Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

một số giải pháp thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng tại sở giao dịch ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 56 trang )

MỤC LỤC
1. Tổng quan về Sở Giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam 20
1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch Vietcombank 24
1.3.1. Các hoạt động cơ bản 24
1.3.2. Kết quả hoạt động kinh doanh 25
2.1.5. Cho vay kinh doanh tài lộc 31
2.1.6. Cho vay cấm cố chứng khoán niêm yết 32
2.1.8. Cho vay thấu chi tài khoản cá nhân 33
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
TMCP : Thương mại cổ phần
VCB : Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
Sở Giao dịch Vietcombank : Sở Giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
CBCNV : Cán bộ công nhân viên
ATM : Máy rút tiền tự động
HĐTD : Hợp đồng tín dụng
TSBĐ : Tài sản bảo đảm
SMEs : Phòng Doanh nghiệp nhỏ và vừa
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1 : Các phòng/tổ của Sở Giao dịch Vietcombank
Bảng 2 : Hoạt động huy động vốn của Sở Giao dịch Vietcombank
Bảng 3 : Dư nợ cho vay của Sở Giao dịch Vietcombank
Bảng 4 : Cơ cấu cho vay tiêu dùng của Sở Giao dịch Vietcombank
Bảng 5 : Cơ cấu tỷ trọng cho vay tiêu dùng tại Sở Giao dịch Vietcombank
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, năng suất sản xuất cao đã tạo
ra lượng hàng hóa phong phú và đa dạng, đời sống của người dân ngày càng nâng cao,
tiến đến cuộc sống thoải mái hơn về vật chất lẫn tinh thần. Ngoài những nhu cầu thiết
yếu như ăn, ở, mặc thì nhu cầu cuộc sống được nâng cao hơn, như nhà đẹp tiện nghi,
xe cộ hiện đại, du lịch, du học nước ngoài… Tuy nhiên, với mức thu nhập như hiện


nay, phần lớn người tiêu dùng không thể chi trả cho tất cả các nhu cầu mua sắm cùng
lúc, nhưng nếu chờ cho đến khi có đủ nguồn tài chính để tài trợ cho những nhu cầu
tiêu dùng này thì sẽ bỏ lỡ những cơ hội khác hoặc họ phải chắt chiu dành dụm trong
nhiều năm mới có đủ và khi co đủ tiền thì nhu cầu lại thay đổi hoặc thị trường không
tồn tại loại sản phẩm đó, đặc biệt là những vật dụng đắt tiền, dẫn đến nhu cầu vay
mượn để tiêu dùng tăng lên. Vì vậy cho vay tiêu dùng xuất hiện là “vị cứu tinh” cho
những người tiêu dùng muốn thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng ngay mà không phải chờ đợi
lâu. Điều này đã tạo ra thị trường cho vay tiêu dùng đối với các ngân hàng thương mại
ngày càng có tính cạnh tranh cao. Đây là một hướng đi không mới ở các nước phát
triển nhưng lại khá mới mẻ ở Việt Nam bởi người dân nước ta vẫn có thói quen suy
nghĩ rằng ngân hàng là nơi phục vụ cho các doanh nghiệp, là một kênh đầu tư tiền
nhàn rỗi. Do vậy, thị trường cho vay tiêu dùng còn khá sơ khai và chưa được nhiều
ngân hàng khai thác.
Sau một thời gian thực tập, tìm tòi và học hỏi tại Sở Giao dịch Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam, em nhận thấy hoạt động cho vay tiêu dùng khá phát
triển và đem lại lợi thế cho Ngân hàng trong thị trường tài chính tiền tệ, em đã tiến
hành tìm hiểu và nghiên cứu các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hoạt động cho vay
tiêu dùng, do đó em đã lựa chọn đề tài “Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động cho vay
tiêu dùng tại Sở Giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam”
Nội dung đề tài bao gồm ba chương:
Chương 1: Lý thuyết chung về cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Sở Giao dịch Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng tại Sở Giao
dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
Để hoàn thiện đề tài này, em đã nhận được sự giúp đỡ vô cùng nhiệt tình và
quý báu của thầy giáo PGS.TS Lê Đức Lữ. Bên cạnh đó, trong thời gian thực tập,
em cũng được sự giúp đỡ tận tình của các anh chị ở Sở Giao dịch Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự chỉ bảo của các thầy

cô và anh chị trong Ngân hàng.
CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1. Khái quát về hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm cho vay
“Cho vay là việc Ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định”
Qua khái niệm trên cho thấy Ngân hàng chỉ nhượng lại quyền sử dụng vốn cho
người đi vay trong một thời hạn nhất định. Do người đi vay không có quyền sở hữu số
vốn ấy nên phải hoàn trả lại cho người cho vay khi đến thời hạn đã thỏa thuận. Việc
hoàn trả này không chỉ là sự bảo tồn về mặt giá trị mà vốn tín dụng còn được tăng
thêm dưới hình thức lợi tức. Ở đây, quá trình vận động mang tính chất hoàn trả của
cho vay là biểu hiện đặc trưng nhất sự khác biệt giữa quan hệ vay mượn trong các
hoạt động của ngân hàng và các mối quan hệ kinh tế khác.
1.2. Các nguyên tắc của hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
Hoạt động cho vay của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm
đảm bảo tính tan toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hóa trong
các qui định của Ngân hàng Nhà nước và các NHTM
Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả vốn và lãi với thời gian xác định. Các
khoản cho vay của Ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách
hàng và các khoản Ngân hàng vay mượn, như vậy Ngân hàng phải có trách nhiệm
hoàn trả cả gốc lẫn lãi như đã cam kết. Do vậy, Ngân hàng luôn yêu cầu người nhận
tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này về các nguồn tiền cho vay lại. Đây là điều
kiện để Ngân hàng tồn tại và phát triển.
Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thỏa thuận với
ngân hàng, không trái các qui định của pháp luật và các qui định khác của Ngân hàng
cấp trên. Luật pháp qui định phạm vi hoạt động cho các ngân hàng. Bên cạnh đó mỗi
Ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi
trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái luật

pháp và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh hoạt động của ngân hàng.
Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả. Thực hiện
nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án hoạt động có
hiệu quả của người vay chứng minh cho khả năng trả năng thu hồi được vốn đầu tư
và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của Ngân hàng phải gắn liền với việc
hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng
đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay.
1.3. Các hình thức cho vay của Ngân hàng thương mại
Các khoản cho vay có thể được phân loại bằng nhiều cách theo các tiêu chí
khác nhau, bao gồm mục đích, tài sản đảm bảo (nếu có), kỳ hạn, phương pháp hoàn
trả và nguồn gốc. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các
quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng.
1.3.1. Theo thời hạn cho vay
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi
tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn: Là các khoản vay có thời hạn từ một năm đến năm năm.
Cho vay trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến
hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án
mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố
định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thức vốn lưu động thường xuyên của các
doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
- Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên năm năm. Thời hạn cho vay
dài hạn còn phụ thuộc vào từng loại sản phẩm được áp dụng trong từng thời kỳ khác
nhau. Đây là loại hình được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng
nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
1.3.2. Theo mục đích vay
- Cho vay kinh doanh: là loại tín dụng cấp cho các nhà doanh nghiệp, các chủ
thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu động hàng hóa.
- Cho vay tiêu dùng: là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các cá

nhân như mua sắm nhà cửa, xe cộ…
1.3.3. Theo tài sản đảm bảo
- Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản cầm cố, thế chấp
hoặc bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân
khách hàng đó. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả tài
chính mạnh, quản trị hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của
bản thân mà không cần một nguồn thu nợ bổ sung thứ hai.
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp
hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Sự bảo đảm này là căn cứ
pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất
thiếu chắc chắn.
1.3.4. Theo đối tượng tham gia quy trình cho vay
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng
thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân
hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội nông dân, Hội cựu
chiến binh, Hội phụ nữ… Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo một mục
đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức
trung gian như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra bảo đảm
cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên
vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp.
Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào
của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền
sai mục đích.
1.3.5. Theo phương thức cho vay
- Cho vay từng lần: Cho vay từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến
của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có
điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu
và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất

đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai
đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
- Cho vay theo hạn mức: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa
thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ
hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu
vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ khách hàng có thể vay trả nhiều
lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng
quy định hạn mức cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến
cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không được
vượt quá hạn mức.
- Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và
trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
2. Cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại
2.1. Cơ sở thực tiễn hình thành cho vay tiêu dùng
Cho vay là một chức năng kinh tế quan trọng và là hoạt động cơ bản của các
NHTM. Tuy nhiên, từ xưa tới nay, các NHTM mới chỉ quan tâm đến cho vay các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa mà chưa thực sự chú ý tới nhu cầu vay
tiêu dùng của người dân.
Trong lịch sử, hầu hết các NHTM không tích cực cho vay đối với các cá nhân
và hộ gia đình bởi họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có qui mô rất
nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời
thấp. Đầu thế kỷ này, các Ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách
hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi, sự cạnh tranh khốc liệt
trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các Ngân hàng phải hướng tới người
tiêu dùng như là một khách hàng trung thành tiềm năng. Hiện nay, tín dụng tiêu dùng
đã trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất và
người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của NHTM và tạo ra một trong số
những nguồn thu quan trọng nhất.

Cuộc sống ngày càng phát triển, nhu cầu vay tiêu dùng gia tăng mạnh mẽ gắn
liền với nhu cầu về hàng tiêu dùng lâu bền như nhà, xe, đồ gỗ sang trọng, nhu cầu du
lịch… đối với lực lượng kỹ thuật rộng lớn. Nếu ta lập một bảng thống kê những nhu
cầu của một đời người thì đó là một con số vô hạn, đó là những nhu cầu từ đơn giản
như được ăn, mặc, học hành đến những nhu cầu phức tạp hơn như du lịch, vui chơi
giải trí, nhu cầu được tộn trọng… Tuy nhiên, để nhu cầu được đáp ứng đúng lúc, đúng
thời điểm không phải lúc nào cũng dễ dàng thực hiện được bởi nó còn phụ thuộc vào
một nhân tố rất quan trọng, đó là khả năng thanh toán. Đôi khi chỉ vì không có khả
năng thanh toán muốn có một chiếc xe máy để mua sắm thì nhu cầu đi lại bằng xe
máy lại không nhiều nữa, hoặc như chúng ta cần tiền để đầu tư đi học, khi ra trường ta
có thể dễ dàng tìm việc và kiếm tiền. Nhưng hiện tại ta lại không có tiền thì ước mơ
được đi học hay có việc làm tốt cũng bay xa. Vậy tại sao chúng ta lại không thể có
được xe máy, chiếc nhà mới để ở hay là đi học trước khi chúng ta có thể có đủ tiền
trong tương lai.
Đây thực sự là một vấn đề quan trọng, làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn giữa
nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán này. Trên thực tế có hai cách giải quyết:
+ Cách thứ nhất là mua bán chịu: tuy nhiên cách này chỉ có lợi đối với người
mua, còn bất lợi đối với người bán. Người mua sẽ được sử dụng hàng hóa trước khi có
đủ số tiền cần thiết, nhưng người bán sẽ thu hồi vốn chậm hoặc thậm chí bị người mua
quỵt tiền. Khi cần tiền để nhập hàng hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh thì đến lượt
người bán dễ rơi vào tình trạng thiếu phương tiện thanh toán. Vì vậy, cách mua bán
chịu không phổ biến và khả thi, lại gặp nhiều rủi ro.
+ Cách thứ hai là người mua đi vay tiền: họ sẽ cảm giác là đã đủ phương tiện
thanh toán. Cách này vừa thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng và nhà sản xuất cũng
bán được hàng.
Như vậy, cần đến một tổ chức thức ba hỗ trợ cả người mua và người bán để họ
luôn luôn có phương tiện thanh toán đối với các nhu cầu của họ. Không một tổ chức
nào đảm nhiệm được vị trí này tốt bằng các trung gian tài chính, mà quan trọng nhất là
các NHTM.
Ngân hàng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng cũng là cách để Ngân hàng

gia tăng lợi nhuận, đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh khốc liệt ngày nay. Nhiều
hãng lớn khi thiếu vốn đã không tìm đến ngân hàng để vay tiền mà thay vì đó họ tự tài
trợ chủ yếu bằng phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Thêm vào đó nhiều Công ty tài
chính hoặc giữa các ngân hàng cạnh tranh với nhau trong cho vay làm cho thị phần
cho vay các doanh nghiệp của ngân hàng bị giảm sút buộc ngân hàng phải mở rộng thị
trường cho vay tiêu dùng, hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung
thành tiềm năng. Ngân hàng cho vay tiêu dùng một mặt tăng thu nhập cho bản thân
ngân hàng, mặt khác tạo ra uy tín cho ngân hàng.
Một lý do khác góp phần vào sự hình thành cho vay tiêu dùng đó là đặc điểm
luân chuyển hàng hóa tiêu dùng. Ngân hàng cho vay đối với doanh nghiệp và cá nhân
là một mảng hoạt động quan trọng của ngân hàng. Quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hóa nếu như không có tiêu dùng thì tất yếu sẽ bị tắc nghẽn, hàng hóa không
tiêu thụ được dẫn tới doanh nghiệp bị ứ đọng vốn và đương nhiên quá trình sản xuất
không thể tiếp tục. Vai trò của ngân hàng lúc này trở lên quan trọng hơn bao giờ hết.
Ngân hàng cho người tiêu dùng vay vốn đã tạo ra khả năng thanh toán cho họ trước
khi họ tích lũy đủ số tiền cần thiết. Khách hàng có tiền sẽ tìm đến doanh nghiệp mua
hàng và doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hóa. Từ đó doanh nghiệp có tiền sẽ trả được
nợ cho ngân hàng. Khi đã tiêu thụ được hàng hóa, doanh nghiệp sẽ mở rộng sản xuất
và sẽ tìm tới ngân hàng để tiếp tục vay vốn. Như vậy, ngân hàng cho vay tiêu dùng sẽ
có lợi cho cả ba bên: người tiêu dùng, doanh nghiệp và ngân hàng.
Người tiêu dùng có thu nhập đều đặn (tiền công) để trả nợ ngân hàng. Một số
tầng lớp người tiêu dùng có thu nhập khá hoặc cao, thu nhập tương đối ổn định. Vay
tiêu dùng giúp họ nâng cao mức sống, tăng khả năng được đào tạo… giúp họ nhiều cơ
hội tìm kiếm công việc có mức thu nhập cao hơn.
Trong cuộc sống hàng ngày càng hiện đại, vay tiêu dùng đã trở nên cần thiết
hơn bao giờ hết và sự hình thành cho vay tiêu dùng đã trở thành điều tất yếu.
2.2. Khái niệm cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ cho mục đích chi tiêu của cá nhân hộ gia
đình. Cho vay đối với người tiêu dùng được thực hiện để tài trợ cho chính sự tiêu
dùng, và có thể so sánh với khoản cho vay được thực hiện với mục đích sản xuất hoặc

để mua các sản phẩm nhằm tạo ra nguồn vốn, như cổ phiếu và trái phiếu. Các khoản
cho vay tiêu dùng giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hóa và dịch vụ, trước khi
họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có thể hưởng mức sống cao hơn. Những khoản cho
vay như thế được dành nhiều vào nhiều mục đích, bao gồm việc mua xe hơi, các dụng
cụ trong gia đình, đồ gỗ, các dịch vụ y tế, chi phí cho các dịp hè…Mặc dù kỳ hạn của
các khoản cho vay tiêu dùng khác nhau, chúng thường có kỳ hạn dưới 5 năm. Với sự
gia tăng về lợi tức và chi phí tiêu dùng, do NHTM cung cấp đã và đang phát triển
nhanh chóng.
2.3. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
2.3.1. Đối tượng của các khoản cho vay tiêu dùng
Đó là các cá nhân, hộ gia đình. Nhu cầu vay của cá nhân phụ thuộc vào tình
hình tài chính của họ. Đối với cá nhân có mức thu nhập thấp, nhu cầu tín dụng thường
không cao, nó chỉ xuất hiện nhằm thoả mãn nhu cầu gia đình tạo sự cân đối giữa thu
nhập và chi tiêu. Đối với cá nhân có mức thu nhập trung bình, nhu cầu tín dụng phát
triển mạnh do ý muốn vay mượn để mua hàng tiêu dùng lớn hơn khoản tiền dự phòng
của mình. Đối với những người có thu nhập cao, nhu cầu tín dụng tiêu dùng nảy sinh
nhằm tăng thêm khả năng thanh toán hoặc một khoản tài trợ rất linh hoạt trong chi
tiêu khi mà nguòn vốn của họ đã nằm trong tài khoản đầu tư.
2.3.2.Nhu cầu cho vay tiêu dùng của khách hàng phụ thuộc vào chu kì kinh tế
Nhu cầu cho vay tiêu dùng không chỉ phụ thuộc vào tình hình tài chính mà còn
phụ thuộc vào tình hình kinh tế ở những giai đoạn cụ thể. Khi nền kinh tế phát triển,
người dân cảm thấy lạc quan vào tương lai, đặc biệt họ kì vọng vào thu nhập được
nâng cao. Khi đó họ tăng nhu cầu hưởng thụ và các khoản vay tiêu dùng có xu hướng
tăng thêm. Khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng: Nhiều cá nhân hộ gia đình không tin
tưởng vào tương lai đồng nghĩa với tình trạng thất nghiệp tăng lên tất yếu họ sẽ hạn
chế tiêu dùng ở thời điểm hiện tại.
2.3.3. Chi phí cho vay tiêu dùng cao
Khoản cho vay tiêu dùng thường không lớn trong khi ngân hàng tốn rất nhiều
thời gian và nhân lực để điều tra thu thập thông tin của chủ thể vay tiền. Bên cạnh đó
Ngân hàng phải quản lí các khoản cho vay nhỏ lẻ nhưng khối lượng là rất lớn. Do đó

chi phí cho vay tiêu dùng lãi suất thường lớn hơn cho vay thương mại.
2.3.4. Người tiêu dùng kém nhạy bén với lãi suất
Người tiêu dùng thường quan tâm đến khoản lãi phải trả hàng tháng hơn là lãi
suất ghi trên hợp đồng. Lãi suất không phải là yếu tố quan trọng mà các nhân hộ gia
đình quan tâm khi quyết định vay nhiều hay ít. Yếu tố được coi là quan trọng hơn đó
là mức thu nhập và trình độ dân trí. Cụ thể những người có mức thu nhập cao thường
có xu hướng vay nhiều hơn mức thu nhập hàng tháng hay đối với những người có
trình độ dân trí cao, việc vay mượn là một công cụ để đạt được mức sống như mong
muốn chứ không phải chỉ là một sự lựa chọn chi dùng trong trường hợp khẩn cấp.
2.3.5. Nguồn trả nợ của khách hàng
Nếu khoản vay đối với kinh doanh có nguồn trả nợ là kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh thì đối với các khoản vay tiêu dùng đó là khoản thu nhập của khách hàng.
2.3.6. Mục đích vay
Phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình ví dụ như: mua, xây
dựng, sửa chữa nhà; mua sắm vật dụng gia đình
2.3.7. Rủi ro cao
Lãi suất áp dụng cho các khoản vay tiêu dùng là lãi suất “Cứng nhắc” trong khi
các khoản cho vay kinh doanh hiện nay thường áp dụng lãi suất thay đổi theo điều
kiện thị trường. Do đó một sự tăng lên trong chi phí huy động vốn Ngân hàng cũng sẽ
gặp rủi ro lãi suất.
Chủ quan: Khách hàng không có thiện chí trả nợ cho ngân hàng, cung cấp
thông tin không trung thực, không chính xác
Khách quan: Nguồn trả nợ đối với các khoản vay tiêu dùng phụ thuộc vào thu
nhập của người đi vay. Nếu người đi vay bị chết, ốn, mất việc, Ngân hàng sẽ khó
thu hồi được nợ.
2.3.8. Lãi suất cao
Do chi phí và rủi ro của các khoản vay tiêu dùng lớn do đó hầu hết các ngân
hàng thường đặt ra lãi suất áp dụng đối với cho vay tiêu dùng cao. Bao gồm cả phần
bù đắp rủi ro đến mức mà chi phí và tỉ lệ tổn thất phải tăng lên dáng kể thì các khoản
tín dụng tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận.

Lãi suất cho vay tiêu dùng = Chi phí huy động vốn + chi phí huy động khác +
Rủi ro tổn thất dự kién + Phần bù kì hạn đối với các khoản cho vay dài hạn +
Lợi nhuận cận biên.
2.4. Phân loại cho vay tiêu dùng
Trong tổng số khối lượng cho vay tiêu dùng do các NHTM cung cấp, hơn 80%
được thực hiện trên cơ sở trả góp. Phần còn lại, được xếp vào các khoản cho vay chi
trả một lần. Cả người cho vay lẫn người vay đều nhận thấy rằng, định kỳ trả nợ vào
mỗi tháng hoặc vào ngày trả lương thuận lợi hơn là thu hồi vốn và lãi trong một lần.
Theo các tiêu chí khác nhau, cho vay tiêu dùng được chia thành các nhóm khác nhau.
2.4.1. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
* Cho vay tiêu dùng trả góp
Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và
lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định có giá trị lớn hoặc và thu
nhập từng định kỳ của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ
vay. Đối với loại cho vay tiêu dùng này, ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề cơ
bản có tính nguyên tắc sau:
+ Loại tài sản được tài trợ
Ngân hàng thường chỉ muốn tài trợ cho những khoản vay mua sắm các đồ dùng
có giá trị và tính sử dụng lâu bền, với những tài sản như vậy, người tiêu dùng sẽ được
hưởng những tiện ích từ chúng trong một thời gian dài.
+ Số tiền phải trả trước
Thông thường ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một phần
giá trị tài sản cần mua sắm, số còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Điều này một phần giúp
ngân hàng hạn chế rủi ro, mặt khác tạo cho người đi vay có trách nhiệm hơn với tài
sản mình định mua bởi họ cũng đã đóng góp một phần số tiền của mình vào trong đó.
Khi khách hàng không trả được nợ, trong nhiều trường hợp ngân hàng sẽ phải phát
mãi tài sản để thu hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều bị giảm giá trị cho
nên số tiền trả trước có vai trò vô cùng quan trọng giúp ngân hàng hạn chế rủi ro.
Số tiền trả trước nhiều hay ít phụ thuộc:
- Loại tài sản: Đối với các loại tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả

trước nhiều và ngược lại, đối với các loại tài sản có mức độ giảm giá chậm thì số tiền
trả trước ít hơn.
- Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi sử dụng: yếu tố này rất quan trọng. Nếu đó là
tài sản thuộc loại dễ bán thì số tiền trả trước sẽ ít hơn loại tài sản khó bán sau khi sử dụng.
- Môi trường kinh tế
- Năng lực tài chính của người đi vay
+ Chi phí tài trợ
Chi phí tài trợ là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng trong việc sử
dụng vốn. Chi phí tài trợ chủ yếu là tiền lãi và một số khoản chi phí khác. Chi phí tài
trợ phải trang trải được chi phí vốn tài trợ, chi phí hoạt động, rủi ro và mang lại một
phần lợi nhuận thỏa đáng cho ngân hàng.
+ Điều khoản thanh toán
- Số tiền thanh toán mỗi định kỳ phù hợp về khả năng thu nhập, chi tiêu của
khách hàng.
- Giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn số tiền tài trợ chưa được thu hồi.
- Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng nhưng không nên
quá dài vì nếu quá dài, giá trị của tài sản tài trợ sẽ bị giảm mạnh và việc thu hồi nợ có
thể gặp rắc rối.
* Cho vay tiêu dùng không trả góp
Theo phương thức này, tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng
một lần khi đến hạn, áp dụng với các khoản vay có giá trị nhỏ, thời hạn ngắn.
* Cho vay tiêu dùng tuần hoàn.
Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử
dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại sec được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng
lai. Theo phương thức này, trong thời hạn được thỏa thuận trước, căn cứ vào nhu cầu
chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được Ngân hàng cho phép vay và
trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
2.4.2. Căn cứ vào mục đích vay
Căn cứ vào mục đích vay, ngân hàng sẽ xếp khoản vay đó là vay ô tô hay mua
nhà, chi phí học hành, mua sắm đồ dùng gia đình…

2.4.3. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ
* Cho vay tiêu dùng gián tiếp
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua
những khoản nợ phát sinh do những Công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa hay dịch vụ
cho người tiêu dùng.
Trong trường hợp này Công ty bán lẻ và Ngân hàng ký kết hợp đồng mua bán
nợ. Trong hợp đồng, ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng được bán
chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu. Sau đó Công ty bán lẻ và người
tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hóa. Thông thường người tiêu dùng
phải trả trước một phần giá trị tài sản. Công ty bán lẻ sẽ giao tài sản cho người tiêu
dùng và bán bộ chứng từ bán chịu hàng hóa cho ngân hàng. Ngân hàng dựa trên bộ
chứng từ đó sẽ thanh toán tiền cho vay công ty bán lẻ. Cuối cùng người tiêu dùng
thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.
Có một số ưu điểm sau:
- Cho phép ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng.
- Giảm được chi phí trong cho vay
- Mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động ngân hàng khác
- Vay vốn đúng mục đích
Có một số nhược điểm sau:
- Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu,
do đó thông tin về khách hàng đôi khi không chính xác, không tìm hiểu kỹ
được khách hàng có thể dẫn tới rủi ro cho ngân hàng.
- Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán
chịu hàng hóa.
- Kỹ thuật nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao.
* Cho vay tiêu dùng trực tiếp
Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho
khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người này.
So với cho vay tiêu dùng gián tiếp, cho vay tiêu dùng trực tiếp có những ưu
điểm sau:

- Cho vay tiêu dùng trực tiếp của ngân hàng thường có chất lượng cao hơn bưỏi
nó được quyết định bởi đội ngũ nhân viên tín dụng giàu kinh nghiệm và được đào tạo
chuyên môn tốt của ngân hàng chứ không phải là những nhân viên của công ty bán lẻ.
Nhân viên tín dụng ngân hàng có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra các khoản cho
vay có chất lượng tốt cho khi đó nhân viên của công ty bán lẻ thường chú trọng đến
việc bán cho được nhiều hàng nên dễ dẫn tới các quyết định tín dụng vội vàng và có
thể có nhiều khoản tín dụng được cấp ra không chính đáng.
- Cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn so với cho vay tiêu dùng gián tiếp,
ngân hàng tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên hiểu rõ khách hàng.
- Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với Ngân hàng, có rất nhiều lợi thế có
thể phát sinh, có khả năng làm thỏa mãn quyền lợi cho cả hai phía khách hàng lẫn
ngân hàng.
2.5. Lợi ích của cho vay tiêu dùng
2.5.1. Lợi ích của khách hàng:
Có rất nhiều lí do khác nhau để một cá nhân cần dịch vụ cho vay tiêu dùng của
Ngân hàng. Ví dụ như, bạn rất thích một chiếc xe Toyota Camry, có thể tài chính của
bạn đủ để mua chiếc xe đó nhưng bạn lại muốn dùng số tiền đó để đầu tư chứ không
phải thực hiện sở thích cá nhân, và bạn tìm đến Ngân hàng. Cho vay tiêu dùng sẽ giúp
bạn biến ước mơ sở hữu chiếc xe đó thành hiện thực. Hay như một cặp vợ chồng trẻ,
cùng làm việc trong các cơ quan có vốn đầu tư nước ngoài có mức thu nhập thường
xuyên vào khoảng 28 triệu đồng/tháng, thì không biết tích cóp bao giờ mới mua được
1 căn hộ khoảng 1 tỷ đồng, vì ngoài chi tiêu thường ngày thì còn phải trả tiền thuê nhà
tối thiểu là 2 triệu đồng một tháng. Cho vay tiêu dùng sẽ giúp cặp vợ chồng đó mua
được căn hộ trước khi đủ tiền…Mỗi người tìm đến Ngân hàng để vay tiêu dùng có
mục đích riêng và những lợi ích mà nó mang lại. Trong điều kiện chưa đủ năng lực tài
chính trong việc mua sắm sản phẩm có giá trị trả tiền ngay một lần, vay trả góp là một
trong những lựa chọn mà người tiêu dùng có thể nghĩ đến. Khách hàng sẽ có một
khoản tiền lớn ngay lúc cần thiết để chi tiêu (đặc biệt trong trường hợp chi tiền về y tế,
giáo dục…) và hoàn trả dần từ thu nhập trong tương lai.
Một trong những lợi ích có thể thấy là, người tiêu dùng vẫn có cơ hội sử dụng

sản phẩm trong khi vẫn còn một khoản dự phòng cho các chi tiêu khác.
Trong những trường hợp cần gấp thì lãi suất vay ngân hàng hợp lí hơn nhiều so
với việc khách hàng phải vay “nóng” từ bên ngoài.
Thời hạn cho vay và phuơng thức trả nợ linh hoạt căn cứ vào khả năng trả nợ
của khách hàng.
Nguời tiêu dùng có thu nhập đều đặn để trả nợ ngân hàng. Một số tầng lớp có
thu nhập khá hoặc cao, thu nhập tuơng đối ổn định.Vay tiêu dùng giúp họ nâng cao
mức sống, tăng khả năng đuợc đào tạo…giúp họ có nhiều cơ hội tìm kiếm công việc
có thu nhập cao hơn.
Điều kiện để có được khoản vay tiêu dùng cũng không quá phức tạp cho khách
hàng. Thị trường tín dụng tiêu dùng đang diễn ra cạnh tranh sôi động giữa các ngân
hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Các ngân hàng thuơng mại luôn tạo điều
kiện tốt để khách hàng tiếp cận dễ dàng vay tiêu dùng. Chỉ cần có đầy đủ giấy tờ pháp
lý chứng minh được rằng bạn đang làm việc chính thức và hưởng lương tại một doanh
nghiệp, một cơ quan, hay một tổ chức nào đó là có thể dễ dàng vay tiền cho mua sắm
đồ cưới, mua xe máy, trang bị đồ dùng đắt tiền trong nhà, thậm chí là mua xe hơi và
mua nhà đất gọi là tín dụng tín chấp. Những người không có bảng lương và quyết
định tuyển dụng, nhưng có tài sản đảm bảo thì có thể vay tiền cho con em đi du học,
cho người thân đi chữa bệnh hay đi du lịch ở nước ngoài. Trước thị trường tín dụng
tiêu dùng đầy tiềm năng này, tất cả các NHTM và định chế tài chính không phải là
ngân hàng cũng nhanh chóng nhảy vào cuộc chạy đua.
Các NH chạy đua cho vay tiêu dùng, khách hàng hưởng lợi với các sản phẩm
tiện ích như cho vay siêu tốc, đăng ký vay qua mạng Internet, lãi suất cho vay hấp
dẫn, kỳ hạn cho vay dài, cho vay tới 80% giá trị ngôi nhà hay xe ô tô
Các Ngân hàng và doanh nghiệp bắt tay với nhau trong việc cho vay tiêu dùng
khách hàng cũng được hưởng lợi, tạo điều kiện cho người tiêu dùng có thêm cơ hội
mua sắm.
2.5.2. Lợi ích của người sản xuất
Bất kì nhà sản xuất nào cuãng muốn tiêu thụ đuợc càng nhiều hàng hóa càng
tốt và họ luôn hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên, họ cũng gặp phải một thực

tế là không phải lúc nào khách hàng cũng có sẵn đủ tiền để trả cho họ. Đôi khi họ phải
chờ cho đến khi khách hàng tích lũy đủ tiền, nhưng cách này không tốt cho công việc
kinh doanh của họ. Rất nhiều các hãng sản xuất, các công ty bán lẻ đã chấp nhận bán
chịu cho khách hàng hoặc cho khách hàng mua hàng trả góp. Để có tiền quay vòng,
nhiều công ty bán lẻ đã kí hợp đồng với các ngân hàng để đuợc ngân hàng tài trợ. Sau
khi đã có thỏa thuận giữa các bên về phuơng thức tài trợ này, nhà sản xuất sẽ giao
hàng cho công ty bán lẻ, ngân hàng cấp tín tín dụng cho công ty bán lẻ để trả cho nhà
sản xuất. Khi công ty bán lẻ tiêu thụ đuợc hàng hóa sẽ thanh toán nợ cho ngân hàng.
Với cách làm như vậy , các hãng sản xuất và các công ty bán lẻ sẽ bán đuợc nhiều
hàng hóa, mở rộng qui mô sản xuất, quay vòng vốn nhanh và thu đuợc nhiều lợi
nhuận. Mặt khác, việc tiêu thụ nhanh chóng sản phẩm, hàng hóa còn giúp cho các
hãng sản xuất nâng cao khả năng cạnh tranh với các đối thủ trên thuơng trường. Có
thể nói cho vay tiêu dùng có tác dụng rất tích cực với nguời sản xuất.
2.5.3. Lợi ích của ngân hàng
Đối với ngân hàng ngoài những nhược điểm chính là rủi ro và chi phí cao, cho
vay tiêu dùng có những lợi ích sau:
- Cho vay tiêu dùng giúp tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng với các ngân
hàng và các tổ chức tín dụng khác, thu hút được đối tượng khách hàng mới, từ đó mà
mở rộng quan hệ với khách hàng. Bằng cách nâng cao và mở rộng mạng lưới, đa dạng
hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay tiêu dùng, số lượng khách hàng đến
với ngân hàng sẽ ngày càng nhiều hơn và hình cảnh của ngân hàng sẽ càng đẹp hơn
trong con mắt khách hàng. Trong ý nghĩ của công chúng, ngân hàng không chỉ là tổ
chức chỉ biết quan tâm đến các công ty và doanh nghiệp mà ngân hàng còn rất quan tâm
tới những nhu cầu nhỏ bé, cần thiết của người tiêu dùng, đáp ứng nguyện vọng cải thiện
cuộc sống của người tiêu dùng. Từ đó mà uy tín của ngân hàng tăng lên rất nhiều.
- Cho vay tiêu dùng cũng là một công cụ marketing rất hiệu quả, nhiều người
sẽ biết tới ngân hàng hơn. Ngân hàng cũng sẽ huy động được nhiều nguồn tiền gửi của
dân cư bởi dân cư sẽ gửi tiền nhiều vào ngân hàng khi họ thấy rằng mình có triển
vọng vay lại tiền từ chính ngân hàng đó.
- Tạo điều kiện mở rộng và đa dạng hóa kinh doanh, từ đó mà nâng cao thu

nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
2.5.4. Lợi ích kinh tế - xã hội:
Mở rộng các hoạt động tín dụng tiêu dùng không chỉ đem lại lợi ích về phía
ngân hàng, đem lại lợi ich cho bản than người tiêu dùng mà còn đem lại lợi ích cho cả
xã hội. Một nền kinh tế có mức cầu về hàng hóa tiêu dùng dân cư cao thể hiện đuợc sự
sung túc nó. Mức cầu đó chính là số luợng và mức độ của các nhu cầu có khả năng
thanh toán. Việc phát triển cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thuơng mại sẽ làm
tăng đáng kể những nhu cầu có khả năng thanh toán đó hay nói cách khác đây chính là
một giải pháp hữu hiệu để kích cầu và qua đó làm nền kinh tế trở nên năng động hơn.
Vậy ta có thể nói lên đuợc một số tác động tích cực của cho vay tiêu dùng đối với nên
kinh tế
Giúp cải thiện đời sống dân cư, góp phần giảm chi phí giao dịch xã hội thông
qua tiết kiệm chi phí và thời gian cho cả ngân hàng và nguời đi vay.
Là đòn bẩy kích thích nền sản xuất phát triển, tạo điều kiện thúc đẩy tăng
truởng kinh tế, góp phần thực hiện xóa đói giảm nghèo.
Cho vay tiêu dùng thủ tục tương đối đơn giản, nhanh gọn góp phần quan trọng
đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi.
Dịch vụ này với những tiện ích thanh toán không dùng tiền mặt cải thiện môi
truờng tiêu dùng nền văn minh thanh toán. Xét trên góc độ kinh tế vĩ mô, dịch vụ ngân
hàng bán lẻ đẩy nhanh quá trình luân chuyển tiền tệ, tân dụng tiềm năng lớn trong dân
cư để phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nguời dân, hạn chế dùng tiền mặt và tiết
kiệm chi phí về thời gian và tiền bạc cho xã hội.
2.6. Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng mở rộng cho vay tiêu dùng của
Ngân hàng thương mại
2.6.1. Các nhân tố chủ quan
* Năng lực về vốn của Ngân hàng
Năng lực về nguồn vốn của Ngân hàng có ảnh hưởng tới lượng cho vay tiêu
dùng. Ngân hàng có lượng vốn tự có cao hay thấp, có nhiều mạng lưới chi nhánh để
thuận tiện giao dịch với khách hàng hay không. Khi Ngân hàng có nguồn vốn lớn thì
khả năng mở rộng các hoạt động cho vay cũng tăng, cùng với đó cho vay tiêu dùng

được phát triển. Ngoài ra, uy tín của ngân hàng cao hay thấp cũng sẽ ảnh hưởng tới
lượng khách hàng đến giao dịch với ngân hàng.
* Năng lực thẩm định
Năng lực thẩm định của Ngân hàng phụ thuộc vào trinh độ của đồi ngũ cán bộ
tín dụng. Trình độ, thái độ của cán bộ tín dụng của ngân hàng cũng mang tính quyết
định thành công của cho vay tiêu dùng. Cán bộ tín dụng cần có trình độ chuyên môn
tốt thì mới thẩm định chính xác khách hàng và dự án vốn, từ đó đưa ra các quyết định
đúng đắn. Cán bộ tín dụng cũng cần có đạo đức nghề nghiệp, tận tâm với công việc,
nhiệt tình giúp đỡ, chi bảo khách hàng các thủ tục cần thiết, đồng thời cán bộ tín dụng
thường phải kiểm tra hồ sơ tín dụng của khách hàng thông qua Trung tâm tín dụng của
Ngân hàng Nhà nước.
* Công nghệ và khả năng quản lý của Ngân hàng
Công nghệ ngân hàng và khả năng quản lý có tác động tới hoạt động cho vay
tiêu dùng. Nếu ngân hàng có công nghệ hiện đại sẽ dấn tới việc giải quyết các thủ tục
được nhanh chóng, chính xác, giảm bớt các thủ tục rườm rà cho khách hàng và việc
quản lý hồ sơ khách hàng cũng được thuận tiện hơn. Bên cạnh vấn đề về công nghệ,
ngân hàng cần có các quy định, nội quy làm việc thưởng phạt nghiêm minh, quản lý
tốt để tạo động lực làm việc cho cán bộ nhân viên ngân hàng, tác động đến phong
cách làm việc của nhân viên.
* Chính sách lãi suất
Chính sách lãi suất là nhân tố tác động lớn đến khả năng mở rộng hoạt động
cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại. Với chi phí để thực hiện và điều hành
các khoản cho vay, các rủi ro liên quan, đặc tính của các khoản cho vay có vật thế
chấp, và kỳ hạn của hợp đồng cho vay tiêu dùng nên lãi suất cho vay tiêu dùng là một
trong những loại lãi suất cao nhất, trong tất cả các tổ chức cho vay. Hơn nữa, cho vay
tiêu dùng còn phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế. Vì vậy, chính sách lãi suất linh hoạt và
phù hợp với thu nhập hiện có của người dân, thích hợp với chu kỳ kinh tế sẽ giúp
Ngân hàng không ngừng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng.
Ngoài ra, khi vay tiền, người tiêu dùng dường như kém nhạy cảm với lãi suất.
Người tiêu dùng quan tâm đến số tiền họ phải trả hàng tháng hơn là lãi suất (mặc dù

chính lãi suất ghi trên hợp đồng ảnh hưởng đến qui mô số tiền trả). Do đó, lãi suất
không phải là một trong những nhân tố quan trọng mà khách hàng quan tâm khi tìm
đến sản phẩm cho vay tiêu dùng.
* Chính sách, qui định của Ngân hàng
Yếu tố góp phần nhỏ tới thành công của cho vay tiều dùng là các chính sách,
quy định của ngân hàng. Đó là chính sách chăm sóc khách hàng trước và sau khi cho
vay có chu đáo hay không, các quy định về thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ, tài sản
đảm bảo, phương thức giải ngân và thanh toán. Thủ tục xin vay vốn có phức tạp hay
đơn giản, thời gian thẩm định hồ sơ vay vốn kéo dài bao lâu, nếu thời gian thẩm định
quá dài thì khách hàng sẽ không muốn chờ đợi và tìm tới các ngân hàng khác.
Muốn hoạt động cho vay tiêu dùng được nhiều khách hàng biết tới thì ngân
hàng cần có chính sách marketing phù hợp. Ngân hàng cần tăng cường các hoạt động
thông tin quảng cáo trên báo đài, tờ rơi, quảng bá hình ảnh của các hoạt động thông
tin quảng cáo trên báo đài, tờ rơi, quảng bá hình ảnh của Ngân hàng nói chung cũng
như lợi ích, chính sách về cho vay tiêu dùng nói riêng.
Tất cả các nhân tố vi mô nói trên đều là những nhân tố thuộc về nội tại ngân
hàng có tác động tới cho vay tiêu dùng. Ngoài những nhân tố đó còn phải kể tới nhân
tố khách quan bên ngoài ngân hàng cũng ảnh hưởng tới cho vay tiêu dùng, đó là đạo
đức khách hàng cũng như rủi ra của hoạt động cho vay tiêu dùng. Nếu như khách
hàng là người có đạo đức tốt, ý thức trả nợ tốt, rủi ra cho vay tiêu dùng thấp thì sẽ
kích thích ngân hàng tiến hành mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng, các quy định
cho vay cũng sẽ không quá khắt khe. Ngược lại nếu khách hàng không trả nợ đều, nợ
quá hạn quá nhiều thì tất yếu sẽ kìm hãm hoạt động cho vay tiêu dùng.
2.6.2. Các nhân tố khách quan
* Tâm lý người tiêu dùng
Tâm lý người tiêu dùng là nhân tố quan trọng nhất tác ảnh hưởng đến khả năng
mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM. Các thói quen, phong tục tập quán,
tâm lý có ảnh hưởng tới nhu cầu vay tiêu dùng. Người dân Việt Nam thường có thói
quen tiết kiệm rồi khi tích lũy đủ tiền mới mua sắm, tiêu dùng, họ không nghĩ tới việc
đi vay, nợ nần để mua sắm cộng với tâm lý ngại tiếp xúc với ngân hàng, sợ các thủ tục

hành chính rườm ra. Chính vì thế nhu cầu vay của người dân còn thấp
* Mức thu nhập của người tiêu dùng
Mức thu nhập và sự ồn định trong thu nhập của người tiêu dùng là những thông
tin quan trọng đối với Ngân hàng trong việc phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng.
Những khách hàng có mức lương cơ bản và mức lương còn lại sau khi nộp thuế cao sẽ
khiến cho nhu cầu về cho vay tiêu dùng tăng, từ đó Ngân hàng phát triển các sản
phẩm cho vay tiêu dùng.
* Vị trí Địa lý
Tiếp đến cần phải kể tới đặc điểm thị trường nơi Ngân hàng hoạt động. Nơi đó
là thành thị hoặc nơi tập trung đông dân cư, có mức thu nhập khá, trình độ học vấn
cao thì nhu cầu vay tiêu dùng sẽ tăng cao hơn so với vùng nông thôn, hẻo lánh nơi mà
những người nông dân chỉ quanh năm ngày tháng biết tới ruộng vườn, thậm chí còn
không biết tới hoạt động của ngân hàng.
* Điều kiện kinh tế chính trị
Môi trường kinh tế chính trị có ảnh hưởng tới cho vay tiêu dùng. Nếu nền kinh
tế phát triển tốt, thu nhập bình quân đầu người cao và môi trường chính trị ổn định thì
hoạt động cho vay tiêu dùng cũng sẽ diễn ra thông suốt, phát triển vững chắc và hạn
chế những rắc rối có thể xảy ra. Nếu môi trường có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các
ngân hàng để giành giật khách hàng thì cho vay tiêu dùng của các ngân hàng cũng sẽ
gặp khó khăn.
* Các qui định pháp lý của Ngân hàng Nhà nước
Các quy định pháp lý của ngân hàng Nhà nước và chính phủ có thể khuyến
khích và cũng có thể hạn chế cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng. Đó là
các quy định như quy định của Ngân hàng nhà nước khống chế các ngân hàng thương
mại trong việc huy động theo tỷ lệ vốn tự có, quy định tỷ lệ cho vay tối đa đối với một
khách hàng trên vốn tự có…
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI
SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
1. Tổng quan về Sở Giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Sở Giao dịch Vietcombank
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (viết tắt là NHNT) được chính thức thành
lập ngày 01/04/1963 theo Quyết định số 115/CP do Hội đồng Chính phủ ban hàng trên
cơ sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Trung ương (nay là
Ngân hàng Nhà). Tại thời điểm này, NHNT đóng vai trò là ngân hàng chuyên doanh
đầu tiên và duy nhất của Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao
gồm cho vay tài trợ xuất nhập khẩu và các dịch vụ kinh tế đối ngoại khác (vận tải, bảo
hiểm …), thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, quản lý vốn ngoại tệ gửi tại các
ngân hàng nước ngoài, làm đại lý cho Chính phủ trong các quan hệ thanh toán, vay
nợ, viện trợ với các nước xã hội chủ nghĩa (cũ) … Bên cạnh đó, NHNT còn tham mưu
cho Ban lãnh đạo NHNN về các chính sách quản lý ngoại tệ, vàng bạc, quản lý quỹ
ngoại tệ của Nhà nước và về quan hệ với Ngân hàng Trung ương các nước, các Tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế.
Ngày 2/6/2008, theo Quyết định số 138/GP-NHNN ngày 23/5/2008 của Thống
đốc NHNN, NHNT chính thức chuyển đổi thành từ Ngân hàng thương mại Nhà nước
thành Ngân hàng thương mại cổ phần lấy tên là Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam, tên đầy đủ bằng tiếng Anh: Joint Stock Commercial Bank
for Foreign Trade of Vietnam (viết tắt là Vietcombank)
Năm 1991, Sở Giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam được
thành lập. Trong thời gian đầu thành lập, Sở Giao dịch là đơn vị phụ thuộc Hội sở
chính Vietcombank, thực hiện các hoạt động của Vietcombank và đóng vai trò đầu
mối thực thi chiến lược phát triển các sản phẩm, dịch vụ của Vietcombank, là cầu nối
cho Vietcombank với khách hàng của mình.
Ngày 20/1/2001, Vietcombank khai trương toà nhà Vietcombank Tower tại địa
chỉ số 198 Trần Quang Khải, Hà Nội. Hội sở chính và Sở Giao dịch được đặt tại Trụ
sở này.
Việc xác định chiến lược kinh doanh đồng thời đẩy nhanh quá trình cổ phần
hoá đi đôi với việc phát triển và chuyên môn hoá nghiệp vụ của các phòng ban trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng là yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ đối
với hệ thống các Ngân hàng quốc doanh trong đó có Vietcombank. Ngày 28/12/2005,

theo Quyết định số 1215/QĐ-NHNT.TCCB&ĐT của Hội đồng Quản trị Vietcombank
và tới ngày 01/01/2006, Sở Giao dịch được chính thức tách khỏi Hội Sở chính, hoạt
động như một chi nhánh, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng. Sở
Giao dịch trở thành một chi nhánh được thực hiện tất cả các nghiệp vụ ngân hàng của
Vietcombank, Sở Giao dịch cùng các chi nhánh trong toàn hệ thống trên cả nước sẽ
không ngừng xây dựng và phát triển, phục vụ tốt nhất các nhu cầu của khách hàng,
góp phần thiết thực vào sự phát triển nền kinh tế nước nhà.
Kể từ đây, toàn bộ giao dịch của các Tổng Công ty sẽ do Hội Sở chính quản lý,
còn giao dịch của tất cả các đối tượng khách hàng khác: doanh nghiệp, cá nhân sẽ do
Sở Giao dịch thực hiện.
Ngày 30/10/2008, Sở Giao dịch Vietcombank đã chính thức khai trương trụ sở
hoạt động mới tại địa chỉ 31-33 Ngô Quyền, phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm,
Hà Nội. Với trụ sở làm việc mới, Sở Giao dịch đã thêm một bước khẳng định sự độc
lập, tự chủ trong hoạt động của mình.
Bên cạnh hoạt động như một Chi nhánh Vietcombank với thị phần lớn trong
nhiều lĩnh vực tại Hà Nội, Sở Giao dịch còn là nơi tiên phong thực hiện các chủ
trương chính sách của Vietcombank, đi đầu trong việc thử nghiệm và triển khai các
sản phẩm mới cũng như thực hiện một số nghiệp vụ đặc thù khác. Sở Giao dịch luôn
là đơn vị dẫn đầu trong toàn hệ thống Vietcombank về quy mô huy động vốn, ngay cả
trong những thời điểm̀ công tác huy động vốn gặp nhiều khó khăn. Sở Giao dịch cũng
là một trong hai đơn vị có đóng góp lớn nhất cho lợi nhuận của Vietcombank.
Cùng với toàn bộ hệ thống Vietcombank, Sở Giao dịch thực hiện đa dạng hoá
và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ mới, đi đầu trong ngành ngân hàng như:
thẻ rút tiền tự động ATM, thẻ tín dụng quốc tế Vietcombank MasterCarrd, thẻ tín
dụng Vietcombank VISA, thẻ Amex; triển khai hệ thống dịch vụ Vietcombank Online
và hệ thống giao dịch tự động (Connect 24), dịch vụ thương mại điện tử
“Vietcombank Cyber Bill Payment” (V-CBP); chấp nhận giao dịch thẻ VISA, thẻ
MasterCard trên hệ thống giao dịch tự động VCB-ATM; thực hiện các nghiệp vụ như
quyền chọn (Option), bao thanh toán (Factoring), triển khai hoạt động bảo hiểm nhân
thọ qua ngân hàng …

Tính đến nay (tháng 7/2012), Sở Giao dịch đã thêm 17 phòng giao dịch tạo nên
một mạng lưới các Phòng Giao dịch trên khắp địa bàn thành phố Hà Nội. Với phương
châm không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm thoả mãn tốt nhất các nhu cầu
của quý khách hàng được thuận lợi hơn, Sở Giao dịch đã thực hiện giao dịch các buổi
trưa trong ngày làm việc từ 12h00 đến 13h00 các ngày từ thứ hai đến thứ sáu từ ngày
01/03/2010 tại các các Phòng Giao dịch; tại Phòng kinh doanh dịch vụ và Phòng
Khách hàng đặc biệt
1.2. Cơ cấu tổ chức tại Sở Giao dịch Vietcombank.
Sau gần 50 năm hoạt động trên thị trường, Vietcombank đã phát triển thành
một ngân hàng đa năng với mạng lưới chi nhánh rộng khắp trên nhiều địa bàn, lĩnh
vực, Vietcombank hiện có hơn 12.000 cán bộ nhân viên,, lập thêm 19 phòng giao
dịch, đưa tổng sốmạng lưới chi nhánh gồm: 01 Hội Sở chính, 01 Sở Giao dịch, 76 chi
nhánh và hơn 300 Phòng giao dịch trên toàn quốc. Hoạt động của Vietcombank còn
được hỗ trợ bởi mạng lưới giao dịch quốc tế lớn nhất trong số các ngân hàng Việt
Nam với trên 1300 ngân hàng đại lý tại 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó,
Vietcombank còn phát triển một hệ thống Autobank với hơn 23.500 máy ATM và
điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS) trên toàn quốc. Bằng trí tuệ và tâm huyết, các
thế hệ cán bộ nhân viên Vietcombank nói chung và của Sở Giao dịch nói riêng đã,
đang và sẽ luôn nỗ lực để xây dựng Vietcombank xứng đáng với vị thế là:
“Ngân hàng hàng đầu vì Việt Nam thịnh vượng”.
Lãnh đạo Sở Giao dịch Vietcombank gồm có 1 Giám đốc và 3 Phó Giám đốc
phụ trách các mảng nghiệp vụ. Hiện tại SGD có hơn 700 nhân viên, với 37 phòng
chức năng trong đó có 5 phòng chuyên môn, 15 phòng nghiệp vụ được đặt tại trụ sở
và 17 Phòng Giao dịch tại các địa điểm trên khắp thành phố Hà Nội.
Bảng 1. Các phòng/tổ của Sở Giao dịch Vietcombank
STT Phòng Địa chỉ
1. Phòng Khách hàng Đặc biệt Số 198 Trần Quang Khải, Hà Nội
2. Phòng Khách hàng Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
3. Phòng Khách hàng thể nhân Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
4. Phòng Tín dụng Doanh nghiệp Nhỏ và vừa Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội

5. Phòng Kinh doanh dịch vụ Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
6. Phòng Kế Toán Giao dịch Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
7. Phòng Ngân quỹ Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
8. Phòng Vốn và Kinh doanh ngoại tế Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
9. Phòng Thanh toán quốc tế Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
10. Phòng Bảo lãnh Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
11. Phòng Thanh toán Thẻ Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
12. Phòng Đầu tư dự án Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
13. Phòng Quản lý nợ. Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
14. Phòng Kế toán tài chính Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
15. Phòng Quản lý nhân sự Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
16. Phòng Hành chính quản trị Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
17. Phòng Tin học Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
18. Phòng kiểm tra Giám sát tuân thủ Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
19. Tổ Công tác Xử lý Nợ Số 31-33 Ngô Quyền, Hà Nội
20. Phòng Quản lý Quỹ ATM Số 198 Trần Quang Khải, Hà Nội
21. PGD số 2 Số 120 Hàng Trống, Hà Nội
22. PGD số 4 Số 29B Hai Bà Trưng, Hà Nội
23. PGD số 5 Số 85 Giang Văn Minh, Hà Nội
24. PGD số 6 Số 55 Hàng Bún, Hà Nội
25. PGD số 7 Số 52 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội
26. PGD số 8 Số 291 Hoàng Hoa Thám, Hà Nội
27. PGD số 9 Số 20 Lê Trọng Tấn, Hà Nội
28. PGD số 10 Số 110 Cầu Gỗ, Hà Nội
29. PGD số 11 Số 21 Vương Thừa Vũ, Hà Nội
30. PGD số 12 Số 33 Phố Chùa Láng, Hà Nội
31. PGD số 14 Số 56 Nguyễn Hữu Huân, Hà Nội
32. PGD số 15 Số 8, Lô 14A Trung Hoà, Hà Nội
33. PDG số 16 Số 198 Trần Quang Khải, Hà Nội
34. PGD số 17 Số 330 Khâm Thiên, Hà Nội

35. PGD số 18 Số 285 Đội Cấn, Hà Nội
36. PGD số 19 Số 152 Thụy Khuê, Hà Nội
37. PGD số 22 Số 172 Ngọc Khánh, Hà Nội
* Các Phòng/ Tổ được chia thành 5 nhóm theo chức năng:
1.2.1 Nhóm hỗ trợ:
- Phòng quản lý nhân sự.
- Phòng Kế toán tài chính.
- Phòng Kiểm tra giám sát tuân thủ.
- Phòng Hành chính quản trị.
- Phòng Tin học.
1.2.2 Nhóm Tín dụng:
- Phòng Khách hàng.
- Phòng Khách hàng thể nhân.
- Phòng Tín dụng Doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Phòng Quản lý nợ.
- Phòng Đầu tư dự án.
- Tổ Công tác Xử lý Nợ
1.2.3 Nhóm thanh toán:
- Phòng Thanh toán Quốc tế
- Phòng Bảo lãnh
1.2.4 Nhóm kinh doanh dịch vụ:
- Phòng Kinh doanh dịch vụ
- Phòng Thanh toán thẻ:
- Phòng Ngân quỹ.
- Phòng Vốn và Kinh doanh ngoại tệ.
- Phòng Khách hàng đặc biệt.
- Phòng Kế toán giao dịch.
- Tổ quản lý quỹ ATM.
1.2.5 Các Phòng Giao dịch (PGD)
Các PGD là đơn vị hạch toán báo sổ trực thuộc Sở Giao dịch, hoạt động trên

địa bàn TP.Hà Nội chịu sự quản lý giám sát trực tiếp của Giám đốc Sở Giao dịch; có
chức năng thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn tiết kiệm, cho vay khách hàng là các
cá nhân, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán dịch vụ vãng lai trên địa bàn và các
nghiệp vụ liên quan đến tài khoản tiền gửi của các pháp nhân.
Giữa các phòng ban của Sở Giao dịch có quan hệ mật thiết với nhau. Phòng
tham mưu hỗ trợ các phòng khác hoạt động liên tục liền mạch, Phòng nghiệp vụ phải
phối hợp phòng tham mưu để quá trình thực hiện nghiệp vụ diễn ra thuận lợi trôi chảy,
có tổ chức. Mặc dù độc lập thực hiện nghiệp vụ của phòng mình nhưng giữa các
phòng nghiệp vụ này vẫn có sự liên hệ phối hợp làm việc với nhau, quy trình làm việc
trong nội bộ Sở Giao dịch được tiến hành chính xác như một dây chuyền mà mỗi
phòng ban là một mắt xích. Các phòng giao dịch tuy được đặt ở nhiều địa điểm khác
nhau, không tập trung cùng địa điểm với SGD nhưng hoạt động lại liên quan mật thiết
với phòng Ngân quỹ, các phòng Hành chính Quản trị.
1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch Vietcombank
1.3.1. Các hoạt động cơ bản
Sở Giao dịch Vietcombank hiện cung ứng tất cả các dịch vụ liên quan đến tiền
tệ, ngân hàng và nhiều hoạt động khác theo Luật các TCTD, bao gồm:
* Hoạt động huy động vốn
- Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế.
- Nhận tiền gửi tiết kiệm từ dân cư.
- Nhận tiền gửi từ các tổ chức tín dụng.
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu.
* Hoạt động sử dụng vốn
- Cho vay trực tiếp các tổ chức kinh tế và cá nhân.
- Cho vay chiết khấu.
* Hoạt động dịch vụ
- Hoạt động vay nợ, viện trợ.
- Hoạt động chuyển tiền.
- Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu.
- Hoạt động nghiệp vụ hối đoái, đổi séc du lịch, nhờ thu trơn …

- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
- Hoạt động kinh doanh Thẻ tín dụng, Thẻ ATM, Thẻ ghi nợ …
- Hoạt động bảo lãnh và tái bảo lãnh.
1.3.2. Kết quả hoạt động kinh doanh
Tình hình kinh tế trong nước và quốc tế trong năm 2010-2011, không mấy khả
quan, đồng thời sự cạnh tranh của các ngân hàng trong nước và ngoài nước gia tăng
chính là lực cản đối với hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương nói chung và Sở giao
dịch nói riêng.
Tuy nhiên, SGD vẫn là một trong những chi nhánh lớn nhất trong hệ thống
Vietcombank, với hệ thống 17 phòng giao dịch và hơn 150 máy ATM được đặt tại các
điểm giao dịch thuận tiện, đảm bảo cung cấp đến khách hàng những dịch vụ hiện đại,
tiện ích cùng chất lượng dịch vụ tốt nhất. Đồng thời SGD luôn chiếm tỷ trọng lớn
trong các hoạt động huy động vốn và thanh toán xuất nhập khẩu cũng như đóng góp
lớn cho lợi nhuận của toàn hệ thống Vietcombank.
1.3.2.1. Hoạt động huy động vốn
Tình hình hoạt động huy động vốn của SGD được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2: Hoạt động huy động vốn của Sở Giao dịch Vietcombank
Đơn vị: tỷ đồng
Nội dung /năm
2009 2010 2011
Huy động từ nền Kinh tế 35,749.53 43,704.43 45,114.52
Tiền gửi của TCKT: 25,312.15 27,606.96 26,514.55
1.Tiền gửi không kỳ hạn 8,349.72 4,791.06 6,758.85
2. Tiền gửi có kỳ hạn 16,962.43 22,815.90 19,755.7
Tiền gửi Tiết kiệm 10,333.91 15,439.21 17,895.73
1. Tiết kiệm không kỳ hạn 33.77 1,690.23 2015.73
2. Tiết kiệm có kỳ hạn 10,300.14 13,748.98 5880
Kỳ phiếu, Trái phiếu, CCTG 103.47 658.26 704.24

×