
gì.
“Phân tích tài chính doanh nghiệp là quá trình sử dụng các báo cáo tài chính
của doanh nghiệp để phân tích và đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp”
( Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại – TS Nguyễn Minh Kiều, NXB Thống kê 2005).
Khái niệm này chỉ cho thấy nguồn thông tin phục vụ cho phân tích tài chính là các
thông tin kế toán ( các báo cáo tài chính của doanh nghiệp). Song trong thực tế, việc
phân tích tài chính có thể dựa vào các nguồn thông tin khác phục vụ cho quản lý.
Khái niệm phân tích TCDN được đề cập trong giáo trình “ Tài chính doanh
nghiệp” ( Chủ biên TS Lưu Thị Hương- Khoa Ngân hàng tài chính- Trường Đại học
kinh tế quốc dân) được coi là khái niệm đầy đủ nhất về phân tích tài chính: “ Phân tích
tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép
xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài
chính của doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp đó”.
Dưới giác độ của NHTM, đóng vai trò là người cho vay, thì “Phân tích tài chính
doanh nghiệp là việc thu thập, phân tích các thông tin kế toán và các thông tin khác để
đánh giá thực trạng và xu hướng tài chính, khả năng tiềm lực của doanh nghiệp nhằm

mục đích đảm bảo an toàn vốn tín dụng”. Ngân hàng đưa ra quyết định cho vay dựa
trên cơ sở tổng hợp các thông tin pháp lý, năng lực tài chính và hoạt động sản xuất kinh
doanh của khách hàng, tình hình thị trường đối với sản phẩm của khách hàng, tình hình
nền kinh tế và uy tín của khách hàng trong quan hệ tín dụng đối với các tổ chức tín
dụng khác cũng như quan hệ với đối tác kinh doanh. Do vậy, việc phân tích TCDN là
một trong những khâu vô cùng quan trọng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng hoạt
động tín dụng của ngân hàng.
1.2.2. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay của Ngân
hàng thương mại
Phân tích TCDN nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh
giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Đặc biệt, sự
phát triển của các doanh nghiệp, của các ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều
cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ là có ích và vô cùng cần thiết. Đóng vai trò là
người cho vay, thì phân tích tài chính là một yếu tố vô cùng quan trọng có ảnh hưởng
lớn đến hoạt động kinh doanh của các NHTM:
1.2.2.1. Đối với quyết định cho vay
Để quyết định cho vay, một trong những vấn đề mà các ngân hàng cần xem xét
là doanh nghiệp thực sự có nhu cầu vay hay không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp
nhử thế nào?... Phân tích TCDN sẽ cung cấp những thông tin cần thiết cho các ngân
hàng để họ có những quyết định đúng đắn khi cho vay. Cụ thể là:
 Phân tích tài chính cung cấp cho ngân hàng những thông tin nhằm đánh giá
khả năng và tính chắc chắn của dòng tiền vào ra, tình hình sử dụng có hiệu quả nhất của
vốn kinh doanh, từ đó đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Đây cũng chính
là cơ sở để ngân hàng xem xét khả năng trả nợ của doanh nghiệp và doanh nghiệp thực
sự có nhu cầu vay hay không.
 Phân tích tài chính cung cấp những thông tin về nguồn vốn chủ sở hữu, các
khoản nợ, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, sự kiện làm biến đổi ngồn vốn, đánh
giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp dùng để đầu tư
cho các tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Qua việc đo lường hiệu
quả sử dụng tổng tài sản cùng với việc chú trọng tới hiệu quả của từng bộ phận cấu

thành nên tổng tài sản của doanh nghiệp để biết được khả năng hoạt động của doanh
nghiệp. Quan tâm đến vốn chủ sở hữu và coi như nguồn đảm bảo cho ngân hàng có thể
thu hồi nợ khi doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản.
 Ngân hàng tiến hành phân tích TCDN cả trước, trong và sau quá trình cho vay
nhằm đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu về tình hình tài chính và hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, qua đó đánh giá tổng quát hoạt động của doanh nghiệp, dự
báo những bất ổn trong hoạt động kinh doanh để quan hệ tín dụng với doanh nghiệp
được lâu dài, có hiệu quả, đảm bảo an toàn vốn vay.
Như vậy, công tác phân tích tài chính sẽ được cán bộ tín dụng của ngân hàng tiến
hành một cách chi tiết, thống nhất, khoa học nhằm hạn chế, phòng ngừa rủi ro và nâng
cao chất lượng tín dụng, góp phần đáp ứng ngày một tốt hơn cho nhu cầu vay vốn của
các doanh nghiệp.
1.2.2.2. Đối với công tác thẩm định
Ngân hàng thu lời chủ yếu nhờ vào hoạt động cho vay, chính vì vậy mỗi khoản
tín dụng cấp ra nhất thiết phải mang lại lợi nhuận, điều đó đồng nghĩa với việc đảm bảo
cho hoạt động của ngân hàng được an toàn và hiệu quả. Với quá trình kiểm soát trước,
sau khi tiếp nhận và hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn, các bộ tín dụng tiến hành
thẩm định các điều kiện vay vốn. Thẩm định bao gồm việc kiểm tra hồ sơ vay vốn và
mục đích vay vốn; điều tra thu thập thông tin về khách hàng và phương án sản xuất
kinh doanh; kiểm tra xác minh thông tin…( thẩm định phi tài chính), và thẩm định tài
chính. Phân tích tài chính yêu cầu khách hàng phải có điều kiện tài chính đảm bảo trả
nợ trong thời hạn cam kết. Phân tích tài chính cùng với các điều kiện phi tài chính khác
sẽ giúp ngân hàng hoàn thiện hơn một bước vô cùng quan trọng trong việc thẩm định
các điều kiện vay vốn của khách hàng.
1.2.3. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Để tiến hành phân tích tài chính khách hàng nhất thiết phải có các thông tin tài
chính. Tất cả các thông tin thu thập được từ các nguồn khác nhau, qua quá trình tổng
hợp, xử lý sẽ giúp đưa đến những nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng. Về mặt lý
thuyết, có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp như: phương pháp so
sánh, phương pháp tỷ lệ, phương pháp loại trừ, phương pháp tương quan và hồi quy

bội, phương pháp phân tích tài chính Dupont,…Song chuyên đề này chỉ tập trung vào
những phương pháp cơ bản, được các ngân hàng vận dụng trong phân tích tài chính:
1.2.3.1. Phương pháp tỷ số
Phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến nhất trong phân tích tài chính
là phương pháp tỷ số. Tỷ số tài chính là giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa hai hay
nhiều số liệu tài chính với nhau. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều
kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Bởi lẽ:
(1). Nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và được cung cấp đầy
đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tỷ lệ tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một
tỷ số của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp.
(2). Việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích lũy dữ liệu và thúc đẩy
nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ số.
(3). Phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả
những số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên
tục theo từng giai đoạn.
Các nguồn thông tin kinh tế và tài chính được cải tiến và cung cấp đầy đủ hơn
từ đó cho phép tích lũy dữ liệu và thúc đẩy quá trình tính toán hàng loạt các tỷ số. Dựa
vào mục tiêu phân tích chúng ta có thể chia thành: các tỷ số nợ, các tỷ số thanh khoản,
các tỷ số hiệu quả hoạt động, các tỷ số khả năng sinh lời, các tỷ số khả năng sinh
trưởng và các tỷ số hoàn trả lãi vay.
* Ưu điểm:
+ Đây là phương pháp truyền thống, có tính hiệu lực cao với phạm vi áp dụng
ngày càng được bổ sung và hoàn thiện, đặc biệt nhờ sự phát triển của khoa học công
nghệ cho phép tích lũy dữ liệu, phân tích có hệ thông hàng loạt các ty số trong chuỗi
thời gian liên tiếp.
+ Các tỷ số tài chính được chia thành các nhóm khác nhau, phản ánh các nội
dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp: khả năng thanh toán, cân đối
vốn, khả năng hoạt động và khả năng sinh lời. Các tỷ số này bao quát các mặt hoạt
động của doanh nghiệp, cung cấp cho người sử dụng một cái nhìn toàn cảnh về tình
hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

+ Phân tích tỷ số có thể thấy được các mối liên hệ quan trọng, các điều kiện
và xu thế của các chỉ tiêu riêng lẻ mà nếu chỉ so sánh thì không thể xác định được.
* Nhược điểm
+ Một tỷ số tài chính đứng riêng lẻ thường là vô nghĩa. Theo nguyên tắc,
trong phương pháp này cần phải xác định các ngưỡng, các định mức, các tỷ số tham
chiếu. Muốn đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp cần phải so sánh các tỷ số của
doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu đó (có thể là số trung bình của ngành). Nếu
không có đầy đủ thông tin thì không thể xây dựng các tỷ số tham chiếu này
+ Sự hữu ích của các tỷ số phụ thuộc lớn vào khả năng ứng dụng và giải thích
tỷ số, do đó nếu các nhà phân tích tài chính không có trình độ cao thì hiệu quả phân tích
sẽ không cao. Mặt khác, mức độ tin cậy của số liệu trong các báo cáo tài chính là rất
quan trọng, cho nên nếu các số liệu này thiếu tính chính xác thì những kết luận rút ra từ
phân tích chắc chắn sẽ bị sai lệch.
1.2.3.2. Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích để xác định xu
hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Vì thế, để tiến hành so sánh phải giải
quyết những vấn đề cơ bản, cần phải đảm bảo các điều kiện đồng bộ để có thế so sánh
được các chỉ tiêu tài chính như sự thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính
chất và đơn vị tính toán. Đồng thời theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh và
kỳ phân tích.
Khi nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu số gốc để
so sánh là trị số của chỉ tiêu kỳ trước ( nghĩa là năm nay so với năm trước) và có thể
được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân. Kỳ phân tích được
lựa chọn là kỳ báo cáo, kỳ kế hoạch. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc
không gian. Trên cơ sở đó, nội dung của phương pháp so sánh gồm:
- So sánh kỳ thực hiện này với kỳ thực hiện trước để đánh giá sự tăng hay giảm
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và từ đó có nhận xét về xu hướng thay
đổi của TCDN.
- So sánh số liệu thực hiện với số liệu kế hoạch, số liệu của doanh nghiệp với số
liệu bình quân của ngành, của doanh nghiệp khác để thấy mức độ phấn đấu của doanh

nghiệp được hay chưa được.
- So sánh theo chiều dọc để xem tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so
sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự thay đổi về lượng và về tỷ lệ của
các khoản mục theo thời gian.
* Ưu điểm:
+ So sánh giữa số thực hiện và số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của
doanh nghiệp trong việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu.
+ So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của các chỉ tiêu trong tổng
thể, đánh giá cơ cấu tài sản, nguồn vốn, hoạt động quản lý doanh thu, chi phí.
+ So sánh số liệu thực hiện của kỳ này với các kỳ trước để theo dõi sự biến
động của tình hình tài chính, kết quả hoạt động của doanh nghiệp qua nhiều kỳ kế toán
liên tiếp. Từ đó, dự đoán khả năng hoạt động, khả năng tạo ra các luồng tiền, các mức
doanh lợi trong tương lai phục vụ cho việc định giá doanh nghiệp; và bên cạnh đó là sự
biến động khả năng thanh toán, chi trả lãi vay, chi trả cổ tức…
+ Khi so sánh số liệu với các doanh nghiệp khác trong ngành hoặc với số
trung bình của ngành có thể đánh giá vị thế tài chính, khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp, xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp như vậy là tốt hay xấu, có thể
đứng vững hay không.
* Nhược điểm:
+ Không cho thấy rõ mối liên hệ giữa các chỉ tiêu tài chính trên các báo cáo
tài chính với nhau, không thể đánh giá hết tình hình tài chính, hoạt động của doanh
nghiệp.
+ Cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so sánh được của các chỉ tiêu tài
chính: Sự thống nhất về không gian, nội dung, tính chất, đơn vị tính toán…
+ Việc so sánh các tỷ lệ phần trăm tỷ trọng có thể không cho thấy quy mô
của doanh nghiệp.
Phương pháp so sánh thường được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích
tỷ số thông qua việc so sánh và phân tích sự biến động của các tỷ số tài chính để khắc
phục được những nhược điểm của hai phương pháp trên. Hiện nay, phương pháp này
được sử dụng rất phổ biến và nó được coi là công cụ hữu hiệu giúp các chủ thể phân

tích thấy được “ bức tranh” về tình hình tài chính của doanh nghiệp, là những “người
dẫn đường” cho cho các nhà quản trị nhận định về khuynh hướng tương lai của doanh
nghiệp.
1.2.3.3. Phương pháp phân tích tài chính DUPONT
Phân tích tài chính Dupont là kỹ thuật phân tích bằng cách chia tỷ số ROA và
ROE thành những bộ phận có liên hệ với nhau (tác động tương hỗ) để đánh giá tác
động của từng bộ phận lên kết quả sau cùng. Phương pháp Dupont được công ty
Dupont của Mỹ đưa vào sử dụng trong phân tích tài chính lần đầu tiên vào khoảng
chiến tranh thế giới thứ nhất. Ngay sau đó, phương pháp này đã nhanh chóng thu hút
được sự chú ý của giới chuyên môn và đã được áp dụng rộng rãi tại các công ty lớn của
Mỹ. Ngày này, phương pháp này được sử dụng khá rộng rãi trên thế giới bởi các nhà
quản lý trong nội bộ công ty để có cái nhìn cụ thể và đưa ra quyết định xem nên cải
thiện tình hình tài chính của công ty bằng cách nào. Thực chất phương pháp Dupont
cũng phải dựa trên cơ sở các tỷ số được tính toán theo phương pháp phân tích tỷ số.
Theo phương pháp này, một chỉ tiêu tổng hợp sẽ được tách thành nhiều tỷ số có quan
hệ với nhau để xem xét tác động của các tỷ số đó tới chỉ tiêu tổng hợp.
Sơ đồ:
Lợi nhuận
sau thuế
x
Doanh thu
thuần
Doanh thu
thuần
Tổng tài
sản

Lợi nhuận
sau thuế
x

Tổng tài
sản
Tổng tài
sản
Vốn chủ
sở hữu

Lợi nhuận
sau thuế
Vốn chủ sở
hữu

Điểm nổi bật của phương pháp phân tích Dupont không chỉ là phản ánh khả
năng sinh lời của doanh nghiệp mà nó còn cho phép nhà phân tích đi sâu tìm hiểu
nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự thay đổi tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp
bằng cách phân tích các tỷ số thành phần. Việc sử dụng kết hợp phương pháp Dupont
với phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh sẽ cho thấy một cái nhìn toàn
diện nhất về tình hình hoạt động cũng như tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1.2.4. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp trong cho vay của Ngân
hàng thương mại
1.2.4.1. Phân tích các chỉ số tài chính
Trong phân tích tài chính, các chỉ số tài chính chủ yếu thường được phân làm 4
nhóm chính: Chỉ số về khả năng thanh toán, chỉ số về khả năng cân đối vốn, chỉ số về
khả năng hoạt động và các chỉ số về khả năng sinh lãi.
 Các chỉ số về khả năng thanh toán
Bằng cách kiểm tra việc tăng vốn và khả năng quản lý từ nhiều góc độ khác
nhau, sự ổn định vững vàng của doanh nghiệp được đánh giá qua việc kiểm tra khả
năng của doanh nghiệp có thể trả các khoản nợ thương mại và hoàn trả vốn vay hay
không. Do những tỷ số này được tính toán dựa trên tài sản Có tại một thời điểm nhất
định nên chúng được coi là các tỷ số tĩnh.

 Khả năng thanh toán hiện hành
Cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các
tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các
khoản nợ đó.
Công thức tính:
Khả năng thanh
toán
hiện hành
=
Tài sản lưu
động
Nợ ngắn hạn
Một tỷ lệ quá cao có thể dẫn đến những nhận định về doanh nghiệp: Quá nhiều
tiền nhàn rỗi, khoản phải thu, và quá nhiều hàng tồn kho. Một tỷ lệ nhỏ hơn 1 có thể
nhận định rằng doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc trả những khoản nợ ngắn hạn có
thể do dùng các khoản vay ngắn hạn để mua tài sản cố định hoặc trả các khoản nợ thay
vì dùng lãi trong hoạt động kinh doanh để chi trả. Tỷ số này từ 1,1 đến 2 là tốt nhất.
 Khả năng thanh toán nhanh

×