Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Chuyển Giao Công Nghệ
Tên đề tài: Hoạt động chuyển giao công nghệ vào Việt Nam
trong ngành công nghiệp ôtô
Thành viên:
Phạm Ngọc Lương
Đoàn Thu Hương
Lê Thanh Phượng
Vũ Thu Trang
Phương Quỳnh Nga.
Nhóm XT Lớp Anh 2, Kinh Doanh Quốc Tế K444
Trang 1
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Chuyển Giao Công Nghệ
Lời nói đầu
Công nghiệp ô tô là một ngành công nghiệp khổng lồ mang tính toàn cầu.
Hàng năm, khu vực công nghiệp này chế tạo khoảng 50 triệu xe với giá trị
khoảng 600 tỷ USD. Mỹ, Nhật và Tây Âu là các trung tâm lớn chế tạo và tiêu thụ
ôtô nhiều nhất. Công nghiệp ôtô là nguồn động lực cho sự phát triển của các
ngành công nghiệp liên quan khác như cao su, luyện kim, chế tạo máy thuỷ tinh
và các chất dẻo, xăng dầu, điện, điện tử. Cứ một đồng vốn bỏ vào công nghệ ôtô
thì phải đầu tư tám đồng vốn cho các ngành công nghiệp phụ cận. Nó là cơ sở để
nâng cao mức sống, mức tiện nghi của con người, đồng thời cũng tạo việc làm
cho hàng chục triệu người trên thế giới. Cùng với các trung tâm công nghiệp ôtô
lớn trên thế giới. Châu Á, Nam Mỹ và một số nước Châu Phí là các khu vực đang
phát triển lắp ráp ôtô và tiêu thụ với mức gia tăng lớn, trong đó nhiều nước
ASEAN đã có những mẫu xe mới của mình.
Do yêu cầu giải phóng, bảo vệ và xây dựng đất nước, ôtô đã được sử dụng
ở Việt Nam khá sớm và có nhu cầu ngày càng mạnh. Những năm gần đây, Việt
Nam đã tự sản xuất và cung cấp được khá nhiều loại xe sử dụng trong nước,
giảm số lượng xe nhập khẩu, tiết kiệm cho Nhà nước một lượng ngoại tệ đáng kể.
Tuy nhiên, mục tiêu chính mà Việt Nam đặt ra không phải chỉ cung cấp một
lượng xe cho thị trường hay tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước mà là xây dựng một
ngành công nghiệp ôtô độc lập. Muốn thực hiện được mục tiêu này, Việt Nam cần
mở cửa thị trường ôtô nội địa cho các nhà đầu tư nhằm vào các mục đích sau:
- Thu hút vốn.
- Nhận chuyển giao công nghệ
- Tiếp thu phương thức sản xuất mới
- Tạo việc làm.
Trang 2
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Chuyển Giao Công Nghệ
Ở giai đoạn hiện nay, cả 4 mục tiêu trên đều rất quan trọng với Việt Nam,
nhưng nếu xét về lâu về dài và tính toán cả lợi ích của ngành công nghiệp ôtô thì
mục tiêu công nghệ có ý nghĩa hàng đầu.
Với mục đích nghiên cứu tình hình và tìm giải pháp cho hoạt động chuyên
giao công nghệ trong ngành công nghiệp ôtô Việt Nam, em xin chọn đề tài:
"Hoạt động chuyển giao công nghệ vào Việt Nam trong ngành công nghiệp
ôtô".
Do kiến thức còn nhiều hạn chế nên tiểu luận không tránh khỏi những
thiếu sót, em rất mong có được sự góp ý của các thầy cô giáo. Em xin chân thành
cảm ơn.
Trang 3
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Chuyển Giao Công Nghệ
CHƯƠNG I. VAI TRÒ CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP ÔTÔ
VÀ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ.
Năm 1820 ở Đức, lần đầu tiên người ta nhìn thấy một chếc xe chuyển
động được bằng động cơ hơi nước. Chiếc xe vừa to, thô kệch, lại phun ra nhiều
khói bụi và người ta đã không thể sử dụng được nó. Cho đến năm 1885, chiếc
ôtô chạy bằng động cơ xăng đầu tiên ra đời do một người Đức có tên là Kal
Vesh phát minh. Chiếc ôtô chạy bằng động cơ xăng này đã thực sự trở thành
phương tiện mang tính chất thực dụng tuy nó bị coi là không thể sánh được với
những cỗ xe ngựa sang trọng thời đó. Gần 10 năm sau, năm 1892, tại một cuộc
triển lãm ở Chicagô (Mỹ) đã xuất hiện một chiếc ôtô chạy bằng động cơ đốt
trong, có bốn bánh, có hàng loạt tính năng ký thuật mới như hệ thống đánh lửa
bằng điện, bộ bơm dầu tự động,... và chạy được với vận tốc 20km/h. Phát minh
này của ông Ia-cốp-lép, một kỹ sư cơ khí quân đội Nga và nó đã được thử
nghiệm thành công. Ngay sau đó, Nga Hoàng đã ban sắc lệnh về quy chế và các
điều kiện để sử dụng các loai xe có động cơ tự vận hành ở nước Nga. Điều này
có nghĩa là xe ôtô, bằng hiệu quả thực tế của nó, đã trở thành loại phương tiện
của giai cấp độc quyền và những người giàu có. Song giá của mỗi chiếc xe lúc
đó rất cao nên việc sử dụng nó chưa được phổ biến. Sản xuất ra nhiều xe hơi với
chất lượng cao và giá thành hạ là mục tiêu của các nhà sản xuất ôtô thời kỳ đó.
Đến nay, hơn một trăm năm đã trôi qua, sản xuất ôtô đã trở thành một trong
những ngành công nghiệp chủ yếu của thế giới. Hàng năm, khu vực công nghiệp
này đã chế tạo và tiêu thụ ôtô nhiều nhất. Ngành công nghiệp này tạo cơ sở để
nâng cao mức sống, mức tiện nghi của con người, đồng thời cũng tạo việc làm
cho hàng chục tỉệu người trên thế giới. Chẳng hạn như ở Mỹ, sản phẩm của nền
công nghiệp ôtô chiếm 4,5% tồng sản phẩm quốc dân và tạo 1,4 triệu chỗ làm
cho nhân trong 4.400 nhà máy chế tạo ôtô.
Công nghiệp ôtô là ngành công nghiệp tổng hợp mà việc xây dựng và
phát triển ngành này không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu thị trường trong nước về
phương tiện giao thông vận tải mà còn tạo ra một ngành công nghiệp then chốt
Trang 4
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Chuyển Giao Công Nghệ
của nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ: cứ
một đồng vốn bỏ vào công nghiệp ôtô thì phải đầu tư tám đồng vốn cho các
ngành công nghiệp phụ cận. Một xe du lịch hiện đại thì có trên 13.000 chi tiết.
Các thống kê cho thấy ngành công nghiệp ôtô tiêu thụ 77% cao su thiên nhiên,
50% cao su tổng hợp, 67% thì <40% máy công cụ, 25% thủy tinh, 64% gang rèn
và 20% các vật liệu bán dẫn (các linh kiện điện tử trong ô tô con đã chiếm giá trị
tới 900 USD, cao hơn giá trị của thép ôtô), các vật liệu nhẹ sử dụng trog công
nghiệp ôtô ngày càng tăng do con người ngày càng yêu cầu cao đối với độ bền
đẹp, hiện đại và tiện nghi của ôtô. Hàng năm, ở Nhật có 4,5 - 5 triệu ôtô bị thải
loại không sử dụng được, trong đó 75% phế liệu là có thể tái chế
Ôtô là sản phẩm hàng tiêu dùng, vừa là phương tiện sản xuất, có giá trị
cao nhất trong đời sống xã hội của con người (chỉ sau các bất động sản) và được
sản xuất với số lượng lớn. Trong tương lai, khi nhu cầu sản lượng tới vài trăm
ngàn xe ôtô một năm thì ngành công nghiệp ôtô cùng các ngành sản xuất phụ
tùng sẽ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước.
Chính vì vậy, công nghiệp ôtô tuy chỉ là ngành sản xuất phương tiện giao
thông, nhưng sự phát triển của nó lại thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành
khác, nên công nghiệp ôtô sẽ cung cấp việc làm trên diện rộng và sự tăng trưởng
cao cho cấu trúc công nghiệp, góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một chương trình do đại hội 8 của Đảng
Cộng sản Việt Nam đề ra nhằm đưa nước ta từ nước kinh tế nông nghiệp là
chính chuyển sang nước có nền công nghiệp hiện đại trong vòng 20 năm tới.
Hiện nay, các nước công nghiệp tiên tiến (G8), các nước công nghiệp mới
(Nics) đều phát triển công nghiệp ô tô của mình với quy mô khác nhau. Hàn
Quốc là nước gần đây phát triển thành công ngành công nghiệp ôtô. Họ cần 27
năm để xây dựng ngành công nghiệp ôtô đứng trong "TOP 10" của thế giới.
Đất nước Việt Nam với diện tích 331211,6 và dân số hiện nay là hơn 85
triệu người, có tỷ lệ tăng dân số gần 2%. Nếu chúng ta giảm được tỷ lệ tăng dân
số xuống còn 1,5% thì sau 20 năm nữa, dân số Việt Nam sẽ là khoảng 95 triệu
Trang 5
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Chuyển Giao Công Nghệ
người. Còn với mức tăng dân số như hiện nay, sau 20 năm nữa, dân số Việt Nam
sẽ là khoảng trên 100 triệu người. Một quốc gia công nghiệp với dân số trên 100
triệu người thì không thể không có công nghiệp ôtô riêng của mình.
Hiện nay, các nước thành viên ASEAN (trừ Singapore do dân số nhỏ bé)
đều đã xây dựng ngành công nghiệp ôtô của riêng mình. Và theo dự tính, trong
tương lai ASEAN sẽ phát triển thành một trung tâm công nghiệp ôtô của thế kỷ
21 sau Nhật, Mỹ và Tây Âu.
Bởi vậy, để tránh tụt hậu thì Việt Nam cũng sẽ phải xây dựng và phát
triển công nghiệp ôtô của mình thành một ngành công nghiệp trọng yếu, góp
phần thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước và nhanh chóng hội
nhập với khu vực và thế giới.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG
NGHỆ TRONG NGÀNH CÔNG NGHIỆP ÔTÔ VIỆT NAM
I. Chính sách phát triển trong ngành công nghiệp ôtô Việt Nam.
1. Định hướng phát triển trong ngành công nghiệp ôtô Việt Nam.
Nghiên cứu và tìm hiểu quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp ôtô
của các nước phát triển trên thế giới, ta thấy công nghiệp ôtô của các nước phát
triển với tốc độ khác nhau, có nhiều mô hình quản lý khác nhau. Như xét về
bước đi và phân chia giai đoạn của các nước sau:
Các bước phát triểncủa công nghiệp ôtô các nước ASEAN và châu Á
Bước 1
Những năm 60
Bước 2
Những năm 70
Bước 3
Những năm 80
Bước 4
Những năm 90
Phát triển công
nghiệp lắp ráp
ôtô trong nước
Bắt đầu sản
xuất chi tiết và
bộ phận ở trong
nước
Đẩy mạnh sản
xuất các chi
tiết và bộ phận
trong nước
Coi trọng tự do
cạnh tranh và thị
trường tự do
Trang 6
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Chuyển Giao Công Nghệ
Giai đoạn của chính sách bảo hộ và phát triển Giai đoạn
khuyến khích tự
do cạnh tranh
Nguồn: Quy hoạch ngành ôtô Việt Nam đến năm 2010 (Tài liệu Bộ Thương
mại).
Để tiến nhanh và vững chắc, Việt Nam đã chọn một mô hình quản lý của
riêng mình: nhập công nghệ tiên tiến của các nước công nghiệp phát triển, hạn
chế số lượng nhà sản xuất, duy trì sự cạnh tranh nhưng có bảo hộ cho ngành
công nghiệp non trẻ này bằng các biện pháp thuế và phi thuế. Đặc biệt, chính
sách nội địa hoá là một trong những công cụ chủ yếu để thúc đẩy và phát triển
công nghiệp ôtô, đồng thời là một biện pháp nhằm cụ thể hoá chiến lược của
ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đến năm 2010.
Mục tiêu chung của chính sách nội địa hoá này là xây dựng một ngành
công nghiệp ôtô tiên tiến và hoàn chỉnh để Việt Nam có thể từng bước thoả mãn
nhu cầu trog nước về các loại ôtô, xuất khẩu phụ tùng, tiến tới xuất khẩu ôtô
nguyên chiếc. Chiến lược phát triển ngành Công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm
2010, tầm nhìn tới năm 2020 đã xác định, Việt Nam phải có ngành công nghiệp
ô tô vào năm 2020 với những hãng sản xuất thật sự của Việt Nam.
Thực tế, khi nhìn lại sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô từ khoảng
hơn một thập niên trở lại đây. Từ khi các doanh nghiệp và liên doanh ô tô bắt
đầu được thành lập vào đầu những năm 1990, ta thấy rằng, xuất phát điểm của
ngành công nghiệp ô tô nước ta là con số không; vì vậy nước ta đã có nhiều
chính sách bảo hộ cho ngành công nghiệp non trẻ này trong đó biểu hiện rõ nhất
là công nghiệp ô tô được bảo hộ về thuế. Và chính sách đó được lưu giữ cho đến
ngày hôm nay khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường. Chính sách bảo hộ
của nước ta rất đúng đắn, phù hợp với bất kỳ ngành sản xuất nào đang trong thời
kỳ non trẻ. Nhưng khi đã chuyển sang cơ chế thị trường đặc biệt là thị trường
toàn cầu với xu thế cạnh tranh lành mạnh, chính sách bảo hộ ngành công nghiệp
ô tô gần như không còn phù hợp. Ngành công nghiệp ô tô trong giai đoạn hiện
Trang 7
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Chuyển Giao Công Nghệ
nay phải tự bản thân nổ lực mới có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Người
tiêu dùng trong nước vẫn chưa mặn mà lắm với ô tô trong nước mà vẫn chuộng
xe nhập khẩu nguyên chiếc từ nước ngoài. Đây là rào cản rất lớn đối với các
doanh nghiệp lắp ráp xe trong nước thậm chí đối với các đơn vị liên doanh.
Trước thực tế ngành Công nghiệp ô tô nước ta không hoàn thành mục
tiêu, các sản phẩm ô tô mới chỉ dừng lại ở hạng mục lắp ráp, giá xe vẫn cao hàng
đầu thế giới, người tiêu dùng không bằng lòng với thái độ của các hãng xe. Sau
khi gia nhập WTO các ngành kinh tế nội địa hoá khó để đứng vững Nhiều
chuyên gia cho rằng, định hướng mới cho ngành công nghiệp ô tô là rất cần thiết
để cải thiện thực trạng hiện nay. Theo đó, nhiều ý kiến đồng tình với việc phải
để ngành công nghiệp ô tô “tự bơi” bằng chính thực lực của mình. Cụ thể, các
hãng xe nội địa phải cạnh tranh trực tiếp với xe nhập khẩu. Bộ Tài Chính và Bộ
Công Thương cần phải có sự liên thông, vừa giảm thuế nhập khấu xe nguyên
chiếc vừa giảm thuế nhập khẩu các linh kiện, thiết bị, phụ tùng để đầy nhanh lộ
trình gia nhập WTO như cam kết. Tuy nhiên, trước đà giảm dần thuế nhập khẩu
xe nguyên chiếc, các hãng xe lắp ráp trong nước chỉ còn phương án làm công tác
tiếp thị, bán hàng, chăm sóc, khách hàng phù hợp. Có như vậy, công nghiệp ô tô
trong nước mới có cơ hội được người tiêu dùng biết đến và quan tâm. Điều quan
trọng nhất là ngành công nghiệp ô tô trong nước cần có những nỗ lực hơn để
không chỉ dừng lại ở mức đơn thuần là chỉ nhập khẩu linh kiện và đưa về lắp ráp
trong nước nữa mà phải sản xuất được ô tô đúng theo tiêu chuẩn. Khi đó ngành
công nghiệp ô tô sẽ chiếm được thị phần lớn hơn.
2. Những nguyên tắc cơ bản của chính sách nội địa hoá.
Chính sách nội địa hoá được áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp thành
lập theo pháp luật Việt Nam, trên lãnh thổ Việt Nam, hoạt động trong các lĩnh
vực:
- Chế tạo ôtô (bao gồm cả lắp ráp).
- Chế tạo phụ tùng ôtô
- Xuất nhập khẩu , kinh doanh ôtô và phụ tùng phục vụ cho nội địa hoá
Trang 8
Trường ĐH Ngoại Thương Tiểu luận Chuyển Giao Công Nghệ
Để nhanh chóng xây dựng và phát triển công nghiệp ôtô, Việt Nam cần
phải nhanh chóng nội địa hoá các phụ tùng ôtô từ đơn giản đến phức tạp, tức là
phải tự sản xuất được trong nước các phụ tùng ôtô cơ bản với tỷ lệ ngày càng
cao. Chính sách nội địa hoá được thực hiện dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nhà nước chỉ đạo và kiểm soát ngành công nghiệp ô tô nhằm thúc đẩy
sự phát triển theo đúng mục tiêu đã đề ra cho từng giai đoạn.
- Sản xuất ôtô và phụ tùng ôtô theo quy mô lớn, mở rộng hợp tác, hội
nhập thị trường khu vực và quốc tế.
- Phát triển tối đa sản xuất trong nước, đồng thời phải đảm bảo chất lượng
và hiệu quả kinh tế, trong đó, lấy chất lượng là mục tiêu hàng đầu. Ưu tiên cho
việc khai thác năng lực sản xuất sẵn có trong nước.
Nhà nước đưa ra các điều kiện để công nhận là sản xuất ôtô ở Việt Nam:
+ Là nhà sản xuất ôtô đích thực (có nghĩa là nhà sản xuất ôtô gốc nước
ngoài, không mang danh các hãng ôtô khác).
+ Có năng lực về tài chính, công nghệ và đổi mới sản phẩm.
+ Có kế hoạch nội địa hoá và cam kết thực hiện nội địa hoá
+ Tuân thủ pháp luật của Việt Nam và quốc tế.
- Nhà nước bảo hộ ngành công nghiệp ôtô Việt Nam phát triển theo
hướng tự điều tiết, đầu tư tập trung, có trọng điểm, tiến tới hình thành các tập
đoàn mạnh, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
- Không cho phép các dự án đầu tư dưới hình thức 100% vốn đầu tư của
nước ngoài trong ngành công nghiệp ôtô.
- Khuyến khích chuyển giao, áp dụng các công nghệ mới, công nghệ cao,
không chấp nhận công nghệ và mẫu sản phẩm lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.
- Khuyến khích các biện pháp tiết kiệm nhiên liệu và giảm ô nhiễm. Sau
năm 2000, các loại xe tải, xe chở khách >15 chỗ ngồi đều phải sử dụng động cơ
diezel.
- Sản xuất phụ tùng là cốt lõi của các chương trình nội địa hoá, do đó
được ưu tiên đầu tư nhanh để đạt mức nội địa hoá cao, đặc biệt là tập trung vào
Trang 9