Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại maritime bank – chi nhánh cầu giấy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (588.32 KB, 93 trang )

Chuyên đề thực tập
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển mình trên con đường đổi mới và hội
nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, từng bước khắc phục được những khó khăn,
phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu to lớn như: tốc độ tăng trưởng
kinh tế khá cao, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã xảy ra và ảnh hưởng tiêu cực tới hầu hết các
nước trên thế giới trong đó/y có Việt Nam. Đứng trước tình hình đó, chính phủ đã
đề ra các chính sách kịp thời linh hoạt để đưa nền kinh tế Việt Nam ra khỏi lốc xoáy
của cuộc khủng hoảng. Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tài chính
quan trọng của nền kinh tế cũng đã đóng góp công sức của mình vào tình hình kinh
tế chung. Trong đó, chúng ta phải kể đến một trong những nghiệp vụ quan trọng
nhất của ngân hàng là hoạt động tín dụng trung dài hạn, không thể phủ nhận vai trò
to lớn của nó trong việc khôi phục và thúc đẩy nền kinh tế sau ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng phát triển theo hướng Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa. Bên cạnh đó,
nguồn vốn trung dài hạn của ngân hàng là nguồn chủ yếu cho các doanh nghiệp đầu
tư, mua sắm đổi mới thiết bị phù hợp với tiến bộ khoa học công nghệ của thế giới.
Vì vậy mà nguồn tín dụng trung dài hạn là nhu cầu cấp thiết hiện nay. Và ta có thể
khẳng định khi hoạt động tín dụng trung dài hạn có hiệu quả thì không chỉ có ý
nghĩa đối với mỗi ngân hàng, mỗi doanh nghiệp vay vốn mà còn đối với cả nền kinh
tế. Để làm được điều này thì các Ngân hàng thương mại phải nâng cao chất lượng
thẩm định trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của mình, cho chất lượng thẩm
định ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng và ảnh hưởng tới sự phát triển của
Ngân hàng.
Qua một thời gian thực tập tại Maritime Bank – Chi nhánh Cầu Giấy, em
nhận thấy mặc dù chi nhánh đã có một quy trình thẩm định khá hoàn chỉnh, xong
với sự biến động của môi trường vĩ mô, vi mô, của các ngành nghề kinh tế và
những biến động nội tại của chính Chi nhánh thì vẫn còn xảy ra những hạn chế
trong quá trình thẩm định nói chung và thẩm định tài chính nói riêng. Vì vậy, em đã
quyết định lựa chọn viết chuyên đề thực tập với đề tài là: “Giải pháp nâng cao chất
lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại


Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 1
Chuyên đề thực tập
Maritime Bank – Chi nhánh Cầu Giấy”. Đây là một đề tài mà em thấy rất thiết
thực đối với hoạt động tín dụng trung và dài hạn nói chung và cụ thể là hoạt động
thẩm định tại Chi nhánh hiện nay.
Nội dung chuyên đề của em gồm 3 chương như sau:
Chương I

:

Tổng quan về hoạt động thẩm định tài chính dự án trong hoạt
động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại.
Chương II : Thực trạng hoạt động thẩm định tài chính dự án trong hoạt
động tín dụng trung và dài hạn tại Maritime Bank – Chi nhánh Cầu Giấy.
Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án
trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại Maritime Bank – Chi nhánh Cầu
Giấy.
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn giáo viên hướng dẫn Th.s Trần Minh Tuấn
cùng các cán bộ, nhân viên tại Maritime Bank – Chi nhánh Cầu Giấy đã chỉ bảo,
hướng dẫn tận tình và giúp đỡ em hoàn thành Chuyên đề tốt nghiệp này.
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 2
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1.1. Hoạt động cơ bản của NHTM trong nền kinh tế
NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ và tín dụng, không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất như các doanh

nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất - kinh doanh nhưng tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình sản xuất, lưu thông và phân phối sản phẩm xã hội bằng cách cung ứng vốn tín
dụng, vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mở rộng kinh doanh, góp
phần tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế.
Theo định nghĩa ở Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng 229/06/2010 (Điều 4,
Khoản 3): "Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả
các hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của
Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận" và theo Điều 14, Khoản 12: “ Hoạt động ngân
hàng là viêc kinh doanh cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ sau
đây: a) Nhận tiền gửi; b) Cấp tín dụng; c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài
khoản”.
∗ Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho Ngân hàng thương mại, nó
đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của Ngân hàng.
Hoạt động huy động vốn của một Ngân hàng thương mại bao gồm: Nhận
tiền gửi, phát hành các giấy tờ có giá ra công chúng, vay từ các tổ chức khác, vay
NHTW, tự tài trợ bằng vốn chủ sở hữu của Ngân hàng, nhận ủy thác, nhận tiền
thanh toán.
∗ Hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng với nghĩa rộng bao gồm cả hoạt động cho vay và đi vay,
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 3
Chuyên đề thực tập
nhưng khi gắn với chủ thể nhất định là Ngân hàng thương mại thì hoạt động tín
dụng được coi là hoạt động cho vay, là hoạt động mang lại thu nhập chủ yếu cho
Ngân hàng. Thông qua hoạt động này Ngân hàng thu được lợi nhuận để bù đắp các
chi phí cho việc huy động vốn. Hoạt động cho vay chiếm vị trí quan trọng hơn,
nhưng nó lại đặt Ngân hàng đối diện với rất nhiều rủi ro, quyết định sự tồn tại của
Ngân hàng.
Có nhiều hình thức phân loại một khoản vay của Ngân hàng thương mại:
theo giá trị thời gian có vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; theo đối tượng khách

hàng có doanh nghiệp, cá nhân, chính phủ.
∗ Hoạt động trung gian
Bên cạnh nghiệp chính là huy động vốn và cho vay, Các Ngân hàng thương
mại còn thực thiện các nghiệp vụ trung gian thanh toán theo yêu cầu của khách
hàng như chuyển tiền, thanh toán không dùng tiền mặt, cung cấp dịch vụ tư vấn,…
Nghiệp vụ này không những mang lại thu nhập cho Ngân hàng (Ngân hàng thường
thu phí các dịch vụ này) mà còn góp phần thúc đẩy hỗ trợ cho hai nghiệp vụ chính
huy động vốn và cho vay.
1.1.2. Hoạt động tín dụng trung, dài hạn của NHTM
Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng vô cùng quan trọng, nó là một
quan hệ tín dụng chủ yếu, cung cấp phần lớn nhu cầu tín dụng cho các doanh
nghiệp, các thể nhân khác trong nền kinh tế. Có rất nhiều cách phân loại tín dụng
ngân hàng dựa vào các căn cứ khác nhau, một trong những tiêu thức phổ biến đó là
phân chia theo thời gian sử dụng vốn vay bao gồm: Tín dụng ngắn hạn; Tín dụng
trung hạn; Tín dụng dài hạn.
1.1.2.1. Khái niệm hoạt động tín dụng trung, dài hạn
Tín dụng trung, dài hạn là các khoản tín dụng có thời hạn từ 1 năm trở lên,
nó được dùng để hình thành vốn cố định của khách hàng, tài trợ mua sắm trang thiết
bị công nghệ, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật,cải tiến công nghệ sản xuất của
doanh nghiệp để từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng sản xuất chiếm lĩnh
thị trường…
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 4
Chuyên đề thực tập
1.1.2.2 Đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn
Tín dụng trung, dài hạn có những đặc điểm cơ bản quan trọng như sau:
∗ Vốn đầu tư lớn và thu hồi vốn chậm:
Nếu như đối với các khoản tín dụng ngắn hạn thường tài trợ cho các tài sản
lưu động có thời gian thu hồi vốn nhanh thì các khoản tín dụng trung-dài hạn
thường hình thành vốn cố định của khách hàng, tài trợ cho các tài sản cố định, sử
dụng lâu dài. Do đó đòi hỏi các khoản vốn lớn, thời gian đầu tư dài, thường có quy

mô lớn và gắn liền với các dự án đầu tư.
Nguồn trả nợ gốc và lãi đối với khoản vay này cho ngân hàng chủ yếu được lấy
từ quỹ khấu hao và một phần từ lợi nhuận của dự án đầu tư mang lại. Vì vậy, khách
hàng chỉ có thể hoàn trả gốc và lãi cho ngân hàng thành nhiều kì và thời hạn cho vay
kéo dài trong nhiều năm. Mặt khác, các khoản tín dụng trung, dài hạn hầu hết là tài trợ
cho các dự án. Một đặc điểm của các dự án là thường trải qua nhiều khâu và những
năm đầu thường ít có lãi hoặc có khi còn chịu lỗ, do đó mà các khoản vốn trung và dài
hạn thường thu hồi vốn chậm.
∗ Độ rủi ro cao
Với một thời gian hoàn vốn kéo dài, quy mô vốn lớn thì thì thường đi kèm
với nó là độ rủi ro cao. Như chúng ta đã biết, nền kinh tế của một quốc gia luôn có
những biến động như tình hình lạm phát khiến cho các khoản vốn thực tế thu về bị
giảm giá trị, hoặc tình hình kinh tế thay đổi làm cho tình hình kinh doanh của khách
hàng gặp rủi ro…Vì vậy các khoản tín dụng trung và dài hạn thường có độ rủi ro
cao hơn tín dụng ngắn hạn.
∗ Lợi nhuận từ các khoản cho vay trung và dài hạn thường lớn
Đối với ngân hàng khi cho vay các khoản tín dụng trung và dài hạn thì cũng
giống như nhà đầu tư. Đi kèm với rủi ro là lợi nhuận mà ngân hàng kỳ vọng cao, vì
vậy mà thu nhập từ các khoản vay này thường cao, điều này được thể hiện rõ qua lãi
suất cho vay trung và dài hạn thường cao hơn lãi vay ngắn hạn.
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 5
Chuyên đề thực tập
1.1.2.3 Phân loại tín dụng trung- dài hạn
a. Tín dụng theo dự án
Đây là hình thức tín dụng trung và dài hạn cấp cho vay đối với các dự án.
Hình thức cho vay chủ yếu là các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, máy móc.
Tín dụng trung và dài hạn theo dự án gồm các hình thức như sau:
∗ Cho vay đồng tài trợ (syndicate loan)
Cho vay đồng tài trợ (còn gọi là cho vay hợp vốn) là hình thức cấp tín dụng
mà có hai hay nhiều tổ chức tín dụng cùng cho vay một dự án, trong đó có một tổ

chức đứng ra làm đầu mối, cùng với các bên còn lại đồng tài trợ nhằm mục đích
phân tán rủi ro.
Hình thức này thường được áp dụng trong các trường hợp là:
+ Các dự án đòi hỏi một khoản vốn đầu tư lớn mà một ngân hàng không đáp
ứng hết được do vượt quá giới hạn tối đa, mặt khác ngân hàng chỉ được phép cho
vay vốn tới một mức độ nhất định so với nguồn vốn của mình và không được đầu tư
quá nhiều vốn vào riêng một doanh nghiệp hay mọt dự án để đảm bảo an toàn vốn
và tài sản.
+ Trong một số trường hợp một ngân hàng có khả năng đáp ứng toàn bộ vốn,
nhưng do mức độ rủi ro quá lớn buộc nó phải kêu gọi các ngân hàng khác cùng
tham gia tài trợ để phân tán rủi ro.
∗ Cho vay trực tiếp theo dự án
Đây là hình thức tín dụng trung và dài hạn phổ biến. Các ngân hàng tiến
hành tài trợ và chịu trách nhiệm trực tiếp đối với từng dự án đầu tư của khách hàng
mà họ đã lựa chọn để tài trợ.
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn thì người vay phải xây dựng dự án, thể
hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án. Từ đó nhân
viên thẩm định phân tích xem xét kỹ lưỡng rồi quyết định phần cho vay và qua đó
xác định được khả năng hoàn trả của doanh nghiệp.
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 6
Chuyên đề thực tập
b. Tín dụng thuê mua( leasing credit)
Tín dụng thuê mua là một hình thức tín dụng trung- dài hạn thông qua một
hợp đồng tín dụng thuê mua. Trong đó, ngân hàng mua tài sản mà khách hàng đang
cần rồi cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu đủ giá trị của
tài sản cho thuê cộng với lãi. Tức là trong trường hợp này ngân hàng đã chuyển giao
tài sản của mình chi khách hàng là người đi thuê sử dụng, khách hàng có trách
nhiệm thanh toán tiền thuê cùng tiền lãi trong suốt quá trình thuê.
1.1.2.4 Vai trò của tín dụng trung và dài hạn
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, để tồn tại, cạnh

tranh và phát triển thì nhu cầu mua sắm trang thiết bị, tài sản cố định của doanh
nghiệp ngày càng cao mà nguồn tài trợ chủ yếu cho các khoản này là nguồn dài hạn.
Vì vậy tín dụng trung và dài hạn đóng vai trò rất quan trọng đối với từng doanh
nghiệp và đối với ngân hàng cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế.
 Đối với nền kinh tế
Nguồn vốn chiếm vị trí rất quan trọng trong sự tăng trưởng phát triển của
một quốc gia, đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn phục vụ cho việc đầu tư phát
triển. Hiệu quả của hoạt động tín dụng trung dài hạn sẽ tác động đến mọi lĩnh vực
của nền kinh tế- chính trị- xã hội.
Với nền kinh tế như hiện nay của Việt Nam nhu cầu về vốn trung và dài hạn
là rất lớn. Nhu cầu này một phần đươc đáp ứng bằng vốn Nhà nước cấp phát, vay
nợ nước ngoài và huy động từ dân cư. Nhưng việc cấp tín dụng trung dài hạn qua hệ
thống trung gian tài chính là các ngân hàng thương mại vẫn đóng vai trò quan trọng
và chủ yếu. Nó không những thoả mãn nhu cầu vốn xây dựng cơ bản của nền kinh
tế, mà còn góp phần đảm bảo tính hiệu quả cho công tác quản lý vĩ mô của Nhà
nước về mặt tốc độ tăng trưởng và cơ cấu sản xuất, đảm bảo lợi ích cho các doanh
nghiệp và cho cả ngân hàng. Đồng thời nó giảm bớt đáng kể các khoản bao cấp từ
ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản, góp phần làm giảm thâm hụt Ngân sách Nhà
nước.
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 7
Chuyên đề thực tập
Khi mà hoạt động tín dụng trung dài hạn đầu tư vào lĩnh vực mới, cải tạo
nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh sẽ tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao
động góp phần ổn định đời sống của người dân, góp phần làm ổn định trật tự xã hội.
 Đối với doanh nghiệp
Với một môi trường kinh tế cạnh tranh và gay gắt như hiện nay mỗi doanh
nghiệp phải có những chiến lược riêng cho mình để có thể tồn tại và phát triển
được. Doanh nghiệp không ngừng đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, mở rộng
thị trường…Để làm được đó, các doanh nghiệp cần phải có một nguồn vốn trung
dài hạn lớn và ổn định.

Các nguồn huy động nào có thể đáp ứng được điều đó. Bất cứ doanh nghiệp
nào cũng có vốn tự có nhưng nó chưa đủ lớn để có thể tự tài trợ những khoản dài
hạn như vậy. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể huy động thông qua thị trường tài chính
như là phát hành cổ phiếu, trái phiếu dài hạn. Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, uy tín cũng như quy mô chưa đủ để phát hành trái
phiếu. Hơn nữa, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển mạnh còn gặp
nhiều khó khăn, từ đó gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc huy động vốn
trên thị trường này. Vì vậy, có một con đường nữa cho các doanh nghiệp là đi vay
là phù hợp nhất để đổi mới, với những lợi thế đặc thù, tín dụng trung và dài hạn của
ngân hàng được xem là một nguồn tài trợ quan trọng và chủ yếu cho các doanh
nghiệp. Với khoản vay này doanh nghiệp có thể thực hiện những dự án lớn mà
không lo việc phải san sẻ quyền lực, không phải đối phó với việc muốn thu hồi trái
phiếu nhưng chưa đến hạn, đồng thời giảm chi phí phát hành, các chi phí khác liên
quan so với việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán.
Tín dụng trung dài hạn của ngân hàng còn giúp cho các doanh nghiệp có thể
chớp được thời cơ kinh doanh. Ngoài ra khi vay vốn tại ngân hàng thì các doanh
nghiệp có thể tự mình điều chỉnh kỳ hạn của mình để phù hợp với điều kiện của
ngân hàng. Doanh nghiệp có thể trả nợ trước hạn, việc trả nợ trung dài hạn được
thỏa thuận theo từng kỳ hạn hợp lý, ổn định phù hợp với doanh nghiệp, ngoài ra
cũng có thể gia hạn nợ nếu tình hình còn gặp khó khăn.
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 8
Chuyên đề thực tập
 Đối với ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại phải vần mình thay đổi, có những chiến lược để
có thể tồn tại và đứng vững trong môi trường kinh tế cạnh tranh gay gắt như hiện
nay. Để làm được như vậy, các ngân hàng phải quan tâm tới hiệu quả kinh doanh
của mình. Chính là quan tâm tới hoạt động tín dụng, vì đây là hoạt động mang lại
lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng.
Ngân hàng đang tạo mối quan hệ với khách hàng khi cấp tín dụng cho khách
hàng chính. Và điều này rất quan trọng vì khi tạo được mối quan hệ lâu dài thì ngân

hàng có khả năng mở rộng hoạt động của mình, khẳng định được vị thế của mình.
Thật vậy, khi cấp tín dụng trung dài hạn, doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả vốn vay
của mình thì mở rộng kinh doanh của mình từ đó nhu cầu vốn lưu động cũng tăng lên
để đáp ứng nhu cầu sản xuất. Khi tạo được mối quan hệ tạo được niềm tin trong lòng
khách hàng thì khách hàng cũng tìm đến ngân hàng để vay vốn ngắn hạn. Không chỉ
vậy mà thông qua mối quan hệ này, thì ngân hàng có thể tư vấn để thuyết phục khách
hàng sử dụng thêm các dịch vụ khác do mình cung cấp, từ đó đa dạng hoá hoạt động
của ngân hàng. Đồng thời khi mà tạo mối quan hệ tốt khách hàng này nói truyền tai
nhau đến khách hàng khác sẽ gây dựng nên một hình ảnh đẹp trong lòng khách hàng.
Điều này rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 9
Chuyên đề thực tập
1.2. HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM
1.2.1. Khái niệm thẩm định tài chính dự án
Quy trình thẩm định dự án:
Đối với một Ngân hàng thương mại, thẩm định dự án là quá trình xem xét
một cách khách quan, toàn diện vác nội dung căn bản có ảnh hưởng trực tiếp tới
tính khả thi và khả năng hoàn trả vốn đầu tư của khách hàng để phục vụ cho việc
xem xét ra quyết định cho vay.
Trong đó, thẩm định tài chính dự án là một bước rất quan trọng của quá trình
thẩm định dự án, là thẩm định các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả tài chính của dự
án. Hay nói cách khác, thẩm định tài chính là thẩm định tính khả thi về mặt tài
chính của dự án, nhu cầu vay vốn của dự án cũng như khả năng trả nợ và lãi vay
của dự án.
1.2.2. Nội dung thẩm định tài chính dự án
Thẩm định tài chính dự án đầu tư là một trong những nội dung quan trọng, là
quá trình kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ các nội dung liên quan tới khía cạnh tài
chính của sự án để xác định hiệu quả tài chính của dự án được xem xét. Hoạt động
thẩm định tài chính dự án diễn ra theo một quy trình thống nhất với các bước cụ thể.

Thông thường, thẩm định tài chính dự án được tiến hành thông qua một số bước
sau:
a. Thẩm định tổng mức vốn đầu tư và nguồn tài trợ cho dự án
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 10
Tiếp nhận,
xem xét hồ
sơ tín dụng
của Khách
hàng
Thu thập
thông tin
cần thiết
cho việc
thẩm định
Thẩm định
hiệu quả
PAKD/DAD
T và khả
năng thu hồi
nợ dựa trên
các thông tin
thu thập
được
Ước lượng
và kiểm
soát rủi ro
tín dụng
Kết luận
thẩm định
Chuyên đề thực tập

- Thẩm định tổng mức vốn đầu tư
Đây là nội dung quan trọng đầu tiên cần xem xét khi tiến hành phân tích tài
chính dự án. Việc thẩm định chính xác tổng mức vốn đầu tư có ý nghĩa rất quan
trọng đối với tính khả thi của dự án. Nếu mức vốn đầu tư dự tính quá thấp dự án sẽ
không thực hiện được, ngược lại nếu dự tính quá cao sẽ không phản ánh chính xác
hiệu quả tài chính của dự án.
Tổng mức vốn đầu tư của dự án bao gồm toàn bộ số vốn cần thiết để thiết lập
và đưa dự án vào hoạt động. Tổng mức vốn thường được chia ra thành hai loại cơ
bản: Vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn lưu động.
- Vốn đầu tư vào tài sản cố định bao gồm: đầu tư vào trang thiết bị, dây
truyền sản xuất để hình thành lên tài sản cố định cho dự án.
- Vốn lưu động bao gồm: dự trữ vật tư, sản xuất dở dang, vốn tiền mặt,
…theo dự kiến và được dùng trong quá trình vận hành, khai thác các tài sản cố định
của dự án trong suốt quá trình tồn tại của dự án sau này.
- Thẩm định nguồn tài trợ cho dự án
Trên cơ sở tổng vốn đầu tư cho dự án, Ngân hàng tiến hành xem xét các
nguồn tài trợ cho dự án, trong đó phải tìm hiểu về khả năng đảm bảo vốn từ mỗi
nguồn về quy mô và tiến độ. Các nguồn tài trợ cho dự án có thể do chính phủ tài
trợ, Ngân hàng cho vay, vốn tự có của chủ đầu tư, vốn huy động từ các nguồn khác.
Để đảm bảo tiến độ thực hiện đầu tư của dự án, vừa để tránh ứ đọng vốn, các
nguồn tài trợ được xem xét không chỉ về mặt số lượng mà phải theo dõi cả về thời
điểm nhận được tài trợ. Tiếp đó phải so sánh nhu cầu về vốn với khả năng đảm bảo
vốn cho dự án từ các nguồn về số lượng và tiến độ. Sau khi xem xét các nguồn tài
trợ cho dự án cần xem xét cơ cấu nguồn vốn của dự án.
Vậy qua nghiên cứu bước này Ngân hàng có thể có được quyết định phù hợp
nếu cho vay thì phải giải ngân như thế nào để đảm bảo dự án được tiến hành một
cách thuận lợi.
b. Phân tích doanh thu
Doanh thu được tính hàng năm và bao gồm các khoản phát sinh từ việc vận
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 11

Chuyên đề thực tập
hành TSCĐ được đầu tư bởi dự án:
- Doanh thu từ sản phẩm chính, doanh thu từ sản phẩm phụ.
- Dịch vụ cung cấp cho bên ngoài.
Để đảm bảo tính hợp lý và chính xác của doanh thu, cần kiểm tra lại hai yếu
tố: giá bán và sản lượng sản xuất hàng năm. Để đơn giản trong tính toán, giá bán
thường được giả định là cố định trong thời gian vận hành dự án. Tuy nhiên, nếu giá
bán sản phẩm là nhạy cảm với các biến động của thị trường trong và ngoài nước,
hoặc chịu sự cạnh tranh khốc liệt của đối thủ thì cần phải tính tới mức độ biến động
của giá cả sản phẩm.
Sản lượng sản xuất có thể được tính theo phần trăm của công suất thiết kế,
tăng dần theo các năm và đạt 100% công suất khi mà sản xuất đi vào ổn định. Vì
vậy, việc xác định đúng % công suất hoạt động là một việc quan trọng, nhà phân
tích có thể tính sự biến động của sản lượng để ước lượng rủi ro.
Vào năm cuối cùng của dự án, dự án có thể có khoản thu hồi từ tài sản. Khi
đó giá bán tài sản cần được trừ đi giá trị còn lại của tài sản theo sổ sách
(giá trị còn lại = nguyên giá – khấu hao lũy kế) để tính lợi nhuận ( hoặc lỗ).
c. Phân tích chi phí
Việc lựa chọn công suất thiết kế không chỉ tác động tới doanh thu mà còn
ảnh hưởng tới chi phí hoạt động hàng năm của dự án. Căn cứ vào kế hoạch sản
xuất, phương pháp khấu hao, kế hoạch trả nợ, chi phí hoạt động bao gồm các khoản
mục sau:
- Nguyên vật liệu gồm nguyên vật liệu chính, vật liệu bao bì, sản phẩm dở
dang, dịch vụ mua ngoài, nhiên liệu, năng lượng, nước.
- Tiền lương, bảo hiểm , chi phí bảo dưỡng máy móc, thiết bị, nhà xưởng.
- Khấu hao bao gồm chi phí chuẩn bị máy móc, thiết bị, dụng cụ, phương
tiện vận tải, nhà xưởng, chi phí ban đầu về quyề sử dụng đất.
- Chi phí quản lý phân xưởng, quản lý doanh nghiệp.
- Chi phí bảo hiển tài sản, chi phí tiêu thụ sản phẩm, lãi vay, chi phí khác.
Các chi phí biến đổi như nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng,… được

tính theo sản lượng sản xuất và định mức tiêu hao. Người phân tích cần kiểm tra lại
định mức tiêu hao qua tình hình thực tế của các dự án cùng lại hoặc tiêu chuẩn cùng
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 12
Chuyên đề thực tập
ngành. Trường hợp là sản phẩm mới chưa từng được sản xuất trong nước, cần có sự
tư vấn của các chuyên gia kỹ thuật trong ngành và đánh giá dự án ở mức độ rủi ro
cao hơn.
Các chi phí quản lý được tính theo % doanh thu. Một số chi phí có thể được
tính theo sản lượng như chi phí vận chuyển, lương nhân viên bán hàng.
Chi phí lãi vay được tính dựa trên kế hoạch vay và trả nợ đối với các nguồn
vốn huy động từ bên ngoài. Thời kỳ tính lãi là hàng năm mặc dù các chủ nợ có thể
yêu cầu chủ đầu tư trả theo quý hoặc tháng. Cần kiểm tra lại cách tính trả lãi và gốc
cho phù hợp với thông lệ của ngân hàng.
d. Thẩm định dòng tiền của dự án
Do tiền có giá trị thời gian nên nhân viên thẩm định cần quan tâm tới thời
điểm xác định dòng tiền là lúc nào, số lượng là bao nhiêu.
Cách tính dòng tiền của dự án:
Dòng tiền
của dự án
= Dòng tiền của doanh
nghiệp nếu có dự án
- Dòng tiền của doanh
nghiệp nếu không có dự
án
Theo công thức này thì dòng tiền của dự án là dòng tiền chênh lệch dòng tiền
của doanh nghiệp trong trường hợp dự án được thực hiện với không thực hiện.
Dòng tiền của dự án bao gồm dòng tiền vào và dòng tiền ra. Trong phần xác
định dòng tiền cần phân biệt thu nhập kế toán và dòng tiền. Báo cáo kết quả kinh
doanh là phần tổng hợp của doanh thu và chi phí của dự án. Nó còn được gọi là
doanh thu và chi phí kế toán của dự án. Trong khi đó, báo cáo lưu chuyển tiền tệ ghi

nhận số tiền thực thu vào và số tiền thực chi ra của dự án. Phần chênh lệch giữ dòng
tiền vào và dòng tiền ra gọi là dòng tiền thuần. Xong với hạn chế là dòng tiền dùng
để phân tích dự án là dòng tiền dự báo chứ không phải dòng tiền thực.
Do sự cần thiết phải quan tâm tới giá trị thời gian của tiền, để so sánh những
khoản thu, khoản chi tài các thời điểm khác nhau trong quãng đời hoạt động của dự
án, cần phải biết được thời điểm xuất hiện các khoản tiền này. Chính vì vậy, trong
việc lập dự toán vốn đầu tư, các quyết định chỉ dựa trên dòng tiền thu vào và chi ra
trong những giai đoạn hoạt động của dự án. Việc xác định thời điểm dòng tiền xuất
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 13
Chuyên đề thực tập
hiện là rất quan trọng, theo lý thuyết thì cần phải xác định sự xuất hiện hàng ngày
của dòng tiền, xong như vậy thì rất tốn kém về chi phí. Trên thực tế, theo quy ước
chung thì dòng tiền được giả định là xuất hiện vào thời điểm cuối hàng năm của
dự án.
Trong khi xác định dòng tiền của dự án, nhân viên thẩm định cũng cần chú ý
tới một số dòng tiền đặc biệt phát sinh trực tiếp từ việc thực hiện dự án:
- Chi phí chìm: Chi phí chìm là chi phí phát sinh trước khi thực hiện
dự án, cho dù dự án có được thực hiện hay không thì khoản chi phí này đã phát sinh
vì vậy nó không dược coi là chi phí tăng thêm và không được tính vào dòng tiền của
dự án.
- Chi phí cơ hội: Là những khoảng thu nhập mà công ty phải mất đi do
sử dụng nguồn lực của công ty vào dự án. Chi phí không phải là một nguồn thực chi
nhưng vẫn được tính vào dòng tiền của dự án. Khi thẩm định cần chú ý xem khách
hangc có tính loại chi phí này vào dòng tiền hay không? Thông thường khách hàng
thường bỏ quên loại chi phí này.
- Tác động của thuế: Thuế có tác động rất lớn tới dòng tiền và trong
nhiều trường hợp, thuế có thể thúc đẩy và phá vỡ một dự án. Vì vậy , khi đánh giá
dự án, dòng tiền của dự án là dòng tiền sau thuế. Thuế tác đọng tới dòng tiền của dự
án theo một số cách:
+ Giảm thuế đồi với vốn đầu tư vào tài sản cố dịnh thông qua chi phí khấu hao.

+ Tăng (giảm) thuế với một khoản lợi nhuận (lỗ) được tạo ra từ dự án.
+ Giảm thuế với chi phí lãi vay do lãi vay được trừ vào chi phí trước thuế.
- Nhu cầu vốn lưu động: Là nhu cầu cần phải chi để tài trợ cho nhu cầu
tồn quỹ tiền mặt, các khoản phải thu, tồn kho sau khi trừ đi các khoản bù đắp từ các
khoản phải trả. Khi thẩm định cần chú ý xem khách hàng có chú ý tới: (1) khách
hàng có kể tới vốn lưu động hay không, (2) khách hàng có tính tới sự thay đổi vốn
lưu động hay không.
Nhu cầu vốn
lưu động
= Tiền mặt +
Khoản
phải thu
+
Tồn
kho
-
Khoản
phải trả
Khi nhu cầu vốn lưu động của dự án tăng thì dự án cần một khoản chi tăng thêm,
ngược lại khi nhu cầu vốn lưu động giảm xuống thì sẽ có một khoản tiền thu về.
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 14
Chuyên đề thực tập
∆ Nhu cầu vốn
lưu động
= ∆ Tiền mặt +
∆ Khoản
phải thu
+
∆ Tồn
kho

-
∆ Khoản
phải trả
Khi dự án kết thúc, lượng tài sản lưu động dự trữ này cũng được thanh lý để
thu về tiền mặt. Do tính chất của tài sản lưu động là tương đối dễ bán, nên để thuận
tiện trong quá trình phân tích, giá trị thu hồi thường được giả thiết bằng đúng giá trị
chi ra.
Một số dòng tiền khác có thể xuất hiện hoặc không ví dụ như chi phí gián
tiếp của dự án như chi phí nhân công, chi phí văn phòng,… nếu tăng thêm thì phải
tính vào chi phí của dự án. Sản phẩm mới của dự án làm tăng doanh thu sản phẩm
đi kèm thì dòng tiền tăng thêm từ sản phẩm đi kèm cần được đưa vào dòng tiền của
dự án mới. Cuối đời dự án nếu tài sản cố định được thanh lý mang lại doanh thu (lỗ)
cho dự án thì cũng phải cộng thêm (trừ đi) vào dòng tiền khoản thu nhập ròng bằng
giá bán trừ phi phí thanh lý (bằng giá trị còn lại cộng với chi phí thanh lý).
e. Thẩm định cách xác định chi phí sử dụng vốn (lãi suất chiết khấu) cho
từng bộ phận vốn
Do giá trị thời gian của tiền nên cần phải quy đổi các khoản thu nhập về cùng
một thời điểm để so sánh đánh giá khả năng sinh lời của một khoản đầu tư. Để quy
đổi thì cần tới một chỉ tiêu đó chính là lãi suất chiết khấu. Một lãi suất chiết khấu
được coi là phù hợp và phản ánh chính xác chi phí vốn, hay sự giảm giá trị của tiền
qua thời gian. Nói cách khác nó là tỷ suất lợi nhuận tối thiểu để bù đắp những lợi
ích mà chủ sở hữu mất đi do chi phí cơ hội, lạm phát và rủi ro.
Nguồn vốn mà chủ đầu tư có thể huy động là : vốn nợ và vốn chủ sở hữu. Do
đó chi phí sử dụng vốn bao gồm: chi phí sử dụng nợ và chi phí sử dụng vốn CSH.
- Cách tính chi phí sử dụng nợ
Công ty có thể huy động nợ dưới hình thức vay các tổ chức tín dụng hoặc
vay trên thị trường vốn. Dù vay ngân hàng hay trên thị trường vốn thì chi phí trả lãi
được tính trừ ra khỏi lợi nhuận trước thuế. Vì vậy, thực chất chi phí sử dụng nợ của
công ty là chi phí sử dụng nợ sau khi đã điều chỉnh thuế.
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 15

Chuyên đề thực tập
Nếu công ty vay nợ ngân hàng thì chi phí sử dụng vốn (R
D
) chính là lãi suất
đi vay. Nếu công ty phát hành trái phiếu thì lãi suất huy động nợ tính bằng công
thức:
P
net
=
P
net
là tiền thu do bán trái phiếu trừ chi phí phát hàng. R
D
là lãi suất huy động.
M là mệnh giá trái phiếu. I là lãi hằng năm của trái phiếu.
Khi thẩm định chi phí sử dụng nợ cần lưu ý khách hàng thường lấy luôn lãi
vay ngân hàng làm chi phí sử dụng nợ mà không xét tới nguồn nợ khác.
- Chi phí sử dụng vốn cổ phần ưu đãi
Là chi phí mà công ty phải trả cho việc huy động vốn cổ phần ưu đãi. Do cổ
tức ưu đãi trả cho cổ đông là cố định tính bằng công thức:
R
p =
R
P
là suất chiết khấu của nhà đầu tư. D
p
là cổ tức cổ phiếu ưu đãi. P
net
là giá
bán trừ chi phí phát hành.

Cổ tức ưu đãi không được khấu trừ thuế khi tính thu nhập chịu thuế. Vì vậy
chi phí sử dụng vốn cổ phần ưu đãi không được điểu chỉnh thuế. Khi thẩm định chi
phí vốn cổ phần ưu đãi khách hàng thường bỏ qua chi phí phát hành dẫn tới ước
lượn chi phí thất hơn so với thực tế.
- Chi phí vốn cổ phần thường
Có 2 cách tiếp cận ước lượng chi phí vốn cổ phần thường là sử dụng mô hình
tăng trưởng cổ tức hoặc sử dụng mô hình định giá tài sản vốn (CAPM).
+ Mô hình tăng trưởng cổ tức: Cách đơn giản nhất để ước lượng chi phí
vốn của chủ sở hữu là sử dụng mô hình tăng trưởng cổ tức. Giả định công ty có tỷ lệ
tăng trưởng cổ tức cố định g, giá bán một cổ phiếu P
o
; cổ tức là D
o
; suất sinh lời yêu
cầu của chủ sở hữu là R
E
.
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 16
Chuyên đề thực tập
Công thức tính R
E
:
R
E
=
Để ước lượng g ta có thể sử dụng tỷ lệ tăng trưởng trước đây hoặc sử dụng
tốc độ tăng trưởng dự báo của các nhà phân tích.
Nếu áp dụng cho cổ phiếu mới phát hành thì trong phần giá bán 1 cổ phiếu
phải trừ đi chi phí phát hành. Mô hình này đơn giản, dễ hiểu, dễ tính xong lại không
áp dụng được với những công ty không chia cổ tức, cũng không phù hợp khi giả

định một tốc độ tăng trưởng cổ tức cố định.
+ Mô hình định giá tài sản vốn CAPM: Để khắc phục nhược điểm của
mô hình tăng trưởng cổ tức ta có thể sử dụng mô hình CAPM. Giả thiết của mô
hình cho rằng lãi suất sinh lời yêu cầu của một khoản đầu tư phụ thuộc vào: lãi suất
phi rủi ro (R
f
), lãi suất đền bù rủi ro thị trường (R
M
–R
f
), rủi ro hệ thống của tài sản
đầu tư so với rủi ro bình quân của thị trường được đo bởi hệ số β.
Suất sinh lời của nhà đầu tư vào một tài sản (R
E
) được tính như sau:
R
E
= R
f
+ (R
M
–R
f
)
Mô hình này cho ta thấy được sự điều chỉnh trực tiếp lợi nhuận và rủi ro của
tài sản, nó được sử dụng rộng rãi hơn mô hình tăng trưởng cổ tức. Tuy nhiên để ước
lượng hệ số β ta phải dựa vào dữ liệu quá khứ để xác định.
Trên thực tế các mô hình này thường không được áp dụng, khách hàng
thường lấy luôn lãi vay ngân hàng làm chi phí sử dụng vốn cổ phần thường. Rủi ro
của dự án khác với rủi ro của ngân hàng vì vậy không thể lấy chi phí lãi vay làm chi

phí sử dụng vốn cổ phần thường được.
- Cách tính chi phí sử dụng vốn bình quân ( WACC)
Một công ty thường có 2 phần vốn là vốn nợ và vốn chủ sở hữu vì vậy ta có
thể tính chi phí sử dụng vốn bình quân bằng công thức:
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 17
Chuyên đề thực tập
WACC = (1- T
c
) R
D
+ R
E
V tổng nguồn vốn, E vốn chủ sở hữu, D vốn nợ, T
c
thuế thu nhập doanh
nghiệp, R
D
chi phí sử dụng vốn nợ, R
E
chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu, WACC chi
phí sử dụng vốn bình quân.
Khi thẩm định chi phí sử dụng vốn bình quân của dự án cần phải chú ý khách
hàng chỉ lấy lãi suất ngân hàng làm lãi suất chiết khấu, không sử dụng công thức
tính trung bình có trọng số dẫn tới sai sót về lãi suất chiết khấu, ảnh hưởng tới chất
lượng các chỉ tiêu thẩm định tài chính về sau.
f. Các chỉ tiêu tài chính của dự án
Một dự án được đánh giá là rất tốt khi dự án đó phải tạo ra được mức lợi
nhuận tuyệt đối - tức khối lượng của cải ròng lớn nhất; có tỷ suất sinh lời cao - ít
nhất phải cao hơn tỷ suất lãi vay hoặc suất sinh lời mong muốn hoặc suất chiết khấu
bình quân ngành hoặc thị trường; khối lượng và doanh thu hoà vốn thấp và dự án

phải nhanh chóng thu hồi vốn - để hạn chế những rủi ro bất trắc.
Xuất phát từ lý do đó, người ta có những chỉ tiêu tương ứng dựng để thẩm
định tính hiệu quả của dự án.
- Chỉ tiêu Giá trị hiện tại ròng (NPV)
Giá trị hiện tại ròng của một dự án là chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các
luồng tiền dự tính dự án mang lại trong tương lai với giá trị đầu tư ban đầu. Do vậy,
chỉ tiêu này phản ánh giá trị tăng thêm (khi NPV dương) hoặc giảm đi
(khi NPV âm).
Công thức tính toán giá trị hiện tại ròng (NPV) như sau:
NPV = C
0
+
n
n
r
C
r
C
r
C
r
C
)1(

)1()1(
)1(
3
3
2
21

+
++
+
+
+
+
+
Trong đó: NPV là giá trị hiện tại ròng
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 18
Chuyên đề thực tập
C
0
là vốn đầu tư ban đầu vào dự án, do là khoản đầu tư luồng tiền ra nên C
0
mang dấu âm.
C
1
, C
2
, C
3
,…, C
n
là các luồng tiền dự tính dự án mang lại các năm 1, 2, 3, ,t ;
r là tỷ lệ chiết khấu phự hợp của dự án.
Phương pháp giá trị hiện tại ròng được xây dựng dựa trên giả định có thể xác
định tỷ suất chiết khấu thích hợp để tìm ra giá trị tương đương với thời điểm hiện tại
của một khoản tiền trong tương lai.
Ngân hàng khi cho vay thường chỉ quan tâm đến vấn đề trả gốc và lãi của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi thẩm định dự án doanh nghiệp thường đưa ra tỷ lệ

chiết khấu cao để NPV>0. Vì vậy, Ngân hàng cần thẩm định NPV để thẩm định
việc dự tính tỷ lệ chiết khấu của doanh nghiệp là hợp lý hay không. Và với tỷ lệ
chiết khấu hợp lý đó thì NPV>0 sẽ giúp cho Ngân hàng khẳng định việc cho vay là
có hiệu quả.
Ưu điểm của NPV là tính trên dòng tiền và xét đến giá trị thời gian của tiền,
xét đến qui mô dự án và thoả mãn yêu cầu tối đa hoá lợi nhuận, phù hợp với mục
tiêu hoạt động của Ngân hàng.
Nhược điểm của NPV là chỉ tiêu này chỉ cho biết quy mô mà không cho biết
thời gian nhanh hay chậm. Và lãi suất đo lường chi phí cơ hội của vốn bằng lãi suất
thị trường, cho nên việc giữ nguyên một tỷ lệ chiết khấu cho cả thời kỳ hoạt động
của dự án là không hợp lý.
Vì vậy, sự kết hợp với các chỉ tiêu khác vẫn là điều cần thiết khi tiến hành
thẩm định dự án trong các điều kiện thực tế.
- Chỉ tiêu Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR)
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại ròng của dự
án bằng 0, tức giá trị hiện tại của dòng thu nhập tính theo tỷ lệ chiết khấu đó bằng
với hiện giá của vốn đầu tư. Hay nói cách khác, nó chính là tỷ lệ sinh lợi tối thiểu
của dự án.
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 19
Chuyên đề thực tập
Mỗi phương án đầu tư đem ra phân tích đánh giá cần được tính IRR. Phương
án được chọn là phương án IRR lớn hơn chi phí vốn (tỷ lệ chiết khấu). IRR là lãi
suất cần tìm sao cho NPV = 0.
Nghĩa là từ công thức: NPV = C
0
+
n
IRR
Cn
IRR

C
IRR
C
)1(

)1(
1
2
21
+
++
+
+
+

Tìm IRR?
Chọn tìm 2 lãi suất r
1
và r
2
để sao cho tương ứng với r
1
ta có NPV
1
> 0, ứng
với r
2
ta có NPV
2
< 0. IRR cần tìm ứng với NPV = 0 sẽ nằm giữa 2 tỷ suất chiết

khấu r
1
và r
2
. Và áp dụng phương pháp nội suy ta có được kết quả của IRR theo
công thức
IRR = r
1
+
21
121
).(
NPVNPV
rrNPV


Trong đó r
2
> r
1
, NPV
1
> 0 gần 0, NPV
2
< 0 gần 0,| r
2
- r
1
| < 5%
Qua cách tính trên cho thấy IRR là tỷ suất nội hoàn từ những khoản thu nhập

của một dự án. Điều đó có nghĩa là nếu dự án chỉ có tỷ lệ hoàn vốn IRR = r thì các
khoản thu nhập từ dự án chỉ đủ hoàn trả phần gốc và lãi đó đầu tư ban đầu vào dự
án. Nó chính là mức lãi suất tiền vay cao nhất mà nhà đầu tư có thể chấp nhận mà
không bị thua thiệt nếu toàn bộ số tiền đầu tư cho dự án là vốn vay và nợ vay
(cả gốc và lãi cộng dồn) được trả bằng nguồn tiền thu được từ dự án mỗi khi chúng
phát sinh.
Chỉ tiêu IRR được xác định cho hai tình huống đầu tư:
- Nếu 2 dự án độc lập nhau thì dự án có IRR > r sẽ được lựa chọn.
- Nếu 2 dự án loại trừ nhau ta chọn dự án có IRR > r và lớn hơn.
Ưu điểm là tính bằng tỷ lệ phần trăm nên dễ dàng so sánh với chi phí sử dụng
vốn.
Nhược điểm là chỉ tiêu này chỉ phản ánh tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án là
bao nhiêu chứ không cung cấp quy mô của số lãi (hay lỗ) của dự án tính bằng tiền.
Khi dự án được lập trong nhiều năm, việc tính toán chỉ tiêu là rất phức tạp. Đặc biệt
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 20
Chuyên đề thực tập
loại dự án có các luồng tiền dòng vào ra xen kẽ năm này qua năm khác, kết quả tính
toán có thể cho nhiều IRR khác nhau gây khó khăn cho việc ra quyết định. Do đó,
IRR là chỉ tiêu kết hợp, bổ trợ cho chỉ tiêu NPV.
Lưu ý: Trong trường hợp có sự xung đột giữa 2 phương pháp NPV và IRR
thì việc lựa chọn dự án theo NPV cần được coi trọng hơn để đạt mục tiêu tối đa hoá
lợi nhuận của dự án .
- Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn (PP)
Thời gian hoàn vốn của một dự án là một trong các chỉ tiêu thường được sử
dụng để đánh giá giá trị kinh tế của dự án đầu tư. Thời gian hoàn vốn của một dự án
đầu tư là độ dài thời gian để thu hồi toàn bộ khoản đầu tư ban đầu. Cho nên, thời
gian thu hồi vốn của một dự án càng ngắn càng tốt để tránh được những biến động,
tránh được những rủi ro bất định.
Công thức tính:
PP = n +

PP là thời gian hoàn vốn, n là số năm để ngân lưu tích lũy của dự án < 0,
nhưng ngân lưu tích lũy sẽ dương tới năm n+1, CF
(n+1)
là dòng tiền năm n+1.
Ưu điểm là đơn giản, dễ nhận thấy và hữu ích đối với các dự án có mức độ
rủi ro cao, cần thu hồi vốn nhanh. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là không tính
đến giá trị thời gian của tiền và qui mô của dự án.
Để tính tới giá trị thời gian của tiền thì ta có thể sử dụng phương pháp thời
gian hoàn vốn có chiết khấu. Trước khi tính thời gian thu hồi vốn ta chiết khấu các
dòng tiền rồi sử dụng công thức như trên.
- Chỉ số khả năng sinh lợi (PI)
Chỉ tiêu này cũng được gọi là tỷ số lợi ích - chi phí, là tỷ lệ giữa giá trị hiện
tại của các luồng tiền dự án mang lại và giá trị của đầu tư ban đầu. Chỉ tiêu này
phản ánh 1 đơn vị đầu tư sẽ mang lại bao nhiêu đơn vị giá trị. Nếu PI lớn hơn 1 có
nghĩa là, dự án mang lại giá trị cao hơn chi phí và khi đó có thể chấp nhận được.
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 21
Chuyên đề thực tập
Công thức xác định như sau:
PI =
0
CF
PV
Trong đó: PV là thu nhập ròng hiện tại.
CF
0
là vốn đầu tư ban đầu.
Với PV = NPV + CF
0
Theo tiêu chuẩn PI thì mỗi phương án đầu tư đem ra xem xét cần phải tính
chỉ số PI. Phương án được chọn là phương án có PI >1 nếu là dự án độc lập. Còn

nếu là dự án loại trừ thì phải chọn dự án có PI lớn hơn.
g. Thẩm định khả năng trả nợ của dự án
Khả năng trả nợ của dự án được đánh giá trên cơ sở nguồn thu và nợ (nợ gốc
và lãi) phải trả hàng năm của dự án.Việc xem xét này được thể hiện thông qua bảng
cân đối thu chi và tỷ số khả năng trả nợ của dự án.
Tỷ số khả năng trả nợ của dự án =
Nguồn trả nợ hàng năm của dự án
Nợ phải trả hàng năm (gốc và lãi)
Tỷ số khả năng trả nợ của dự án được so sánh với mức quy định chuẩn. Mức
này được xác định theo từng ngành nghề. Dự án được đánh giá có khả năng trả nợ
khi tỷ số khả năng trả nợ của dự án phải đạt được mức quy định chuẩn. Ngoài ra,
khả năng trả nợ của dự án cũng được đánh giá thông qua việc xem xét sản lượng và
doanh thu tại điểm hoà vốn trả nợ.
Khả năng trả nợ của dự án đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá độ an
toàn về mặt tài chính của dự án đồng thời cũng là chỉ tiêu được Ngân hàng đặc biệt
quan tâm và coi là một trong các tiêu chuẩn để chấp nhận cung cấp tín dụng cho dự
án hay không.
h. Thẩm định độ nhạy của dự án
Phân tích độ nhạy là kỹ thuật phân tích nhằm thấy được sự ảnh hưởng của
các biến độc lập lên biến phụ thuộc. Chúng ta có thể ứng dụng kỹ thuât này vào
phân tích rủi ro thẩm định dự án sắp cho vay. Biến phụ thuộc cần thẩm định ở đây
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 22
Chuyên đề thực tập
là NPV và IRR. Các biến độc lập có thể là các thông số mà chúng đã lựa chọn khi
ước lượng ngân lưu và chi phí, bao gồm:
Tỷ lệ lạm phát, đơn giá bán, tốc độ tăng giá bán, sản lượng tiêu thụ, công
suất máy móc thiết bị, tốc độ tăng chi phí,…
Trên thực tế, để đỡ phức tạp, tạo sự nhanh chóng, kịp thời cho công tác thẩm
định mà không làm mất tính khách quan của công tác thẩm định nhân viên thẩm
định có thể chọn sự thay đổi của chỉ tiêu doanh thu. Cho doanh thu chạy để xem

biến động của IRR và NPV. Hiện tại, để tính độ nhạy của IRR, NPV nhân viên
thẩm định có thể sử dụng phần mềm Crystal ball, kết quả thu được sẽ khách quan và
chính xác hơn so với việc ước lượng rủi ro thông thường (áp % thay đổi cho các
biến).
Phân tích độ nhạy giúp cho chủ đầu tư và nhà cung cấp tín dụng khoanh
được hành lang an toàn cho hoạt động của dự án.
i. Phân tích tình huống
Phân tích tình huống là kỹ thuật phân tích sự tác động đồng thời của nhiều
biến hay nhiều yếu tố đến biến phụ thuộc xem xét ở đây là NPV và IRR. Trong kỹ
thuật này ta không tách biệt được sự tác động riêng rẽ của từng yếu tố mà xem xét
sự tác động đồng thời của chúng qua từng tình huống. Thông thường có thể phân
biệt ba tình huống:
+ Tình huốn kỳ vọng – Tức là tình huống bình thường mà chúng ta kỳ vọng
sẽ xảy ra trong tương lai.
+ Tình huống xấu – Tức là tình huống có tác động tiêu cực lên NPV và IRR.
Khi tình huống này xảy ra thì NPV và IRR sẽ giảm đi.
+ Tình huống tốt – Tức là tình huống có tác động tích cực lên NPV và IRR,
khi đó NPV và IRR sẽ tăng lên.
Phân tích tình huống bổ sung nhược điểm của phân tích độ nhạy ở chỗ xem
xét đồng thời tác động của các yếu tố. Tuy nhiên nhược điểm của kỹ thuât này là
không chỉ ra được xác suất xảy ra tình huống là bao nhiêu, cũng như không quan
tâm tới dự tương quan giữa các biến với nhau. Ngoài ra nó cũng chưa bao quát được
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 23
Chuyên đề thực tập
hầu hết các tình huống xảy ra trong thực tế. Để khắc phục nhược điểm nảy chúng ta
có thể dùng phương pháp phân tích mô phỏng.
k. Phân tích mô phỏng
Phân tích mô phỏng là kỹ thuật phân tích phức tạp, hiện đại. Nhưng ngày nay
nhờ có phần mềm vi tính và Excel nó lại được thực hiện một cách dễ dàng nhanh
chóng. Kỹ thuật này cho phép phân tích sự tác động của nhiều biến hay nhiều yếu tố

đến NPV và IRR qua hàng trăm hoặc hàng nghìn tình huống. Qua đó, kỹ thuật này
cho phép xác định xác suất bao nhiêu phần trăm NPV sẽ dương và IRR lớn hơn chi
phí sử dụng vốn bình quân WACC.
Kỹ thuật mô phỏng Monte Carlo dùng các bộ phát số ngẫu nhiên trong phần
mềm Crystal ball để mô phỏng các yếu tố bất định của bài toán và đưa mô hình của
bài toán vào bảng tính Excel, từ đó có thể tiến hành khảo sát hoạt động của mô hình
trong nhiều chu kỳ kinh doanh. Chúng ta có thể khai thác kết quả mô phỏng bằng
các công cụ thiết kế sẵn trong Crystal ball như các đồ thị dự báo, đồ thị phủ, đồ thị
xu hướng.
Tóm lại, mỗi chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án đều có
những ưu nhược điểm nhất định. Vậy để có thể đưa ra được một kết quả thẩm định
chính xác và hiệu quả thì cần kết hợp tất cả các chỉ tiêu trên vì chúng bổ sung hỗ trợ
cho nhau giúp người thẩm định đưa ra được kết luận khách quan và chính xác nhất.
Chất lượng thẩm định tài chính dự án bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác
nhau. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án, Ngân hàng
thương mại phải quan tâm đến các nhân tố này.
1.1.2.2. Vai trò và ý nghĩa của công tác thẩm định tài chính dự án
Do sự cần thiết và tính chất quan trọng của công việc này, thẩm định tài
chính dự án không những được chủ đầu tư mà còn được nhiều chủ thể khác quan
tâm và thực hiện trước khi họ đưa ra quyết định của mình.
Thứ nhất, đối với chủ đầu tư: thẩm định tài chính cung cấp những thông tin
hữu ích về tính sinh lợi cũng như mức độ rủi ro. Chủ đầu tư dư tính những chi phí
phải bỏ ra để tạo nên những nguồn thu nhập trong tương lai, dự đoán những biến cố
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 24
Chuyên đề thực tập
bất lợi có thể xảy ra, đưa ra những biện pháp quản lý để phòng ngừa và hạn chế
những rủi ro đó, so sánh với khả năng tài chính của mình để ra quyết định phù hợp.
Thứ hai, đối với người cho vay: những thông tin đã được kiểm tra lại sau khi
phân tích là căn cứ quan trọng để ra quyết định tài trợ. Quá trình phân tích cho biết
khả năng hoàn trả thực sự của khách hàng xuất phát từ kết quả hoạt động kinh

doanh. Đây cũng là cơ sở đẻ người cho vay xác định lãi suất, kỳ hạn, cách thức trả
nợ,… thích hợp với khả năng tài chính của hai bên. Ngoài ra với tư cách là nhà
phân tích độc lập, người cho vay còn có thể xác định các khiếm khuyết trong quá
trình lập dự án và kiến nghị với chủ đầu tư để đưa ra những điều chỉnh phù hợp.
Thứ ba, đối với cơ quan quản lý nhà nước: phân tích tài chính có thể đánh
giá việc tiêu hao các nguồn lực vũng như những đóng góp vào gia tăng của cải vật
chất cho xã hội khi thực hiện dự án.
1.3. CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM
1.3.1 Sự cần thiết nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án
Như chúng ta đó biết hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại là nhận
tiền gửi và cho vay, trong đó cho vay là hoạt động tạo nên lợi nhuận chủ yếu cho
Ngân hàng. Vì vậy phương châm hoạt động an toàn hiệu quả luôn được các Ngân
hàng thương mại đặt lên hàng đầu. Đặc biệt là trong điều kiện hiện nay tình trạng
nợ quá hạn, nợ khó đòi đã trở thành vấn đề bức xúc không chỉ cho mỗi Ngân hàng
mà còn cho toàn xã hội.
Hoạt động tín dụng mang lại cho Ngân hàng rất nhiều rủi ro tiềm ẩn, đặc biệt
Hán Thị Thanh Tâm – Lớp TCDN 50 A 25

×