Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần sài gòn thương tín – chi nhánh long biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.98 KB, 60 trang )

MỤC LỤC
B ng 2.8: Tình hình huy ng v n t dân cả độ ố ừ ư 29
Xây d ng k ho ch huy ng v n rõ r ng cho t ng giai ự ế ạ độ ố à ừ
o nđ ạ 51
Phát tri n v m r ng m ng l i giao d chể à ở ộ ạ ướ ị 52
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
NHTƯ Ngân hàng Trung Ương
NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần
NHTM Ngân hàng Thương mại
TCKT Tổ chức kinh tế
NHNN Ngân hàng Nhà nước
TCTD Tổ chức tín dụng
GTCG Giấy tờ có giá
1
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ

1. Bảng 2.1: Bộ máy lãnh đạo của Chi nhánh Long Biên.
2. Bảng 2.2: Tổng vốn huy động đựơc của Chi nhánh trong các năm gần
đây.
3. Bảng 2.3: Tổng dư nợ và cho vay của Chi nhánh trong các năm gần đây.
4. Bảng 2.4: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh các năm gần
đây.
5. Bảng 2.5: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm gần đây.
6. Bảng 2.6: Biến động của nguồn vốn huy động.
7. Bảng 2.7: Tình hình huy động vốn từ Doanh nghiệp.
8. Bảng 2.8: Tình hình huy động vốn từ dân cư.
9. Bảng 2.9: Kết cấu tiền gửi dân cư .
10. Bảng 2.10: Tình hình phát hành giấy tờ có giá.
11. Biểu đồ số 1: Tình hình huy động vốn từ doanh nghiệp.
12. Biểu đồ số 2: Tình hình huy động vốn từ dân cư.
13. Biểu đồ số 3: Tình hình huy động vốn thông qua phát hành GTCG.


2
LỜI MỞ ĐẦU
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đất nước là một trong những chiến lược
then chốt để phát triển nền kinh tế Quốc gia. Để làm được điều đó thì trước tiên
cần phải cung cấp cho nền kinh tế một lượng vốn thật dồi dào. Hiện nay vốn
được cung cấp qua hai kênh chính. Đó là vốn trong nước và vốn nước ngoài.
Trong đó vốn trong nước giữ vai trò quan trọng hơn cả. Nguồn vốn này được
cung cấp chủ yếu thông qua nghiệp vụ huy động vốn và cho vay của các Ngân
hàng Thương mại Cổ phần trong nước. Từ sau khủng hoảng kinh tế thế giới năm
2008 tới nay nền kinh tế nước ta đang trên đà phục hồi tuy nhiên sự phân hóa
phát triển rõ rệt giữa các nghành các nghề đang là một vấn đề nan giải. Một số
nghành nghề có tiềm năng phát triển cao chậm phát triển vì lí do thiếu nguồn
vốn. Điều này đã tạo nên sự mất cân đối cho nền kinh tế và về lâu dài ảnh hưởng
nghiêm trọng tới tính ổn định của đất nước. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng
thiếu vốn này đó là rất nhiều ngân hàng đang gặp phải vấn đề khó khăn trong
khâu huy động vốn. Trong khi nguồn vốn nhàn rỗi của dân chúng còn khá nhiều
chưa được khai thác một cách triệt để. Mặt khác, nguồn vốn huy động được của
ngân hàng ảnh hưởng lớn tới tính thanh khoản của các ngân hàng và có thể dẫn
đến việc phá sản hàng loạt các ngân hàng. Riêng trong năm 2011, một loạt các
ngân hàng đã phải sát nhập theo chỉ thị của NHNN nhằm mục đích đảm bảo khả
năng thanh khoản của toàn hệ thống. Đây cũng là vấn đề đối với Sacombank Chi
nhánh Long Biên nói riêng và ngân hàng Sacombank nói chung.
Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề, sau một thời gian thực tập tại Chi
nhánh Long Biên của ngân hàng Sacombank em quyết định chọn đề tài: “Giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín – Chi nhánh Long Biên”.
Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động huy động vốn tại NHTMCP Sài
Gòn Thương Tín – Chi nhánh Long Biên trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm
2011 em đã phân tích tìm ra nguyên nhân của những tồn tại và đưa ra các giải
pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của Chi nhánh. Từ

đó em mong muốn góp phần nhỏ bé phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam và
cơ cấu lại nguồn vốn trong nền kinh tế.
Trong chuyên đề, em đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu kết hợp
với nhau: so sánh, phân tích, luận giải dựa trên số liệu và các hình ảnh trực
quan mà em thu thập được.
1
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô, chú, anh, chị tại
Chi nhánh Long Biên và đặc biệt là sự quan tâm, hướng dẫn tận tình của cô giáo
Trần Tố Linh đã giúp em hoàn thành được chuyên đề tốt nghiệp này.
Kết cấu chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động huy động vốn trong hoạt động kinh doanh
của NHTM
Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại ngân hàng TMCP Sài Gòn
Thương Tín - Chi nhánh Long Biên
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
huy động vốn tại Chi nhánh Long Biên
2
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường
1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Để đưa ra được một định nghĩa chính xác về ngân hàng thương mại, người
ta thường phải dựa vào tính chất mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài
chính và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động. Với
mỗi quốc gia khác nhau, hình thành một khái niệm khác nhau về NHTM.
Theo Luật của các TCTD 2010 tại Việt Nam:
“Ngân hàng là loại hình TCTD có thể được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng theo quy định của luật này”.
“Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các

hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật
này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, chủ yếu là nhận tiền
gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ thanh toán. Hiện
nay, ở Việt Nam có các loại hình ngân hàng sau:
- Ngân hàng Thương mại Quốc doanh: đây là các ngân hàng giữ vai trò
chủ đạo trong hệ thống Ngân hàng ở nước ta. Các ngân hàng này được nhà nước
cấp vốn và hoạt động chịu sự quản lý của Nhà nước. Ngoài việc tiến hành kinh
doanh bình thường: huy động vốn, cho vay và các dịch vụ khác, ngân hàng còn
phải thực hiện các nhiệm vụ khi Nhà nước giao cho.
- Ngân hàng thương mại cổ phần: đây là các ngân hàng được thành lập và
hoạt động theo luật công ty cổ phần. Sở hữu ngân hàng là các cổ đông, họ cùng
nhau góp vốn để hình thành và hoạt động theo quy định của pháp luật.
- Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng
liên doanh. Vốn điều lệ là vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân
hàng nước ngoài, có trụ sở chính tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp
luật Việt Nam.
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: là một bộ phận của ngân hàng nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.
- Ngân hàng đầu tư: ngân hàng đầu tư hoạt động với mục tiêu đầu tư trung
và dài hạn, cũng vì sự phát triển nhưng thông qua hình thức đầu tư gián tiếp mua
bán các giấy tờ có giá.
3
- Ngân hàng phát triển: ngân hàng phát triển có nét đặc trưng nổi bật là
những ngân hàng này tập trung vốn huy động trung, dài hạn và đầu tư trung, dài
hạn vì sự phát triển. Hoạt động đầu tư của loại ngân hàng này chủ yếu đầu tư trực
tiếp qua các dự án.
- Ngân hàng chính sách: là những ngân hàng thương mại 100% vốn Nhà
nước hoặc ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà nước (gồm sở hữu Nhà nước và
sở hữu của các tổ chức kinh tế quốc doanh) được lập ra để phục vụ những chính

sách của Nhà nước. Loại ngân hàng này không hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận.
- Ngân hàng hợp tác: là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể được
các thành viên tự nguyện lập nên không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục
tiêu tương trợ lẫn nhau về vốn và dịch vụ ngân hàng.
1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
 NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và các tổ chức trong nền kinh tế. NHTM chính là chủ thể đứng ra tiến
hành khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần
kinh tế Thông qua hình thức cấp tín dụng, ngân hàng đã tạo điều kiện cho
doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, thiết bị, đổi mới
qui trình công nghệ, nâng cao năng suất lao động đem lại hiệu quả kinh tế, cũng
có nghĩa là đưa doanh nghiệp lên những nấc thang cạnh tranh cao hơn. Cạnh
tranh càng mạnh mẽ, kinh tế càng phát triển. Với khả năng cung cấp vốn, NHTM
đã trở thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế của quốc
gia.
 NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, giúp cho các nhà kinh
doanh trong xây dựng chiến lược quản lý doanh nghiệp
Thị trường ở đây được hiểu ở hai góc độ, thị trường đầu vào và thị trường
đầu ra của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh
nào, doanh nghiệp cần phải tham gia vào thị trường đầu vào rồi từ đó tiếp cận thị
trường đầu ra nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Quá trình đó chỉ bắt đầu khi
doanh nghiệp trang bị được đầy đủ lượng vốn cần thiết. Tuy nhiên, không phải
doanh nghiệp nào cũng có đủ khả năng tự cung cấp về tài chính. Do vậy, buộc họ
phải tìm kiếm vốn từ bên ngoài. Nguồn vốn tín dụng của NHTM sẽ giúp các
doanh nghiệp giải quyết những khó khăn đó, tạo cho doanh nghiệp có đủ khả
năng thoả mãn tối đa nhu cầu của thị trường trên mọi phương diện: giá cả, chủng
loại, chất lượng, thời gian, địa điểm Vì thế, NHTM chính là cầu nối quan trọng
giữa doanh nghiệp và thị trường.
4

 NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá như hiện nay thì vai trò này ngày
càng thể hiện rõ rệt hơn. Áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế mỗi quốc gia khi mở
cửa hội nhập phải có tiềm lực lớn mạnh về mọi mặt, đặc biệt là tiềm lực về tài
chính. Chính hệ thống NHTM đã cung cấp nhiều loại hình dịch vụ tài chính khác
nhau hỗ trợ cho việc đầu tư từ nước ngoài vào trong nước và từ trong nước ra
nước ngoài theo các hình thức: thanh toán quốc tế, nghiệp vụ hối đoái, cho vay
uỷ thác đầu tư Nhờ đó, luồng vốn ra và vào thường xuyên, thúc đẩy nền tài
chính nước nhà bắt kịp với nền tài chính quốc tế. Đây là một trong những điều
kiện tiên quyết cho tiến trình hội nhập kinh tế ở các quốc gia trên thế giới.
 Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước kìm hãm tỷ lệ lạm phát
Thực tế cho thấy con đường dẫn đến lạm phát nhanh nhất là con dường tín
dụng. Khi xảy ra lạm phát, Ngân hàng Trung Ương sẽ tăng tỉ lệ vào dự trữ bắt
buộc, lãi suất tái chiết khấu hoặc tham gia vào thị trường mở để thông qua các
ngân hàng thương mại thay đổi lại lượng tiền trong lưu thông. Các ngân hàng
thương mại sẽ kiểm soát lạm phát thông qua các hoạt động tín dụng, bảo lãnh. Từ
đó ngân hàng xác định được hướng đầu tư vốn và đề ra các biện pháp xử lý
những tác động xấu ảnh hưởng đến nền kinh tế, làm cho quá trình tái sản xuất
diễn ra liên tục, góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng
tiền, kiềm chế lạm phát.
1.3. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại
NHTM hiện đại hoạt động với ba nghiệp vụ chính đó là: nghiệp vụ huy
động vốn, nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ trung gian khác. Ba nghiệp
vụ này có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển, tạo
nên uy tín và thế mạnh cạnh tranh cho các NHTM, các nghiệp vụ này đan xem
lẫn nhau trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, tạo nên một chỉnh thể thống
nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM.
• Nghiệp vụ huy động vốn
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các
TCKT và cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ kinh

doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Đây cũng là công cụ chính đối với các hoạt động kinh doanh của các
NHTM. Nó là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của ngân
hàng và giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mặc dù
bị giới hạn về mức huy động vốn, song nếu các NHTM sử dụng tốt nguốn vốn
này thì không những nguồn lợi của ngân hàng được tăng lên mà còn tạo cho ngân
5
hàng uy tín ngày càng cao. Qua đó ngân hàng có thể mở rộng được vốn và mở
rộng qui mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Nguồn vốn huy động của ngân hàng chủ yếu xuất phát từ: tiền gửi doanh
nghiệp, tiền gửi dân cư, phát hành giấy tờ có giá.
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh
doanh của NHTM, cụ thể bao gồm các nghiệp vụ sau:
 Nghiệp vụ tiền gửi
Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động ngân hàng nhận các khoản tiền gửi
từ các doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ
đó NHTM có thể huy động được. Ngoài ra NHTM cũng có thể huy động các
khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay các hộ gia đình được gửi vào ngân hàng với
mục đích bảo quản hoặc hưởng lãi trên số tiền gửi.
 Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá
Các NHTM phần lớn sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có
tính thời hạn tương đối dài và ổn định, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư, khả năng
cung cấp đủ các khoản tín dụng mang tính trung và dài hạn vào nền kinh tế. Hơn
nữa, nghiệp vụ này còn giúp các NHTM giảm thiểu rủi ro và tăng cường tính ổn
định vốn trong hoạt động kinh doanh.
 Nghiệp vụ đi vay
Đối với nghiệp vụ này các NHTM tiến hành tạo vốn cho mình bằng cách
vay của các TCTD trên thị trường tiền tệ và NHTƯ dưới hình thức tái chiết khấu
hay vay có bảo đảm, nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân
NHTM khi mà họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ. Thực tế

cho thấy, chi phí của vốn đi vay thường cao hơn chi phí của vốn huy động tại
chỗ. Tuy nhiên, tính chủ động của vốn đi vay lại cao hơn vốn huy động tại chỗ.
Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên nhằm mục đích tạo
vốn kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền
tệ và vay Ngân hàng Nhà nước dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay có đảm
bảo Trong đó các khoản vay từ Ngân hàng Nhà nước chủ yếu nhằm tạo sự cân
đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi mà nó không tự cân đối được
nguồn vốn trên cơ sở khai thác tại chỗ.
 Nghiệp vụ huy động vốn khác
Trong quá trình là trung gian thanh toán, các NHTM cũng tạo được một
khoản gọi là vốn trong thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản
tiền gửi séc bảo chi, séc định mức và các khoản tiền phong toả do ngân hàng
chấp nhận các hối phiếu thương mại Các khoản tiền tạm thời được trích khỏi
6
tài khoản này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên tạm thời coi là tiền nhàn
rỗi.
Thông qua nghiệp vụ đại lý, ngân hàng thu hút được một lượng vốn đáng
kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho các TCTD khác,
nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư Do đó ngân hàng có
thể sử dụng tạm thời những tài khoản đó vào kinh doanh.
Để mở rộng nghiệp vụ này các NHTM cần chú trọng đến phát triển các
dịch vụ và không ngừng nâng cao uy tín của mình trên thương trường.
 Vốn chủ sở hữu của NHTM
Đây là vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM. Lượng vốn này chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt
buộc khi bắt đầu thành lập ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định Ngân
hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như trang bị cơ sở vật chất,
nhà xưởng, mua sắm tài sản cố định phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay,
đặc biệt là tham gia đầu tư góp vốn liên doanh.
• Nghiệp vụ sử dụng vốn

Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn của NHTM vào các mục
đích khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi nhuận.
 Nghiệp vụ ngân quỹ
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của NHTM được dùng vào với
mục đích nhằm đảm bảo khả năng thanh toán hiện thời, khả năng thanh toán
nhanh của NHTM và thực hiện quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Ngân hàng
Nhà nước đề ra.
 Nghiệp vụ cho vay
Là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu và tạo khả năng sinh lời cao cho ngân
hàng. Trong tổng tài sản có thì nghiệp vụ này chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Nghiệp vụ cho vay bao gồm cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn:
- Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay nhằm giải quyết thiếu hụt vốn
tạm thời trong kinh doanh của khách hàng. Cho vay ngắn hạn chủ yếu đầu tư vào
tài sản lưu động. ở Việt Nam hiện nay thường cho vay ngắn hạn theo hai phương
thức:
+ Cho vay theo hạn mức: áp dụng cho những khách hàng vay trả thường
xuyên có vòng quay vốn nhanh.
+ Cho vay từng lần: áp dụng cho những khách hàng vay trả thường xuyên
và có vòng quay vốn chậm.
7
- Cho vay trung - dài hạn: là hình thức cho vay mà tiền vay được cấu tạo
vào tài sản cố định. Đây là loại cho vay có thể nhận trức tiếp bằng tiền hoặc cho
vay thông qua tài sản - nghiệp vụ cho thuê tài chính.
 Nghiệp vụ đầu tư tài chính:
Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các NHTM còn dùng số vốn huy động được
từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội để đầu tư vào nền kinh tế dưới các hình
thức như: hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường và trực
tiếp thu lợi nhuận trên các khoản đầu tư đó.
• Nghiệp vụ trung gian khác
Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản trên ngân hàng còn thực hiện một số nghiệp

vụ khác như là:
 Dịch vụ trong thanh toán
Có thể nói ngân hàng là thủ quỹ của nền kinh tế. Các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế sẽ không phải mất thời gian sau khi mua hoặc bán hàng hoá và dịch
vụ bởi việc thanh toán sẽ được ngân hàng thực hiện một cách nhanh chóng và
chính xác.
- Ngân hàng tiến hành chuyển tiền cho khách hàng, thanh toán hộ khách
hàng về các khoản tiền mua bán dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi hộ khách
hàng bằng hình thức séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng
- Ngân hàng đóng vai trò làm trung gian trong việc mua bán hộ cho khách
hàng.
- Ngân hàng làm đại lý phát hành và bán chứng khoán cho công ty.
 Dịch vụ tư vấn, môi giới
Ngân hàng đứng ra làm trung gian mua bán chứng khoán, tư vấn cho
người đầu tư mua bán chứng khoán, bất động sản
 Các dịch vụ khác
Ngân hàng đứng ra quản lý hộ tài sản; giữ hộ vàng, tiền; cho thuê két sắt,
bảo mật theo qui định của NHNN Việt Nam giúp cho Ngân hàng thu được
những khoản lợi đáng kể.
2. Vốn huy động và hoạt động huy động vốn trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng thương mại
2.1. Khái niệm về vốn
Các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về vốn của NHTM như sau:
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân ngân hàng
thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện
các dịch vụ kinh doanh khác.
8
Về thực chất vốn của ngân hàng thương mại là bao gồm các nguồn tiền tệ
của chính bản thân ngân hàng và của những người có vốn tạm thời nhàn rỗi. Họ
chuyển tiền vào ngân hàng với các mục đích khác nhau: hoặc lấy lãi, hoặc nhờ

thu, nhờ chi hay là dùng các sản phẩm dịch vụ khác của ngân hàng. Đây chính là
họ chuyển quyền sử dụng vốn cho ngân hàng và số tiền mà ngân hàng phải trả
hay làm các dịch vụ chính là cái giá của quyền sử dụng các giá trị tiền tệ đó. Nhờ
việc có được nguồn vốn, các ngân hàng có thể tiến hành kinh doanh: cho vay,
bảo lãnh, cho thuê Nói chung vốn của ngân hàng chi phối toàn bộ và quyết
định đối với việc thực hiện các chức năng của ngân hàng thương mại.
Về cơ bản vốn của các NHTM bao gồm:
 Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập
được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Nó mang tính ổn định và căn cứ để quyết
định đến khả năng và khối lượng vốn huy động của ngân hàng.
 Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ
các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền
sử dụng và phải hoàn trả đúng gốc và lãi khi đến hạn. Nguồn vốn này luôn biến
động, tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động của ngân
hàng.
 Vốn đi vay là phần vốn các ngân hàng đi vay để bổ sung vào vốn hoạt
động của mình trong trường hợp tạm thiếu vốn khả dụng. Nó có chi phí tương
đối cao cho nên chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.
 Vốn khác là phần vốn phát sinh trong quá trình thực hiện các nghiệp
vụ thanh toán…
2.2. Vai trò của vốn huy động
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì
phải có vốn bởi vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh
doanh. Riêng đối với ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh một loại hàng
hoá đặc biệt là “tiền tệ” với đặc thù hoạt động kinh doanh là đi vay để cho vay
nên nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng lại càng có vai trò
hết sức quan trọng.
• Vốn là cơ sở để tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng. Ngoài vốn

ban đầu cần thiết tức là đủ vốn điều lệ theo luật định thì để bắt đầu hoạt động
kinh doanh của mình, việc đầu tiên mà ngân hàng phải làm là huy động vốn. Vốn
huy động sẽ cho phép ngân hàng cho vay, đầu tư để thu lợi nhuận.
9
Khả năng huy động vốn tốt sẽ là điều kiện thuận lợi đối với ngân hàng
trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế cả về qui mô,
khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết
định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều
khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và ngân
hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh, đảm bảo uy tín và
năng lực trên thị trường.
• Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của
ngân hàng
Hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào vốn của ngân hàng.
Ngân hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với ngân hàng ít vốn. Có
được nhiều vốn ngân hàng sẽ có điều kiện để đưa ra các hình thức tín dụng linh
hoạt, có điều kiện để hạ lãi suất từ đó sẽ làm tăng quy mô tín dụng. Các ngân
hàng lớn, nhiều vốn thường có rất nhiều các dịch vụ ngân hàng. Phạm vi hoạt
động kinh doanh của họ sẽ rộng hơn nhiều các ngân hàng nhỏ. Chính vì vậy càng
khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.
• Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
trên thương trường
Các ngân hàng lớn trên thế giới là các ngân hàng có uy tín, luôn được ca
ngợi và nể trọng. Điều kiện đầu tiên để xây dựng được uy tín của ngân hàng
chính là vốn của ngân hàng. Có nhiều vốn, khả năng thanh toán của ngân hàng
luôn được đảm bảo, các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm khi giao thiệp với
ngân hàng. Trong nền kinh tế bất ổn hiện nay, khả năng thanh toán luôn được các
ngân hàng ưu tiên hàng đầu và để được như vậy thì các ngân hàng luôn tìm cách
huy động được nhiều vốn hơn.

• Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Trong thời đại kinh tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, vốn là điều kiện
để các ngân hàng tham gia cạnh tranh. Nó giúp cho ngân hàng mở rộng quy mô
hoạt động, tăng cường quan hệ với các đối tác. Đồng thời nó lôi kéo khách hàng
mới, giữ chân các khách hàng truyền thống. Doanh số của ngân hàng tăng lên
đồng thời làm tăng nguồn vốn của ngân hàng. Vốn của ngân hàng lớn giúp cho
ngân hàng có khả năng tài chính dồi dào để cạnh tranh với các ngân hàng khác:
hạ lãi suất, linh hoạt về thời hạn tín dụng, hình thức trả lãi Các dịch vụ ngân
hàng sẽ ngày càng được cải tiến, phát triển và được thực hiện tốt hơn.
10
2.3. Các hình thức huy động vốn
2.3.1. Tiền gửi của khách hàng
Tiền gửi của khách hàng đó là tiền gửi của các tổ chức kinh tế, doanh
nghiệp cơ quan Nhà nước và các định chế tài chính trung gian cùng cá nhân
trong và ngoài nước có quan hệ gửi tiền tại ngân hàng.
Tiền gửi của khách hàng được chia làm hai bộ phận: tiền gửi của doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
 Tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế bao gồm:
- Tiền gửi không kỳ hạn.
Đây là khoản tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào và ngân
hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng, thực chất đó là khoản tiền gửi
dùng để đảm bảo trong thanh toán.
Đây là nguồn huy động được đánh giá là rất lớn, chiếm tỷ trọng cao trong
tổng nguồn vốn. Để tiết kiệm thời gian và chi phí trong thanh toán, các doanh
nghiệp dù lớn hay nhỏ hầu hết đều có tài khoản trong ngân hàng. Các doanh
nghiệp khi bán được hàng hoá đều gửi tiền vào ngân hàng và rút ra khi cần. Chu
kỳ rút tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội không giống nhau. Vì vậy
ngân hàng luôn có trong tay một khoản tiền lớn mà mình có thể sử dụng một
cách tương đối thuận lợi. Tuy nhiên độ lớn của khoản tiền này phụ thuộc nhiều
vào các dịch vụ, các tiện ích mà ngân hàng mang lại khi khách hàng sử dụng các

dịch vụ. Điều này khiến cho việc huy động vốn từ các doanh nghiệp và các tổ
chức xã hội gắn liền với việc mở rộng, cải tiến các dịch vụ ngân hàng.
Tiền gửi đảm bảo thanh toán được ký thác vào ngân hàng để thực hiện các
khoản chi trả khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách
hàng một cách thuận tiện và tiết kiệm. Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi chờ
thanh toán mà không phải để dành. Bởi vậy đối với khách hàng đây là một tài sản
mà họ ký thác uỷ nhiệm cho ngân hàng bảo quản và thực hiện các nghiệp vụ liên
quan theo yêu cầu của khách hàng. Do vậy khách hàng không mất quyền sở hữu,
cũng như quyền sử dụng số tiền đó. Họ có quyền lấy ra hoặc chuyển nhượng cho
bất kỳ ai và bất kỳ thời gian nào. Khách hàng được sử dụng số tiền của mình
bằng các phương tiện thanh toán dùng để chi trả như séc, uỷ nhiệm chi, thư
chuyển tiền…
11
Như vậy các tài khoản này đã đem lại cho khách hàng sự an toàn trong
việc bảo quản vốn và trong qúa trình thanh toán trả tiền hàng hoá dịch vụ, ngoài
ra khách hàng còn được hưởng một khoản tiền lãi nhỏ và một số dịch vụ miễn
phí. Còn đối với ngân hàng phải bỏ ra một số chi phí cho bộ máy kế toán theo dõi
và nghi chép các nghiệp vụ phát sinh, chi phí phát hành séc và một số dịch vụ
kèm theo. Chi phí này khá lớn, nhưng nó được bù đắp lại bởi vì trên thực tế do
lượng tiền gửi vào và số lượng tiền rút ra không cùng một lúc và chủ tài khoản
thường không sử dụng hết số tiền của mình trên tài khoản. Do đó luôn tồn tại một
số tiền trên tài khoản trong một thời gian dài số dư ấy được ngân hàng dùng để
đầu tư cho vay đối với một số doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn sản xuất, kinh
doanh để thu lợi nhuận. Như vậy đối với tài khoản tiền gửi thanh toán số dư trên
tài khoản giao dịch không những bù đắp được chi phí mà còn có thể mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng.
Ngày nay do điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều công nghệ mới
được ứng dụng vào hoạt động ngân hàng. Vì vậy đã có nhiều doanh nghiệp, cá
nhân mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng, làm cho lượng tiền gửi này ngày càng
gia tăng. Đó là những nguồn vốn dùng để cho vay hết sức quan trọng của ngân

hàng, đồng thời lợi nhuận thu về từ nguồn vốn này cũng ngày càng tăng.
- Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp, chưa
sử dụng đến trong một thời gian nhất định, mà khoảng thời gian này được xác
định trước. Do đó các doanh nghiệp thường gửi vào ngân hàng dưới hình thức
tiền gửi có kỳ hạn. Phần lớn các nguồn tiền gửi này xuất phát từ nguồn tích luỹ
của các doanh nghiệp mà có. Về nguyên tắc khách hàng chỉ được rút tiền ra khi
đến hạn và được hưởng số tiền lãi trên số tiền gửi đó. Nhưng trong thực tế ở
nước ta hiện nay để khuyến khích người gửi tiền các NHTM vẫn cho khách hàng
rút ra trước thời hạn và được hưởng lãi suất thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn
(thông thường bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn).
Do tính chất của loại tiền vốn tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử
dụng phần lớn số dư loại nguồn vốn này để cho vay trung và dài hạn. Nếu nguồn
vốn này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động sẽ tạo điều kiện
thuận lợi, chủ động của ngân hàng trong quá trình kinh doanh. Các NHTM
thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn nhằm đáp ứng nhu cầu tiền gửi của khách hàng.
Hiện tại các NHTM có các loại tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6
tháng 9 tháng, 1 năm. Với mỗi một kỳ hạn khác nhau thì ngân hàng áp dụng một
loại lãi suất khác nhau. Thông thường thì thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
12
Tiền gửi tiết kiệm dân cư
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi các nhân được gửi vào
ngân hàng, nhằm hưởng lãi suất theo qui định. Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu
nhập bằng tiền gửi của cá nhân chưa sử dụng được gửi vào tổ chức tín dụng. Nó
là một dạng đặc biệt của tích luỹ tiền tệ trong tiêu dùng cá nhân. Khi gửi tiền vào
ngân hàng người gửi tiền được giao một sổ tiết kiệm coi như một giấy chứng
nhận tiền gửi vào Ngân hàng. Đến thời hạn khách hàng rút tiền ra được nhận một
khoản tiền lãi trên tổng số tiền gửi tiết kiệm.
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư có số lượng lớn thứ
hai trong tổng số các loại tiền gửi vào ngân hàng và nó phục thuộc rất lớn vào thu

nhập bình quân theo đầu người, tỷ lệ tiết kiệm trên tổng thu nhập của dân cư,
chất lượng phục vụ của NHTM, sự ổn định đồng tiền và tăng trưởng vững chắc
của nền kinh tế.
Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
Hình thức này gần giống như huy động tiền gửi không kỳ hạn. Tuy nhiên
so với tiền gửi không kỳ hạn thì số dư của phần này ổn định hơn, ít biến động
hơn nên ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn.
Loại tiền gửi này người gửi tiền có thể rút ra một phần hoặc toàn bộ số
tiền gửi bất kỳ lúc nào. Nhưng khác với loại tiền gửi thanh toán, người gửi tiền
không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác, lãi suất
tiền gửi tiết kiệm thường cao hơn và phần lớn những người gửi tiền tiết kiệm là
do chưa xác định được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai, nhưng lại muốn
hưởng mức lãi trong thời gian khoản tiền nhàn rỗi.
Đây là phần tiền huy động tương đối quan trọng ở những nước phát triển
có tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt cao. Mục đích của các khoản tiền gửi
này không phải là để lấy lãi mà chủ yếu dùng để thanh toán. Khách hàng gửi tiền
phần lớn là các cá nhân làm ăn buôn bán phải thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ
liên tục. Người gửi tiền có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào hoặc để trả cho người thứ
ba. Hình thức rút có thể là tiền mặt hay lấy qua hình thức thanh toán bằng séc.
Đặc biệt người gửi tiền có thể không cần trực tiếp đến ngân hàng lấy mà có thể
rút qua các máy rút tiền tự động ( máy ATM ). Ngân hàng thường bảo quản loại
tiền gửi này trên hai tài khoản: tài khoản thanh toán và tài khoản vãng lai:
+ Tài khoản thanh toán là loại tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản có toàn
quyền sử dụng số tiền trên tài khoản nhưng chỉ trong phạm vi số dư tiền gửi.
Loại tài khoản này luôn luôn có số dư có.
13
+ Tài khoản vãng lai là tài khoản có thể dư có hoặc dư nợ, thường được sử
dụng cho các tổ chức kinh tế. Số dư có thể hiện tiền gửi của khách hàng còn số
dư nợ thể hiện khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng vay.

Với mục đích chủ yếu khi gửi tiền là để sử dụng các dịch vụ ngân hàng
nên mức lãi suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền là rất thấp, thậm chí không
phải trả lãi. Tỷ lệ huy động từ nguồn này sẽ là khá cao nếu ngân hàng có các dịch
vụ đa dạng, sản phẩm ngân hàng chất lượng cao, hệ thống mạng lưới rộng rãi đáp
ứng tốt các nhu cầu của người gửi tiền.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
Đây là loại hình tiết kiệm phổ biến nhất, quen thuộc nhất ở nước ta. Người
gửi tiền gửi vào ngân hàng và rút ra sau những thời hạn xác định: 3 tháng, 6
tháng Người gửi không được rút trước, nếu rút trước hạn thì sẽ bị phạt. Đây là
những khoản tiền có tính ổn định rất cao nên ngân hàng phải trả khách hàng với
lãi suất gần như là cao nhất. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, để tăng sức cạnh
tranh, thu hút được vốn các ngân hàng đã rất linh hoạt trong việc khách hàng rút
ra trước thời hạn. Có ngân hàng thì tính lãi cho khách hàng với lãi suất không kỳ
hạn, có ngân hàng vẫn tính với lãi suất đó với số ngày gửi thực tế
2.3.2. Tạo vốn qua phát hành công cụ nợ
Vốn phát hành của ngân hàng, đây là hình thức huy động vốn thông qua
phát hành kỳ phiếu, trái phiếu… Đó là các công cụ nợ của ngân hàng.
Đặc điểm của loại vốn này là lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm.
Mục đích huy động dùng để đáp ứng cho các dự án đầu tư lớn. Nguồn vốn này
được huy động theo nhiều thời hạn khác nhau như ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.
Thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Hiện nay ở Việt nam các NHTM thường
huy động nguồn vốn này dưới hình thức phát hành kỳ phiếu có mục đích và trái
phiếu trung, dài hạn.
• Phát hành kỳ phiếu có mục đích
Khi các NHTM có nguồn vốn tài chính dồi dào để tài trợ cho các nguồn
vốn có qui mô lớn, nhằm phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế hoặc liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế mà các nguồn vốn tự có chưa
đáp ứng được, NHTM trình Ngân hàng Nhà nước xin phép phát hành kỳ phiếu để
tạo nguồn vốn tín dụng tương đối lâu dài cho các hoạt động này.
Như vậy kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy tờ nhận nợ ngắn hạn do

ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân cư một cách linh hoạt tạo
nguồn vốn trung dài hạn để đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế.
• Phát hành trái phiếu
14
Trái phiếu ngân hàng thực chất là giấy nhận nợ có kỳ hạn của ngân hàng
đối với những người mua trái phiếu (nhà đầu tư). Trái phiếu được các NHTM
hay các tổ chức tín dụng phát hành nhằm huy động vốn cho chính bản thân ngân
hàng hoặc các tổ chức tín dụng có liên quan. Thời hạn của trái phiếu thường lớn
hơn một năm. Lãi suất của trái phiếu thường cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết
kiệm, kỳ phiếu. Các NHTM phát hành trái phiếu trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn
thông qua các dự án đầu tư của các doanh nghiệp mà ngân hàng cam kết cho vay.
Huy động vốn thông qua việc phát hành các công cụ nợ của các NHTM
như kỳ phiếu, trái phiếu là một hình thức mới trong công tác huy động vốn của
NHTM ở cá nước đang phát triển. Vốn được huy động từ hình thức này dùng để
đầu tư cho các dự án trung và dài hạn.
Đây là hình thức huy động vốn có hiệu quả khá cao của các ngân hàng
thương mại. Trong qúa trình hoạt động, ở những thời điểm nhất định, ngân hàng
thấy cần phải huy động thêm vốn trước những cơ hội kinh doanh đầy hấp dẫn.
Điều đó có nghĩa là ngân hàng huy động vốn ở thế chủ động, có nghĩa là có đầu
ra mới tính đầu vào. Ngân hàng xác định rõ quy mô vốn huy động, loại tiền huy
động và đưa ra các mức chi phí hợp lý làm cho việc tạo vốn của ngân hàng thành
công nhanh chóng. Để vay trên thị trường, ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu
và trái phiếu.
2.3.3. Vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác và Ngân hàng Trung Ương
• Vay từ các tổ chức tín dụng
Khi các NHTM có sự mất cân đối giữa nguồn vốn huy động và sử dụng
vốn, xảy ra hiện tượng thiếu vốn đột xuất.
Để đảm bảo khả năng thanh toán của mình, các tổ chức tín dụng vay vốn
của nhau qua thị trường liên ngân hàng. Thị trường này giúp cho NHTM bổ sung
nguồn vốn cho nhau, nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt vốn trong thanh toán.

Hoạt động của thị trường này nhằm tận dụng đến mức cao nhất các khả năng sẵn
có một cách triệt để của các tổ chức tín dụng, trước khi có nhu cầu vay vốn của
Ngân hàng Trung Ương.
Việc thực hiện quan hệ tín dụng giữa các NHTM phải được tiến hành theo
nguyên tắc đi vay cho vay và phải được thoả thuận trên cơ sở hợp đồng tín dụng,
vốn vay phải đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố (tiền mặt tại quĩ và các chứng từ có
giá trị), hay NHTM đi vay có thể xin ngân hàng Nhà nước bảo lãnh để vay vốn
các ngân hàng khác. Các ngân hàng đi vay phải chấp hành đầy đủ các quy chế dự
trữ bắt buộc và an toàn vốn, phải có tài khoản tiền gửi thanh toán hoạt động
thường xuyên tại NHTW.
15
• Vay từ Ngân hàng Trung Ương
Khi ngân hàng thương mại xảy ra tình trạng thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay
mất khả năng thanh toán thì người cuối cùng mà các ngân hàng có thể cầu cứu là
Ngân hàng Trung Ương. Ngân hàng Trung Ương cho vay dưới hình thức tái chiết
khấu thương phiếu. Các ngân hàng thương mại có thể mang các thương phiếu lên
Ngân hàng Trung Ương để vay. Tuy nhiên việc vay này cũng có một số khó khăn
do Ngân hàng Trung Ương chỉ cho ngân hàng thương mại một hạn mức tái chiết
khấu và việc cho vay này lại nằm trong định hướng của chính sách tài chính quốc
gia Việc Ngân hàng Trung Ương cho các NHTM vay đã làm tăng khả năng
thanh toán cho các NHTM. Nếu như thiếu nguồn vốn này thì sẽ xuất hiện các
cuộc khủng hoảng tài chính khi các NHTM mất khả năng thanh toán.
Các nguồn vốn đi vay từ các tổ chức tín dụng khác, từ Ngân hàng Trung
Ương để đảm bảo khả năng thanh toán trong những trường hợp cần thiết. Cho
nên thời hạn vay thường ngắn, lãi suất thường cao hơn các hình thức huy động
vốn khác của NHTM.
2.3.4. Tạo vốn từ nguồn vốn khác
Ngoài các nguồn vốn huy động trên các NHTM cũng có thể khai thác
nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, đây là nguồn vốn lớn, có thời hạn
tương đối dài từ 5 đến 50 năm với lãi suất tương đối ưu đãi. Khi các NHTM nhận

các nguồn vốn này thường có các điều kiện kèm theo rất chặt chẽ và việc cấp
phát phải đúng nội dung chương trình của các dự án tài trợ. Các nguồn vốn này
có đóng gỏp rất quan trọng vào công cuộc đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước và NHTM phải tăng cường mở rộng các
mối quan hệ hợp tác quốc tế, từ đó tranh thủ và tiếp nhận các nguồn vốn này.
Trên đây là các hình thức huy động vốn chủ yếu của NHTM, tuy nhiên
chất lượng, hiệu quả của hoạt động huy động vốn chịu ảnh hưởng tác động rất
nhiều yếu tố, từ các yếu tố mang tính chất vĩ mô, đến các yếu tố mang tính chât
vi mô của nền kinh tế, cũng như các yếu tố liên quan tới chính NHTM.
3. Nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động huy động vốn
3.1. Nhân tố khách quan
3.1.1. Môi trường pháp lý
Nghiệp vụ huy động vốn của các NHTM chịu sự điều chỉnh rất lớn của môi
trường pháp lý. Các hoạt động của ngân hàng luôn được Nhà nước quản lý chặt chẽ
bằng các văn bản pháp quy. Mỗi văn bản đều có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động
của Ngân hàng, cụ thể là hoạt động huy động vốn.
16
Có những Bộ Luật tác động trực tiếp mà chúng ta thường thấy như: Luật
các TCTD, Luật NHNN Những Luật này qui định tỉ lệ huy động vốn của ngân
hàng so với vốn tự có, qui định về việc gửi và sử dụng tài khoản tiền gửi Có
những Bộ Luật tác động gián tiếp đến hoạt động ngân hàng như Luật đầu tư nước
ngoài hoặc các NHTM không được nhận tiền gửi hoặc cho vay bằng cách tăng
giảm lãi suất, mà phải dựa vào lãi suất do NHNN đưa ra và chỉ được xê dịch
trong biên độ nhất định mà NHNN cho phép
Bên cạnh những bộ luật đó thì chính sách tài chính tiền tệ của một quốc
gia cũng ảnh hưởng rất lớn tới nghiệp vụ tạo vốn của NHTM. Thể hiện ở mục
tiêu của chính sách tiền tệ, chẳng hạn khi nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà nước có
chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài
xã hội thì lúc đó NHTM huy động vốn dễ dàng hơn. Bất cứ ngân hàng thương
mại nào khi cần huy động vốn đều phải xem xét các quy định của luật pháp.

Như vậy, môi trường pháp lí là nhân tố khách quan có tác động rất lớn tới
quá trình huy động vốn của NHTM.
3.1.2. Môi trường kinh tế xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước cũng có tác động không
nhỏ đến quá trình huy động vốn của ngân hàng. Khi nền kinh tế tăng trưởng hay
suy thoái thì nó đều ảnh hưởng tới nghiệp vụ tạo vốn của NHTM. Mọi biến động
của nền kinh tế bao giờ cũng được biểu hiện rõ trong việc tăng, giảm nguồn vốn
huy động từ bên ngoài của ngân hàng. Nền kinh tế tăng trưởng, sản xuất phát
triển, từ đó tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn, do đó tạo môi trường cho việc thu
hút vốn của NHTM thuận lợi. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát
tăng, người dân không gửi tiền vào ngân hàng mà giữ tiền để mua hàng hoá, việc
thu hút vốn gặp khó khăn. Sự ổn định chính trị cả trong và ngoài nước có tác
động rất rõ. Các cuộc bãi công, biểu tình, sụp đổ chính phủ luôn kéo theo tình
trạng huy động vốn của ngân hàng bị trì trệ bởi người dân không còn tin tưởng.
Có thể nói đây là yếu tố khách quan đối với tất cả các ngành nghề kinh tế, không
riêng gì ngân hàng. Ngược lại, sự đồng tâm, nhất trí, ổn định trong bộ máy lãnh
đạo sẽ làm cho các ngân hàng thương mại huy động vốn được dễ dàng.
3.1.3. Tâm lí khách hàng
Khách hàng của ngân hàng bao gồm những người có vốn gửi tại ngân
hàng và những đối tượng sử dụng vốn đó. Ở khoản mục tiền gửi tiết kiệm có hai
yếu tố quan trọng tác động vào là thu nhập và tâm lý của người gửi tiền. Thu
nhập ảnh hưởng đến nguồn vốn tiềm tàng mà ngân hàng có thể huy động trong
tương lai. Còn yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến sự biến động ra vào của các nguồn
17
tiền. Sự tin tưởng vào tương lai của khách hàng có tác dụng làm ổn định lượng
tiền gửi vào, rút ra và ngược lại nếu niềm tin của khách hàng về đồng tiền trong
tương lai sẽ mất giá gây ra hiện tượng rút tiền hàng loạt sẽ gây ra sự phá sản các
ngân hàng. Và mức độ thường xuyên của việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng
càng cao, ngân hàng càng có điều kiện mở rộng việc huy động vốn.
Tập quán tiêu dùng của người dân có tầm ảnh hưởng rất quan trọng đối

với việc huy động vốn của ngân hàng. Tại những vùng, người dân thường có thói
quen gửi tiền vào ngân hàng thì ngân hàng sẽ huy động được dễ dàng hơn nhiều
ở những vùng người dân thường hay cất trữ tiền trong nhà bằng vàng, bất động
sản Đồng thời ngay thói quen thanh toán khi mua hàng hoá cũng góp phần làm
tăng hay giảm nguồn vốn huy động của ngân hàng. Ở nhiều nước phát triển, việc
thanh toán không dùng tiền mặt là phổ biến, hầu như người dân nào cũng có tài
khoản trong ngân hàng và ngân hàng là cái gì đó không thể thiêú trong cuộc
sống. Ngược lại, ở một số nước, thói quen thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn ăn
sâu thì nguồn vốn huy động của ngân hàng sẽ gặp khó khăn. Các tập quán tiêu
dùng này khó có thể được thay đổi ngay một sớm một chiều. Do đó để mở rộng
nguồn huy động, các ngân hàng phải nỗ lực hết mình: cải cách quy trình, thủ tục,
phát triển chính sách khách hàng
3.2. Nhân tố chủ quan
3.2.1. Chính sách lãi suất cạnh tranh
Việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau đã
trở nên cực kỳ quan trọng trong việc thu hút các khoản tiền gửi mới và duy trì
tiền gửi hiện có. Một chính sách lãi suất cạnh tranh sẽ giúp cho ngân hàng huy
động được nhiều vốn hơn. Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, thì những
khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiền tiết kiệm và
nhà đầu tư chuyển vốn từ ngân hàng này sang ngân hàng khác hay từ công cụ
này sang công cụ khác. Mức lãi suất cụ thể giữa các ngân hàng sẽ giúp cho khách
hàng so sánh được chi phí cơ hội của việc gửi tiền giữa các ngân hàng từ đó đưa
ra quyết định. Trong điều kiện hiện nay với sự giới hạn của trần lãi suất huy
động, sự khó khăn của nền kinh tế, mức lãi suất này giữa các ngân hàng là như
nhau, chính vì thế các ngân hàng tích cực sử dụng các chính sách khuyến mại ưu
đãi, quà tặng để thúc đẩy ham muốn gửi tiền của khách hàng.
3.2.2. Chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung ứng
Một ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên có lợi thế hơn so các
ngân hàng có các dịch vụ hạn chế. Bởi lẽ khách hàng mà ngân hàng phục vụ,
không những quan tâm đến lãi suất mà còn quan tâm đến chất lượng và loại hình

18
dich vụ mà ngân hàng cung ứng. Với cùng một lãi suất huy động như nhau, ngân
hàng nào cải tiến chất lượng dịch vụ tốt hơn, tạo sự thuận tiện hơn cho khách
hàng thì sức cạnh tranh sẽ cao hơn.
Chất lượng dịch vụ ngân hàng được thể hiện rõ nét ở các mặt như: công
nghệ ngân hàng, sự đa dạng của các hình thức huy động vốn, hay sự chuyên
nghiệp của nhân viên ngân hàng cũng như điều kiện cơ sở vật chất của ngân
hàng. Công nghệ ngân hàng ngày càng tiên tiến, hệ thống tin học ngày càng hiện
đại, đã giúp ngân hàng có thể thu thập thông tin về khách hàng, về thị trường tốt.
Từ đó, có thể hoạch định ra các hình thức huy động, thời gian huy động, hình
thức trả lãi Ngoài ra con giúp khách hàng thuận tiện hơn trong các giao dịch
với phía ngân hàng. Khi cung cấp bất kì một sản phẩm nào đến khách hàng, nếu
số lượng càng nhiều khách hàng càng có nhiều lựa chọn và điều này sẽ làm hài
lòng khách hàng. Sự chuyên nghiệp của nhân viên ngân hàng mang lại sự tin
tưởng tuyệt đối và sự gắn bó của khách hàng và ngân hàng. Sự chuyên nghiệp
này thể hiện qua việc thực hiện nhanh chóng và chính xác các nghiệp vụ ngân
hàng với thái độ coi khách hàng là thượng đế. Bên cạnh đó cơ sở vật chất cũng sẽ
tác động tới cảm giác của khách hàng, tăng lòng tin vào ngân hàng. Trong điều
kiện thiếu bãi đậu xe như hiện nay, ngân hàng có bãi đậu xe rộng rãi chính là một
lợi thế hoặc có giao dịch mặt đường trên các phố chính, có hệ thống rút tiền tự
động làm việc ngày đêm, có cán bộ giao dịch niềm nở, có trách nhiệm, tạo được
niềm tin cho khách hàng cũng là lợi thế đáng quan tâm của các NHTM. Khác về
cạnh tranh, về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng không giới hạn, do vậy
đây chính là điểm mạnh để các ngân hàng giành thắng lợi trong cạnh tranh.
3.2.3. Tên tuổi, thâm niên hoạt động và uy tín của ngân hàng
Đối với các khách hàng khi cần giao dịch với một ngân hàng thì bao giờ
họ cũng dành phần ưu ái đối với một ngân hàng có thâm niên hơn là một ngân
hàng mới thành lập. Bởi vì, theo họ thì một ngân hàng thâm niên là một ngân
hàng có uy tín, vững vàng trong nghiệp vụ, có nguồn vốn và có khả năng thanh
toán cao. Do vậy, mức độ thâm niên về một khía cạnh nào đó cũng tạo ra được

lòng tin đối với khách hàng. Hầu hết các ngân hàng có thâm niên lâu đời đều tạo
được một vị thế nhất đinh và một uy tín nhất định trong lòng khách hàng. Thực tế
mà nói thì những ngân hàng hoạt động càng lâu sẽ càng có nhiều kinh nghiệm
phục vụ và lôi kéo khách hàng về phía mình nên tên tuổi và uy tín của họ rất cao.
Đây là một lợi thế cần triệt để khai thác.
3.2.4. Chính sách marketing, quảng cáo
19
Trong thời đại ngày nay, quảng cáo là một điều tất yếu. Không một ai có
thể phủ nhận được vai trò to lớn của chính sách quảng cáo. Nếu không quảng cáo
thì làm sao khách hàng tìm đến ngân hàng để được phục vụ, làm sao biết đựơc
những chương trình ưu đãi tri ân khách hàng của phía ngân hàng. Mặt khác tâm
lý người dân Việt Nam đó là cứ cái gì mình nhìn nhiều nghe nhiều nhắc đến
nhiều thì cái đó tốt, mà tốt thì nên sử dụng. Trong hoạt động ngân hàng hiện đại,
quảng cáo luôn được đề cao và cần phải có một chi phí nhất định cho công tác
này. Tuy nhiên cái mà ngân hàng thu lại rất lớn, một chiến lược quảng cáo đặc
biệt không chỉ trên truyền hình mà nên dùng cả Pano, áp phích, tờ rơi sẽ tạo một
hình ảnh đẹp trong lòng khách hàng tạo sự hào hứng tin tưởng hơn cho khách
hàng.
20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN THƯƠNG TÍN-CHI
NHÁNH LONG BIÊN
1. Khái quát về ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín- Chi nhánh Long
Biên
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Được thành lập ngày 18/7/2006, Sacombank-Long Biên là một phần trong
kế hoạch mở rộng mạng lưới Chi nhánh của NHTM cổ phần Sacombank khu vực
Hà Nội nói riêng và các tỉnh phía Bắc nói chung. Chi nhánh Long Biên được đặt
tại trung tâm phía Đông của thành phố với tốc độ tăng trưởng kinh tế khu vực
luôn ở mức cao. Mục tiêu hoạt động của Chi nhánh bao gồm nâng cao mạng lưới

hoạt động, mở thêm các phòng giao dịch trong khu vực, nâng cao số trạm
ATM…, không ngừng nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm với mục đích
thu hút khách hàng. Chi nhánh cũng cam kết hoạt động theo đúng khuôn khổ luật
pháp, thực hiện đầy đủ trách nhiệm xã hội của mình. Mục tiêu chung của Chi
nhánh Long Biên cũng như tất cả các Chi nhánh của Sacombank trên toàn quốc
là hướng tới việc đưa Sacombank trở thành một trong các ngân hàng hàng đầu tại
khu vực.
Tính đến nay với vai trò là Chi nhánh cấp một Sacombank Long Biên đã
quản lý một hệ thống nhân viên gồm 97 người phân đều về các phòng ban của
Chi nhánh và các phòng giao dịch. Với 4 phòng giao dịch Nguyễn Văn Cừ, Ngô
Gia Tự, Yên Viên, Đông Anh, Chi nhánh Sacombank Long Biên đang ngày một
khẳng định vị thế của mình tại địa bàn quận Long Biên nói riêng và Hà Nội nói
chung.
Về ngành nghề kinh doanh Sacombank Long Biên tham gia các hoạt động
huy động vốn, cho vay, thanh toán quốc tế, giao dịch vàng, các nghiệp vụ ngân
hàng… được quy định trong điều lệ hoạt động của Sacombank đồng thời nằm
trong khuôn khổ mà luật pháp Việt Nam cho phép.
21
1.2. Cơ cấu tổ chức Chi nhánh Long Biên
• Bộ máy lãnh đạo của Chi nhánh
Bảng 2.1: Bộ máy lãnh đạo của Chi nhánh Long Biên
Chức vụ Họ và tên
Giám đốc Chi nhánh Bùi Tú Ngọc
Phó Giám Đốc Nguyễn Thị Bích Diệp
Trưởng phòng doanh nghiệp Nguyễn Thị Mai Oanh
Trưởng phòng hỗ trợ kinh doanh Nguyễn Thị Bích Diệp
Trưởng phòng kế toán hành chính Vũ Thị Thu Hiền
Trưởng phòng cá nhân Nguyễn Thị Mai Oanh
Trưởng phòng xử lý giao dịch Thái Thành Tú
(Nguồn: Phòng kế toán hành chính Chi nhánh Sacombank Long Biên)

1.3. Kết quả một số hoạt động của Sacombank Chi nhánh Long Biên trong vài
năm gần đây
Trong những năm gần đây, Sacombank Long Biên luôn là một trong
những đơn bị có thành tích xuất sắc nhất trong hệ thống Sacombank cả nước.
Mọi chỉ thị từ các cấp lãnh đạo Ngân hàng Sacombank cũng như của Ngân hàng
Nhà nước được toàn Chi nhánh thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Điều đó góp
phần mang lại sự ổn định trong toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Giai đoạn từ
năm 2009- 2011 là giai đoạn khó khăn của nền kinh tế nước nhà, cũng là khó
khăn chung của nghành ngân hàng cả nước khi mà hàng loạt các Doanh nghiệp
trong nước phá sản. Nhận thức và lường trước được những khó khăn đó
Sacombank Long Biên nói riêng và Sacombank Viêt Nam nói chung đã có những
bước đi rất thận trọng, được thể hiện rõ qua đánh giá của NHNN. Ba năm liên tục
Sacombank được xếp hạng là ngân hàng Nhóm I. Tỷ lệ nợ xấu của Sacombank
Long Biên năm 2011 duy trì ở mức 1,6%, đây là một con số ao ước của nhiều
ngân hàng trong bối cảnh nền kinh tế khá ảm đạm. Dưới đây là một số hoạt động
của Chi nhánh trong giai đoạn này.
• Về nguồn vốn huy động
22
Bảng 2.2: Tổng vốn huy động đựơc của Chi nhánh trong các năm gần đây.
Đơn vị: Triệu đồng
Năm Tổng vốn huy động được
2011 1.310.720
2010 1.491.010
2009 981.217
(Nguồn: Phòng kế toán hành chính Chi nhánh Sacombank Long Biên)
Từ bảng trên ta thấy nguuồn vốn huy động được của Chi nhánh tăng đáng
kể qua các năm. Năm 2010 tăng 51,95% và 2011 tăng 33,58% so với năm 2009.
Đây là những con số đáng khích lệ. Ta cũng nhận thấy lượng vốn huy động của
năm 2011 ít hơn của năm 2010 là 12,09%. Điều này cũng khá dễ hiểu khi mà
lòng tin của người dân vào sự tăng trưởng của nền kinh tế năm 2011 thấp hơn

nhiều so với năm 2010.
Để đạt được tốc dộ tăng trưởng nguồn vốn trên, cùng với chính sách lãi
suất chủ động, linh hoạt, Chi nhánh Sacombank Long biên luôn phối hợp hài hòa
với nhiều yếu tố tích cực như: hình thức huy động linh hoạt, hấp dẫn, lãi suất tiền
gửi hợp lý cho từng đối tượng khách hàng. Hàng loạt chương trình khuyến mãi
dành cho các khách hàng gửi tiền tại Sacombank ra đời. Đơn cử như các chương
trình “Nhận quà ngay quay trúng lớn” khách hàng có cơ hội nhận được những
phần qua hấp dẫn như nỗi, xong, chảo,… và còn được tham gia vào rút thăm
trúng thưởng số tiền lên tới 2 tỷ VND. Hay như chương trình “Tiết kiệm phù
đổng” dành cho đối tượng khách hàng là các bé từ 0 đến 15 tuổi. Đây là một
chương trình mang đầy tính nhân văn khi mà ngân hàng góp phần cùng với phụ
huynh giáo dục cho bé về bài học tiết kiệm vừa để lại trong lòng khách hàng một
dấu ấn khó quên. Và kết quả của chương trình này đó là hàng ngàn phụ huynh
học sinh từ các trường mẫu giáo, tiểu học, trung học tham gia mở tài khoản. Bên
cạnh các chương trình khuyến mãi Sacombank Long Biên còn đẩy mạnh việc
cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiện ích song song việc đổi mới phong
cách giao tiếp văn minh, tận tình, chu đáo. Chi nhánh đã tổ chức ra chiến dịch
mang tên “ Bão táp Sa mạc”. Chiến dịch nhằm khuyếch trương hình ảnh của
Sacombank trong lòng khách hàng, đưa Sacombank vào từng ngõ nghách, từng
gia đình. Với chiến dịch trên khách hàng sẽ được làm thẻ thanh toán tận nơi và
mức phí chỉ bằng 50% mức phí thường niên. Chính vì thế nguồn vốn huy động
tại Chi nhánh Sacombank Long Biên luôn chiếm 2% trên tổng nguồn vốn huy
động toàn hệ thống Sacombank, có thời điểm số dư tiền gửi đã lên tới 2000 tỷ
đồng. Với thành tích vượt trội như vậy Sacombank Long Biên đã đáp ứng kịp
thời, đầy đủ nhu cầu vay vốn và thanh toán của mọi đối tượng khách hàng và
23

×