Website: Email : Tel (: 0918.775.368
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng thương mại
NTHMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
NHHH (MSB) : Ngân hàng Hàng Hải
NHNN : Ngân hàng nhà nước
T&DH : Trung và dài hạn
KH DN : Khách hàng doanh nghiệp
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu
Năm 2006 là năm thứ 20 của công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế ở
nước ta. Trải qua biết bao khó khăn và thử thách ở chính nội tại đất nước và từ
môi trường thế giới đem lại. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta bước đầu đã tạo
dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với hệ thống công
– nông nghiệp - dịch vụ ngày càng phát triển, từng bước rút ngắn khoảng cách
với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Để có được những thành tựu kinh tế như hiện nay trước tiên phải kể đến
sự đóng góp vô cùng quan trọng của hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ
chức tài chính tín dụng của nước ta. Cũng như các ngân hàng thương mại và tổ
chức tài chính trên thế giới, hoạt động kinh doanh của những tổ chức này vốn dĩ
là loại hình hoạt động rất nhạy cảm, mang tính năng động và rủi ro hơn nhiều so
với hoạt động của các lĩnh vực khác, đồng thời cũng giữ vai trò quan trọng trong
việc định hướng cho hoạt động của các lĩnh vực khác, bởi đây là ngành tạo và
cung cấp vốn cho nền kinh tế. Vì vậy trong xu thế quốc tế hoá ngày nay vấn đề
đặt ra là các ngân hàng thương mại nước ta phải luôn luôn giữ thế phát triển dẫn
đầu cho nền kinh tế, không ngừng mở rộng và nâng cao chất lượng sản phẩm
dịch vụ của mình, sớm bắt kịp với nhịp điệu trong khu vực và trên thế giới. Thực
tế các ngân hàng đã có nhiều cố gắng nỗ lực phấn đấu, nhưng do sự phát triển
còn thiếu đồng bộ về con người, môi trường và kỹ thuật trong nước nên vẫn
chưa đạt được kết quả như mong muốn. Đặc biệt trong hoạt động cho vay của
ngân hàng, cụ thể hơn nữa là hoạt động cho vay các dự án đầu tư trung và dài
hạn đạt hiệu quả không cao. Mà nguyên nhân chính xuất phát từ những yếu kém,
chủ quan trong công tác thẩm định. Dẫn đến hậu quả là rất nhiều dự án được lựa
chọn đầu tư nằm ở cả ba miền có hiệu quả thấp hoặc không có hiệu quả, không
trả được nợ cho ngân hàng, gây lãng phí thất thoát hàng trăm, hàng nghìn tỷ
đồng của nhà nước và nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của từng
doanh nghiệp, từng ngân hàng và tới toàn nền kinh tế.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Từ sự nhận thức được những vấn đề trên và sau một thời gian dài tìm
hiểu thực tế tại cơ sở, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng
thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải - chi nhánh Hà Nội” cho luận văn
tốt nghiệp của mình.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chất lượng thẩm định tài chính dự
án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM.
Chương 2: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động
cho vay trung và dài hạn tại NHTM cổ phần Hàng Hải – Chi nhánh Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt
động cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng Hàng Hải – Chi nhánh Hà Nội.
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên trong luận văn này chắc
chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của các thầy cô giáo và các anh chị trong ngân hàng MSB
Qua đây em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa ngân hàng tài
chính trường ĐHKTQD, đặc biệt là thầy Phạm Long đã tạo điều kiện, hướng
dẫn giúp em hoàn thành luận văn này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cô
chú – anh chị trong ngân hàng MSB Hà Nội đã nhiệt tình hướng dẫn chỉ bảo em
trong suốt thời gian thực tập để em có thể hoàn thành những kiến thức thực tế
trong luận văn của mình.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG
THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM.
1.1 Hoạt động cho vay của NHTM.
1.1.1 Những vấn đề chung về hoạt động cho vay của NHTM
Trải qua nhiều thế kỉ từ khi xuất hiện đến nay hệ thống các ngân hàng
thương mại với hàng ngàn chi nhánh ở khắp năm châu đã không ngừng thể hiện
tầm quan trọng không thể thiếu của mình đối với sự phát triển nền kinh tế thế
giới nói chung, cũng như đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia riêng
biệt. Chính hệ thống Ngân hàng với những phương tiện giao dịch hiện đại (Ngân
hàng điện tử) đang từng bước xoá bỏ sự ngăn cách về địa lý, không gian và thời
gian làm cho các lục địa xích lại gần nhau hơn.
Ngày nay sản phẩm của ngân hàng không còn chỉ đơn điệu với nhận tiền
gửi, đổi tiền, giữ tiền hộ…mà đã trở nên vô cùng phong phú đa dạng với thẻ
ngân hàng, chuyển tiền điện tử, bao thanh toán, phonebanking,….Tuy nhiên
những dịch vụ hiện đại này mới chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng cơ cấu tài
sản của ngân hàng, còn phần tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản của ngân hàng vẫn
là các dịch vụ cho vay. Ở hầu hết các nước khả năng cho vay đối với khách hàng
chính là lý do cơ bản để ngân hàng được các cơ quan quản lý có thẩm quyền cấp
phép hoạt động. Mọi người mong muốn các ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển
của cộng đồng địa phương thông qua các hoạt động cho vay đáp ứng nhu cầu tài
chính của doanh nghiệp và của người tiêu dùng với một mức lãi suất hợp lý. Do
đó, cho vay được coi là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng. Hoạt
động cho vay cũng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại
khu vực ngân hàng phục vụ, bởi cho vay thúc đẩy tăng trưởng của các doanh
nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Không những vậy thông qua các khoản
cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm những thông tin về chất lượng tín
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dụng của từng khách hàng và nhờ đó giúp họ có khả năng nhận thêm các khoản
tín dụng mới từ những nguồn khác với chi phí thấp hơn. Đối với hầu hết các
ngân hàng thương mại, đặc biệt ở các nước đang phát triển thì thu nhập từ cho
vay chiếm quá nửa tổng giá trị tổng nguồn thu của ngân hàng.
Với tầm quan trọng như vậy thì thực chất cho vay vẫn được hiểu là một
giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng hoặc định
chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác)
trong đó bên vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn
nhất định theo thoả thuận theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Về cách phân loại có rất nhiều cách khác nhau, tuỳ theo mỗi tiêu thức
phân loại và tuỳ theo từng ngân hàng mà hoạt động cho vay được chia ra làm
nhiều loại, nhằm thuận tiện cho quản lý và phù hợp với mục đích vay vốn của
khách hàng.
Nếu dựa vào tiêu chí mục đích thì cho vay được chia ra các loại:
- Cho vay kinh doanh bất động sản: bao gồm các khoản cho vay xây
dựng ngắn hạn, giải phóng mặt bằng hay các khoản cho vay dài hạn nhằm mua
đất canh tác, nhà, các trung tâm thương mại…..
- Cho vay công nghiệp và thương mại: nhằm đáp ứng nhu cầu của các
doanh nghiệp trong việc trang trải những khoản chi phí như mua hàng nhập kho,
mua sắm máy móc thiết bị để sản xuất kinh doanh….
- Cho vay nông nghiệp: nhằm hỗ trợ cho người nông dân trong thời điểm
mùa vụ như lúc chuẩn bị gieo trồng, khi bảo quản và chế biến sản phẩm.
- Cho vay các tổ chức tài chính: đây là các khoản tín dụng cung cấp giữa
các tổ chức tài chính với nhau để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn.
- Cho vay cá nhân: hình thức này nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
cá nhân như tài trợ cho việc mua sắm ô tô, xe máy, nhà ở….
- Cho thuê: Đây là hình thức mà ngân hàng đứng ra mua sắm máy móc
thiết bị sau đó cấp tín dụng cho khách hàng thông qua việc cho thuê những tài
sản này. Trong suốt thời hạn thuê ngân hàng sẽ nhận được tiền từ người thuê và
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đến cuối thời hạn có thể bán lại tài sản cho khách hàng theo hợp đồng thuê mua
đã kí kết.
Nếu dựa vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng cho vay lại được chia
làm hai loại:
- Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay mà ngân hàng không cần
sự thế chấp, cầm cố hay sự bảo lãnh của bên thứ ba.
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay mà ngân hàng chỉ cho vay khi
khách hàng có tài sản đủ tiêu chuẩn để thế chấp, cầm cố, hay có sự bảo lãnh của
bên thứ ba.
Nếu dựa vào thời hạn cho vay thì bao gồm:
- Cho vay ngắn hạn;
- Cho vay trung hạn;
- Cho vay dài hạn
Ngoài những căn cứ trên thì còn nhiều cách phân chia nữa của hoạt động
cho vay. Trong đó đối với những ngân hàng phân chia hoạt động cho vay theo
tiêu thức thời gian thì phần cho vay trung và dài hạn thường chiếm tỷ trọng khá
cao trong cơ cấu cho vay
1.1.2 Hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM
* Khái niệm về cho vay trung và dài hạn của NHTM
Hiện nay giữa các nước khác nhau trên thế giới quan niệm về cho vay
trung và dài hạn không hoàn toàn giống nhau. Tại thị trường tài chính Việt Nam
cho vay trung và dài hạn vẫn được coi là các khoản cho vay có thời hạn trên 1
năm. Trong đó theo qui định cách đây vài năm thì cho vay trung hạn là các
khoản cho vay có thời hạn từ 1 đến 3 năm và cho vay dài hạn là những khoản
cho vay có thời hạn trên 3 năm. Nhưng hai năm trở lại đây NHNN Việt Nam đã
qui định thời hạn của khoản cho vay trung hạn là từ 1 đến 5 năm và dài hạn là
trên 5 năm để nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các doanh nghiệp vì thông
thường tài sản hình thành từ khoản vay trung dài hạn của doanh nghiệp có thời
gian sử dụng tương đối dài.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
* Mục đích đi vay trung dài hạn của các doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp đi vay trung và dài hạn chủ yếu nhằm đáp ứng nhu
cầu mua sắm tài sản cố định mới, phương tiện vận tải mới, đổi mới trang thiết bị
công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng các dự án mới về nhà
ở, các xí nghiệp - nhà máy sản xuất, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng qui mô
vừa và lớn…..ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế.
* Lý do lựa chọn phương án vay trung và dài hạn của khách hàng:
Ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, đi vay trung và dài hạn từ các định chế tài
chính và phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán là hai nguồn tài trợ dài
hạn chủ yếu của các khách hàng doanh nghiệp. Chính bởi vậy mà có nhiều lý do
để các khách hàng lựa chọn nguồn vốn vay trung và dài hạn từ các ngân hàng.
Trước hết là do các doanh nghiệp nhỏ bị hạn chế về khả năng tìm nguồn
vốn trên thị trường, họ không thể có đủ các điều kiện để có thể huy động vốn
trung và dài hạn cho mình thông qua thị trường chứng khoán. Vì vậy khi nhu
cầu vốn phát sinh họ phải đi vay ở các ngân hàng thương mại và các định chế tài
chính khác.
Thứ hai đó là, trong nhiều trường hợp khách hàng thấy vay trung dài hạn
tốt hơn phát hành chứng khoán. Bởi so với phát hành trái phiếu, đi vay mượn các
doanh nghiệp có thể có điều kiện vay muợn thích hợp hơn cho nhu cầu của
mình: Sau khi nhận tiền vay họ vẫn có thể thương lượng với người cho vay một
số điều kiện đã được xác định ban đầu. Hơn nữa đi vay họ sẽ không phải tốn
thêm những chi phí về bảo lãnh, đăng ký, phát hành…, không phải cân nhắc là
liệu các cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp phát hành ra có được nhà đầu tư chấp
nhận hay không (bởi nó còn phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường chứng
khoán, tâm lý của nhà đầu tư, và quan trọng là uy tín của doanh nghiệp).
Thứ ba là, trong nhiều trường hợp doanh nghiệp không muốn phát hành
chứng khoán để thu hút vốn vì ngại phải công bố thông tin về mình hoặc đang ở
trong điều kiện thị trường không thuận lợi cho việc phát hành.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Và thứ tư đó là, cho vay trung dài hạn sẽ buộc các doanh nghiệp nhỏ
phải tích luỹ vốn từ lợi nhuận để lại, cho dù doanh nghiệp có quan hệ mật thiết
với ngân hàng. Điều này sẽ có lợi cho doanh nghiệp về sau này.
Với những lý do trên cho thấy đi vay trung dài hạn tại các tổ chức tài
chính thực sự là một kênh không thể thiếu của các khách hàng doanh nghiệp.
Nhu cầu lớn nên loại hình cho vay này cũng có nhiều hình thức khác nhau cho
khách hàng lựa chọn để phù hợp với mình. Như:
Cho vay mua sắm thiết bị trả góp
Cho vay kỳ hạn
Tài trợ theo dự án
Cho vay hợp vốn
Cho thuê tài chính
Forfaiting (một hình thức cấp tín dụng người bán trong các giao dịch
mua bán hàng trả chậm và không truy đòi đối với người bán mà thu tiền thẳng từ
người mua).
1.2 Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn
của NHTM.
1.2.1 Khái niệm về thẩm định tài chính dự án.
Đối với bất kỳ một dự án nào khi được đưa vào xem xét để thực hiện thì
vấn đề được quan tâm hàng đầu là tính khả thi của dự án. Tính khả thi của dự án
sẽ được thể hiện thông qua sự phù hợp về mặt kỹ thuật, mặt kinh tế và tài chính
của dự án đối với nền kinh tế, với sự quản lý của nhà nước, với nhà đầu tư và với
chủ dự án. Trong đó tuỳ theo từng dự án được thiết kế phục vụ cho các mục đích
khác nhau (như dự án vì cộng đồng, dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh,
dự án xây dựng nhà máy mới...) mà những tiêu chí về kinh tế, về kĩ thuật hay về
tài chính sẽ được đề cao. Tuy nhiên cho dù đề cao tiêu chí nào đi chăng nữa thì
sự xem xét thẩm định về mặt tài chính của một dự án trước khi đưa vào thực thi
là không thể coi nhẹ. Và cũng bao hàm những vấn đề cơ bản của công tác thẩm
định, “Thẩm định tài chính dự án chính là sự rà soát đánh giá một cách khoa
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
học, toàn diện mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư
bao gồm doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác và các cá nhân”.
(Nguồn: sách thẩm định tài chính dự án – NXB tài chính – 2004)
Trong hoạt động cho vay của mình các ngân hàng thương mại chính là
các nhà tài trợ vốn. Ngoài những dự án ngân hàng cho vay theo chỉ định của
chính phủ nhằm phục vụ cộng đồng yếu tố lợi nhuận không được đặt nên hàng
đầu, còn lại hầu hết các dự án khác được ngân hàng cho vay đều nhằm mục đích
tạo thu nhập cho ngân hàng. Vì vậy việc thẩm định tài chính dự án là vô cùng
quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
1.2.2 Sự cần thiết của công tác thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay
trung dài hạn của NHTM.
Để cho một lượng vốn lớn được bỏ ra ở hiện tại có thể được thu hồi dần
trong tương lai xa, thì trước khi chi vốn vào các dự án, các nhà đầu tư đều tiến
hành soạn lập chương trình cụ thể, chi tiết theo tính chất của từng dự án. Những
công việc này hết sức phức tạp liên quan đến nhiều vấn đề, đòi hỏi phải có sự
phối hợp hoạt động của nhiều người. Thực tế những giải trình từ phía doanh
nghiệp đối với ngân hàng về dự án cần vay vốn thường rất sơ sài, đôi khi có số
liệu không đủ căn cứ để chứng minh tính sát thực, do đó phải rà soát, điều chỉnh
lại.
Đối với ngân hàng, để ngăn chặn sự đổ bể, sự lãng phí vốn khi muốn
tài trợ hay cho vay vốn vào dự án thì cần phải thẩm định lại tính hiệu quả của dự
án, đặc biệt sự hiệu quả về mặt tài chính. Điều này đảm bảo cho chính bản thân
sự tồn tại của một ngân hàng. Bởi nếu để xảy ra bất kỳ rủi ro nào dẫn đến sự
không thu hồi được vốn của ngân hàng sẽ ảnh hưởng lớn đến thu nhập của ngân
hàng, nhất là khi đó là các dự án lớn.
Đối với xã hội, mỗi một dự án khi thực hiện không chỉ có ảnh hưởng
đến chủ dự án, ngân hàng (hay các nhà đầu tư khác) mà còn chứa đựng cả những
ảnh hưởng đối với người dân nơi thực hiện dự án, đến nguồn tài nguyên đất
nước sẽ được sử dụng, đến các ngành nghề khác liên quan….Vì vậy ngân hàng
cần phải tiến hành thẩm định lại dự án để xem xét một cách toàn diện khi có chi
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phí xã hội dự án, hiệu quả tài chính của dự án còn được đảm bảo không, có phù
hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển của vùng, của địa phương hay không.
Đối với chủ dự án, khi ngân hàng tiến hành thẩm định lại dự án chính
là dịp để khẳng định tính đúng đắn trong quyết định đầu tư của chủ dự án. Đồng
thời giúp chủ dự án tránh được những sai sót có thể không nhận thấy khi tiến
hành lập dự án, làm cho dự án hoàn thiện hơn, tránh lãng phí vốn của chính chủ
dự án.
Với sự cần thiết như vậy thì khi thực hiện nội dung thẩm định tài chính dự án sẽ
bao gồm những nội dung cơ bản sau.
1.3 Nội dung công tác thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay
trung và dài hạn của NHTM.
1.3.1 Thẩm định dự toán đầu tư và nguồn tài trợ.
Mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp và nhà đầu tư về ngắn hạn là tối đa
hoá vốn chủ sở hữu, còn về dài hạn chính là tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Để
đạt được mục tiêu này thì vấn đề quan trọng đưa ra đối với doanh nghiệp là
không ngừng đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Và để đầu tư được người ta đưa ra
câu hỏi về vốn đầu tư. Dưới giác độ của dự án thì vốn đầu tư chính là tổng số
tiền được chi tiêu để hình thành nên các tài sản cố định, tài sản lưu động cần
thiết và vốn dự phòng.
Trong đó vốn đầu tư vào tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng vốn đầu tư của dự án, đặc biệt là các dự án sản xuất. Và là phần để mua
sắm, cải tạo, mở rộng tài sản cố định (như: máy móc thiết bị sản xuất, nhà
xưởng, đất đai, phương tiện vận chuyển…). Phần vốn đầu tư còn lại được đầu tư
vào tài sản lưu động ròng. Đó là nguồn vốn để hình thành nên các tài sản lưu
động ròng cần thiết để thực hiện dự án (như: nguyên vật liệu, nhiên liệu, tiền
thuê nhân công, chi phí quản lý…). Lượng vốn lưu động ròng lớn hay nhỏ phụ
thuộc vào đặc điểm của mỗi dự án; Ngoài hai phần vốn chính này là phần vốn
dự phòng để kịp thời cung cấp khi có phát sinh những chi phí ngoài dự kiến hay
khi xảy ra rủi ro dự kiến.
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Để xác định được lượng vốn cho dự án các nhà lập dự án tiến hành dự
toán vốn. Thông thường các nhà thẩm định và các nhà lập dự án sẽ căn cứ vào
năm tiêu chí cơ bản là: chính sách kinh tế, tình hình thị trường và sự cạnh tranh,
chi phí tài chính, tiến bộ khoa học kỹ thuật, khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Những tiêu chí này được sử dụng trong các phương pháp dự toán vốn như dự
báo theo tỷ phần doanh thu, dự toán tổng thể. Nhà thẩm định sẽ xem xét toàn bộ
quá trình lập dự toán vốn này để biết được mức vốn chính xác cần thiết cho dự
án.
Và:
Tổng vốn đầu
tư của dự án
=
Vốn cố
định
+
Vốn lưu
động
+
Vốn dự
phòng
Tổng vốn đầu tư được xác định là vậy nhưng sẽ tài trợ bằng nguồn vốn
nào? Đây là câu hỏi không chỉ nhà thẩm định mà chính chủ thực hiện dự án sẽ
đặt ra đầu tiên. Về mặt lý thuyết và cả thực tế thì mỗi dự án có nhiều hình thức
tài trợ vốn khác nhau:
Trước hết dự án có thể được tài trợ bằng vốn tự có: Loại vốn này có
được từ bốn nguồn: từ phát hành cổ phiếu thường, từ thặng dư vốn và từ lợi
nhuận giữ lại, phát hành cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu thường có nhiều ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và
trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Như sau khi phát hành
doanh nghiệp có thể tạm thời mua lại, doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hành
thêm khi cần thiết….Nên loại này cũng được sử dụng để tài trợ cho dự án, đặc
biệt là các dự án qui mô lớn.
Nguồn thặng dư vốn: Đây chính là phần vốn có được từ chênh lệch giữa
giá thị trường của cổ phiếu thường và mệnh giá của nó tại thời điểm phát hành.
Tuỳ theo sự đánh giá của thị trường về trị giá của cổ phiếu của doanh nghiệp mà
phần vốn này thu được là lớn hay nhỏ so với phần vốn doanh nghiệp dự tính có
được từ phát hành cổ phiếu thường.
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nguồn vốn từ thu nhập giữ lại được tài trợ cho dự án chỉ khi quá trình
hoạt động sản xuất của doanh nghiệp có hiệu quả. Tài trợ bằng thu nhập giữ lại
là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các
doanh nghiệp do doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm được sự phụ thuộc vào
bên ngoài.
Tài trợ cho dự án bằng nợ: phần vốn này doanh nghiệp có thể có từ
nguồn tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái
phiếu. Trái phiếu thực chất là một loại giấy vay nợ trung và dài hạn. Trên thị
trường thường lưu hành nhiều loại trái phiếu doanh nghiệp khác nhau (trái phiếu
có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phíếu có thể thu hồi, trái
phiếu có thể chuyển đổi). Việc doanh nghiệp lựa chọn loại trái phiếu nào để tài
trợ cho dự án còn tuỳ thuộc vào những vấn đề liên quan đến chi phí trả lãi, cách
thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu.
Tài trợ cho dự án bằng hình thức Leasing: thực chất đây là hình thức tài
trợ dự án thông qua cho thuê các loại tài sản. Doanh nghiệp có thể thuê ngắn hạn
tài sản hoặc thuê dài hạn tài sản. Đây là hình thức tài trợ rất phổ biến do nó có
nhiều ưu điểm so với các hình thức tài trợ khác đối với cả người cho thuê, người
đi thuê và với nền kinh tế.
Tài trợ bằng hình thức kết hợp: Đó là cách mà nguồn vốn cho dự án hình
thành từ sự kết hợp theo một tỷ lệ nhất định giữa vốn vay, vốn chủ sở hữu; Ứng
với mỗi hình thức tài trợ doanh nghiệp sẽ phải chịu một khoản chi phí vốn nhất
định. Nhất là trong hình thức tài trợ hỗn hợp chi phí vốn của dự án được đặc
biệt quan tâm. Bởi từ đó mà nhà soạn lập xác định nên đi vay bao nhiêu, nên
dùng vốn chủ bao nhiêu sao cho có được cơ cấu vốn tối ưu.
Nếu gọi T là thuế suất thu nhập doanh nghiệp.
K
e
: Chi phí thực của vốn chủ sở hữu
K
d
: Chi phí của vốn vay
W
e
: Tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trong tổng vốn
W
d
: Tỷ trọng của vốn vay trong tổng vốn
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ta có công thức xác định chi phí vốn trung bình của dự án:
WACC = W
e
.k
e
+ W
d
.(1 – T).k
d
Nhiệm vụ của nhà thẩm định trong giai đoạn này là xác định xem nguồn vốn của
dự án được tài trợ bằng hình thức nào, cơ cấu như thế nào, có hợp lý so với thực
tế không, chi phí vốn dự tính có phù hợp không…. Chẳng hạn như khách hàng
cơ cấu dự định 50% vốn của dự án là vốn chủ sở hữu, thì cán bộ thẩm định phải
xác định xem khách hàng có đủ khả năng để cung cấp vốn đúng như vậy không -
hay nói cách khác là phải xem xét năng lực tài chính của khách hàng.
1.3.2 Thẩm định kế hoạch doanh thu – chi phí – lợi nhuận hàng năm của
dự án.
Khi thực hiện công tác thẩm định về doanh thu của dự án điểm xuất phát
đầu tiên của nhà thẩm định là tìm hiểu về thị trường sản phẩm của dự án. Cán bộ
thẩm định sẽ phải thu thập thông tin về giá cả sản phẩm đã có hay sản phẩm
tương tự của đối thủ cạnh tranh trên thị trường hiện tại là bao nhiêu? Nhu cầu về
sản phẩm này hiện tại và xu hướng trong tương lai. Rồi đặc tính sản phẩm của
dự án có khả năng chiếm lĩnh thị trường hay không? Công suất dự tính của dự án
sẽ là bao nhiêu …. Từ đó dự tính doanh thu hàng năm của dự án.
Về chi phí của dự án: Thông thường phần vốn cố định chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng vốn của dự án. Nên những phần vốn chi cho xây dựng cơ sở vật
chất, mua sắm máy móc thiết bị sản xuất thường được thẩm định kĩ lưỡng. Cán
bộ thẩm định phải xem xét giá cả nguyên – nhiên vật liệu cho phần xây dựng
cũng như giá cả máy móc sản xuất của dự án bao nhiêu là phù hợp với thị trường
của khu vực, chất lượng máy móc ra sao…nhằm đánh giá chính xác cho phần
13
Doanh thu mỗi
năm của dự án
=
Lượng hàng
dự tính tiêu
thụ mỗi năm
X
Giá bán dự tính
của một đơn vị
sản phẩm
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vốn cần bỏ ra ban đầu. Và khi dự án đi vào hoạt động thì những chi phí về
nguyên nhiên vật liệu, đơn giá tiền công, khấu hao... hình thành nên giá thành
sản phẩm sẽ là bao nhiêu có phù hợp với dây truyền sản xuất, với thị trường hiện
tại không? Phương pháp khấu hao như thế nào cũng đặc biệt được quan tâm bởi
nó ảnh hưởng khá lớn đến dòng tiền ròng của dự án. Cán bộ thẩm định cần xem
xét phương pháp khấu hao mà doanh nghiệp sử dụng là phương pháp nào: khấu
hao đường thẳng, khấu hao giảm dần,… có phù hợp với loại tài sản và với qui
định của nhà nước hay không. Những chi tiết này sẽ được cán bộ thẩm định làm
rõ trên cơ sở những nguyên tắc kế toán nhất định để xác định chi phí hợp lý cho
từng năm của dự án.
Từ xác định doanh thu và chi phí hàng năm của dự án nhà thẩm định sẽ
xác định được lợi nhuận hàng năm của dự án, từ đó dự tính được dòng tiền của
dự án. Đây là phần chính yếu để nhà thẩm định biết được tính khả thi của dự án
cũng như khả năng thu hồi nợ từ kết quả hoạt động của dự án.
1.3.3 Thẩm định dòng tiền hàng năm của dự án
Theo quan niệm chung hiện nay của các nhà kinh tế, dòng tiền của một
dự án là các khoản chi và thu được kì vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác
nhau trong suốt thời gian tồn tại của dự án. Trong dòng tiền của dự án có dòng
tiền ra, dòng tiền vào và dòng tiền ròng (chênh lệch giữa dòng tiền vào và dòng
tiền ra của dự án). Trong đó dòng tiền ròng được coi là con số chính để xác định
giá trị hay hiệu quả trực tiếp của dự án. Khi xác định dòng tiền các nhà phân tích
và thẩm định có những nguyên tắc nhất định.
Nguyên tắc xác định dòng tiền:
Loại bỏ chi phí chìm ra khỏi phân tích: Chi phí chìm là những chi phi mà
doanh nghiệp - chủ dự án vẫn phải bỏ ra cho dù dự án có được chấp nhận và
thực hiện hay không (chẳng hạn như chi phí tư vấn về dự án, chi phí thiết kế dự
án, …). Chi phí này là một khoản chi tất yếu do đó không được đưa vào phần chi
đầu tư của dự án.
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chi phí cơ hội sẽ được đưa vào để phân tích chi phí của dự án: Có những
dự án được thiết kế trong đó có sử dụng một số yếu tố đầu vào sẵn có của doanh
nghiệp. Mà đáng lẽ ra nếu không sử dụng vào dự án thì nó sẽ được sử dụng vào
việc khác và đem lại nguồn thu cho doanh nghiệp. Khi sử dụng vào dự án doanh
nghiệp đã bỏ mất phần nguồn thu đó. Bởi vậy khoản chi phí này cần được đưa
vào nhằm đánh giá chính xác chi phí thực của dự án.
Ngoài hai khoản mục trên phần tài sản lưu động ròng đối với hầu hết các
dự án cũng được đầu tư và được chi thực tại năm đầu đi vào hoạt động của dự
án. Tài sản lưu động ròng là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động trừ đi nợ
ngắn hạn. Đặc tính của tài sản lưu động ròng là không được khấu hao và thường
được thu hồi vào giai đoạn kết thúc của dự án. Do vậy khi tiến hành dự án mới
tài sản lưu động ròng cần được tài trợ ở năm đầu của dự án.
Những tác động đối với dự án khác: có những dự án mới khi ra đời sẽ có
tác động tăng (hoặc giảm) thu nhập của các dự án khác của doanh nghiệp. Thực
chất khoản tăng giảm này chỉ là sự chuyển dịch thu nhập của doanh nghiệp nên
dòng tiền thu được của doanh nghiệp từ những sự tăng thêm (hoặc giảm đi) đó
cũng phải đưa vào dự án mới.
Tác động của thuế: Thuế có những ảnh hưởng rất đáng ghi nhận đối với
dòng tiền của dự án. Thông qua chi phí khấu hao của tài sản cố định thuế doanh
nghiệp phải nộp từ dự án sẽ giảm làm cho dòng tiền tăng. Hay đối với chi phí lãi
vay - một khoản chi phí phân bổ trước khi xác định thu nhập ròng, chi phí này
cao cũng đồng nghĩa với thu nhập ròng giảm từ đây sẽ tiết kiệm một phần thuế
thu nhập cho doanh nghiệp, làm dòng tiền từ dự án tăng lên. Từ đó căn cứ một
phần vào khoản tiết kiệm thuế nhờ lãi vay so với chi phí lãi vay phải trả mà
doanh nghiệp có cách tìm và sử dụng nguồn vốn sao cho hợp lý.
Cách xác định dòng tiền: Thông thường mỗi dự án các nhà thẩm định
cũng như nhà phân tích hay thiết kế dự án đều phân định ra các dòng tiền cần
xác định bao gồm: dòng tiền đầu tư (trong đó gồm tiền đầu tư vào tài sản cố định
- chi phí lắp đặt, chi phí cơ hội, đầu tư vào tài sản lưu động ròng), dòng tiền từ
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hoạt động kinh doanh (dòng tiền này được xác định thông qua báo cáo kết quả
kinh doanh dự tính hàng năm của dự án). Và dòng tiền ròng hàng năm của dự
án:
NCF
t
= LNST
t
+ KH
t
- Trả gốc vay
Trong đó :
NCF
t
: Dòng tiền năm thứ t của dự án
LNST
t
: Lợi nhuận sau thuế năm thứ t của dự án
KH
t
: Giá trị khấu hao năm t của dự án
(Riêng năm cuối cùng của dự án còn có thêm phần vốn lưu động ròng
được thu hồi và phần thu nhập sau thuế từ thanh lý tài sản cố định, nên
NCF
nc
= LNST
nc
+ KH
nc
+ VLĐR thu hồi +
Thu nhập từ
thanh lý TSCĐ
Tổng hợp những dòng tiền này cho ta kết quả dòng tiền dòng của dự án.
Nhưng do tiền có giá trị về thời gian nên nhà thẩm định, nhà phân tích không thể
so sánh những dòng tiền xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau mà sẽ quy
chúng về một mốc để so sánh. Bởi vậy vấn đề về lãi xuất chiết khấu đặc biệt
được cán bộ thẩm định quan tâm khi xác định hiệu quả của dự án. Lãi suất chiết
khấu là tỷ lệ sinh lời cần thiết của một dự án mà nhà đầu tư mong đợi. Nó chính
là tỷ lệ mà nhờ đó các dòng tiền của dự án được quy về hiện tại để xác định giá
trị hiện tại ròng của dự án – NPV. Việc lựa chọn lãi suất chiết khấu phụ thuộc
vào kết quả phân tích rủi ro, khả năng sinh lời của dự án và cơ cấu vốn.
Rủi ro của dự án càng cao thì tỷ lệ lãi suất chiết khấu đòi hỏi càng cao.
Cơ cấu vốn tài trợ cho dự án có chi phí vốn càng cao thì đòi hỏi lãi suất
chiết khấu tối thiểu phải bằng với tỷ lệ chi phí đó.
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Từ trên cho thấy xác định dòng tiền là vô cùng quan trọng và việc thẩm
định dòng tiền của dự án là yếu tố cốt yếu để đưa đến những kết luận cho công
tác thẩm định tài chính dự án.
1.3.4 Thẩm định hiệu quả tài chính dự án.
Việc nhà đầu tư ra quyết định có hay không thực hiện dự án chủ yếu dựa
trên những kết quả từ các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án. Mỗi chỉ tiêu
này cho ta một phương pháp để đánh giá được hiệu quả tài chính dự án.
Chỉ tiêu giá trị hiện tài ròng – NPV của dự án:
Giá trị hiện tại ròng của dự án được hiểu là chênh lệch giữa tổng giá trị
hiện tại của các dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu
tư bỏ ra được hiện tại hoá ở mốc thời gian 0.
Công thức tính:
( )
∑
=
−
+
=
n
t
t
t
CF
k
CF
NPV
0
0
1
Hay
( ) ( ) ( )
∑ ∑ ∑
= = =
+
−
+
=
+
−
=
n
t
n
t
n
t
ttt
k
Ct
k
Bt
k
CtBt
NPV
0 0 0
111
NPV: giá trị hiện tại dòng của dự án
CF
t
: Dòng tiền xuất hiện ở năm thứ t của dự án ( t = 1n)
CF
0
: Vốn đầu tư bỏ ra ở thời điểm ban đầu (giả định vốn bỏ ra một lần ở
năm đầu tiên của dự án)
n : số năm thực hiện dự án.
Bt: dòng thu của dự án vào năm thứ t
Ct: Dòng chi của dự án vào năm thứ t
* Ý nghĩa: Chỉ tiêu NPV phản ánh giá trị tăng thêm của chủ đầu tư. Nếu
NPV dương tức là dự án được thực hiện không những bù đắp được vốn đầu tư
bỏ ra mà còn tạo ra phần tăng thêm cho chủ dự án (lợi nhuận) và ngược lại. Do
đó với những dự án độc lập thì NPV >0 sẽ là dự án có hiệu quả về mặt tài
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chính. Còn NPV<0 thì dự án là không có hiệu quả. Trường hợp có hơn một
dự án thì dự án nào có NPV >0 và lớn nhất tương ứng đó là dự án đem lại lợi
ích dự tính lớn nhất cho nhà đầu tư hay dự án có hiệu quả nhất nên sẽ được lựa
chọn.
*Ưu nhược điểm: Việc sử dụng NPV các nhà phân tích có thể đo lường
trực tiếp lợi nhuận tuyệt đối của dự án đầu tư từ đây có thể so sánh, lựa chọn các
dự án khác nhau. Đặc biệt chỉ tiêu này có ưu điểm nổi bật là có xét đến giá trị
thời gian của tiền và tính toán hiệu quả toàn bộ đời sống của dự án.
Tuy nhiên bên cạnh đó thì chỉ tiêu NPV cũng có một số nhược điểm đó là:
- Phải xác định rõ ràng dòng thu và dòng chi của dự án khi muốn sử
dụng chỉ tiêu này. Đây là công việc không phải lúc nào cán bộ phân tích- thẩm
định cũng có thể dự tính được.
- Kết quả của phép tính NPV phụ thuộc vào cách mà cán bộ phân tích -
Thẩm định lựa chọn tỷ lệ chiết khấu. Trong khi tình hình thị trường vốn luôn
luôn biến động nhưng tỷ lệ chiết khấu này lại được coi cố định cho toàn bộ thời
hạn chiết khấu của dự án. Đây là điều không hợp lý.
- Chỉ tiêu này chưa nói lên được hiệu quả sử dụng đồng vốn bỏ ra bởi nó
mới chỉ cho biết được hiệu quả dưới dạng con số tuyệt đối, không biểu diễn dưói
dạng số tương đối.
- Trong trường hợp vốn có hạn nhưng có nhiều dự án có thời hạn khác
nhau để lựa chọn đầu tư thì không thể dùng chỉ tiêu này.
Chỉ tiêu tỷ lệ hoàn vốn nội bộ - IRR:
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ là tỷ lệ mà tại đó tổng dòng thu bằng tổng dòng
chi của dự án khi quy đổi về hiện tại hay đó chính là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó
giá trị hiện tại ròng của dự án bằng 0 (NPV = 0).
( ) ( )
0
IR R1IRR1
00
=
+
−
+
=
∑∑
==
n
t
t
n
t
t
CtBt
NPV
IRR thường được tính bằng phương pháp nội suy. Hai giá trị của lãi suất chiết
khấu k
1,
k
2
(k
2
>k
1
) ứng với NPV
1
>0 và NPV
2
< 0 sẽ được lựa chọn, dựa trên
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nguyên tắc tam giác đồng dạng ta có được IRR là giá trị nằm giữa 2 giá trị được
chọn mà tại đó NPV =0.
( )
2
1
121
1
IRR
NPVNPV
kkNPV
k
+
−
+=
Hiện nay với sự tiến bộ của khoa học công nghệ việc tính IRR có thể
thực hiện bằng những phần mềm chuyên biệt cho kết quả rất chính xác.
*Ý nghĩa: Chỉ tiêu IRR nói nên mức sinh lợi của dự án sau khi đã hoàn
vốn đồng thời cũng phản ánh mức doanh lợi tối thiểu mà dự án đem lại.
Thông thường dự án được đánh giá có hiệu quả khi nó có IRR
≥
Chi phí vốn
Đối với các dự án hay phương án loại trừ nhau thì lựa chọn phương án có IRR
≥
Chi phí vốn và IRR max.
* Ưu nhược điểm:
Cũng giống như NPV chỉ tiêu IRR có khá nhiều ưu điểm, như:
- Chỉ tiêu này có xét đến sự biến động của yếu tố thời gian, tính đến hiệu
quả cả đời dự án và có tính đến giá trị thời gian của tiền.
- Cho biết được khả năng sinh lời của dự án, dễ dàng so sánh với một
mức hiệu quả cho phép (bằng cách so sánh với chỉ tiêu k).
- IRR không phụ thuộc vào tỷ lệ chiết khấu do nó được xác định từ nội
bộ phương án. Đồng thời có thể sử dụng để so sánh các dự án - phương án khác
nhau .
Song song với những ưu điểm trên chỉ tiêu IRR còn có một số nhược điểm:
- Chỉ tiêu này chỉ cho biết lợi nhuận tương đối, không cho biết được giá
trị tuyệt đối dẫn đến có thể lựa chọn dự án có khả năng sinh lời cao nhưng lợi
nhuận tạo ra thấp.
- Không đề cập đến quy mô và độ lớn của dự án. Đặc biệt không xác
định được một tỷ suất hoàn vốn nội bộ trong trường hợp dòng tiền có sự thay đổi
nhiều lần từ (-) sang (+) và ngược lại, khi đó cán bộ thẩm định – phân tích cần
dùng NPV để đánh giá.
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong những trường hợp kết quả đánh giá bằng NPV và IRR ngược
nhau thì chỉ tiêu NPV là chỉ tiêu tốt hơn cho việc đánh giá dự án vì do chỉ tiêu
IIR không đề cập đến quy mô vốn và chúng được giả định rằng dòng tiền được
tái đầu tư bằng tỷ lệ sinh lời của dự án.
Chỉ tiêu tỷ số thu chi - B/C( hay BCR):
Tỷ số thu - chi (B/C) là tỷ số giữa giá trị hiện tại của dòng thu trên giá trị
hiện tại của dòng chi phí bỏ ra. Chỉ tiêu này thể hiện hiệu quả của đồng vốn bỏ
ra khi quy về giá trị hiện tại.
Công thức xác định BCR:
( )
( )
∑
∑
=
=
+
+
=
n
t
t
n
t
t
k
Ct
k
Bt
BCR
0
0
1
1
* Ý nghĩa: Dự án được coi là có hiệu quả về mặt tài chính khi BCR>1.
Đối với những phương án loại trừ nhau thì phương án tốt nhất về mặt tài chính là
phương án có BCR lớn nhất.
* Ưu nhược điểm:
Chỉ tiêu BCR có ưu điểm nổi bật là: có tính đến giá trị thời gian của tiền,
tính toán trên toàn bộ đời sống của dự án; Đồng thời đánh giá được hiệu quả
tương đối của dự án và có thể dùng để so sánh các dự án – phương án khác nhau.
Tuy vậy chỉ tiêu này cũng có khá nhiều nhược điểm. Đó là việc đòi hỏi
phải xác định rõ ràng dòng thu và dòng chi của dự án. Đây lại là một công việc
không phải là dễ dàng đối với nhà phân tích và thẩm định.
Chỉ tiêu này có sự phụ thuộc vào tỷ lệ chiết khấu, trong khi tỷ lệ chiết khấu trên
thị trường lại luôn có sự thay đổi. Đây chỉ là một chỉ tiêu tương đối nên dễ có thể
dẫn đến sai lầm khi lựa chọn các phương án khác nhau.
Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn - PP:
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thời gian hoàn vốn đầu tư là thời gian để chủ đầu tư thu hồi được số vốn
đã đầu tư ban đầu vào dự án. Chỉ tiêu này cho biết sau khi thực hiện dự án bao
lâu thì thu hồi đủ vốn đầu tư. Được xác định theo công thức:
PP = n +
Với n là số năm ngay trước năm thu hồi đủ vốn đầu tư.
Dự án có PP càng nhỏ sẽ càng tốt. Bởi khi đó nhà đầu tư sẽ thu hồi được
vốn sớm. Do đó nếu có nhiều dự án để lựa chọn thì dự án có PP nhỏ nhất sẽ
được chọn.
*Ưu nhược điểm:
Chỉ tiêu này có ưu điểm là cho biết rõ được thời gian vốn sẽ được thu hồi
và có thể dùng để so sánh các dự án – các phương án khác nhau. Nhưng bên
cạnh đó chỉ tiêu này cũng có một số nhược điểm: Nhiều khi sử dụng chỉ tiêu này
dễ dẫn đến việc quá chú trọng chọn phương án có thời gian thu hồi vốn nhỏ nhất
mà bỏ qua mất phương án có lợi nhuận cao nhất (mục đích của nhà đầu tư).
Không tính tới giá trị thời gian của tiền, bỏ qua phần thu nhập sau thời gian hoàn
vốn mà đôi khi có những dự án những năm sau mới có lợi nhuận cao.
Mỗi chỉ tiêu trên chỉ tiêu nào cũng có những ưu nhược điểm riêng không
chỉ tiêu nào là hoàn hảo nên khi thẩm định các cán bộ thẩm định thường sử dụng
kết hợp một số chỉ tiêu có thể để có được kết quả chính xác nhất.
1.3.5 Đánh giá rủi ro của dự án.
Bất kỳ một dự án nào ngay từ khâu lập cho đến kết thúc hoạt động luôn
luôn chứa đựng trong nó những rủi ro tiềm ẩn. Một cách chung nhất rủi ro của
dự án vẫn được hiểu là khả năng xảy ra một sự kiện không có lợi nào đó làm
giảm thu nhập của dự án so với dự kiến.
Thực tế môi trường kinh tế, đầu tư luôn chứa đựng rất nhiều loại rủi ro khác
nhau. Để thuận tiện cho việc phân tích chúng người ta đã phân ra làm ba loại:
Rủi ro loại 1: là những rủi ro riêng thuộc về chính bản thân dự án hay
chính là rủi ro của một tài sản khi nó là tài sản duy nhất của dự án.
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Rủi ro loại 2: Đây là loại rủi ro cho thấy sự ảnh hưởng của dự án đối
với rủi ro của doanh nghiệp. Nó thể hiện thông qua sự biến thiên thu nhập của
doanh nghiệp khi thực hiện dự án.
Rủi ro loại 3: hay rủi ro thị trường: là rủi ro có ảnh hưởng trực tiếp đối
với giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Đây là loại rủi ro mà doanh nghiệp không thể
loại trừ được, chẳng hạn như rủi ro về tỷ giá, lạm phát…
Trong 3 loại rủi ro trên rủi ro loại một là loại mà cán bộ thẩm định rất quan tâm
và rủi ro này cũng rất quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả tài chính thực sự
của dự án. Rủi ro này được đánh giá bằng các phương pháp:
Phương pháp phân tích độ nhạy:
Đây là phương pháp mà cán bộ phân tích - thẩm định chỉ ra chính xác
các chỉ tiêu tài chính thay đổi như thế nào khi có biến đầu vào thay đổi. Qui trình
phân tích được bắt đầu bằng việc dự báo những khoản doanh thu và chi phí dự
kiến để thông qua chúng tìm được những khoản lợi nhuận ròng của dự án. Kết
quả dự báo được đặt trong hai tình huống là lạc quan và bi quan, và đánh giá ảnh
hưởng của chúng đối với NPV của dự án.
Phân tích về độ nhạy là một quy trình hữu ích để nhận diện các biến số
mà sự thay đổi của chúng sẽ gây tác động lớn đến NPV của dự án. Qua phương
pháp này người ra quyết định có thể tính toán được những hậu quả của sự ước
tính sai lầm và ảnh hưởng của chúng đến NPV. Mặc dù vậy thì việc sử dụng
phương pháp này cũng có một số hạn chế nhất định. Đó là:
- Các biến số đưa ra dựa trên những phán đoán chủ quan rất cao. Có
những biến đầu vào như giá bán, mức bán...trên thực tế có thể được cố định bằng
hợp đồng với nhà cung cấp. Nhưng khi phân tích những yếu tố này lại cho thấy
ảnh hưởng rất lớn đến NPV và IRR, như vậy việc đánh giá rủi ro trở nên kém
chính xác.
- Bỏ qua sự tác động lẫn nhau của các biến số đầu vào, mà chỉ xét đến
tác động của những biến số đầu vào này đối với biến số đầu ra.
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Thêm nữa là kết quả về phân tích độ nhạy không đem lại cho người ra
quyết định một giải pháp rõ ràng đối với việc lựa chọn dự án. Ý nghĩa của
phương pháp này là đưa lại cho người phân tích ý tưởng về một số điều không
chắc chắn và độ nhạy.
Nhưng cho dù thế nào thì thực tế phương pháp này vẫn là một công cụ rất hữu
ích khi sử dụng kết hợp với một số hình thức phân tích rủi ro khác.
Phương pháp phân tích giả định tình huống:
Phương pháp này thường được áp dụng khi đánh giá rủi ro của những dự
án lớn, bởi đây là một qui trình đánh giá lợi nhuận và rủi ro của những dự án
phức tạp.
Bước đầu của phương pháp này là tạo ra một mẫu dòng tiền bằng cách
xác định những yếu tố ảnh hưởng đến nó và các mối quan hệ cụ thể giữa các yếu
tố thành phần của dòng tiền với nhau, và cả những ảnh hưởng của những yếu tố
này đến dòng tiền.
Dòng tiền = (doanh thu – chi phí)x(1 - thuế suất) + (thuế suất x khấu hao)
Mỗi thành phần chủ yếu của dòng tiền có thể chỉ ra những yếu tố quyết
định của nó. Khi các mối quan hệ của dòng tiền đã được nhận diện, các nhà phân
tích có thể dễ dàng đánh giá được phân phối xác suất của mỗi thành phần của nó.
Và khi tất cả những phân phối xác suất cũng như các mỗi quan hệ giữa các thành
phần đã được chỉ rõ thì đã hình thành được mô hình của “tình huống giả định”.
Lúc này kết hợp với việc sử dụng các phần mềm máy tính chuyên biệt cán bộ
phân tích - thẩm định lựa chọn ngẫu nhiên dòng tiền cho mỗi năm và cho cả đời
sống của dự án. NPV của dự án sẽ được chiết khấu ở tỷ lệ rủi ro sinh lời của mức
rủi ro thuần tuý để tránh tình trạng tính hai lần rủi ro. NPV ở đây đại diện cho
một trong nhiều NPV tiềm tàng có thể xuất hiện. Máy tính sẽ thực hiện nhiều lần
và dừng lại ở một phân phối xác suất ước tính về NPV của dự án. Đồng thời
cũng cho kết quả về phân phối xác suất ước tính của IRR.
Phương pháp này có ưu điểm và nhược điểm nhất định:
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong đó ưu điểm là bắt buộc người ra quyết định phải xem xét cẩn thận
các mỗi quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến dòng tiền. Nó đem lại một sự
mô tả chi tiết về phân bố của NPV, và cung cấp thông tin về những ảnh hưởng
cùng một lúc của tất cả các biến số thích hợp đối với NPV.
Còn nhược điểm của phương pháp này là:
Việc nhận biết các mỗi quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến dòng tiền
là rất khó khăn. Nó đòi hỏi nhiều kỹ năng chuyên môn, thời gian và chi phí mà
kết quả thu được cũng chỉ là những phân bố dự tính; Ở phương pháp này rủi ro
của dự án không tính đến sự đa dạng hoá của nhà đầu tư; Nó tạo ra một sự phân
bố NPV mà nhà quản trị vẫn không có được câu trả lời hoàn toàn rõ ràng trong
việc chấp nhận hay từ chối đầu tư - thực hiện dự án.
1.4 Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung
và dài hạn của NHTM
1.4.1 Quan niệm về chất lượng thẩm định tài chính dự án.
Từ trước đến nay một khái niệm thống nhất về chất lượng của thẩm định
tài chính dự án vẫn chưa được đưa ra một cách cụ thể chính xác. Đối với mỗi
chủ thể nghiên cứu khác nhau lại có quan niệm riêng về chất lượng thẩm định tài
chính dự án. Riêng hoạt động thẩm định tài chính dự án của ngân hàng được coi
là có chất lượng tốt chỉ khi: Trong giai đoạn trước khi cho vay thì đó là căn cứ
khoa học để giúp ngân hàng đưa ra quyết định cho vay. Trong những giai đoạn
tiếp theo của quy trình cho vay thì chất lượng thẩm định tài chính tốt tức là thu
nhập dòng hàng năm của dự án tăng đều và không lệch nhiều so với dự kiến,
ngân hàng thu được nợ gốc và lãi đầy đủ đúng hạn, chủ đầu tư có được lợi
nhuận, những rủi ro xảy ra không nằm ngoài dự tính của nhà lập - nhà thẩm định
dự án; Còn chất lượng thẩm định tài chính dự án sẽ là thấp nếu dựa vào đó để
ngân hàng ra quyết định cho vay nhưng sau này không thu hồi được nợ (gốc và
lãi vay), hay ngân hàng không cho vay nhưng tổ chức tín dụng khác cho vay thì
dự án hoạt động tốt và thu hồi được nợ. Điều đó gây ra thiệt hại cho ngân hàng
và làm giảm thu nhập của ngân hàng. Thực tế cho thấy chất lượng thẩm định tài
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chính dự án là một khái niệm mang nhiều yếu tố định tính, chính bản thân các
nhà thẩm định – các nhà phân tích hiệu quả tài chính dự án cũng khó có thể biết
ngay được chất lượng công tác của mình, nó đòi hỏi phải có khoảng thời gian dài
để khẳng định.
Như vậy một cách tổng quát nhất thì chất lượng thẩm định tài chính dự
án được coi là tốt khi từ kết quả thẩm định ngân hàng quyết định cấp tín dụng và
khoản tín dụng đó đem lại thu nhập cho ngân hàng, hay khi ngân hàng từ chối
cấp thì cũng không làm giảm thu nhập của ngân hàng.
1.4.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án.
Mặc dù khó đưa ra một khái niệm chính xác nhưng không phải là các
ngân hàng không có cách để xác định được chất lượng thẩm định tài chính dự
án. Dưới đây là một số chỉ tiêu để đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án.
Một là mức độ khách quan, khoa học, toàn diện của kết quả quá trình
thẩm định tài chính của dự án và tầm quan trọng của những kết quả này trong
quyết định cho vay của ngân hàng.
Hai là độ chính xác giữa kết quả thẩm định với thực tế thực hiện dự án.
Bao gồm sự chính xác về số vốn bỏ ra dự tính cho từng giai đoạn của dự án với
lượng vốn chi ra ở từng giai đoạn, doanh thu dự tính thu được với doanh thu
thực tế thu được hàng năm, chính xác trong đánh giá hiệu quả và phân tích rủi ro
so với thực tế phát sinh….
Ba là thời gian và chi phí bỏ ra để tiến hành thẩm định tài chính của dự
án. Thời gian thẩm định nhanh, chi phí thấp nhưng kết quả thẩm định được sử
dụng triệt để và là căn cứ chính cho quyết định cho vay thì quá trình thẩm định
đó được coi có chất lượng tốt. Ngược lại chi phí thẩm định lớn, thời gian thẩm
định dài nhưng kết quả thẩm định lại sử dụng không nhiều, trong quyết định cho
vay thì quá trinh thẩm định đó chỉ có thể tạm coi là có chất lượng trung bình.
So với hai chỉ tiêu trên chỉ tiêu thứ ba này có tính định lượng hơn cả. Cả thời
gian và chi phí để thẩm định dự án ngân hàng đều có thể tính được cụ thể. Bởi ở
mỗi ngân hàng quá trình thẩm định đều được giới hạn trong một khoảng thời
25