Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu
Năm 2006 là năm thứ 20 của công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế
ở nước ta. Trải qua biết bao khó khăn và thử thách ở chính nội tại đất nước và
từ môi trường thế giới đem lại. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta bước đầu đã
tạo dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với hệ thống
công – nông nghiệp - dịch vụ ngày càng phát triển, từng bước rút ngắn
khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Để có được những thành tựu kinh tế như hiện nay trước tiên phải kể
đến sự đóng góp vơ cùng quan trọng của hệ thống ngân hàng thương mại và
các tổ chức tài chính tín dụng của nước ta. Cũng như các ngân hàng thương
mại và tổ chưc tài chính trên thế giới, hoạt động kinh doanh của những tổ
chức này vốn dĩ là loại hình hoạt động rất nhạy cảm, mang tính năng động và
rủi ro hơn nhiều so với hoạt động của các lĩnh vực khác, đồng thời cũng giữ
vai trò quan trọng trong việc định hướng cho hoạt động của các lĩnh vực khác,
bởi đây là ngành tạo và cung cấp vốn cho nền kinh tế. Vì vậy trong xu thế
quốc tế hoá ngày nay vấn đề đặt ra là các ngân hàng thương mại nước ta phải
luôn luôn giữ thế phát triển dẫn đầu cho nền kinh tế, không ngừng mở rộng và
nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình, sớm bắt kịp vói nhịp điệu
trong khu vực và trên thế giới. Thực tế các ngân hàng đã cố gắng nỗ lực phấn
đấu rất nhiều, nhưng do sự phát triển còn thiếu đồng bộ về con người, môi
trường và kỹ thuật trong nước nên vẫn chưa đạt được kết quả như mong
muốn. Đặc biệt trong hoạt động cho vay của ngân hàng, cụ thể hơn nữa là
hoạt động cho vay các dự án đầu tư trung và dài hạn đạt hiệu quả không cao.
Mà nguyên nhân chính xuất phát từ những yếu kém, chủ quan trong công tác
thẩm định. Dẫn đến hậu quả là rất nhiều dự án được lựa chọn đầu tư nằm ở cả
ba miền có hiệu quả thấp hoặc khơng có hiệu quả, khơng trả được nợ cho
ngân hàng, gây lãng phí thất thốt hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng của nhà
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nước và nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của từng doanh
nghiệp, từng ngân hàng và tới toàn nền kinh tế.
Từ sự nhận thức được những vấn đề trên và sau một thời gian dài tìm
hiểu thực tế tại cơ sở, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất
lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài
hạn tại Ngân hàng Hàng Hải- chi nhánh Hà Nội” cho chuyên đề thực tập
tốt nghiệp của mình.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về chất lượng thẩm định tài chính dự
án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM.
Chương II: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động
cho vay trung và dài hạn tại NHTM cổ phần Hàng Hải – Chi nhánh Hà Nội.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
trong hoạt dộng cho vay trnng và dài hạn tại Ngân hàng Hàng Hải – chi nhánh
Hà Nội.
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên trong chuyên đề này chắc
chắn khơng tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của các thầy cô giáo và các anh chị trong ngân hàng MSB
Qua đây em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cơ giáo khoa ngân hàng tài
chính trường ĐHKTQD, đặc biệt là thầy Phạm Long đã tạo điều kiện, hướng
dẫn giúp em hoàn thành chuyên đề này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các
cô chú – anh chị trong ngân hàng MSB Hà Nội đã hướng dẫn chỉ bảo em
trong suốt thời gian thực tập vừa qua.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chất lượng
thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung
và dài hạn của NHTM
1.Hoạt động cho vay của NHTM
1.1Hoạt động cho vay của NHTM.
Trải qua nhiều thế kỉ từ khi xuất hiện đến nay hệ thống các ngân hàng
thương mại với hàng ngàn chi nhánh ở khắp năm châu đã không ngừng thể
hiện tầm quan trọng khơng thể thiếu của mình đối với sự phát triển nền kinh
tế thế giới nói chung, cũng như đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia
riêng biệt. Chính hệ thống Ngân hàng với những phương tiện giao dịch hiện
đại (Ngân hàng điện tử) đang từng bước xoá bỏ sự ngăn cách về địa lý, không
gian và thời gian làm cho các lục địa xích lại gần nhau hơn.
Ngày nay hoạt động ngân hàng khơng cịn chỉ đơn điệu với những
nghiệp vụ đơn giản như nhận tiền gửi, đổi tiền…mà đã trở nên vô cùng phong
phú đa dạng với homebanking, thẻ ngân hàng, chuyển tiền điện tử,….Tuy
nhiên những khoản dịch vụ hiện đại này mới chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong
tổng cơ cấu tài sản của ngân hàng, còn phần tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản
của ngân hàng vẫn là các dịch vụ cho vay. Ở hầu hết các nước khả năng cho
vay đối với khách hàng chính là lý do cơ bản để ngân hàng được các cơ quan
quản lý có thẩm quyền cấp phép hoạt động. Mọi người mong muốn các ngân
hàng hỗ trợ cho sự phát triển của cộng đồng địa phương thông qua các hoạt
động cho vay đáp ứng nhu cầu tài chính của doanh nghiệp và của người tiêu
dùng với một mức lãi suất hợp lý. Do đó, cho vay được coi là chức năng kinh
tế hàng đầu của các ngân hàng. Hoạt động cho vay cũng có mối quan hệ mật
thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi cho
vay thúc đẩy tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh
tế. Không những vậy thông qua các khoản cho vay của ngân hàng, thị trường
sẽ có thêm những thơng tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và
nhờ đó giúp họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những
nguồn khác với chi phí thấp hơn. Đối với hầu hết các ngân hàng thương mại,
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đặc biệt ở các nước đang phát triển thì thu nhập từ cho vay chiếm quá nửa
tổng giá trị tổng nguồn thu của ngân hàng.
Với tầm quan trọng như vậy thì thực chất cho vay vẫn được hiểu là một
giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng hoặc
định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể
khác) trong đó bên vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một
thời hạn nhất định theo thoả thuận theo ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi.
Về cách phân loại có rất nhiều cách khác nhau, tuỳ theo mỗi tiêu thức
phân loại và tuỳ theo từng ngân hàng mà hoạt động cho vay được chia ra làm
nhiều loại, nhằm thuận tiện cho quản lý và phù hợp với mục đích vay vốn của
khách hàng.
Nếu dựa vào tiêu chí mục đích thì cho vay được chia ra các loại:
- Cho vay bất động sản;
- Cho vay công nghiệp và thương mại;
- Cho vay nông nghiệp;
- Cho vay các định chế tài chính;
- Cho vay cá nhân;
- Cho thuê;
Nếu dựa vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng cho vay lại được
chia làm hai loại:
- Cho vay không có bảo đảm;
- Cho vay có bảo đảm;
Nếu dựa vào thời hạn cho vay thì bao gồm:
- Cho vay ngắn hạn;
- Cho vay trung hạn;
- Cho vay dài hạn
Ngoài những căn cứ trên thì cịn nhiều cách phân chia nữa của hoạt
động cho vay. Trong đó đối với những ngân hàng phân chia hoạt động cho
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vay theo tiêu thức thời gian thì phần cho vay trung và dài hạn thường chiếm
tỷ trọng khá cao trong cơ cấu cho vay
1.2 Hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM
* Khái niệm:
Hiện nay giữa các nước khác nhau trên thế giới quan niệm về cho vay
trung và dài hạn khơng hồn tồn giống nhau. Tại thị trường tài chính Việt
Nam cho vay trung và dài hạn vẫn được coi là các khoản cho vay có thời hạn
trên 1 năm. Trong đó:
Cho vay trung hạn là các khoản cho vay có thời hạn từ 1 đến 3 năm
Cho vay dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn trên 3 năm.
* Lý do lựa chọn phương án vay trung và dài hạn của khách hàng:
Ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, đi vay trung và dài hạn từ các định chế
tài chính và phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán là hai nguồn tài
trợ dài hạn chủ yếu của các khách hàng doanh nghiệp. Chính bởi vậy mà có
nhiều lý do để các khách hàng lựa chọn nguồn vốn vay trung và dài hạn từ
các ngân hàng.
Trước hết là do các doanh nghiệp nhỏ bị hạn chế về khả năng tìm
nguồn vốn trên thì trường, họ khơng thể có đủ các điều kiện để có thể huy
động vốn trung và dài hạn cho mình thơng qua thị trường chứng khốn. Vì
vậy khi nhu cầu vốn phát sinh họ phải đi vay ở các ngân hàng thương mại và
các định chế tài chính khác.
Thứ hai đó là, trong nhiều trường hợp khách hàng thấy vay trung dài
hạn tốt hơn phát hành chứng khoán. Bởi so với phát hành trái phiếu, đi vay
mượn các doanh nghiệp có thể có điều kiện vay muợn thích hợp hơn cho nhu
cầu của mình. Sau khi nhận tiền vay họ vẫn có thể thương lượng với người
cho vay một số điều kiện đã được xác định ban đầu. Hơn nữa đi vay họ sẽ
không phải tốn thêm những chi phí về bảo lãnh, đăng ký, phát hành…..
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thứ ba là, trong nhiều trường hợp doanh nghiệp không muốn phát hành
chứng khốn để thu hút vốn vì ngại phải cơng bố thơng tin về mình hoặc đang
ở trong điều kiện thị trường không thuận lợi cho việc phát hành.
Và thứ tư đó là, cho vay trung dài hạn sẽ buộc các doanh nghiệp nhỏ
phải tích luỹ vốn từ lợi nhuận để lại, cho dù doanh nghiệp có quan hệ mật
thiết với ngân hàng. Điều này sẽ có lợi cho doanh nghiệp về sau này.
Với những lý do trên cho thấy đi vay trung dài hạn tại các định chế tài chính
thực sự là một kênh không thể thiếu của các khách hàng doanh nghiệp. Nhu
cầu lớn nên loại hình cho vay này cũng có nhiều hình thức khác nhau cho
khách hàng lựa chọn để phù hợp với mình.Như:
Cho vay mua sắm thiết bị trả góp
Cho vay kỳ hạn
Tài trợ theo dự án
Cho vay hợp vốn
Cho th tài chính
Forfaiting (một hình thức cấp tín dụng người bán trong các giao dịch mua bán
hàng trả chậm và khơng truy địi đối với người bán mà thu tiền thẳng từ người
mua).
1.2 Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài
hạn của NHTM.
1.2.1 Khái niệm về thẩm định tài chính dự án.
*Khái niệm:
Đối với bất kỳ một dự án nào khi được đưa vào xem xét để thực hiện
thì vấn đề được quan tâm hàng đầu là tính khả thi của dự án. Tính khả thi của
dự án sẽ được thể hiện thông qua sự phù hợp về mặt kỹ thuật, mặt kinh tế và
tài chính của dự án đối với nền kinh tế, với sự quản lý của nhà nước,với nhà
đầu tư và với chủ dự án. Trong đó tuỳ theo từng dự án được thiết kế phục vụ
cho các mục đích khác nhau (như dự án vì cộng đồng, dự án đầu tư mở rộng
sản xuất kinh doanh,...) mà những tiêu chí về kinh tế, về kĩ thuật hay về tài
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chính sẽ được đề cao. Tuy nhiên cho dù đề cao tiêu chí nào đi chăng nữa thì
sự xem xét thẩm định về mặt tài chính của một dự án trước khi đưa vào thực
thi là không thể coi nhẹ. Và cũng bao hàm những vấn đề cơ bản của công tác
thẩm định, “ thẩm định tài chính dự án chính là sự rà sốt đánh giá một
cách khoa học, tồn diện mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của
nhà đầu tư bao gồm doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác và các cá
nhân”.
Trong hoạt động cho vay của mình các ngân hàng thương mại chính là
các nhà tài trợ vốn. Ngoài những dự án ngân hàng cho vay theo chỉ định của
chính phủ nhằm phục vụ cộng đồng yếu tố lợi nhuận không được đặt nên
hàng đầu, còn lại hầu hết cho vay các dự án khác đều nhằm mục đích tạo thu
nhập cho ngân hàng. Vì vậy việc thẩm định tài chính dự án là vơ cùng quan
trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
1.2.2Sự cần thiết của cơng tác thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay
trung dài hạn của NHTM.
Để cho một lượng vốn lớn được bỏ ra hiện tại có thể được thu hồi dần
trong tương lai xa, thì trước khi chi vốn vào các dự án, các nhà đầu tư đều tiến
hành soạn lập chương trình cụ thể, chi tiết theo tính chất của từng dự án.
Những cơng việc này hết sức phức tạp liên quan đến nhiều vấn đề, địi hỏi
phải có sự phối hợp hoạt động của nhiều người. Thực tế những giải trình từ
phía doanh nghiệp đối với ngân hàng về dự án cần vay vốn thường rất sơ sài,
đơi khi có số liệu khơng đủ căn cứ để chứng minh tính sát thực Do đó phải rà
soát, điều chỉnh lại.
Đối với ngân hàng, để ngăn chặn sự đổ bể, sự lãng phí vốn khi muốn
tài trợ hay cho vay vốn vào dự án thì cần phải thẩm định lại tính hiệu quả của
dự án, đặc biệt sự hiệu quả về mặt tài chính. Điều này đảm bảo cho chính bản
thân sự tồn tại của một ngân hàng. Bởi nều để xảy ra bất kỳ rủi ro nào dẫn đến
sự không thu hồi được vốn của ngân hàng sẽ ảnh hưởng lớn đến thu nhập của
ngân hàng, nhất là khi đó là các dự án lớn.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đối với xã hội, mỗi một dự án khi thực hiện không chỉ có ảnh hưởng
đến chủ dự án, ngân hàng (hay các nhà đầu tư khác) mà còn chứa đựng cả
những ảnh hưởng đối với người dân nơi thực hiện dự án, đến nguồn tài
nguyên đất nước sẽ được sử dụng, đến các ngành nghề khác liên quan….Vì
vậy ngân hàng cần phải tiến hành thẩm định lại dự án để xem xét một cách
tồn diện khi có chi phí xã hội dự án, hiệu quả tài chính của dự án cịn được
đảm bảo khơng, có phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển của vùng,
của địa phương hay không.
Đối với chủ dự án, khi ngân hàng tiến hành thẩm định lại dự án
chính là dịp để khẳng định tính đúng đắn trong quyết định đầu tư của chủ dự
án. Đồng thời giúp chủ dự án tránh được những sai sót có thể khơng nhận
thấy khi tiến hành lập dự án, làm cho dự án hoàn thiện hơn, tránh lãng phí vốn
của chính chủ dự án.
Với sự cần thiết như vậy thì khi thực hiện nội dung thẩm định tài chính dự án
sẽ bao gồm những nội dung cơ bản gì?
1.3 Nội dung cơng tác thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho
vay trung và dài hạn của NHTM.
1.3.1 Thẩm định dự toán đầu tư và nguồn tài trợ.
Mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp và nhà đầu tư về ngắn hạn là tối
đa hoá vốn chủ sở hữu, cịn về dài hạn chính là tối đa hoá giá trị doanh
nghiệp. Để đạt được mục tiêu này thì vấn đề quan trọng đưa ra đối với doanh
nghiệp là không ngừng đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Và để đầu tư được
người ta đưa ra câu hỏi về vốn đầu tư. Dưới giác độ của dự án thì vốn đầu tư
chính là tổng số tiền được chi tiêu để hình thành nên các tài sản cố định, tài
sản lưu động cần thiết và vốn dự phịng.
Trong đó vốn đầu tư vào tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
vốn đầu tư của dự án, đặc biệt là các dự án sản xuất. Và là phần để mua sắm,
cải tạo, mở rộng tài sản cố định (như: máy móc thiết bị sản xuất, nhà xưởng,
phương tiện vận chuyển…). Phần vốn đầu tư còn lại được đầu tư vào tài sản
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lưu động ròng. Đó là nguồn vốn để hình thành nên các tài sản lưu động ròng
cần thiết để thực hiện dự án (như: nguyên vật liệu, nhiên liệu, tiền thuê nhân
công, chi phí quản lý…). Lượng vốn lưu động rịng lớn hay nhỏ phụ thuộc
vào đặc điểm của mỗi dự án; Ngoài hai phần vốn chính này là phần vốn dự
phịng để kịp thời cung cấp khi có phát sinh những chi phí ngồi dự kiến hay
khi xảy ra rủi ro dự kiến.
Để xác định được lượng vốn cho dự án các nhà lập dự án tiến hành dự
tốn vốn. Thơng thường các nhà thẩm định và các nhà lập dự án sẽ căn cứ vào
năm tiêu chí cơ bản là: chính sách kinh tế, tình hình thị trường và sự cạnh
tranh, chi phí tài chính, tiến bộ khoa học kỹ thuật, khả năng tài chính của
doanh nghiệp. Những tiêu chí này được sử dụng trong các phương pháp dự
toán vốn như dự báo theo tỷ phần doanh thu, dự toán tổng thể. Nhà thẩm định
sẽ xem xét tồn bộ q trình lập dự toán vốn này để biết được mức vốn chính
xác cần thiết cho dự án.
Và:
Tổng vốn đầu
tư của dự án
=
Vốn cố
định
+
Vốn
động
lưu
+
Vốn
dự
phòng
Tổng vốn đầu tư được xác định là vậy nhưng sẽ tài trợ bằng nguồn vốn
nào? Đây là câu hỏi khơng chỉ nhà thẩm định mà chính chủ thực hiện dự án sẽ
đặt ra đầu tiên. Về mặt lý thuyết và cả thực tế thì mỗi dự án có nhiều hình
thức tài trợ vốn khác nhau:
Trước hết dự án có thể được tài trợ bằng vốn tự có: Loại vốn này có
được từ bốn nguồn: từ phát hành cổ phiếu thường, từ thặng dư vốn và từ lợi
nhuận giữ lại, phát hành cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu thường có nhiều ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và
trong q trình lưu hành trên thị trường chứng khốn. Như sau khi phát hành
doanh nghiệp có thể tạm thời mua lại, doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hành
thêm khi cần thiết….Nên loại này cũng được sử dụng để tài trợ cho dự án, đặc
biệt là các dự án qui mô lớn.
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nguồn thặng dư vốn: Đây chính là phần vốn có được từ chênh lệch
giữa giá thị trường của cổ phiếu thường và mệnh giá của nó tại thời điểm phát
hành. Tuỳ theo sự đánh giá của thị trường về trị giá của cổ phiếu của doanh
nghiệp mà phần vốn này thu được là lớn hay nhỏ so với phần vốn dự tính có
được từ phát hành cổ phiếu thường.
Nguồn vốn từ thu nhập giữ lại được tài trợ cho dự án chỉ khi q trình
hoạt động sản xuất của doanh nghiệp có hiệu quả. Tài trợ bằng thu nhập giữ
lại là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các
doanh nghiệp do doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm được sự phụ thuộc
vào bên ngồi.
Tài trợ cho dự án bằng nợ: phần vốn này doanh nghiệp có thể có từ
nguồn tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hàng
trái phiếu.
Trái phiếu thực chất là một loại giấy vay nợ trung và dài hạn.Trên thị trường
thường lưu hành nhiều loại trái phiếu doanh nghiệp khác nhau (trái phiếu có
lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phíếu có thể thu hồi, trái
phiếu có thể chuyển đi).Việc doanh nghiệp lựa chọn loại trái phiếu nào để tài
trợ cho dự án còn tuỳ thuộc vào những vấn đề liên quan đến chi phí trả lãi,
cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu.
Tài trợ cho dự án bằng hình thức Leasing: thực chất đây là hình thức tài
trợ dự án thơng qua cho th các loại tài sản. Doanh nghiệp có thể thuê ngắn
hạn tài sản hoặc thuê dài hạn tài sản. Đây là hình thức tài trợ rất phổ biến do
nó có nhiều ưu điểm so với các hình thức tài trợ khác đối với cả người cho
thuê, người đi thuê và với nền kinh tế.
Tài trợ bằng hình thức kết hợp: Đó là cách mà nguồn vốn cho dự án
hình thành từ sự kết hợp theo một tỷ lệ nhất định giữa vốn vay, vốn chủ sở
hữu. Trong hình thức tài trợ này chi phí vốn của dự án được đặc biệt quan
tâm. Bởi từ đó mà nhà soạn lập xác định nên đi vay bao nhiêu, nên dùng vốn
chủ bao nhiêu sao cho có được cơ cấu vốn tối ưu.
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nếu gọi T là thuế suất thu nhập doanh nghiệp.
Ke : Chi phí thực của vốn chủ sở hữu
Kd: Chi phí của vốn vay
We: Tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trong tổng vốn
Wd: Tỷ trọng của vốn vay trong tổng vốn
Ta có cơng thức xác định chi phí vốn trung bình của dự án:
WACC = We.ke + Wd.(1 – T).kd
1.3.2 Thẩm định kế hoạch doanh thu – chi phí – lợi nhuận hàng năm của
dự án.
Khi thực hiện công tác thẩm định về doanh thu của dự án điểm xuất
phát đầu tiên của nhà thẩm định là tìm hiểu về thị trường sản phẩm của dự án.
Cán bộ thẩm định sẽ phải thu thập thông tin về giá cả sản phẩm đã có hay sản
phẩm tương tự của đối thủ cạnh tranh trên thị trường hiện tại là bao nhiêu?
Nhu cầu về sản phẩm này hiện tại và xu hướng trong tương lai. Rồi đặc tính
sản phẩm của dự án có khả năng chiếm lĩnh thị trường hay khơng? Cơng suất
dự tính của dự án sẽ là bao nhiêu …. Từ đó dự tính doanh thu hàng năm của
dự án.
Doanh thu mỗi
năm của dự án
Lượng hàng
=
dự tính tiêu
thụ mỗi năm
Giá bán dự tính
X
của một đơn vị
sản phẩm
Về chi phí của dự án: Thông thường phần vốn cố định chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng vốn của dự án. Nên những phần vốn chi cho xây dựng cơ sở
vật chất, mua sắm máy mọc thiết bị sản xuất thường được thẩm định kĩ lưỡng.
Cán bộ thẩm định phải xem xét giá cả nguyên – nhiên vật liệu cho phần xây
dựng cũng như giá cả máy móc sản xuất của dự án bao nhiêu là phù hợp với
thị trường của khu vực, chất lượng máy móc ra sao…nhằm đánh giá chính
xác cho phần vốn cần bỏ ra ban đầu. Và khi dự án đi vào hoạt động thì những
chi phí về ngun nhiên vật liệu, đơn giá tiền cơng, khấu hao... hình thành nên
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
giá thành sản phẩm sẽ là bao nhiêu có phù hợp với dây truyền sản xuất, với
thị trường hiện tại không? Phương pháp khấu hao như thế nào cũng đặc biệt
được quan tâm bởi nó ảnh hưởng khá lớn đến dịng tiền rịng của dự án.
Những chi tiết này sẽ được cán bộ thẩm định làm rõ trên cơ sở những nguyên
tắc kế tốn nhất định để xác định chi phí hợp lý cho từng năm của dự án.
Từ xác định doanh thu và chi phí hàng năm của dự án nhà thẩm định
sẽ xác định được lợi nhuận hàng năm của dự án, từ đó dự tính được dịng tiền
của dự án. Đây là phần chính yếu để nhà thẩm định biết được tính khả thi của
dự án cũng như khả năng thu hồi nợ từ kết quả hoạt động của dự án.
1.3.3 Thẩm định dòng tiền hàng năm của dự án
Theo quan niệm chung hiện nay của các nhà kinh tế, dòng tiền của một
dự án là các khoản chi và thu được kì vọng xuất hiện tại các mốc thời gian
khác nhau trong suốt thời gian tồn tại của dự án. Trong dịng tiền của dự án có
dịng tiền ra, dòng tiền vào và dòng tiền ròng (chênh lệch giữa dòng tiền vào
và dòng tiền ra của dự án). Tuy nhiên dịng tiền rịng được coi là con số chính
để xác định giá trị hay hiệu quả trực tiếp của dự án. Khi xác định dịng tiền
các nhà phân tích và thẩm định có những nguyên tắc nhất định. Đó là :
Loại bỏ chi phí chìm ra khỏi phân tích: Chi phí chìm là những chi phi
mà doanh nghiệp - chủ dự án vẫn phải bỏ ra cho dù dự án có được chấp nhận
và thực hiện hay khơng (chẳng hạn như chi phí tư vấn về dự án, chi phí thiết
kế dự án, …). Chi phí này là một khoản chi tất yếu do đó khơng được đưa vào
phần chi đầu tư của dự án.
Chi phí cơ hội sẽ được đưa vào để phân tích chi phí của dự án: Có
những dự án được thiết kế trong đó có sử dụng một số yếu tố đầu vào sẵn có
của doanh nghiệp. Mà đáng lẽ ra nếu không sử dụng vào dự án thì nó sẽ được
sử dụng vào việc khác và đem lại nguồn thu cho doanh nghiệp. Khi sử dụng
vào dự án doanh nghiệp đã bỏ mất phần nguồn thu đó. Bởi vậy khoản chi phí
này cần được đưa vào nhằm đánh giá chính xác chi phí thực của dự án.
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngoài hai khoản mục trên phần tài sản lưu động ròng đối với hầu hết
các dự án cũng được đầu tư và được chi thực tại năm đầu đi vào hoạt động
của dự án. Tài sản lưu động ròng là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu
động trừ đi nợ ngắn hạn. Đặc tính của tài sản lưu động rịng là nó không được
khấu hao và thường được thu hồi vào giai đoạn kết thúc của dự án. Do vậy
khi tiến hành dự án mới tài sản lưu động ròng cần được tài trợ ỏ năm đầu của
dự án.
Những tác động đối với dự án khác: có những dự án mới khi ra đời sẽ
có tác động tăng (hoặc giảm) thu nhập của các dự án khác của doanh nghiệp.
Thực chất khoản tăng giảm này chỉ là sự chuyển dịch thu nhập của doanh
nghiệp nên dòng tiền thu được của doanh nghiệp từ những sự tăng thêm (hoặc
giảm đi) đó cũng phải đưa vào dự án mới.
Tác động của thuế: Thuế có những ảnh hưởng rất đáng ghi nhận đối với
dòng tiền của dự án. Thơng qua chi phí khấu hao của tài sản cố định thuế
doanh nghiệp phải nộp từ dự án sẽ giảm làm cho dòng tiền tăng. Hay đối với
chi phí lãi vay - một khoản chi phí trước phân bổ trước khi xác định thu nhập
rịng, chi phí này cao cũng đồng nghĩa với thu nhập ròng giảm từ đây sẽ tiết
kiệm một phần thuế thu nhập cho doanh nghiệp.
Về cách xác định dịng tiền: Thơng thường mỗi dự án các nhà thẩm
định cũng như nhà phân tích hay thiêt kế dự án đều phân định ra các dòng tiền
cần xác định bao gồm: dòng tiền đầu tư ( trong đó gồm tiền đầu tư vào tài sản
cố định- chi phí lắp đặt, chi phí cơ hội, đầu tư vào tài sản lưu động ròng),
dòng tiền từ hoạt động kinh doanh (dịng tiền này được xác đinh thơng qua
báo cáo kết quả kinh doanh dự tính hàng năm của dự án).
Tổng hợp những dòng tiền này cho ta kết quả dòng tiền dòng của dự án.
Nhưng do tiền có giá trị về thời gian nên nhà thẩm định, nhà phân tích khơng
thể so sánh những dịng tiền xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau mà
phải quy chúng về một mốc để so sánh. Bởi vậy vấn đề về lãi xuất chiết khấu
đặc biệt được quan tâm khi xác định hiệu quả của dự án. Lãi suất chiết khấu
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
là tỷ lệ sinh lời cần thiết của một dự án mà nhà đầu tư mong đợi. Nó chính là
tỷ lệ mà nhờ đó các dịng tiền của dự án được quy về hiện tại để xác định giá
trị hiện tại ròng của dự án – NPV. Việc lựa chọn lãi suất chiết khấu phụ thuộc
vào kết quả phân tích rủi ro, khả năng sinh lời của dự án và cơ cấu vốn. Rủi ro
của dự án càng cao thì tỷ lệ lãi suất chiết khấu đòi hỏi càng cao. Cơ cấu vốn
tài trợ cho dự án có chi phí vốn càng cao thì địi hỏi lãi suất chiết khấu tối
thiểu phải bằng với tỷ lệ chi phí đó.
Từ trên cho thấy xác định dịng tiền là vơ cùng quan trọng và việc thẩm định
dòng tiền của dự án là yếu tố cốt yếu để đưa đến những kết luận cho công tác
thẩm định tài chính dự án.
1.3.4 Thẩm định hiệu quả tài chính dự án.
Việc nhà đầu tư ra quyết định có hay không thực hiện dự án chủ yếu
dựa trên những kết quả từ các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án này.
Mỗi chỉ tiêu này cho ta một phương pháp để đánh giá được hiệu quả tài chính
dự án.
Chỉ tiêu giá trị hiện tài rịng – NPV của dự án:
Giá trị hiện tại ròng của dự án được hiều là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện
tại của các dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư
bỏ ra được hiện tại hoá ở mốc thời gian 0.
n
NPV = ∑
t =0
CF t
(1 + k )
− CF 0
t
Hay
n
NPV = ∑
t=0
Bt − Ct
=
(1 + k ) t
n
Bt
∑ (1 + k ) t −
t=0
n
Ct
∑0 (1 + k ) t
t=
NPV: giá trị hiện tại dòng của dự án
CFt : Dòng tiền xuất hiện ở năm thứ t của dự án ( t = 1n)
CF0 : Vốn đầu tư bỏ ra ở thời điểm ban đầu (giả định vốn bỏ ra một lần ở năm
đầu tiên của dự án)
n : số năm thực hiện dự án.
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bt: dòng thu của dự án vào năm thứ t
Ct: Dòng chi của dự án vào năm thứ t
NPV phản ánh giá trị tăng thêm của chủ đầu tư. Nếu
NPV dương tức là dự án được thực hiện không những bù đắp được vốn đầu tư
bỏ ra mà còn tạo ra phần tăng thêm cho chủ dự án (lợi nhuận). Do đó với
những dự án độc lập thì NPV >0 sẽ là dự án có hiệu quả về mặt tài chính.
Và ngược lại NPV<0 thì dự án là khơng có hiệu quả. Trường hợp có hơn
một dự án thì dự án nào có NPV >0 và lớn nhất là dự án có hiệu quả nhất
nên sẽ được lựa chọn đầu tư.
Việc sử dụng NPV các nhà phân tích có thể đo lường trực tiếp lợi
nhuận tuyệt đối của dự án đầu tư từ đây có thể so sánh, lựa chọn các dự án
khác nhau. Đặc biệt chỉ tiêu này có ưu điểm nổi bật là có xét đến giá trị thời
gian của tiền và tính tốn hiệu quả tồn bộ đời sống của dự án.
Tuy nhiên bên cạnh đó thì chỉ tiêu NPV cũng có một số nhược điểm đó là:
- Phải xác định rõ ràng dòng thu và dòng chi của dự án khi muốn sử
dụng chỉ tiêu này. Đây là công việc khơng phải lúc nào cán bộ phân tíchthẩm định cũng có thể dự tính được.
- Kết quả của phép tính NPV phụ thuộc vào cách mà cán bộ phân tích thẩm định lựa chọn tỷ lệ chiết khấu. Trong khi tình hình thị trường vốn ln
ln biến động nhưng tỷ lệ chiết khấu này lại được coi cố định cho toàn bộ
thời hạn chiết khấu của dự án. Đây là điều khơng hợp lý.
- Chỉ tiêu này chưa nói lên được hiệu quả sử dụng đồng vốn bỏ ra bởi
nó mới chỉ cho biết được hiệu quả dưới dạng con số tuyệt đối, khơng biểu
diễn dưói dạng số tương đối.
- Trong trường hợp vốn có hạn nhưng có nhiều dự án có thời hạn khác
nhau để lựa chọn đầu tư thì khơng thể dùng chỉ tiêu này.
Chỉ tiêu tỷ lệ hoàn vốn nội bộ - IRR:
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ là tỷ lệ mà tại đó tổng dòng thu bằng tổng dòng
chi của dự án khi quy đổi về hiện tại hay đó chính là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó
giá trị hiện tại rịng của dự án bằng 0 (NPV = 0).
n
Bt
NPV= ∑
−
t
t = 0 ( 1 + IR R)
n
Ct
∑0 (1 + IR R) t = 0
t=
IRR thường được tính bằng phương pháp nội suy. Hai giá trị của lãi suất
chiết khấu k1,k2 (k2 >k1) ứng với NPV1>0 và NPV2< 0 sẽ được lựa chọn, dựa
trên nguyên tắc tam giác đồng dạng ta có được IRR là giá trị nằm giữa 2 giá
trị được chọn mà tại đó NPV =0.
IRR = k1 +
NPV1 ( k2 − k1 )
NPV1 + NPV 2
Hiện nay với sự tiến bộ của khoa học cơng nghệ việc tính IRR có thể
thực hiện bằng những phần mềm chuyên biệt cho kết quả rất chính xác.
Chỉ tiêu IRR nói nên mức sinh lợi của dự án sau khi đã hoàn vốn đồng thời
cũng phản ánh mức doanh lợi tối thiểu mà dự án đem lại.
Thơng thường dự án được đánh giá có hiệu quả khi nó có IRR ≥ Chi phí vốn
Đối với các dự án hay phương án loại trừ nhau thì lựa chọn phương án có
IRR ≥ Chi phí vốn và IRR max.
Cũng giống như NPV chỉ tiêu IRR có khá nhiều ưu điểm, như:
- Chỉ tiêu này có xét đến sự biến động của yếu tố thời gian, tính đến
hiệu quả cả đời dự án và có tính đến giá trị thời gian của tiền.
- Cho biết được khả năng sinh lời của dự án, dễ dàng so sánh với một
mức hiệu quả cho phép (bằng cách so sánh với chỉ tiêu k).
- IRR không phụ thuộc vào tỷ lệ chiết khấu do nó được xác định từ nội
bộ phương án. Đồng thời có thể sử dụng để so sánh các dự án - phương án
khác nhau .
Song song với những ưu điểm trên chỉ tiêu IRR cịn có một số nhược
điểm:
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Chỉ tiêu này chỉ cho biết lợi nhuận tương đối, không cho biết được giá
trị tuyệt đối dẫn đến có thể lựa chọn dự án có khả năng sinh lời cao nhưng lợi
nhuận tạo ra thấp.
- Không đề cập đến quy mô và độ lớn của dự án. Đặc biệt không xác
định được một tỷ suất hoàn vốn nội bộ trong trường họp dịng tiền có sự thay
đổi nhiều lần từ (-) sang (+) và ngược lại, khi đó cán bộ thẩm định – phân tích
cần dùng NPV để đánh giá.
Trong những trường hợp kết quả đánh giá bằng NPV và IRR ngược nhau thì
chỉ tiêu NPV là chỉ tiêu tốt hơn cho việc đánh giá dự án vì do chỉ tiêu IR
không đề cập đến quy mô vốn và chúng được giả định rằng dòng tiền được tái
đầu tư bằng tỷ lệ sinh lời của dự án.
Chỉ tiêu tỷ số thu chi - B/C( hay BCR):
Tỷ số thu- chi (B/C) là tỷ số giữa giá trị hiện tại của dòng thu trên giá
trị hiện tại của dịng chi phí bỏ ra. Chỉ tiêu này thể hiện hiệu quả của đồng
vốn bỏ ra khi quy về giá trị hiện tại.
Công thức xác định BCR:
n
BR
C
B
t
∑1 +k )t
0 (
= t=
n
C
t
∑1 +k )t
t= (
0
Dự án được coi là có hiệu quả về mặt tài chính khi BCR > 1. Đối với những
phương án loại trừ nhau thì phương án tốt nhất về mặt tài chính là phương án
có BCR lớn nhất.
Chỉ tiêu BCR có ưu điểm nổi bật là: có tính đến giá trị thời gian của
tiền, tính tốn trên tồn bộ đời sống của dự án; Đồng thời đánh giá được hiệu
quả tương đối của dự án và có thể dùng để so sánh các dự án – phương án
khác nhau.
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tuy vậy chỉ tiêu này cũng có khá nhiều nhược điểm. Đó là việc đòi hỏi
phải xác định rõ ràng dòng thu và dịng chi của dự án. Đây lại là một cơng
việc khơng phải là dễ dàng đối với nhà phân tích và thẩm định.
Chỉ tiêu này có sự phụ thuộc vào tỷ lệ chiết khấu, trong khi tỷ lệ chiết khấu
trên thị trường lại ln có sự thay đổi. Đây chỉ là một chỉ tiêu tương đối nên
dễ có thể dẫn đến sai lầm khi lựa chọn các phương án khác nhau.
Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn-PP:
Thời gian hoàn vốn đầu tư là thòi gian để chủ đầu tư thu hôi được số
vốn đã đầu tư ban đầu vào dự án. Chỉ tiêu này cho biết sau khi thực hiện dự
án bao lâu thì thu hồi đủ vốn đầu tư. Được xác định theo công thức:
PP = n +
Với n là số năm ngay trước năm thu hồi đủ vốn đầu tư.
Dự án có PP càng nhỏ sẽ càng tốt. Bởi khi đó nhà đầu tư sẽ thu hồi
được vốn sớm. Do đó nếu có nhiều dự án để lựa chọn thì dự án có PP nhỏ
nhất sẽ được chọn.
Chỉ tiêu này có ưu điểm là cho biết rõ được thời gian vốn sẽ được thu
hồi và có thể dùng để so sánh các dự án – các phương án khác nhau. Nhưng
bên cạnh đó chỉ tiêu này cũng có một số nhược điểm: Nhiều khi sử dụng chỉ
tiêu này dễ dẫn đến việc quá chú trọng chọn phương án có thời gian thu hồi
vốn nhỏ nhất mà bỏ qua mất phương án có lợi nhuận cao nhất (mục đích của
nhà đầu tư). Khơng tính tới giá trị thời gian của tiền, bỏ qua phần thu nhập
sau thời gian hoàn vốn mà đơi khi có những dự án nhưng năm sau mới có lợi
nhuận cao.
Mỗi chỉ tiêu trên chỉ tiêu nào cũng có những ưu nhược điểm riêng
khơng chỉ tiêu nào là hoàn hảo nên khi thẩm định các cán bộ thẩm định
thường sử dụng kết hợp một số chỉ tiêu có thể để có được kết quả chính xác
nhất.
1.3.5 Đánh giá rủi ro của dự án.
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bất kỳ một dự án nào ngay từ khâu lập cho đến kết thúc hoạt động ln
ln chứa đựng trong nó những rủi ro tiềm ẩn. Một cách chung nhất rủi ro
của dự án vẫn được hiểu là khả năng xảy ra một sự kiện khơng có lợi nào đó
làm giảm thu nhập của dự án so với dự kiến.
Thực tế môi trường kinh tế, đầu tư luôn chứa đựng rất nhiều loại rủi ro khác
nhau. Để thuận tiện cho việc phân tích chúng người ta đã phân ra làm ba loại:
Rủi ro loại 1: là những rủi ro riêng thuộc về chính bản thân dự án.hay
chính là rủi ro của một tài sản khi nó là tài sản duy nhất của dự án.
Rủi ro loại 2: Đây là loại rủi ro cho thấy sự ảnh hưởng của dự án đối
với rủi ro của doanh nghiệp. Nó thể hiện thơng qua sự biến thiên thu nhập của
doanh nghiệp khi thực hiện dự án.
Rủi ro loại 3 hay rủi ro thị trường: là rủi ro có ảnh hưởng trực tiếp đối
với giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Đây là loại rủi ro mà doanh nghiệp không
thể loại trừ được.chẳng hạn như rủi ro về tỷ giá, lạm phát…
Trong 3 loại rủi ro trên rủi ro loại một là loại mà cán bộ thẩm định rất quan
tâm và rủi ro này cũng rất quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả tài chính
thực sự của dự án. Rủi ro này được đánh giá bằng các phương pháp:
*Phương pháp phân tích độ nhạy:
Đây là phương pháp mà cán bộ phân tích - thẩm định chỉ ra chính xác
các chỉ tiêu tài chính thay đổi như thế nào khi có biến đầu vào thay đổi. Qui
trình phân tích được bắt đầu bằng việc dự báo những khoản doanh thu và chi
phí dự kiến để thơng qua chúng tìm được những khoản lợi nhuận rịng của dự
án. Kết quả dự báo được đặt trong hai tình huống là lạc quan và bi quan, và
đánh giá ảnh hưởng của chúng đối với NPV của dự án.
Phân tích về độ nhạy là một quy trình hữu ích để nhận diện các biến số
mà sự thay đổi của chúng sẽ gây tác dộng lớn đến NPV của dự án. Qua việc
phương pháp này người ra quyết định có thể tính tốn được những hậu quả
của sự ước tinh sai lầm và ảnh hưởng của chúng đến NPV. Mặc dù vậy thì
việc sử dụng phương pháp này cũng có một số hạn chế nhất định. Đó là:
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Các biến số đưa ra dựa trên những phán đoán chủ quan rất cao. Có
những biến đầu vào như giá bán, mức bán..khi phân tích cho thấy ảnh hưởng
rất lớn đến NPV và IRR, nhưmg trên thực tế những yếu tố này lại có thể được
cố định bởi hợp đồng với nhà cung cấp nên dự án vẫn có thể khá an toàn.
- Bỏ qua sự tác động lẫn nhau của các biến số đầu vào. Mà chỉ xét đến
tác động của những biến số đầu vào này đối với biến số đâu ra.
- Thêm nữa là kết quả về phân tích dộ nhạy không đem lại cho người ra
quyết định một giải pháp rõ ràng đối với việc lựa chọn dự án. Ý nghĩa của
phương pháp này là đưa lại cho người phân tích ý tưởng về một số điều
khơng chắc chắn và độ nhạy.
Nhưng cho dù thế nào thì thực tế phương pháp này vẫn là một công cụ rất hữu
ích khi sử dụng kết hợp với một số hình thức phân tích rủi ro khác.
*Phương pháp phân tích giả định tình huống:
Phương pháp này thường được áp dụng khi đánh giá rủi ro của những
dự án lớn, bởi đây là một qui trình đánh giá lợi nhuận và rủi ro của những dự
án phức tạp.
Bước đầu của phương pháp này là tạo ra một mẫu dòng tiền bằng cách
xác định những yếu tố ảnh hưởng đến nó và các mối quan hệ cụ thể giữa các
yếu tố thành phần của dòng tiền với nhau, và cả những ảnh hưởng của những
yếu tố này đến dòng tiền.
Dòng tiền = (doanh thu – chi phí)x(1 - thuế suất) + (thuế suất x khấu hao)
Mỗi thành phần chủ yếu của dòng tiền có thể chỉ ra những yếu tố quyết
định của nó. Khi các mối quan hệ của dòng tiền đã được nhận diện, các nhà
phân tích có thể dễ dàng đánh giá được phân phối xác suất của mỗi thành
phần của nó. Và khi tất cả những phân phối xác suất cũng như các mỗi quan
hệ giữa các thành phần đã được chỉ rõ thì đã hình thành được mơ hình của
“tình huống giả định”. Lúc này kết hợp với việc sử dụng các phần mềm máy
tính chuyên biệt cán bộ phân tích thẩm định lựa chọn ngẫu nhiên dịng tiền
cho mỗi năm và cho cả đời sống của dự án. NPV của dự án sẽ được chiết
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khấu ở tỷ lệ rủi ro sinh lời ở mức rủi ro thuần t để tránh tình trạng tính hai
lần rủi ro. NPV ở đây đại diện cho một trong nhiều NPV tiềm tàng có thể
xuất hiện. Máy tính sẽ thực hiện nhiều lần và dừng lại ở một phân phối xác
suất ước tính về NPV của dự án. Đồng thời cũng cho kết quả vê phân phối
xác suất ước tính của IRR.
Phương pháp này có ưu điểm và nhược điểm nhất định:
Trong đó ưu điểm là bắt buộc người ra quyết định phải xem xét cẩn
thận các mỗi quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến dịng tiền. Nó đem lại
một sự mô tả chi tiết về phân bố của NPV, và cung cấp thông tin về những
ảnh hưởng cùng một lúc của tất cả các biến số thích hợp đối với NPV.
Còn nhược điểm của phương pháp này là:
Việc nhận biết các mỗi quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến dịng
tiền là rất khó khăn. Nó địi hỏi nhiều kỹ năng chun mơn, thời gian và chi
phí mang kết quả thu được cũng chỉ là những phân bố dự tính; Ở phương
pháp này rủi ro của dự án khơng tính đến sự đa dạng hố của nhà đầu tư; Nó
tạo ra một sự phân bố NPV mà nhà quản trị vẫn khơng có được câu trả lời
hồn tồn rõ ràng trong việc chấp nhận hay từ chối đầu tư- thực hiện dự án.
1.4 Chất lượng thẩm định tài chính dự án
1.4.1 Quan niệm về chất lượng thẩm định tài chính dự án.
Từ trước đến nay một khái niệm thống nhất về chất lượng của thẩm
định tài chính dự án vẫn chưa được đưa ra một cách cụ thể chính xác. Đối với
mỗi chủ thể nghiên cứu khác nhau lại có quan niệm riêng về chất lượng thẩm
định tài chính dự án. Riêng hoạt động thẩm định tài chính dự án của ngân
hàng được coi là có chất lượng tốt chỉ khi: Trong giai đoạn trước khi cho vay
thì đó là căn cứ khoa học để giúp ngân hàng đưa ra quyết định cho vay hay
không. Trong những giai đoạn tiếp theo của quy trình cho vay thì chất lượng
thẩm định tài chính tốt tức là thu nhập dịng hàng năm của dự án tăng đều và
không lệch nhiều so với dự kiến, ngân hàng thu được nợ gốc và lãi đầy đủ
đúng hạn, chủ đầu tư có được lợi nhuận, những rủi ro xảy ra khơng nằm ngồi
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dự tính của nhà lập, nhà thẩm định dự án; Ngược lại chất lượng thẩm định tài
chính dự án sẽ là thấp nếu dựa vào đó để ngân hàng ra quyết định cho vay
nhưng sau này không thu hồi được nợ (gốc và lãi vay), hay ngân hàng không
cho vay nhưng tổ chức tín dụng khác cho vay thì dự án hoạt động tốt và thu
hồi được nợ. Điều đó gây ra thiệt hại cho ngân hàng và làm giảm thu nhập của
ngân hàng. Như vậy có thể thấy chất lượng thẩm định tài chính dự án là một
khái niệm mang nhiều yếu tố định tính, các nhà thẩm định đơi khi cũng khó
có thể biết ngay được hiệu quả cơng tác của mình mà nó địi hỏi phải có thời
gian để khẳng định. Nó được coi là tốt khi ngân hàng quyết định cấp tín dụng
và khoản tín dụng đó đem lại thu nhập cho ngân hàng, hay khi ngân hàng từ
chối cấp thì cũng khơng làm giảm thu nhập của ngân hàng.
1.4.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án.
Mặc dù khó đưa ra một khái niệm chính xác nhưng khơng phảỉ là các
ngân hàng khơng có cách để xác định được chất lượng thẩm định tài chính dự
án. Dưới đây là một số chỉ tiêu để đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự
án.
Một là mức độ khách quan, khoa học, toàn diện của kết quả q trình
thẩm định tài chính của dự án và tầm quan trọng của những kết quả này trong
quyết định cho vay của ngân hàng.
Hai là độ chính xác giữa kết quả thẩm định với thực tế thực hiện dự án.
Bao gồm sự chính xác về số vốn bỏ ra dự tính cho từng giai đoạn của dự án
với lượng vốn chi ra ở từng giai đoạn, doanh thu dự tính thu được với doanh
thu thực tế thu được hàng năm, chính xác trong đánh giá hiệu quả và phân
tích rủi ro so với thực tế phát sinh….
Ba là thời gian và chi phí bỏ ra để tiến hành thẩm định tài chính của dự
án. Thời gian thẩm định nhanh, chi phí thấp nhưng kết quả thẩm định được sử
dụng triệt để và là căn cứ chính cho quyết định cho vay thì q trình thẩm
định đó được coi có chất lượng tốt. Ngược lại chi phí thẩm định lớn, thời gian
thẩm định dài nhưng kết quả thẩm định lại sử dụng không nhiều, trong quyết
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
định cho vay thì q trinh thẩm định đó chỉ có thể tạm coi là có chất lượng
trung bình.
Thứ tư là căn cứ vào một số tỷ lệ: tỷ lệ nợ quá hạn. tỷ lệ nợ khó địi.
Những tỷ lệ này phản ánh trực tiếp chất lượng thẩm định nói chung và chất
lượng thẩm định tài chính dự án nói riêng. Nếu chất lượng thẩm định tài chính
dự án tốt ngân hàng thu được nợ gốc và lãi vay đầy đủ, đúng hạn, cũng có
nghĩa là tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi thấp. Nhưng chất lượng thẩm định kém
dẫn đến ngân hàng khơng hoặc khó thu hồi được nợ thì tương ứng những tỷ lệ
này sẽ cao, làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Những chỉ tiêu trên cho thấy phần nào chất lượng thẩm định tài chính
dự án. Thực tế hoạt động thẩm định tài chính dự án do liên quan đến hẳn một
dự án với nhiều vấn đề phức tạp nên chất lượng thẩm định dự án chịu ảnh
hưởng của rất nhiều nhân tố cả khách quan và chủ quan.
1.5 Những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự
án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của ngân hàng thương
mại.
1.5.1Những nhân tố khách quan.
Điều kiện kinh tế xã hội: Nhân tố này có ảnh hưởng khá rõ ràng tới
chất lượng thẩm định. Nền kinh tế xã hội phát triển lành mạnh, và ổn định
thông tin thị trường được phản ánh một cách trung thực đầy đủ sẽ giúp cho
cán bộ thẩm định nhanh chóng, kịp thời có được những thơng tin cần thiết về
thị trường nguyên - nhiên vật liệu của dự án, cũng như những thơng tin về
tình hình cung cầu sản phẩm của dự án trên thị trường… từ đó làm tăng độ
chính xác trong những dự báo về dự án và tính chính xác khách quan trong
kết quả thẩm định. Đồng thời thơng tin đầy đủ chính xác thì thời gian thẩm
định cũng sẽ được rút ngắn tăng lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng, tiết kiệm
thời gian cho chủ dự án.
Môi trường pháp lý:
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Không chỉ đối với hoạt động của ngân hàng nói chung, của cơng tác
thẩm định tài chín dự án nói riêng mà đối với tất cả các hoạt động sản xuất
kinh doanh khác, mơi trường pháp lý có tác động vơ cùng lớn. Những căn cứ
pháp lý chính là bảng chỉ dẫn cho các hoạt động kinh tế đi đúng hướng và
đúng mục tiêu của phát triển của cả cộng động. Do vậy có một mơi trường
pháp lý ổn định, lành mạnh, phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ tạo điều kiện cho
công tác thẩm định thực hiện một cách bài bản, đúng quy định, trong khuôn
khổ cho phép, thuận tiện cho cả khách hàng lẫn ngân hàng. Nhưng nếu môi
trường pháp lý cịn thiếu và chưa đồng bộ thì đây chính là một khó khăn lớn
cho các nhà thẩm định. Các nhà thẩm định sẽ phải gặp những mâu thuẫn có
thể phát sinh giữa các văn bản hướng dẫn, giữa những qui định… và điều
này thực tế đã diễn ra rất nhiều (chẳng hạn như các quy định về hạch toán kế
toán, về khấu hao,… ) các nhà thẩm định sẽ phải mất nhiều thời gian công sức
hơn khi thực hiện cơng việc của mình. Đặc biệt sự chồng chéo hoặc khiếm
khuyết trong quy định có thể là cơ hội cho những khách hàng (bản chất kinh
doanh không tốt) dựa vào đó luồn lách để có được khoản tín vay mong muốn
nhưng lại khơng có khả năng hồn vốn hay lãi dẫn đến thiệt hại cho ngân
hàng, và nền kinh tế.
Chủ dự án (khách hàng):
Có thể nói đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng thẩm định.
Chủ dự án chính là những người làm việc trực tiếp với ngân hàng khi muốn
vay vốn của ngân hàng và cũng là người nắm rõ về dự án nhất. Mà để thẩm
định dự án thì vấn đề đầu tiên là ngân hàng phải thu thập thông tin về dự án.
Những thơng tin này khơng đâu khác chính chủ dự án sẽ là người cung cấp
trước tiên cho ngân hàng thông qua hồ sơ vay vốn. Do vậy chủ dự án cung
cấp thơng tin trung thực, chính xác, khoa học và đầy đủ sẽ giúp ích cho việc
thẩm định tài chính của dự án rất nhiều. Bên cạnh đó sự hiểu biết sâu rộng của
chủ dự án, khả năng tổ chức, quản lý, sự nỗ lực của chủ dự án trong việc kết
hợp với cán bộ tín dụng khi thẩm định cũng góp phần thúc đẩy q trình thẩm
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
định dự án nói chung, thẩm định tài chính dự án nói riêng diễn ra nhanh
chóng, chính xác, làm tăng tính khả thi của dự án. Ngược lại chủ dự án thiếu
năng lực tổ chức quản lý, trình độ và sự am hiểu hạn hẹp, thiếu sự trung thực,
không sẵn sàng cung cấp những thơng tin cần thiết cho việc thẩm định… thì
rất dễ làm cho kết quả thẩm định thiếu chính xác, dẫn đến vốn vay sử dụng
khơng đúng mục đích hay làm thất thốt lãng phí vốn đầu tư của dự án. Điều
này tất yếu sẽ cho thấy chất lượng thẩm định thấp ảnh hưởng đến thu nhập
của ngân hàng.
Môi trường tự nhiên:
Việc thẩm định không phải không chịu tác động của môi trường tự
nhiên. Để thu thập được thông tin cần thiết đôi khi cán bộ thẩm định phải đi
thực tế tại nơi dự án dự định sẽ được thực hiện. Điều kiện khí hậu, thời tiết và
mơi trường tự nhiên tại đó cũng sẽ ảnh hưởng tới kết quả của việc thu thập
thơng tín đó, và việc dự tính các chỉ tiêu của dự án (đặc biệt là đối với những
dự án trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp).
1.5.2 Những nhân tố chủ quan
Nếu như những nhân tố khách quan ảnh hưởng một phần thì những
nhân tố chủ quan có tầm ảnh hưởng lớn hơn nhiều. Trong đó bao gồm các
nhân tố: Cán bộ thẩm định, trang thiết bị cơng nghệ và thơng tin, qui trình nội dung phương pháp thẩm định tài chính dự án, cơng tác tổ chức điều hành
hoạt động thẩm định tàì chính dự án.
Cán bộ thẩm định:
Con người ln là yếu tố trung tâm quyết định trực tiếp tới sự thành
công hay thất bại của công việc. Bởi vậy chất lượng thẩm định tài chính dự án
cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào những tố chất thuộc về cán bộ thẩm định.
Trước tiên cũng như bất kỳ công việc nào, người thực hiện thẩm định có được
trình độ chun môn nghiệp vụ giỏi, kỹ năng tốt, am hiểu về thị trường một
cách sâu rộng, hiểu biết về khoa học kỹ thuật sẽ giúp cho công việc được tiến
hành nhanh chóng, chính xác, đạt kết quả cao. Ngược lại cán bộ thẩm định
25