Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay trung và dài hạn tại sở giao dịch ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.59 KB, 90 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp 2012
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Tên đề tài: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chính dự án
trong cho vay trung và dài hạn tại Sở giao dịch Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu hồ sơ thẩm định dự án, em nhận thấy bản báo cáo thẩm
định này đã chỉ ra được tính đầy đủ của hồ sơ năng lực pháp lý của chủ đầu tư và của dự án, đã
liệt kê được những tài liệu liên quan, về bộ máy tổ chức của doanh nghiệp, cán bộ thẩm định đã
nêu được tên của bộ máy lãnh đạo công ty cũng như tên và tỷ lệ góp vốn của những cổ đông sáng
lập của công ty. 45
Bằng sự hỗ trợ của Công ty, ngoài nguồn thu của dự án, khoản vay có khả năng được hỗ trợ từ
hoạt động kinh doanh hiện tại của DN nên đảm bảo thời gian trả nợ theo kế hoạch. 64
Nội dung thẩm định 68
Các nội dung thẩm định ở SGD được các cán bộ thẩm định đánh giá khá đầy đủ, dựa trên cơ sở
nội dung hướng dẫn thẩm định được áp dụng trong toàn hệ thống VCB do Hội sở chính ban hành.
Cụ thể: 68
Về khâu thẩm định khách hàng vay vốn: các cán bộ thẩm định đã trực tiếp tiếp xúc với khách
hàng, sử dụng các mối quan hệ xã hội, tra cứu thông tin trên Internet và hợp tác với các cơ quan
chức năng có thẩm quyền để thu thập thông tin về tư cách pháp lý của khách hàng và thẩm định
lại tính xác thực của thông tin hoạt động kinh doanh mà khách hàng trình lên SGD, từ đó đánh giá
một cách tương đối chính xác tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và khả năng tài
chính cũng như tư cách pháp lý của khách hàng vay vốn để bước đầu sàng lọc khách hàng vay vốn.
68
Ở khâu thẩm định dự án đầu tư, cán bộ thẩm định đã tính toán được khá đầy đủ và chính xác các
chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án, từ đó có đánh giá, kết luận về dự án sát với thực tế, giảm
thiểu nợ xấu cho SGD. Cụ thể là: chỉ tiêu NPV , IRR và PP của dự án, cán bộ thẩm định đã dùng các
hàm NPV, IRR và PMT trong phần mềm MS Excel để tính nên kết quả cho ra là khá chính xác, khi
phân tích rủi ro của dự án, cán bộ thẩm định đã tính đến nhiều trường hợp xấu có thể xảy ra trong
khi thực hiện dự án và có những đề xuất hợp lý nhằm giảm thiểu ảnh hưởng xấu của các rủi ro đó
đối với dự án 68
Quy trình thẩm định dự án tại SGD hợp lý, cụ thể và dễ thực hiện, điều này đảm bảo cán bộ thẩm


định có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và cũng thuận tiện trong việc giám sát, kiểm tra và
đánh giá của các cấp quản lý, từ đó nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại SGD 69
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 1
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu hồ sơ thẩm định dự án, em nhận thấy bản báo cáo thẩm
định này đã chỉ ra được tính đầy đủ của hồ sơ năng lực pháp lý của chủ đầu tư và của dự án, đã
liệt kê được những tài liệu liên quan, về bộ máy tổ chức của doanh nghiệp, cán bộ thẩm định đã
nêu được tên của bộ máy lãnh đạo công ty cũng như tên và tỷ lệ góp vốn của những cổ đông sáng
lập của công ty. 45
Bằng sự hỗ trợ của Công ty, ngoài nguồn thu của dự án, khoản vay có khả năng được hỗ trợ từ
hoạt động kinh doanh hiện tại của DN nên đảm bảo thời gian trả nợ theo kế hoạch. 64
Nội dung thẩm định 68
Các nội dung thẩm định ở SGD được các cán bộ thẩm định đánh giá khá đầy đủ, dựa trên cơ sở
nội dung hướng dẫn thẩm định được áp dụng trong toàn hệ thống VCB do Hội sở chính ban hành.
Cụ thể: 68
Về khâu thẩm định khách hàng vay vốn: các cán bộ thẩm định đã trực tiếp tiếp xúc với khách
hàng, sử dụng các mối quan hệ xã hội, tra cứu thông tin trên Internet và hợp tác với các cơ quan
chức năng có thẩm quyền để thu thập thông tin về tư cách pháp lý của khách hàng và thẩm định
lại tính xác thực của thông tin hoạt động kinh doanh mà khách hàng trình lên SGD, từ đó đánh giá
một cách tương đối chính xác tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và khả năng tài
chính cũng như tư cách pháp lý của khách hàng vay vốn để bước đầu sàng lọc khách hàng vay vốn.
68
Ở khâu thẩm định dự án đầu tư, cán bộ thẩm định đã tính toán được khá đầy đủ và chính xác các
chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án, từ đó có đánh giá, kết luận về dự án sát với thực tế, giảm
thiểu nợ xấu cho SGD. Cụ thể là: chỉ tiêu NPV , IRR và PP của dự án, cán bộ thẩm định đã dùng các
hàm NPV, IRR và PMT trong phần mềm MS Excel để tính nên kết quả cho ra là khá chính xác, khi
phân tích rủi ro của dự án, cán bộ thẩm định đã tính đến nhiều trường hợp xấu có thể xảy ra trong
khi thực hiện dự án và có những đề xuất hợp lý nhằm giảm thiểu ảnh hưởng xấu của các rủi ro đó
đối với dự án 68

Quy trình thẩm định dự án tại SGD hợp lý, cụ thể và dễ thực hiện, điều này đảm bảo cán bộ thẩm
định có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và cũng thuận tiện trong việc giám sát, kiểm tra và
đánh giá của các cấp quản lý, từ đó nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại SGD 69
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
SGD: Sở giao dịch
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 2
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
NHTW: Ngân hàng trung ương
VCB: Vietcombank
NHNT TW: Ngân hàng ngoại thương trung ương
NHNT VN: Ngân hàng ngoại thương Việt Nam
NH: Ngân hàng
NHNN: Ngân hàng nhà nước
ĐVCNT: Đơn vị chấp nhận thẻ
HSC: Hội sở chính
NPV: Net Present Value
IRR: Internal Rate of Return
LS: Lãi suất
DN: Doanh nghiệp
TCT: Tổng công ty
SXKD: Sản xuất kinh doanh
LỜI MỞ ĐẦU
Qua thời gian thực tập và tìm hiểu thực tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại
thương, em đã tìm hiểu được về lịch sử, cơ cấu tổ chức, tình hình hoạt động kinh
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 3
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
doanh của SGD. Trải qua gần 22 năm phát triển, SGD là đơn vị dẫn đầu trong hệ
thống ngân hàng ngoại thương về kết quả kinh doanh. Với các sản phẩm tín dụng
của mình, SGD đã đáp ứng phần nào nhu cầu vốn của các cá nhân, doanh nghiệp, tổ

chức kinh tế tại địa bàn hoạt động cũng như các khu vực lân cận. Song song với
việc tăng trưởng huy động vốn và cho vay, SGD đã làm tốt công tác quản lý nợ, thu
hồi các khoản nở khó đòi, mở rộng các thị trường mới để tìm kiếm các khách hàng
tiềm năng. Việc kinh doanh có hiệu quả trong một năm đầy biến động như năm vừa
qua đã cho thấy những cố gắng vượt bậc của cán bộ nhân viên Sở giao dịch Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam.
Trong điều kiện thị trường tín dụng đang gặp khó khăn, ngân hàng nhà nước
đang thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát, việc huy động
vốn cũng như cho vay đang gặp rất nhiều khó khăn, việc các ngân hàng cạnh tranh
trong việc tìm kiếm khách hàng ngày một khốc liệt. Các ngân hàng muốn cải thiện
tình hình cho vay trong điều kiện nhiều rủi ro cần quan tâm hơn nữa tới hiệu quả
thẩm định tài chính của khách hàng, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vay vốn
trung và dài hạn. Trong bối cảnh đó, đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả công
tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay trung và dài hạn tại Sở giao dịch
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam” được em lựa chọn nghiên cứu. Em xin cảm
ơn thầy giáo đã Trần Minh Tuấn đã tận tình hướng dẫn giúp em hoàn thành chuyên
đề của mình.
Ngoài lời mở đầu, luận văn gồm có 3 chương:
CHƯƠNG I: Tổng quan về thẩm định tài chính dự án
CHƯƠNG II: Thực trạng hoạt động thẩm định tài chính dự án trong cho vay
trung và dài hạn tại Sở giao dịch Vietcombank
CHƯƠNG III: Giải pháp nâng hiệu quả thẩm định tài chính doanh nghiệp
vay vốn trung và dài hạn tại Sở giao dịch VCB
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 4
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN
1.1. Hoạt động đầu tư
1.1.1. Hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư (hay còn gọi là đầu tư) là quá trình sử dụng các nguồn lực
gồm có tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và một số tài sản vật chất khác

nhằm mục đích tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất
kỹ thuật của nền kinh tế nói chung và các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ của
ngành, cơ quan quản lý và xã hội nói riêng. Trong hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư
trực tiếp và gián tiếp.
Hoạt động đầu tư gián tiếp là hoạt động bỏ vốn mà trong đó người đầu tư
không trực tiếp tham gia điều hành và quản trị vốn đầu tư đã bỏ ra.
Hoạt động đầu tư trực tiếp là hoạt động bỏ vốn mà trong đó người bỏ vốn trực
tiếp tham gia điều hành quản trị vốn đầu tư đã bỏ ra. Đầu tư trực tiếp chia ra thành 2
loại đầu tư chuyển dịch và đầu tư phát triển. Trong đó:
- Đầu tư chuyển dịch: là phương thức đầu tư trực tiếp, trong đó
việc bỏ vốn nhằm chuyển dịch quyền sở hữu giá trị tài sản (mua cổ
phiếu, trái phiếu …)
- Đầu tư phát triển: là phương thức đầu tư trực tiếp, trong đó việc bỏ vốn
nhằm gia tăng giá trị tài sản. Đây là phương thức căn bản để tái sản xuất
mở rộng. Nó tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế quốc dân, tạo công ăn
việc làm Đầu tư phát triển là hoạt động bỏ vốn nhằm gia tăng giá trị tài sản,
tạo ra những năng lực sản xuất , phục vụ mới bao gồm: xây dựng các công
trình mới, các hoạt động dịch vụ mới, cải tạo mở rộng cải thiện đời sống
người lao động.
Có thể nói đầu tư phát triển đó là một quá trình có thời gian kéo dài trong
nhiều năm với số lượng các nguồn lực được huy động cho từng công cuộc đầu tư
khá lớn và vốn nằm đọng trong suốt quá trình thực hiện dự án đầu tư(viết tắt là
DAĐT). Các thành quả của loại đầu tư này cần được sử dụng trong nhiều năm, đủ
để các lợi ích thu được tương ứng và lớn hơn những nguồn lực đã bỏ ra. Chỉ có như
vậy thì công cuộc đầu tư mới được coi là có hiệu quả.
1.1.2. Các đặc trưng cơ bản
Việc phân tích các đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư là cần thiết để
hiểu có thể hiểu rõ hơn về hoạt động đầu tư. Nhìn chung, hoạt động đầu tư có
những đặc trưng cơ bản sau:
Là hoạt động bỏ vốn nên Quyết định đầu tư thường và trước hết là Quyết định

tài chính.
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 5
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
Vốn được hiểu là các nguồn lực sinh lời, vốn được thể hiện bằng nhiều hình
thức khác nhau nhưng có thể sử dụng một thước đo chung đó là gía trị (được thể
hiện qua đơn vị tiền tệ). Vì hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên Quyết định
đầu tư thường xuyên được xem xét từ phương diện tài chính (phải bỏ bao nhiêu
vốn, lời lãi bao nhiêu ). Trên thực tế hoạt động đầu tư, các Quyết định chi tiêu,
thường được cân nhắc bởi sự hạn chế của ngân sách và cũng luôn được xem xét từ
khía cạnh tài chính nói trên. Việc xem xét, đánh giá các dự án đầu tư của người ra
Quyết định đầu tư hay của nhà tài trợ trước hết cũng trên khía cạnh tài chính. Một
số dự án chỉ có thể thực hiện nếu có tính khả thi về mặt tài chính.
Là hoạt động diễn ra trong khoảng thời gian dài.
Khác với các hoạt động thương mại, các hoạt động chi tiêu tài chính khác,
đầu tư luôn là hoạt động có tính chất lâu dài, bởi vì các hoạt động đầu tư thường
luôn có số lượng vốn bỏ ra rất lớn do đó để thu hút đủ vốn đầu tư và sinh lời thì cần
phải có một khoảng thời gian nhất định. Đây là đặc trưng có ảnh hưởng lớn đến
hoạt động đầu tư.
Do tính chất lâu dài nên sự trù liệu ban đầu đều là dự tính, chịu một xác suất
biến đổi nhất định do nhiều yếu tố. Chính điều này là một trong những vấn đề hệ
trọng tính đến trong mọi nội dung phân tích, đánh giá quá trình thẩm định dự án.
Là hoạt động luôn cần sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích trong tương
lai.
Đầu tư về phương diện nào đó là một sự hy sinh lợi ích hiện tại đánh đổi lấy
lợi ích trong tương lai (vốn để đầu tư không phải là nguồn lực để dành) Vì vậy luôn
có sự so sánh, cân nhắc giữa lợi ích hiện tại và lợi ích trong tương lai. Rõ ràng nhà
đầu tư mong muốn và chấp nhận đầu tư chỉ trong điều kiện lợi ích thu trong tương
lai lớn hơn lợi ích hiện tại mà họ tạm thời phải hi sinh.
Hoạt động đầu tư là hoạt động mang nặng rủi ro.
Hoạt động đầu tư là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro bởi vì kết quả của hoạt động

đầu tư là không thể dự tính một cách khách quan tại thời điểm Quyết định đầu tư,
Quyết định đầu tư phần nào mang tính chủ quan của nhà đầu tư và không thể lường
hết những thay đổi của môi trường tác động vào dự án trong tương lai (thay đổi về
thị trường, về sản phẩm đầu vào, đầu ra, lạm phát ). Vì vậy, chấp nhận rủi ro như
là bản năng của nhà đầu tư. Tuy nhiên nhận thức rõ ràng điều này nhà đầu tư cũng
có những cách thức, biện pháp để ngăn ngừa hay hạn chế để khả năng rủi ro xảy ra
là thấp nhất
Thông qua những đặc trưng của hoạt động đầu tư giúp nhà đầu tư có đựơc
cái nhìn bao quát về mọi khía cạnh của dự án. Từ đó giúp cho quá trình phân tích,
đánh giá dự án một cách cặn kẽ và chính xác. Đồng thời tìm ra phương pháp, biện
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 6
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
pháp nhằm hạn chế rủi ro bởi các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện dự
án.
1.2. Thẩm định dự án đầu tư và sự cần thiết phải thẩm định
1.2.1. Thẩm định dự án đầu tư
Đối với mỗi DAĐT, từ khi lập xong đến khi thực hiện phải được thẩm định
qua nhiều cấp: Nhà nước, nhà đầu tư, nhà đồng tài trợ… Đứng dưới mỗi giác độ, có
những định nghĩa khác nhau về thẩm định. Nhưng hiểu một cách chung nhất thì:
“Thẩm định DAĐT là việc tổ chức xem xét một cách khách quan và toàn
diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận hành, khai thác và tính
sinh lợi của công cuộc đầu tư”
Cụ thể theo cách phân chia các giai đoạn của chu trình DAĐT, ta thấy ở cuối
Bước 1 có khâu “Thẩm định và ra quyết định đầu tư”. Đây là bước mà chủ đầu tư phải
trình hồ sơ nghiên cứu khả thi lên các cơ quan có thẩm quyền để xem xét quyết định và
cấp giấy phép đầu tư và cấp vốn cho hoạt động đầu tư.
Dưới góc độ là người cho vay vốn, các Ngân hàng thương mại (viết tắt là
NHTM) khi nhận được bản luận chứng kinh tế kỹ thuật sẽ tiến hành thẩm định theo
các chỉ tiêu và ra quyết định là có cho vay hay không cho vay. Sau đó là đi đến
“đàm phán và ký kết hợp đồng”. Như vậy có thể hiểu thẩm định DAĐT trong Ngân

hàng là thẩm định trước đầu tư hay thẩm định tín dụng. Nó được đánh giá là công
tác quan trọng nhất.
1.2.2. Sự cần thiết
+ Đối với nền kinh tế : Xét trên phương diện vĩ mô để đảm bảo được tính
thống nhất trong hoạt động đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, tạo ra một tốc độ tăng
trưởng mạnh mẽ, đồng thời tránh được những thiệt hại và rủi ro không đáng có thì
cần phải có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư cơ bản. Thẩm
định DAĐT chính là một công cụ hay nói cách khác đó là một phương thức hữu
hiệu giúp nhà nước có thể thực hiện được chức năng quản lý vĩ mô của mình. Công
tác thẩm định sẽ được tiến hành thông qua một số cơ quan chức năng thay mặt nhà
nước để thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư như: Bộ kế hoạch đầu tư,
Bộ Xây dựng, Bộ Tài Chính, Bộ khoa học công nghệ và môi trường…cũng như các
UBND tỉnh, thành phố, các bộ quản lý ngành khác. Qua việc phân tích DAĐT một
cách hết sức toàn diện, khoa học và sâu sắc, các cơ quan chức năng này sẽ có được
những kết luận chính xác và rất cần thiết để tham mưu cho nhà nước trong việc
hoạch định chủ trương đầu tư, định hướng đầu tư và ra quyết định đầu tư đối với dự
án. Trong thực tế, để tạo điều kiện cho các cơ quan thẩm định dự án, các DAĐT
được chia ra làm một số loại cụ thể. Trên cơ sở phân loại này, các sự phân cấp trách
nhiệm trong khâu thẩm định và xét duyệt. Các DAĐT phải đảm bảo tính chính xác
và được nhanh chóng phê duyệt. Hiện nay, các công tác quản lý đầu tư trên lãnh thổ
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 7
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
Việt nam được thực hiện theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, ban hành và kèm
theo Nghị định số 52/1999/NĐ - CP ban hành 08/07/1999 của Thủ tướng Chính phủ
– Nghị định số 12/2000/NĐ - CP ban hành 05/05/2000. Theo những Nghị định này,
các ngân hàng đã cụ thể hoá chức năng của mình nhằm nâng cao hiệu quả về quản
lý phân cấp đầu tư.
+ Đối với NHTM: Cũng như các doanh nghiệp khác, trong cơ chế thị trường
hoạt động của NHTM phải chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan
trong đó có quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường luôn dẫn

đến kết quả một người thắng và nhiều kẻ thất bại và cạnh tranh là một quá trình diễn
ra liên tục. Các doanh nghiệp luôn phải cố gắng để là người chiến thắng. NHTM
trong nền kinh tế luôn phải đương đầu với áp lực của cạnh tranh, khả năng xảy ra
rủi ro. Rủi ro có thể xảy ra bất cứ loại hình hoạt động này của ngân hàng như rủi ro
tín dụng, thanh toán, chuyển hoán vốn, lãi suất, hối đoái…Trong đó rủi ro về tín
dụng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn là rủi ro mà hậu quả của nó có thể tác
động nặng nề đến các hoạt động kinh doanh khác thậm chí đe doạ sự tồn tại của
ngân hàng.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng xảy ra khi xuất hiện các biến
cố làm cho bên đối tác (khách hàng) không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình
đối với ngân hàng vào thời điểm báo hạn. Các khoản nợ đến hạn nhưng khách hàng
không có khả năng trả nợ ngân hàng sẽ thuộc về một trong hai trường hợp: khách
hàng sẽ trả nợ ngân hàng nhưng sau một thời gian kể từ thời điểm báo hạn, như vậy
ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro đọng vốn, hoặc khách hàng hoàn toàn không thể trả nợ
cho ngân hàng được, trường hợp này ngân hàng gặp rủi ro mất vốn.
Như vậy rõ ràng trong nền kinh tế thị trường, thẩm định dự án là vô cùng quan
trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Thực tiễn hoạt động của các NHTM
Việt Nam một số năm vừa qua cho thấy bên cạnh một số DAĐT có hiệu quả đem
lại lợi ích to lớn cho chủ đầu tư và nền kinh tế, còn rất nhiều dự án do chưa được
quan tâm đúng mức đến công tác thẩm định trước khi tài trợ đã gây ra tình trạng
không thu hồi được vốn nợ quá hạn kéo dài thậm chí có những dự án bị phá sản
hoàn toàn. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động ngân hàng, đồng thời
làm cho uy tín của một số NHTM bị giảm sút nghiêm trọng. Như vậy, khi đi vào
nền kinh tế thị trường với đặc điểm cố hữu của nó là đầy biến động và rủi ro thì yêu
cầu nhất thiết đối với các NHTM là phải tiến hành thẩm định các DAĐT một cách
đầy đủ và toàn diện trước khi tài trợ vốn. Qua phân tích trên, đối với các NHTM,
thẩm định dự án có ý nghĩa sau đây:
- Ra các quyết định bỏ vốn đầu tư đúng đắn, có cơ sở đảm bảo hiệu quả
của vốn đầu tư.
- Phát hiện và bổ sung thêm các giải pháp nâng cao tính khả thi cho việc triển

khai thực hiện dự án, hạn chế giảm bớt yếu tố rủi ro.
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 8
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
- Tạo ra căn cứ để kiểm tra việc sử dụng vốn đúng mục đích, đối tượng và tiết
kiệm vốn trong quá trình thực hiện.
- Có cơ sở tương đối vững chắc để xác định được hiệu quả đầu tư của dự án
cũng như khả năng hoàn vốn, trả nợ của dự án và chủ đầu tư.
- Rút kinh nghiệm và đưa ra bài học để thực hiện các dự án được tốt hơn.
- Tư vấn cho chủ đầu tư để hoàn thiện nội dung của dự án.
1.3. Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư
1.3.1. Các phương án thực hiện
Từ trước đến nay các nhà đầu tư đã sử dụng một trong các phương pháp sau:
- Giá trị hiện tài ròng (NPV)
- Tỷ suất nội hoàn (IRR)
- Thời gian hoàn vốn (PP)
- Điểm hoà vốn.
- Tỷ số lợi ích - chi phí (BCR).
Để sử dụng các phương pháp trên ta cần hiểu rõ các khái niệm sau:

Giá trị thời gian của tiền:
Tiền có giá trị thời gian không giống nhau ở các thời điểm khác nhau. Một
đồng tiền có được ở hiện tại được coi là có giá trị cao hơn cùng một đồng tiền đó
nhận được trong tương lai để đầu tư có lãi hay tiêu dùng trong khoảng thời gian
giữa hiện tại và tương lai. Do đó, người ta sẵn sàng đi vay để có thể sử dụng được
vốn, còn người cho vay đòi hỏi phải được trả lãi.

Lãi kép:
Là phương pháp tính lãi trong đó lãi của kỳ trước được nhập vào gốc để tính
lãi tiếp cho kỳ sau:
FV = PV ( 1 + r )

n
Trong đó:
PV: giá trị hiện tại (vốn ban đầu).
FV: giá trị tương lai (số tiền thu được).
n: số kỳ tính lãi
r : lãi suất.

Chiết khấu:
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 9
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
Trong các dự án đầu tư việc thu được lợi ích và bỏ các chi phí thường xảy ra
vào các giai đoạn khác nhau. Vì đồng tiền có giá trị thời gian, nên để có thể so sánh
chi phí và lợi ích xảy ra ở các khoảng thời gian khác nhau, chúng cần phải quy đổi
đồng tiền ở các thời điểm về cùng một thời điểm hoặc về hiện tại, hoặc về tương lai,
hoặc về bất kỳ một thời điểm nào đó thông qua một hệ số quy đổi. Hệ số này gọi là
hệ số chiết khấu và nó phụ thuộc vào tỷ lệ chiết khấu một thông số biểu hiện sự
giảm giá trị của dòng tiền theo thời gian.
Hệ số chiết khấu = 1
( 1+ r)
t - x
Trong đó:
r: tỷ lệ chiết khấu
t: năm thứ t của dự án
x: năm được chọn làm mốc quy đổi (thường = 0).
1.3.1.1. Phương pháp giá trị hiện tại ròng NPV (Net Present Value)
Giá trị hiện tại ròng của một dự án đầu tư là số chênh lệch giữa giá trị hiện
tại của các luồng tiền kỳ vọng trong tương lai với giá trị hiện tại của các chi phí của
dự án đầu tư.
Có thể biểu diễn bằng phương trình sau
Trong đó:

B1,B2 Bn: luồng thu nhập của các thời kỳ.
C1, C2 Cn: luồng chi phí của các thời kỳ.
t: năm thứ t của dự án.
r: tỷ lệ chiết khấu
Co vốn đầu tư
n: thời gian hoạt động của dự án.
Xác định chính xác tỷ lệ chiết khấu của từng dự án đầu tư là một việc làm
không đơn giản. có thể hiểu tỷ lệ chiết khấu là phần lợi nhuận thích hợp bù đắp rủi
ro. Rõ ràng là khi mức rủi ro của dự án bằng với mức rủi ro của doanh nghiệp và
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 10

=
+

+−=
n
t
t
r
CtBt
CoNPV
1
)1(
)(
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
chính sách tài trợ của doanh nghiệp phù hợp với dự án, thì tỷ lệ chiết khấu thích hợp
bằng với chi phí trung bình của vốn (WACC).
Ở công thức trên tỷ lệ chiết khấu là r không thay đổi trong suốt thời gian dự
án. Tuy nhiên điều này không nhất thiết phải như vậy. Giả sử vốn vào thời điểm
hiện này là rất khan hiếm so với trước đây. Trong những tình huống như vậy, ta sẽ

thấy rằng chi phí của vốn vào thời điểm hiện tại sẽ cao một cách bất bình thường và
như vậy tỷ lệ chiết khấu theo thời gian sẽ giảm dần trong lúc cung và cầu của vốn
trở về mức bình thường. Ngược lại, nếu hiện tại có nhiều tiền vốn, chúng ta dự kiến
chi phí của vốn và tỷ lệ chiết khấu sẽ xuống thấp hơn mức trung bình dài hạn. trong
trường hợp này, chúng ta có lẽ dự kiến tỷ lệ chiết khấu sẽ tăng lên trong khi cung
cầu vốn dần quay trở về xu hướng dài hạn.
Nếu có lí do để tin rằng tỉ lệ chiết khấu thay đổi một cách có thể dự đoán
trước được thì giá trị hiện tại ròng của một dự án tính như sau:
NPV = -Co + B1- c1 + B2-C2 + Bn-Cn
1+r
1
(1+r
1
)(1+r
2
) (1+r
1
)(1+r
2
) (1+r
n
)
trong đó: r
1
,r
2
,r
3
rn : là tỷ lệ chiết khấu các năm tương ứng.


Nguyên tắc sử dụng phương pháp NPV làm tiêu chuẩn đầu tư.
Trong trường hợp dự án đầu tư cần đánh giá độc lập so với các dự án khác
thì chấp thuận hay bác bỏ dự án đó tuỳ thuộc vào giá trị của NPV. Có 3 khả năng có
thể xảy ra:
NPV > 0 chấp thuận dự án
NPV < 0 loại bỏ dự án.
NPV = 0 doanh nghiệp sẽ không thiên vị trong việc chấp thuận hay
loại bỏ dự án mà tuỳ theo sự cần thiết của nó đối với doanh nghiệp mà ra Quyết
định.
Trong trường hợp dự án đầu tư bị hạn chế bởi ngân sách, nguồn tài trợ.
Trong giới hạn một ngân sách đã được ấn định cần lựa chọn trong số các dự án hiện
có nhóm dự án nào có thể tối đa hoá giá trị hiện tại ròng.
NPV = NPV1 + NPV2 + = Max ≤ giới hạn ngân sách.
NPV: giá trị hiện tại ròng tối đa của nhóm dự án lựa chon.
NPV1, NPV2 giá trị hiện tại ròng của dự án 1, dự án 2
Trong trường hợp lựa chọn một trong sốdự án loại trừ nhau. Trong tình
huống không bị giới hạn bới ngân sách, nhưng ta phải lựa chọn một dự án trong số
các dự án loại trừ nhau, ta luôn chọn dự án sinh ra giá trị hiện tại ròng lớn nhất:
Max ( NPV1, NPV2 NPVn).
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 11
Chuyên đề tốt nghiệp 2012

Ưu điểm của phương pháp NPV:
- NPV đo lường trực tiếp phần lợi nhuận mà dự án đóng góp vào tài sản
của chủ đầu tư.
- Sử dụng chi phí cơ hội về sử dụng vốn làm tỷ lệ chiết khấu.
- NPV giả định rằng những khoản thu nhập tạm thời được tái đầu tư với tỷ
lệ tối đa hoá lợi nhuận của chủ đầu tư.
- Quyết định chấp thuận hay từ chối và xếp hạng dự án phù hợp với mục
tiêu tối đa hoá lợi nhuận cuả chủ đầu tư.



Nhược điểm của phương pháp NPV:
- Không thể so sánh được các dự án nếu thời gian của chúng khác nhau.
- Phụ thuộc vào cách lựa chọn r – tỷ lệ chiết khấu.
- NPV chỉ cho thấy giá trị tuyệt đối của lợi nhuận mà không cho thấy tỷ lệ
phát sinh của dự án, do đó sẽ có thể bỏ qua những dự án có tỷ lệ sinh lời
cao.
- Tất cả các khoản tiền này lại xảy ra trong suốt các kỳ.
1.3.1.2. Phương pháp tỷ suất nội hoàn nội bộ IRR (Internal Rate of Return)
Phương pháp tỷ suất nội hoàn nội bộ (IRR) là phương pháp xếp hạng các dự
án đầu tư sử dụng tỷ lệ lãi suất đối với một khoản đầu tư tài sản. Trong đó tỉ lệ lãi
suất này được tính bằng cách tìm một tỷ lệ chiết khấu mà nó làm cân bằng giá trị
hiện tại của những luồng tiền tương lai và chi phí đầu tư.
Về phương diện tính toán IRR của một dự án là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó
NPV = 0
Ta có phương trình dùng để tính toán IRR.

=
+

+− 0
1 IRR
CtBt
C
Trong đó
IRR: tỷ suất nội hoàn (cần xác định).
Co : vốn đầu tư ban đầu
Bt thu nhập trong năm t
Ct : chi phí trong năm t

n: thời gian phân tích dự án.
Việc giải phương trình trên theo một phương pháp toán học nào đó là hết sức
khó khăn (trường hợp n lớn) nhiều khi là không thực hiện được, để xác định IRR
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 12
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
một cách tương đối chính xác ta có thể sử dụng phương pháp nội suy, kết quả như
sau:
IRR =
( )
21
1
121
NPVrNPVr
NPVr
xrrr

−+
Trong đó :
r
1
,r
2
là lãi suất chiết khấu tương ứng của NPVr
1
, NPVr
2
với điều kiện:
- r
1
< r

2
- NPVr
1
, NPVr
2
< 0 và NPVr
1
, NPVr
2
rất gần 0.

Nguyên tắc sử dụng IRR làm tiêu chuẩn đầu tư:
-Trường hợp các dự án đầu tư là độc lập về mặt kinh tế, quy tắc áp dụng để
các Quyết định đầu tư như sau:
 IRR > chi phí cơ hội của vốn ⇒ chấp nhận dự án.
 IRR < chi phí cơ hội của vốn ⇒ bác bỏ dự án.
 IRR = chi phí cơ hội của vốn ⇒ tuỳ theo những yêu cầu khác đối với
dự án, chủ dự án có thể chấp nhận hay bác bỏ.
-Trường hợp các dự án loại trừ nhau thì chúng ta chọn dự án có IRR cao
nhất. Tuy nhiên nếu IRR cao nhất nhỏ hơn tỷ lệ sinh lời cần thiết của dự án (hay chi
phí cơ hội của vốn) thì không dự án nào trong các dự án đó không được chấp nhận.

Ưu điểm của phương pháp IRR:
- Đo lường bằng tỉ lệ phần trăm, nên dễ dàng so sánh với chi phí sử dụng
vốn, nó chỉ rõ tỷ lệ lãi vay tối đa mà dự án có thể chịu đựng được. Không có
phương pháp nào khác để cung cấp thông tin quan trọng như vậy và đây chính là ưu
điểm rất quan trọng của tiêu chuẩn IRR.
- Tỷ suất nội hoàn là một tiêu chuẩn hay được sử dụng để mô tả tính hấp dẫn
của dự án đầu tư, vì đó là một tiêu chuẩn hữu ích để tổng kết tính doanh lợi của dự
án. Quyết định chấp thuận hay từ chối của cổ đông.

- Trong một số trường hợp, nó cho phép tránh được nhữngkhó khăn khi phải
xác định trước lãi suất thích hợp.
 Nhược điểm của phương pháp IRR:
- Việc áp dụng tiêu chuẩn này có thể không chắc chắn nếu tại các khoản cân
bằng thu chi thực âm đáng kể trong giai đoạn vận hành của dự án, tứcl à đầu tư thay
thế lớn hơn.
- Tỷ suất này sẽ không còn tin cậy khi dùng để lựa chọn dự án mang tính loại
trừ nhau với các khoản đầu tư có quy mô khác nhau, có đời hữu dụng khác nhau.
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 13
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
- Không đo lường trực tiếp ảnh hưởng của một dự án đối với lợi nhuận của
cổ đông.
- Dễ tạo ra sự ngộ nhận rằng thu nhập của dự án có thể được tái đầu tư với
tỷ lệ sinh lời bằng IRR
- Xếp hạng dự án không phù hợp với mục tiêu tối đa hoá thu nhập của cổ
đông.
1.3.1.3. Phương pháp thời gian hoàn vốn (Pay-out or Pay-back period-PP)
Thời gian hoàn vốn của một dự án là độ dài thời gian để thu hồi đủ vốn đầu
tư ban đầu.
Có hai cách để áp dụng chỉ tiêu này, đó là thời gian hoàn vốn không chiết
khấu và thời gian hoàn vốn có chiết khấu.
Theo phương pháp này, nếu rút ngắn được thời gian thu hồi vốn sẽ tốt hơn
cho một dự án đầu tư. Mặt khác, các nhà quản trị còn sử dụng thời gian hoàn vốn để
đánh giá các dự án đầu tư bằng cách thiết lập chi tiêu thời gian hoàn vốn cần thiết
và thời gian hoàn vốn tối đa có thể chấp nhận được của dự án. Những dự án có thời
gian hoàn vốn dài hơn thời gian cho phép tối đa sẽ bị loại bỏ và những dự án có thời
gian hoàn vốn ngắn hơn chỉ tiêu thời gian hoàn vốn tối đa sẽ được chấp nhận.
+ Quy tắc thời gian hoàn vốn đã được sử dụng rộng rãi trong việc Quyết
định đầu tư bởi :
- Dễ áp dụng và khuyến khích đầu tư vào các dự án có thời gian hoàn

vốn nhanh.
- Nếu sử dụng hợp lý, nó có thể tạo ra một hình ảnh ban đầu về dự án.
+ Tuy nhiên, phương pháp này còn có nhiều nhược điểm.
- Phần thu nhập ngoài thời gian hoàn vốn bị bỏ qua hoàn toàn mà
không được tính trong dự án. Do đó không biết chính xác về doanh lợi của dự án
đầu tư.
- Yếu tố rủi ro đối với luồng tiền tương lai của dự án không được xem
xét, đánh giá.
- Không đo lường được tác động trực tiếp của dự án đối với thu nhập
của cổ đông.
- Xếp hạng các dự án không phù hợp với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận
của chủ sở hữu.
- Yếu tố thời gian của tiền tệ không được đề cập đến trong quá trình
tính toán (đối với thời gian hoàn vốn không chiết khấu).
+ Phương pháp tính :
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 14
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
Thời gian thu
hồi vốn (PP)
=
Năm ngay trước năm
các luồng tiền của dự
án đáp ứng được chi
phí
+ Chi phí chưa được
bù đắp đầu năm
Luồng tiền thu được
trong năm
1.3.1.4. Phương pháp tỷ số lợi ích – chi phí (Benefit-Cost Ratio - BCR)
Tỷ số lợi ích – chi phí được tính bằng cách đem chia giá trị hiện tại của các

khoản thu nhập cho giá trị hiện taị của các chi phí, sử dụng chi phí cơ hội của vốn
làm tỷ lệ chiết khấu.
Trong đó :
Bt : Thu nhập trong năm t.
Ct : Chi phí trong năm t.
N : Thời gian hoạt động của dự án.
R : Tỷ lệ chiết khấu (chi phí cơ hội).
+ Nguyên tắc sử dụng tỷ số lợi ích – chi phí : Dùng tỷ số này để xếp hạng các
dự án đầu tư là quy tắc được nhiều nhà phân tích đầu tư áp dụng rộng rãi nhất. Một
dự án chấp nhận được nếu tỷ số lợi ích – chi phí lớn hơn 1 (Phản ánh chi phí bỏ ra
trong năm nhỏ hơn thu nhập thu được trong năm đó). Và trong việc lựa chọn các dự
án loại trừ lẫn nhau, quy tắc là chọn dự án nào có tỷ số lợi ích – chi phí lớn nhất.
+ Nhược điểm khi áp dụng phương pháp tỷ số lợi ích - chi phí :
- Tiêu chuẩn này có thể làm ta xếp hạng sai các dự án nếu các dự án này
khác nhau về quy mô, các dự án loại trừ nhau.
- Tỷ số này rất nhạy cảm với các định nghĩa về chi phí trên phương diện kế
toán. Trong cách tính BCR nêu trên, ta quan niệm lợi ích là toàn bộ các nguồn thu
gia tăng của dự án, còn chi phí đầu tư là tổng của chi phí sản xuất gia tăng, chi phí
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 15


=
=
+
+
=
n
t
t
r

Ct
BCR
0
)1(
n
0t
t
r)(1
Bt

Chuyên đề tốt nghiệp 2012
vận hành và bảo dưỡng, chi phí đẩu tư hay chi phí đầu tư thay thế (nếu có). Việc
xếp hạng hai dự án có thể trái ngược nhau tuỳ theo cách người ta xử lý chi phí hiện
thời (Current Cost).
1.3.1.5. Phương pháp theo tiêu chuẩn điểm hoà vốn (H) :
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu bằng chi phí bỏ ra. Phân tích
điểm hoà vốn được tiến hành nhằm xác định mức sản lượng sản xuất hoặc mức
doanh thu thấp nhất mà tại đó dự án có thể vận hành không gây nguy hiểm tới khả
năng tồn tại về mặt tài chính của no. Ngoài ra, phân tích điểm hoà vốn còn giúp cho
việc xem xét về mức giá cả mà dự án có thể chấp nhận được (tức là dự án không bị
lỗ, có đủ tiền mặt để hoạt động và có khả năng trả nợ).
Phân tích điểm hoà vốn là sự phân tích mối quan hệ hữu cơ giữa chi phí bất
biến, chi phí khả biến và lợi nhuận sẽ đạt được.
Điểm hoà vốn theo quan điểm của nhà doanh nghiệp là điểm mà tại đó mức
sản lượng hoặc mức doanh thu đảm bảo cho dự án không bị lỗ trong năm hoạt động
bình thường.
Trong đó : TVC : Tổng chi phí biến đổi trong năm của dự án.
TFC : Tổng chi phí cố định trong năm của dự án bao gồm
cả lãi vay.
TR : Tổng doanh thu dự kiến trong năm của dự án.

Sản lượng tiêu thụ ở điểm hoà vốn :
Trong đó :
Q
o
: Sản lượng ở điểm hoà vốn.
P : Giá bán một đơn vị sản phẩm.
VC : Biến phí trên một đơn vị sản phẩm.
Q : Sản lượng dự kiến sản xuất và tiêu thụ hàng năm.
Doanh thu ở điểm hoà vốn :
Trong đó :
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 16
TVC -TR
TFC
H hoµ vèniÓm§ ==
TR H Q hay
VC -P
TFC
Q
LToo
×==
TR H TR hay
P
VC
- 1
TFC
TR
LToo
×==
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
TR

o
: Tổng doanh thu ở điểm hoà vốn.
TR : Tổng doanh thu dự kiến trong năm của dự án.
TFC : Tổng chi phí cố định trong năm của dự án bao
gồm cả lãi vay.
P : Giá bán trên một đơn vị sản phẩm.
VC : Biến phí trên một đơn vị sản phẩm.
Đánh giá mức hoạt động của dự án ở điểm hoà vốn ở chỉ tiêu :
Các dự án có điểm hoà vốn càng thấp càng tốt vì điểm hoà vốn càng thấp thì
khả năng thu lợi nhuận càng cao, rủi ro thua lỗ càng thấp. Việc phân tích hoà vốn
được tiến hành cho từng dự án. Điểm hoà vốn khác nhau giữa các ngành khác nhau.
+ Nhược điểm của phương pháp này :
Điểm hoà vốn chỉ nói lên mối quan hệ giữa khối lượng tiêu thụ dự kiến và
lợi nhuận cần đạt được ở mức giá nhất định. Tuy nhiên, sản phẩm của dự án có thể
bán theo nhiều giá khác nhau và điểm hoà vốn cũng khác nhau. Mặt khác, thường
thì một dự án có nhiều sản phẩm sẽ có nhiều giá bán khác nhau. Vì vậy, việc xác
định điểm hoà vốn trong những trường hợp nêu trên là rát khó và trở nên phức tạp.
Ngoài ra, trong quá trình phát triển dự án, khi phải tăng sản lượng thì cần đầu tư
thêm vốn cố định để mua sắm mới máy móc, thiết bị, công nghệ và vốn lưu động.
Trong trường hợp đó, định phí và biến phí cũng thay đổi dẫn tới việc phân tích điểm
hoà vốn sẽ phức tạp và tính chính xác không cao.
Tóm lại, khi thẩm định dự án đầu tư thông thường người ta áp dụng kết hợp
theo nhiều phương pháp để đánh giá một cách chính xác hiệu quả tài chính của một
dự án đầu tư. Tuy nhiên, việc lựa chọn dự án có hiệu quả có thể gặp khó khăn trong
trường hợp lựa chọn những phương án loại trừ mà các phương án đánh giá khác
nhau cho những kết quả mâu thuẫn. Khi đó, tuỳ theo mục tiêu của chủ đầu tư mà ra
Quyết định lựa chọn những phương án thích hợp (chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa
hai phương án loại trừ nhau thì phương pháp NPV và IRR có thể cho hai kết quả
trái ngược nhau).
Bên cạnh việc đánh giá hiệu quả kinh tế vốn đầu tư cần phải tiến hành phân

tích khả năng thanh toán và cơ cấu vốn nhằm xem xét đánh giá khả năng thanh toán
của dự án.
+ Phân tích khả năng thanh toán :
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 17
thuÇn thu Doanh
hoµ vènthu Doanh
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
Trong quá trình đầu tư, việc thiếu hụt hoặc dư thừa tiền mặt cũng như một cơ
cấu vốn không hợp lý sẽ làm cho việc sử dụng vốn đầu tư thiếu hiệu quả. Nếu như
đánh giá hiệu quả vốn đầu tư chỉ chú trọng và các nguồn lực thực sự được sử dụng
trong dự án và do đó không tính tới các khoản thu, chi có ảnh hưởng tới bảng cân
đối tiền mặt trong dự án thì phân tích khả năng thanh toán có nhiệm vụ đánh giá
tình trạng tiền mặt trong suốt quá trình hạot động của dự án, nó tính đến tất cả các
khoản thu, chi bằng tiền (thu tiền bán sản phẩm, chi trả nợ, trả cổ tức ) của dự án.
Trong bảng phân tích khả năng thanh toán có 3 phân fchính : Dòng tiền vào, dòng
tiền ra, tình trạng tiền mặt.
Dòng tiền vào : Bao gồm tất cả những khoản thu bằng tiền mặt của dự án
(bán các sản phẩm, dịch vụ ). Lưu ý là không phải toàn bộ giá trị sản lượng của dự
án là các nguồn thu bằng tiền mặt. Bởi vậy, khi tính dòng tiền vào ta cần trừ đi phần
sản lượng của dự án không được đem bán ngoài thị trường.
Dòng tiền ra : Bao gồm tất cả các khoản chi bằng tiền mặt của dự án như chi
mua nguyên vật liệu, trả lương công nhân, thanh toán các khoản nợ và lãi cho các
khoản vay, trả chậm
Tình trạng tiền mặt :
Tình trạng tiền mặt của dự án có thể là dư thừa hay thiếu hụt tại một thời
điểm nào đó và được xác định trên cơ sở tổng các nguồn thu bàng tiền mặt trừ đi
tổng các khoản chi bằn tiền mặt tại thời điểm đó. Tình trạng tiền mặt được xem là
tốt nếu đảm bảo khả năng thanh toán cho các khoản nợ banưg tiền mạt và có một
khoản dự trữ nhất định, trong trường hợp thâm hụt ngân quỹ thì cần phải bù đắp
bằng các khoản vay.

Sau khi đã đưa hết tất cả các khoản thuộc giao dịch tài chính vào đánh giá dự
án, người đánh giá có thể xem xét liệu :
- Vốn cổ phần và vốn vay dài hạn có đáp ứng đủ không ?
- Các khoản thiếu hụt tiền mặt có được giới hạn ở mức có thể trang trải vay
tín dụng ngân hàng ngắn hạn, hoặc có thể trừ đi bằng cách điều chỉnh lại một số
khoản thu hoặc khoản chi hay không ?
- Các điều kiện vay vốn dài hạn có thích hợp không ?
- Lãi cổ phần như chủ đầu tư dự tính có thích hợp hay không ?
- Phân tích khả năng thanh toán của dự án thường được thực hiện trong từng
năm của dự án.
+ Phân tích cơ cấu vốn :
Đới với một dự án đầu tư, để có thể vạn hành bình thường thì nguồn tài trợ
cho dự án cần phải được đảm bảo : Có nhiều nguồn vốn để có thể được huy động
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 18
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
nhằm tài trợ cho dự án, chẳng hạn như vốn cổ phần, vốn vay ngắn hạn, dài hạn
Đối với một dự án, thì tỷ lệ các nguồn vốn huy động phải được xác định sao cho
hiệu quả sử dụng vốn là cao nhất, đem lại lợi nhuận lớn nhất, đó chính là cơ cấu vốn
tối ưu. Chẳng hạn, nếu như sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản cố
định sẽ gây khó khăn cho việ cân đối tiền mặt của dự án bởi vì phải trả các khoản
tiền gốc lớn và sớm hơn trong khi các khoản thu của dự án thường nhỏ trong thời
gian đầu hoạt động, phải trải dài quan các năm thì dự án mới bù đắp đủ vốn đầu tư.
Vì vậy, cơ cấu vốn có liên quan chặt chẽ tới khả năng sinh lời của dự án.
Việc giải quyết nhu cầu vốn của dự án không những giải quyết khả năng
thanh toán trong tương lai mà còn cả các bảng cân đối trong tương lai của nó. Bởi
vậy, trong quá trình đánh giá dự án, cơ cấu vốn do chủ đầu tư trình sẽ được xem xét
một cách chặt chẽ trên cơ sở xét đoán khả năng đứng vững về mặt tài chính trong
tương lai của dự án. Sự kết hợp giữa vốn cổ phần và vốn vay sẽ Quyết định tỷ lệ nợ
về vốn của chủ dự án.
Tiêu chuẩn thường dùng để đánh giá cơ cấu vốn là :

Tỷ lệ này được tính trên cơ sở so sánh các khoản nợ dài hạn với vốn tự có
của chủ dự án.
Trong đó :
Rd : Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu.
D : Giá trị các khoản nợ dài hạn.
C
e
: Vốn chủ sở hữu.
Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu có thể dao động, nếu tỷ lệ nợ này thấp hơn mức
bình thường thì có thể dự án chưa tận dụng được nguồn vốn có thể đi vay, tức là
đòn bẩy tài chính hoạt động không hiệu quả. Ngược lại, nếu tỷ lệ này là quá lớn thì
sẽ đẩy dự án vào tình trạng có khả năng mất khả năng thanh toán, nghĩa là rủi ro rất
cao.
Tuy nhiên, chúng ta không nên máy móc khi xác định cơ cấu vốn hợp lý. Cơ
cấu vốn cần được xác định trên cơ sở cân nhắc tới mức doanh lợi và khả năng thanh
toán của dự án. Một dự án có mức thu nhập cao và khả năng thanh toán tốt có thể
chấp nhận một tỷ lệ nợ vốn chủ sở hữu cao hơn mức bình thường.
1.3.1.6. Phương pháp quyền chọn thực – Real options
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 19
h"u)së chñ (Vèn cã tù Vèn
nîlÖ Tû
e
C
D
Rd =
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
Quyền chọn liên quan đến thời điểm đầu tư
Giả sử một doanh nghiệp A đang cân nhắc dự án đầu tư xây dựng một nhà
máy lắp ráp xe ôtô. Để đơn giản, giả định rằng việc đầu tư có thể tiến hành ngay
hôm nay hoặc có thể trì hoãn đến thời điểm một năm sau đó nhưng không thể muộn

hơn. Chi phí xây dựng nhà máy ước tính là 18 triệu USD, và giả thiết rằng chi phí
này không thay đổi cho dù đầu tư bây giờ hay một năm sau đó. Một vấn đề có ảnh
hưởng đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp A là: hiện tại, các nhà chức trách địa
phương đang xem xét giảm thuế nhập khẩu ôtô nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ đang
ngày càng gia tăng. Nếu quyết định giảm thuế được thông qua, nhu cầu đối với xe
ôtô do doanh nghiệp A lắp ráp sẽ rất thấp và dòng thu nhập trong năm thứ nhất chỉ
là 1,6 triệu USD
1
, giá trị hiện tại ở thời điểm cuối năm thứ nhất của các dòng thu
nhập sau đó của dự án là 16 triệu USD. Tuy nhiên, nếu các nhà chức trách vẫn giữ
nguyên mức thuế như cũ (hoặc giảm không đáng kể), nhu cầu đối với xe ôtô của
doanh nghiệp A sẽ khá cao. Trong trường hợp này, dòng thu nhập trong năm thứ
nhất sẽ là 2,5 triệu USD và giá trị hiện tại ở thời điểm cuối năm thứ nhất của các
dòng thu nhập sau đó là 25 triệu USD. Dựa trên ước tính khả năng nhu cầu cao,
thấp đối với xe ôtô lắp ráp, các nhà quản trị doanh nghiệp A thông thường sẽ giải
bài toán đầu tư này bằng cách tính toán chỉ tiêu NPV của dự án. Giả sử giá trị hiện
tại của dòng thu nhập kỳ vọng của dự án là 20 triệu USD, khi đó NPV = 20 - 18 = 2
triệu USD. Dựa vào giá trị NPV > 0, doanh nghiệp A sẽ quyết định đầu tư ngay bây
giờ. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp A tiến hành đầu tư hôm nay, kết quả mà nó nhận
được có thể không như mong muốn bởi vì sự không chắc chắn của nhu cầu trong
tương lai đối với xe lắp ráp. Nếu mức thuế nhập khẩu ôtô giảm đáng kể sau một
năm, nhu cầu xe lắp ráp sẽ thấp, và như vậy dự án đầu tư của doanh nghiệp A sẽ
thất bại về mặt tài chính. Trong tình huống phải đối mặt với sự không chắc chắn
như vậy, tại sao doanh nghiệp A không trì hoãn việc đầu tư cho đến khi đã biết mức
thuế mới được áp dụng cho ôtô nhập khẩu. Tình huống trên minh họa một quyền
chọn thực, và là một quyền chọn mua trên tài sản thực, mà doanh nghiệp A đang
nắm giữ liên quan đến việc lựa chọn thời điểm đầu tư. Doanh nghiệp A có thể tiến
hành đầu tư hôm nay hoặc có thể trì hoãn việc đầu tư, tùy thuộc vào giá trị của
quyền chọn thực được tính toán hôm nay. Tính không ổn định của giá trị tài sản
thực càng lớn

2
, quyền chọn thực sẽ càng có giá trị
3
. Trong trường hợp đó việc duy
trì quyền chọn thay vì đầu tư ngay hôm nay có thể là một quyết định đúng đắn.
+ Quyền chọn đối với việc mở rộng dự án
Một ví dụ khác có thể minh họa cho loại quyền chọn này. Một doanh nghiệp
B đang xem xét dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất xe gắn máy. Đặc điểm của
loại xe này là nó sử dụng một loại nhiên liệu khác thay thế cho xăng, nhằm góp
1
2
3
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 20
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
phần giảm bớt ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, ưu điểm đáng chú ý nhất là khả năng
tiết kiệm chi phí nhiên liệu đáng kể so với các loại xe gắn máy dùng xăng thông
thường. Tuy nhiên, bởi vì loại nhiên liệu được sử dụng cho xe gắn máy này trái với
thói quen sử dụng của người tiêu dùng, cũng như những khó khăn mà người tiêu
dùng có thể gặp phải khi họ phải tìm trạm cung cấp để nạp nhiên liệu, nhu cầu đối
với loại xe này có tính không chắc chắn khá cao. Sự chấp nhận của người tiêu dùng,
và nhu cầu đối với loại xe gắn máy này chỉ có thể biết được tương đối chính xác sau
khi doanh nghiệp này sản xuất và đưa vào thị trường loại xe đó. Do vậy, các nhà
quản trị của doanh nghiệp này dự định tiến hành đầu tư theo hai giai đoạn, thay vì
đầu tư với quy mô lớn ngay bây giờ. Trong giai đoạn một, doanh nghiệp chỉ đầu tư
sản xuất một số lượng xe gắn máy vừa đủ để thăm dò thị trường. Đây là giai đoạn
khá quan trọng và nó quyết định đến việc mở rộng sản xuất ở quy mô lớn sau đó
của doanh nghiệp. Nếu giai đoạn một thành công, doanh nghiệp sẽ tiếp tục đầu tư
giai đoạn hai để mở rộng quy mô sản xuất. Tuy nhiên, đánh giá theo phương pháp
truyền thống của doanh nghiệp lại cho thấy cả hai dự án đầu tư trong hai giai đoạn
đều có NPV < 0. Dựa trên các chỉ tiêu NPV này, một số ý kiến trong ban lãnh đạo

của doanh nghiệp cho rằng không nên tiến hành đầu tư xây dựng nhà máy. Kết quả
này xuất phát từ hạn chế của phương pháp đánh giá dựa vào NPV. NPV của dự án
đầu tư trong giai đoạn một đã không tính đến giá trị của việc điều chỉnh dự án, nếu
như việc thăm dò thị trường trong giai đoạn một cho kết quả tốt đẹp. Mặc dù NPV
của dự án đầu tư trong giai đoạn một có giá trị âm, đầu tư giai đoạn này sẽ tạo ra cơ
hội để tiến hành đầu tư ở giai đoạn hai sau đó. Đây là một quyền chọn thực để mở
rộng đầu tư của doanh nghiệp. Do vậy, giá trị của dự án ở giai đoạn một không chỉ
bao gồm NPV của riêng nó, mà còn bao gồm cả giá trị của quyền chọn thực này.
Ngay cả trong trường hợp NPV của dự án đầu tư trong giai đoạn hai có giá trị âm,
giá trị của quyền chọn thực này sẽ không có giá trị âm. Cụ thể, theo quy tắc NPV,
dòng thu nhập kỳ vọng ở mỗi mốc thời gian trong tương lai được xác định bằng với
giá trị kỳ vọng của tất cả những tình huống có thể
4
, bao gồm cả những tình huống
tốt và những tình huống xấu nhất. Cách xác định dòng thu nhập kỳ vọng như thế rõ
ràng sẽ làm giảm đi giá trị của dự án. Ngược lại, theo cách tiếp cận quyền chọn
thực, dòng thu nhập trong những tình huống xấu của dự án đầu tư mở rộng sẽ không
ảnh hưởng đến quyết định hôm nay của doanh nghiệp, vấn đề mà quy tắc NPV
không thể khắc phục được. Cân nhắc những tình huống xảy ra khi kết thúc giai
đoạn thăm dò thị trường: nếu sản phẩm của doanh nghiệp được người tiêu dùng
nhiệt liệt chào đón, doanh nghiệp sẽ mở rộng quy mô sản xuất để tận dụng ngay cơ
hội kinh doanh này. Tuy nhiên, nếu nhu cầu đối với loại xe gắn máy này vẫn thấp,
doanh nghiệp chỉ đơn giản không đầu tư thêm. Đánh giá dự án theo cách tiếp cận
quyền chọn thực có thể thay đổi hoàn toàn quyết định của doanh nghiệp trong ví dụ
vừa nêu trên.
4
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 21
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
+ Quyền chọn đối với việc từ bỏ dự án đầu tư
Khả năng để mở rộng dự án đầu tư có ý nghĩa quan trọng đối với doanh

nghiệp. Khi quá trình đầu tư đang diễn ra khá thuận lợi, nếu việc mở rộng được tiến
hành càng nhanh, doanh nghiệp càng có nhiều cơ hội để kiếm thêm lợi nhuận. Tuy
nhiên, nếu như quá trình đầu tư lại diễn ra theo chiều hướng xấu và dòng thu nhập
của dự án là khá thấp so với dự tính ban đầu, trong tình huống này quyền chọn để từ
bỏ dự án sẽ là hữu ích đối với doanh nghiệp. Xem xét tình huống sau đây: giả sử
một doanh nghiệp C đang dự định xây dựng một nhà máy sản xuất bia nhằm đáp
ứng nhu cầu tiêu thụ của người tiêu dùng ở địa phương. Tuy nhiên, do áp lực cạnh
tranh từ nhiều sản phẩm bia khác hiện đã có mặt trên thị trường, nhu cầu đối với
loại bia mà doanh nghiệp C sản xuất có tính không chắc chắn cao. Dựa trên chi phí
đầu tư và dòng thu nhập kỳ vọng của dự án, phương pháp đánh giá truyền thống cho
thấy rằng NPV của dự án có giá trị âm. Dự án này nên bị loại bỏ nếu dựa vào chỉ
tiêu NPV này. Giả sử có một doanh nghiệp khác ở địa phương đề nghị với doanh
nghiệp C rằng họ có thể mua lại nhà máy bia ở bất kỳ một thời điểm nào đó trong
tương lai với một giá được ấn định trước, tùy thuộc vào quyết định của doanh
nghiệp C. Trong trường hợp này, đây là một quyền chọn thực để từ bỏ dự án của
doanh nghiệp. Tính không ổn định của dòng thu nhập của dự án càng lớn, quyền
chọn thực này càng có giá trị. Giá trị của dự án sẽ thay đổi nếu như việc đánh giá dự
án có tính đến giá trị của quyền chọn thực để từ bỏ dự án nếu như kết quả đầu tư
không như mong muốn, thay vì chỉ dựa vào NPV.
1.3.2. Các bước thực hiện
Thẩm định nhu cầu tổng vốn đầu tư:
Dưới giác độ của một dự án, vốn đầu tư là tổng số tiền được chi tiêu để hình thành
nên các tài sản cố định và tài sản lưu động cần thiết. Những tài sản này sẽ được sử dụng
trong việc tạo ra doanh thu, chi phí, thu nhập suốt vòng đời hữu ích của dự án. Thẩm định
vốn đầu tư là việc phân tích và xác định nhu cầu vốn đầu tư cần thiết dành cho một dự án.
Đặc điểm của các dự án là thường yêu cầu một lượng vốn lớn và sử dụng trong một
thời gian dài. Tổng vốn đầu tư nay trước khi trình Ngân hàng thì đã được xác định và đã
được nhiều cấp, ngành xem xét, phê duyệt. Tuy nhiên, Ngân hàng vẫn cần phải thẩm định
lại trược khi cho vay, bởi vì: Sai lầm trong việc xác định nhu cầu vốn đầu tư của dự án có
thể dẫn tới tình trạng lãng phí vốn lớn, gây khó khăn trong hoạt động đầu tư cũng như hoạt

động vận hành kết quả đầu tư sau nay, thậm chí gây hậu quả nghiêm trọng đối với chủ đầu
tư.
Do đó việc xác định hợp lý tối đa tổng mức vốn đầu tư của một dự án là cần thiệt đối
với ngân hàng. Ngân hàng sẽ thẩm định chi tiết tổng vốn đầu tư được hình thành như thế
nào:
 Vốn đầu tư vào tài sản cố định:
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 22
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
Đây là hoạt động đầu tư nhằm mua sắm, cải tạo, mở rộng tài sản cố định. Vốn đầu tư
vào tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư cho dự án. Các tài sản
cố định được đầu tư có thể là tài sản cố định hữu hình hoặc tài sản cố định vô hình.
Cụ thể là:
- Chi phí xây lắp: Chi phí khảo sát, thiết kế, xây dựng luận chứng kinh tế - kỹ thuật,
chi phí ban đầu về quyền sử dụng đất, chi phí đền bù, chi phí cần thiết và hợp lý ch các thủ
tục pháp lý như đăng ký kinh doanh, thuế trước bạ, lệ phí chứng từ,
- Chi phí máy móc thiết bị công nghệ, hệ thống dây chuyền và các thiết bị bán lẻ:
Giá mua thiết bị, chi phí bảo quản, vận hành, vận chuyển.
- Chi phí dự phòng.
- Chi phí khác: Chi phí này phát sinh trong quá trình thực hiện dự án không liên quan
trực tiếp đến việc tạo ra hay vận hành các tài sản cố định.
 Vốn đầu tư vào tài sản lưu động:
Đây là vốn đầu tư nhằm hình thành các tài sản lưu động cần thiết để thực hiện dự án.
Nhu cầu đầu tư vào tài sản lưu động phụ thuộc vào đặc điểm của từng dự án. Bao gồm tài
sản lưu động trong sản xuất ( Nguyên liệu, vật liệu, và sản phẩm dở dang) và tài sản
trong quá trình lưu thông (Vốn băng tiền,vốn trong thanh toán, sản phẩm hàng hoá chờ
tiêu thụ ).
Thẩm định phương án tài trợ dự án đầu tư:
Các phương án tài trợ cho dự án đầu tư thông thường bao gồm các nguồn chính là:
Vốn tự có của chủ đầu tư, vốn vay NHTM, vốn vay quỹ hỗ trợ phát triển, vốn do Ngân
sách cấp, lesing, nguồn vốn khác. Nhiệm vụ thẩm định các nguồn vốn tài trợ cho dự án là

để xem xét về số lượng, thời gian, tỷ trọng các nguồn trong tổng vốn đầu tư, cơ cấu vốn có
hợp lý và tối ưu. Mặt khác, cơ cấu nguồn vốn sẽ chi hpối việc xác định dòng tiền phù hợp
cũng như lựa chọn lãi suất chiết khấu hợp lý để xác định NPV của dự án.
Trong quá trình thẩm định các nguồn tài trợ cho dự án, Ngân hàng phải xem xét cơ
sở pháp lý và cơ sở thưc tế của các nguồn vốn để có thể khẳng định chắc chắn rằng các
nguồn đó là có thực. Trong thực tế có đơn vị vốn tự có thực tế không đủ hoặc không có
tham gia vào dự án, nên đã đẩy vốn đầu tư lên mức nhu cầu cao hơn thực tế cần thiết để
vay tín dụng bù đắp, nếu không xem xét kỹ thì vô tình ngân hàng đã tham gia 100% nhu
cầu vốn đầu tư. Ngân hàng phải đánh giá nhu cầu vốn và mức cân đối vốn từ các nguồn tài
trợ trong các giai đoạn thực hiện dự án. Từ đó, xây dựng một trình tự cho vay sao cho tiến
độ bỏ vốn phù hợp với tiến độ thi công xây lắp và việc điều hành vốn của Ngân hàng.
Thẩm định hiệu quả tài chính của dự án:
Hiệu quả tài chính dự án đầu tư được đánh giá thông qua các phương pháp phân tích
tài chính trên cơ sở dòng tiền của dự án. Dòng tiền của một dự án được hiểu là các khoản
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 23
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
chi và thu được kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suất chu kỳ của
dự án. Khi lấy toàn bộ khoản tiền thu được trừ đi khoản tiền chi ra thì chúng ta sẽ xác định
được dòng tiền ròng tại các mốc thời gian khác nhau. Quá trình xác định dòng tiền ròng
hàng năm dựa trên lợi nhuận sau thuế, khấu hao, lãi vay và những khoản mục điều chỉnh
khác khi có sự khác biệt trong cơ cấu đầu tư tài trợ cho dự án. Nếu sai lầm trong việc xác
định các dòng tiền có thể dãn đến tính toán và thẩm định hiệu quả tài chính dự án không có
ý nghĩa thực tế nữa. Do đó đứng trên góc độ là Ngân hàng khi xác định dòng tiền còn lưu
ý một số vấn đề sau:
 Cơ cấu vốn tài trợ cho dự án: Như đã phân tích ở trên, cơ cấu vốn tài trợ cho dự
án có ảnh hưởng đến việc xác định dòng tiền hoạt động mỗi năm của dự án. Một dự án có
thể đựơc tài trợ bằng nhiều nguồn khác nhau, do đó dòng tiền sẽ được điều chỉnh để phù
hợp với mỗi phương thức tài trợ.
 Lãi suất chiết khấu được được lựa chọn là thực hay danh nghĩa: Lãi suất thực là
lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát dự kiến. Việc lựa chọn lãi suất chiết khấu hay danh

nghĩa không thành vấn đề miễn là đảm bảo nguyên tắc nhất quán: Lãi suất chiết khấu thực
áp dụng đối với dòng tiền thực, lãi suất chiết khấu danh nghĩa áp dụng đối với dòng tiền
danh nghĩa.
 Lựa chọn phương pháp tính khấu hao: Việc lựa chọn phương pháp tính khấu hao
sẽ ảnh hưởng đến độ lớn của lợi nhuận sau thuế và chi phí khấu hao và từ đó ảnh hưởng
tới quy mô dòng tiền mỗi năm.
 Rủi ro: Trong quá trình thẩm định tài chính dự án, chúng ta cần phải xem xét và
phân tích cẩn trọng rủi ro đối với dự án. Rủi ro bao gồm rất nhiều loại và chúng đều tác
động tới kết quả của việc xác định dòng tiền dự tính cho dự án.
 Những ưu đãi đầu tư của chính phủ.
 Thuế thu nhập doang nghiệp.
Các phương pháp tính toán tài chính được sử dụng trong thẩm định hiệu quả tài
chính bao gồm 1 số phương pháp tính sau:
- Phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV).
- Phương pháp tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR).
- Chỉ số doanh lợi (PI).
- Thời gian hoàn vốn (PP).
Cho dù áp dụng phương pháp nào để thẩm định tài chính dự án thì nguyên tắc giá trị
thời gian của tiền phải được áp dụng. Đồng tiến có giá trị về mặt thời gian, một đồng tiền
ngày hôm nay có giá trị hơn một đồng tiền ngày mai, bởi lẽ một đồng tiền hôm nay nếu để
ngày mai thì ngoài tiền gốc ra còn có tiền lãi do nó sinh ra, còn một đồng ngày mai nguyên
vẹn một đồng mà thôi.
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 24
Chuyên đề tốt nghiệp 2012
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng
Thẩm định dự án đầu tư là ở ngân hàng thương mại có thể ví như “công cụ
sản xuất” của một người lao động. Sản phẩm tạo ra tốt, một mặt chịu ảnh hưởng của
chất lượng công cụ sản xuất, một mặt chịu ảnh hưởng của chính tay nghề của người
sử dụng công cụ. Vì vậy, các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính
dự án đầu tư sẽ được xem xét dưới hai góc độ chính sau :

- Về các tiêu chuẩn thẩm định.
- Về nhân tố con người và một số nhân tố khác.
1.3.3.1. Các tiêu chuẩn thẩm định :
Mỗi dự án đầu tư là tập hợp dự kiến về quy mô sản xuất, quy mô đầu tư, chi
phí vận hành, giá cả, mức chiết khấu, thời gian tồn tại của dự án trong tương lai.
Trên thực tế, bao giờ cũng có sự bất định về tương lai. Rất ít khi mọi chuyện diễn
ra đúng như dự đoán.
Như vậy, những phương pháp đánh giá hiệu quả dự án sẽ khó loại trừ những
“tính bất định của nhiều nhân tố ảnh hưởng đến dự án đầu tư.”
Mỗi bến số cơ bản đưa vào các tiêu chuẩn tính toán hiệu quả tài chính dự án
đâu tư như NPV, IRR là nguồn gốc bất định có tầm quan trọng lớn hoặc nhỏ. Một
số biến số là nguồn gốc chung của tính bất định trong việc đánh giá các dự án đầu
tư gồm : số vốn đầu tư, chi phí vận hành, doanh thu,. Mỗi biến số bao gồm số lượng
và giá cả. Têm vào đó, thời gian là yếu tố chủ chốt trong kết hoạch đầu tư nên việc
thực hiện một dự án có thể đi ngược lại sự đánh giá chính dự án này.

Yếu tố bất định : Tính bất định thường xảy ra bởi không thể đoán trước
được các biến số khác nhau và ở cả mức độ hiệu quả và chi phí một cách chính xác
như chúng sẽ xảy ra. Có nhiều yếu tố ảnh không chắc chắn làm ảnh hưởng đến kết
quả của dự án, nhưng quan trọng nhất là :
+ Lạm phát : Được hiểu là giá cả phần lớn các khoản mục đầu vào hoặc đầu
ra theo thời gian và gây sự thay đổi về tương quan giá cả. Mức tăng chính xác của
giá cả luôn luôn không thể nhận biết được. Giá cả còn lên xuống do nguyên nhân
của luật cung cầu, sở thích của người tiêu dùng.
Rõ ràng các biến số tài chính từ các bảng tài chính được đưa ra trong dự án
là yếu tố đầu vào trực tiếp hoặc gián tiếp của các tiêu chuẩn thẩm định (NPV,IRR
nêu trên) như : các thu nhập, các loại chi phí Các yếu tố này thường liên quan đến
giá cả. Vì vậy, việc xác định giá cả của các yếu tố trong chi phí hay trong doanh thu
của dự án sẽ có ảnh hưởng đến kết quả dự án.
Nếu các giá cả được cung cấp trong dự án là “giá cố định” – giá cố định là

giá không thay đổi theo thời gian – và nếu các giá cố định được sử dụng trong suốt
thời gian dự án xảy ra, như thế người lập dự án sẽ đơn giản hoá việc xây dựng các
Đỗ Hà Dung – Tài chính doanh nghiệp 50A 25

×