Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

tăng cường huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ tại kho bạc nhà nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.91 KB, 61 trang )

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hơn hai thập kỷ thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng và trì trệ; nền kinh tế đã có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được
cải thiện rõ rệt, văn hoá xã hội không ngừng tiến bộ và ổn định; thế và lực đã hơn hẳn 20
năm trước, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ đạt được chưa đảm bảo chắc chắn để vượt qua tình
trạng một nước kém phát triển và chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của đất nước.
Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp xa so với mức trung bình của thế giới và
kém nhiều nước trong khu vực. Thực trạng kinh tế - xã hội còn nhiều mặt yếu kém, bất
cập.
Xem xét trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy, các nhân tố
quyết định tăng trưởng kinh tế là: Nhân lực, vốn, tài nguyên, khoa học công nghệ và
chính sách, đường lối kinh tế. Hệ thống các nhân tố trên tác động đến tăng trưởng kinh tế
trong những mối quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, theo kinh
nghiệm của các nước công nghiệp, muốn tăng trưởng và phát triển nhanh, vấn đề then
chốt là phải có đủ nguồn vốn đầu tư, đảm bảo tốc độ tăng trưởng như dự tính. Vốn là lực
lượng chủ đạo và là công cụ đi tiên phong để thực hiện thắng lợi các chiến lược kinh tế
của mọi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Chính vì vậy, huy động
vốn cho đầu tư trở thành chính sách được ưu tiên hàng đầu của các quốc gia đang phát
triển. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật này. Triển vọng kinh tế Việt Nam trong
giai đoạn tới phụ thuộc rất nhiều vào việc huy động vốn, trong đó nguồn vốn trong nước
đóng vai trò quyết định, làm cơ sở cho việc tiếp cận các nguồn vốn từ bên ngoài.
Gần hai mươi năm qua, công tác phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) đã được
biến đổi về chất, từ chỗ chỉ phát hành tín phiếu ngắn hạn, chuyển sang việc phát hành cả
trái phiếu trung và dài hạn, từ phương thức phát hành tín phiếu, trái phiếu trực tiếp qua hệ
thống Kho bạc nhà nước (KBNN), chuyển dần sang kết hợp giữa phát hành trực tiếp với
phát hành trên thị trường vốn dài hạn thông qua đấu thầu, bảo lãnh trái phiếu… Tuy
nhiên, công tác phát hành TPCP còn đơn giản, phụ thuộc nhiều vào kế hoạch ngắn hạn
của ngân sách nhà nước (NSNN), chưa khai thác hết tiềm lực trong dân. Thực tế đó làm


1
giảm hiệu quả của công cụ TPCP đối với hoạt động huy động vốn cho mục tiêu phát triển
dài hạn của Chính phủ.
Để bảo đảm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 2011-2015 và mục
tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển, nước ta cần
lượng vốn đầu tư hàng năm rất lớn. Những năm vừa qua Nhà nước ta đã có nhiều chính
sách huy động vốn để đáp ứng nhu cầu chi tiêu (còn thiếu hụt) của Chính phủ, kiềm chế
được lạm phát đồng thời có nguồn vốn đáp ứng cho đầu tư phát triển đất nước. Vì vậy,
vấn đề huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước là vấn đề hết sức quan trọng và đặc biệt
quan tâm của các nhà quản lý tài chính trong giai đoạn hiện nay.
Với tư cách là một sinh viên thực tập, nhận thức thực tế về công tác huy động vốn
chưa nhiều, nhưng được sự giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo trong trường đại
học Kinh tế quốc dân, các anh chị làm việc trong hệ thống KBNN, cùng với kiến thức đã
được học tập trong trường và tham khảo tài liệu tạp chí của ngành, tôi chọn đề tài: “Tăng
cường huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ tại Kho bạc Nhà nước
Việt Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp trường đại học Kinh tế quốc dân, nhằm nâng cao
nhận thức lý luận và kinh nghiệm thực tế cho bản thân, góp phần nhất định trong việc
hoàn thiện công tác huy động vốn cho NSNN thông qua việc phát hành trái phiếu Chính
phủ ở hệ thống KBNN . Mục đích, nhiệm vụ của chuyên đề là làm rõ một số vấn đề cơ
bản về huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ ở KBNN, từ đó đề xuất
kiến nghị để hoàn thiện công tác huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ ở
KBNN .
Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về huy động vốn dưới hình thức TPCP
- Chương 2: Thực trạng huy động vốn dưới hình thức TPCP ở KBNN Việt
Nam
- Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn thông qua phát hành TPCP
tại KBNN trong thời gian tới
2

CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN DƯỚI HÌNH THỨC TPCP
1.1 Huy động vốn cho phát triển kinh tế xã hội:
1.1.1 Vai trò của vốn trong nền kinh tế:
Trước hết, ta có thể nói rằng, vốn là một trong năm yếu tố quan trọng nhất trong
mọi quá trình sản xuất đó là: nhân lực, vật lực, tài lực (vốn), thông tin và sự quản lý. Nếu
thiếu vốn thì quá trình sản xuât sẽ không thể được tiến hành.
Vốn cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng đối vơi các nước đang phát triển nói
chung, và Việt Nam nói riêng để các nước này có thể tiến hành đổi mới nền kinh tế, đưa
nền kinh tế tiến kịp với các nước phát triển. Việt Nam là một nước tiến hành CNH – HĐH
muộn so với thế giới, mặt khác lại có xuất phát điểm thấp, đó là những khó khăn cản trở
sự phát triển kinh tế. Để khắc phục những khó khăn này thì vốn đóng vai trò rất quan
trọng. Nước ta cần phải có một lượng vốn lớn để xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng, đào
tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đổi mới thiết bị công nghệ cho quá trình sản
xuất. Nền kinh tế không thể phát triển được nếu thiếu một cơ sở hạ tầng thuận lợi, đồng
bộ. Cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay tuy đã có những tiến bộ song vẫn đang ở mức thấp
kém. Đó là một yếu tố làm giảm tính hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Nguồn nhân
lực nước ta có rất nhiều lợi thế song tay nghề lại thấp. Máy móc thiết bị sử dụng trong quá
trình sản xuất phần lớn là lạc hậu so với các nước phát triển Tất cả những điều đó đòi
hỏi Nhà nước phải có các giải pháp thích hợp để huy động được một lượng vốn đủ lớn để,
thực hiện việc “đi trước đón đầu”.
1.1.2 Nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2015:
Trong bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước khó khăn như hiện nay, việc xác định
và dự báo được các mốc phát triển và chỉ tiêu mang tính đột phá cho kế hoạch kinh tế-xã
hội 5 năm tới là rất khó. Vấn đề quan trọng là cụ thể hóa được 2 giai đoạn trong chiến
lược phát triển 10 năm 2011-2020 khi mục tiêu tổng quát đến năm 2020 của Việt Nam là
trở thành nước công nghiệp có trình độ phát triển trung bình. Do vậy, việc xây dựng Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 mang ý nghĩa quan trọng trong việc
định hình các mục tiêu phát triển 5 năm tiếp theo.
Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 được xây dựng trên 3 trụ cột

kinh tế, xã hội và môi trường. Về kinh tế, mục tiêu tổng quát là phát triển nền kinh tế với
3
tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững, tăng cường tiềm lực phát triển của đất nước. Trong
các định hướng phát triển và nhiệm vụ chủ yếu thì các định hướng và nhiệm vụ sau đây
được nêu ở hàng đầu: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo môi trường đầu tư kinh
doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định tháo gỡ các khó khăn thúc đẩy đầu tư, sản xuất
kinh doanh phát triển. Các chỉ tiêu chủ yếu trong giai đoạn này là GDP bình quân 5 năm
tăng 7-8%/năm, tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân 12%/năm, tỷ lệ huy
động vào NSNN bình quân đạt 22-23,5% GDP, tỷ trọng đầu tư phát triển 5 năm 2011-
2015 khoảng 40-41% GDP.
Để mục tiêu này thành hiện thực thì Việt Nam cần phải thực hiện được một lượng
vốn đầu tư cụ thể vào khoảng 260 tỷ USD (theo giá cố định năm 2010) trong 5 năm tới.
Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
vốn cho các chương trình mục tiêu thì nhiệm vụ huy động vốn thông qua phát hành TPCP
ở KBNN vẫn là một trong những trọng tâm hàng đầu.
1.2 Các nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội:
1.2.1 Nguồn vốn trong nước
a) Nguồn vốn đầu tư từ Chính phủ
Là số chênh lệch dương giữa tổng các khoản thu mang tính không hoàn lại (chủ
yếu là thuế) với tổng chi tiêu thường xuyên của ngân sách. Tiết kiệm ở khâu tài chính này
sẽ hình thành nên nguồn vốn đầu tư của nhà nước. Nghĩa là số thu nhập tài chính mà ngân
sách tập trung được không thể xem ngay đó là nguồn vốn đầu tư của nhà nước, điều này
còn phụ thuộc vào chính sách ngân sách. Nếu quy mô chi tiêu tiêu dùng vượt quá số thu
nhập tập trung thì nhà nước không có nguồn để tái tạo vốn cho đầu tư.
Đây là nguồn vốn đầu tư hết sức quan trọng nhằm phát triển những ngành, lĩnh
vực, công trình kinh tế trọng điểm cần vốn đầu tư lớn nhưng đem lại lợi nhuận không cao,
thường không thu hút được đầu tư từ các công ty.
b) Nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp
Bao gồm nguồn vốn khấu hao cơ bản, lãi ròng có được từ kết quả kinh doanh, các
nguồn được huy động thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu để đầu tư mở rộng sản

xuất kinh doanh, đổi mới quy trình công nghệ tại chính các doanh nghiệp. Quy mô vốn
đầu tư của doanh nghiệp phụ thuộc vào các yếu tố trực tiếp như hiệu quả kinh doanh,
chính sách thuế, sự ổn định của kinh tế vĩ mô.
4
Trong điều kiện hiện nay, nguồn vốn này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhưng nó
lại chiếm một tỷ trọng nói chung còn rất thấp. Lý do được đưa ra khi phần lớn các doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay còn non trẻ, hoạt động sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều
khó khăn nên vai trò của nguồn vốn này chưa được chú trọng. Trong những năm tới
nguồn vốn này dự kiến sẽ tăng trưởng nhanh và trở thành nguồn vốn quan trọng trong cơ
cấu vốn đầu tư trong nước.
c) Nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức tài chính
Cùng với quá trình hội nhập và phát triển nền kinh tế, vốn tín dụng từ các tổ chức
tài chính đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền sản xuất xã hội.
Nguồn vốn này được hình thành từ đầu tư trực tiếp của các tổ chức tín dụng, công ty tài
chính, ngân hàng và phi ngân hàng
d) Nguồn vốn đầu tư từ các hộ gia đình và đoàn thể xã hội
Là khoản tiền còn lại của thu nhập sau khi đã phân phối và sử dụng cho mục đích
tiêu dùng. Quy mô số vốn của khu vực dân cư chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố trực tiếp
như trình độ phát triển kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, chính sách lãi suất, chính
sách thuế và sự ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, số tiền đầu tư của khu vực dân cư có thể
chuyển hóa thành nguồn vốn cho đầu tư thông qua các hình thức gửi tiết kiệm vào các tổ
chức tín dụng, mua chứng khoán trên thị trường tài chính, trực tiếp đầu tư kinh doanh. Có
thể nói, nguồn vốn đầu tư từ khu vực dân cư giữ vai trò quan trọng đối với đầu tư thông
qua hệ thóng tài chính trung gian.
1.2.2 Nguồn vốn nước ngoài
a) Nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI)
Đây là nguồn vốn do các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn vào một nước để đầu tư
trực tiếp bằng việc tạo lập những doanh nghiệp. FDI đã và đang trở thành hình thưc huy
động vốn nước ngoài phổ biến của nhiều nước đang phát triển khi mà các luồng chuyển

dịch vốn từ các nước phát triển đi tìm cơ hội đầu tư ở nước ngoài để gia tăng thu nhập
trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh giữa các quốc gia.
Các hình thưc đầu tư chủ yếu của FDI ở nước ta là các doanh nghiệp liên doanh,
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh dưới các hình thức
BOT, BTO, BT.
5
FDI không chỉ đơn thuần đưa ngoại tệ vào nước sở tại, mà còn kèm theo chuyển
giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và khả năng tiếp cận thì trường quốc tế, giải
quyết việc làm, sử dụng tài nguyên trong nước. Song điều quan trọng đặt ra cho các nước
tiếp nhận là phải khai thác triệt để các lợi thế có được của nguồn vốn này nhằm đạt được
sự phát triển tổng thể cao về kinh tế.
b) Nguồn vốn đầu tư gián tiếp (ODA)
Đây là tất cả các khoản viện trợ của các đối tác viện trợ nước ngoài dành cho
Chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ.
ODA một mặt nó là nguồn vốn bổ sung cho nguồn vốn trong nước để phát triển
kinh tế, bên cạnh đó nó giúp các quốc gia nhận viện trợ tiếp cận nhanh chóng các thành
tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện địa. Ngoài ra nó còn tạo điều kiện phát triển cơ
sở hạ tầng kinh tế xã hội và đào tạo phát triển các nguồn nhân lực. Tuy nhiên các nước
tiếp nhận viện trợ thường xuyên phải đối mặt với những thách thức rất lớn do gánh nặng
nợ quốc gia trong tương lại, chấp nhận những điều kiện và rằng buộc khắt khe về thủ tục
chuyển giao vốn, đôi khi còn gắn cả những điều kiện về chính trị.
c) Các nguồn vốn khác
Phát hành TPCP ra thị trường nước ngoài để huy động vốn là một trong những giải
pháp cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Trong thời gian vừa qua chúng ta đã có những chính sách, cơ chế huy động vốn
thích hợp nhằm tạo điều kiện khai thác nguồn vốn còn mới nhưng đầy tiềm năng này.
Trong lịch sử phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam cho thấy, đây là kênh huy động
hiệu quả và rất thành công. Đợt phát hành đầu tiên năm 2005 tại New York đã thành công
rất mỹ mãn khi các nhà đầu tư quốc tế đặt mua với số tiền lên tới 4,5 tỷ USD, cao gấp 6
lần trị giá chào là 750 triệu USD với lãi suất 7,125%/năm. Đợt thứ 2 vào năm 2007, Việt

Nam phát hành 1 tỷ USD TPCP (TPCP) ra thị trường quốc tế với kỳ hạn mở rộng 10-30
năm cũng rất thành công. Là một nền kinh tế mới phát triển nên VN có mức tăng trưởng
kinh tế mạnh, luôn ở mức trên dưới 10%. Mức tăng trưởng này lớn gấp nhiều lần so với
nhiều cường quốc kinh tế. Bên cạnh đó mức lãi suất khá hấp dẫn ở con số trên dưới 7%
khiến trái phiếu quốc tế do VN phát hành luôn là mối quan tâm đầu tư của nhiều tổ chức
quốc tế.
1.3 Huy động vốn thông qua phát hành TPCP:
6
1.3.1 Sự cần thiết của huy động vốn thong qua phát hành TPCP
a) Khái niệm TPCP:
- Trái phiếu: là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát hành phải trả cho
người sở hữu trái phiếu đối với một khoản tiền cụ thể (mệnh giá của trái phiếu), trong một
thời gian xác định và với một lợi tức quy định. Người phát hành có thể là doanh
nghiệp (trái phiếu trong trường hợp này được gọi là trái phiếu doanh nghiệp), một tổ chức
chính quyền như KBNN (trong trường hợp này gọi là trái phiếu kho bạc), chính quyền
(trong trường hợp này gọi là công trái hoặc TPCP). Người mua trái phiếu, hay trái chủ, có
thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp hoặc Chính phủ. Tên của trái chủ có thể được ghi trên
trái phiếu (trường hợp này gọi là trái phiếu ghi danh) hoặc không được ghi (trái phiếu vô
danh)
- Đặc trưng của trái phiếu bao gồm:
+ Mệnh giá trái phiếu: hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá trị ghi
trên trái phiếu. Giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là căn cứ để xác
định số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền người
phát hành phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn.
+ Lãi suất danh nghĩa: Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc
người phát hành công bố được gọi là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất này được xác định theo
tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá trái phiếu và cũng là căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu.
+ Thời hạn của trái phiếu: là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người
phát hành hoàn trả vốn lần cuối. Trái phiếu có thời hạn khác nhau, trái phiếu trung hạn
cóa thời gian từ 1 năm đến 5 năm. Trái phiếu dài hạn, có thời gian từ 5 năm trở lên.

+ Kỳ trả lãi: Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái
phiếu. Lãi suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi suất trái
phiếu thường được mỗi năm hai hoặc một lần.
+ Giá phát hành: Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông
thường giá phát hành được xác định theo tỷ lệ phần trăm (%) của mệnh giá. Tùy theo tình
hình của thị trường và của người phát hành để xác định giá phát hành một cách thích hợp.
Có thể phân biệt 3 trường hợp:
1. Giá phát hành bằng mệnh giá (ngang giá);
7
2. Giá phát hành dưới mệnh giá (giá chiết khấu);
3. Giá phát hành trên mệnh giá (giá gia tăng).
+ Dù trái phiếu được bán với giá nào (ngang giá, giá chiết khấu hay giá gia tăng),
thì lợi tức luôn được xác định theo mệnh giá của trái phiếu và khi đáo hạn, người có trái
phiếu sẽ được thanh toán theo mệnh giá của trái phiếu.
- Trái phiểu Chính phủ:
Theo nghị định số 01/2011/NĐ-CP thì TPCP là loại trái phiếu do Bộ tài chính phát
hành nhằm huy động vốn cho NSNN hoặc huy động vốn cho chương trình ,dự án đầu tư
cụ thể thuộc phạm vi đầu tư của nhà nước.
- Mục đích phát hành TPCP:
+ Đầu tư phát triển kinh tế-xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương
theo quy định của Luật NSNN.
+ Bù đắp thiếu hụt tạm thời của NSNN từ vay trái phiếu ngắn hạn
+ Cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ Chính phủ
+ Cho doanh nghiệp,tổ chức tài chính,tín dụng,chính quyền địa phương vay lại th-
eo quy định của pháp luật.
+ Các mục đích khác nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia
b) Sự cần thiết khách quan:
Ở bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, các nguồn thu của NSNN nhiều khi không
đảm bảo thoả măn nhu cầu chi tiêu để phát triển kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục, quản lư
nhà nước, giữ vững an ninh, củng cố quốc phòng Vì vậy, Nhà nước phải thực hiện vay

vốn từ các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư trong nước và vay nước ngoài để bù
đắp sự thiếu hụt đó. Đa số các nước trên thế giới, các nguồn thu mà Tài chính huy động
được dưói h́nh thức thu NSNN như: Thuế, lệ phí không đủ để đầu tư phát triển kinh tế
nên đi hỏi phải có nguồn tài chính bổ sung. Một trong những nguồn đó là khoản Nhà
nước vay dân, đây chính là nguồn tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư thông qua phát
hành TPCP. Nhà nước sử dụng nguồn vốn này để đầu tư cho nền kinh tế, tạo ra khả năng
nguồn thu cho NSNN.
8
Việt Nam do tình h́ình Tài chính - Ngân sách luôn ở trong tình trạng mất cân đối và
không ổn định, đây là nguyên nhân và hậu quả của nền kinh tế chưa phát triển. Trong khi
nhà nước không đủ vốn cung ứng cho nền kinh tế, thì trong xă hội vẫn còn đọng vốn, và
sử dụng vốn lăng phí, kém hiệu. Vốn NSNN cấp ra với tính chất không hoàn lại đã bị trải
rộng quá nhiều, nhu cầu của nền kinh tế luôn thiếu so với nhu cầu ngày càng tăng mang
tính bao cấp, kém hiệu quả kinh tế. Sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế đòi hỏi một
lượng vốn lớn mà nguồn thu của NSNN ta chủ yếu là từ thuế, chiếm 23% GDP vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu chi tiêu của ngân sách. Trong khi đó nguồn vốn nhàn rỗi trong dân
cư rất lớn. Do vậy, để khai thác được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư nhất thiết
phải tăng cường phát hành TPCP qua hệ thống KBNN. Việc huy động vốn nhàn rỗi trong
nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể:
- Huy động vốn trong nước góp phần bù đắp thiếu hụt NSNN
Đất nước ta bước sang một thời kỳ mới, nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, nhu cầu chi của NSNN ngày càng cao, trong khi đó nguồn
thu của chúng ta còn hạn chế, chủ yếu là từ thuế, thiếu hụt ngân sách là tình trạng luôn
xảy ra. Trong thời gian qua, nền tài chính quốc gia đã có phần cải thiện và bắt đầu đi vào
ổn định, tỷ lệ lạm phát hạ thấp, giá cả ổn định. Song trong điều kiện bội chi ngân sách vẫn
c̣n, lạm phát luôn là căn bệnh bùng nổ bất kỳ lúc nào, vì vậy việc huy động vốn nhàn rỗi
trong nước có ư nghĩa sống còn đối với nền tài chính quốc gia. Khai thác nguồn vốn nhàn
rỗi trong nước trước hết nhằm mục đích chi trả cho NSNN một cách kịp thời, đảm bảo sự
ổn định trước mắt của nền tài chính quốc gia, hơn nữa góp phần hạn chế việc phát hành
tiền chi tiêu cho NSNN vì vậy việc này là một trong những nguyên nhân gây ra sự rối

loạn lưu thông tiền tệ, kích thích tốc độ lạm phát tăng nhanh. Vì vậy, huy động vốn nhàn
rỗi trong nước vừa có tác dụng bù đắp sự thiếu hụt NSNN, vừa góp phần điều hoà lưu
thông tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Huy động vốn nhàn rỗi trong nước giúp ngân
sách giảm dần sự thiếu hụt bằng chính sách tăng trưởng kinh tế là một xu hướng đang
được áp dụng rộng răi trên toàn thế giới.
- Huy động vốn nhàn rỗi trong nước góp phần phục vụ chiến lược công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Nhị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đó đề ra mục tiêu,nhiệm vụ tổng quát của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 là tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững, phát huy sức mạnh toàn dân tộc,mục tiêu là
9
đến 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phấn đấu GDP
năm 2020 tăng gấp 2,2 lần năm 2010. Như vậy, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai
đoạn này đạt khoảng 7%-8% năm và tổng mức đầu tư toàn xã hội phải đạt trên 30%
GDP . Trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội tài vốn trong nước chiếm 60%-65% và vốn
ngoài nước chiếm 35%-40%.
Để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế nêu trên, vấn đề khai thác tối đa các nguồn
lực trong nước được đặt ra như một yêu cầu cấp bách.Trong các giải pháp khai thac các
nguồn nội lực thì huy động vốn thông qua phát hành TPCP là một giải pháp tài chính hữu
hiệu và đóng vai trò quan trọng để tạo khả năng và điều kiện huy động nguồn vốn tiền tệ
tạm thời nhàn rỗi trong xã hội phục vụ mục tiêu đầu tư phát triển, tăng năng lực sản xuất
của nến kinh tế quốc dân. Huy động vốn thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại
các nguồn lực tài chính, góp phần thúc đẩy tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng trong
phạm vi toàn xã hội, tăng cường tiềm lực tài chính của nhà nước,nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư trong phạm vi từng đơn vị kinh tế cơ sở cũng như toàn xã hội.
- Góp phần ổn định và kiềm chế lạm phát
Trong nền kinh tế thị trường, ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu đối với hầu hết các quốc gia,đặc biệt là những nước đang phát triển.
Để góp phần ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát,Nhà nước phải sử dụng đồng bộ
giải pháp về kinh tế, tài chính, tiền tệ.Trong đó giải pháp quan trọng đó được nhiều nước

trên thế giới sử dụng có hiệu quả là tăng cường công tác huy động các nguồn nội lực. Đây
là giải pháp hữu hiệu góp phần điều hòa khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Thông qua
việc sử dụng linh hoạt các công cụ huy động vốn để cung ứng tiền hoặc rút tiền ra khỏi
lưu thông nhắm ổn định tiền
- Thông qua huy động vốn nhàn rỗi trong nước, góp phần thúc đẩy sự phát
triển của thị trường vốn, thị trường chứng khoán
Việc phát triển thị trường vốn có ý nghĩa rất quan trọng, trước hết nó là cơ chế
giúp cho việc chuyển các nguồn vốn của các tác nhân kinh tế từ nơi thừa sang nơi thiếu
một cách dễ dàng, thuận tiện, thúc đẩy thực hiện chính sách huy động vốn trong và ngoài
nước. Ngược lại, huy động vốn cho phát triển kinh tế là điều kiện để thúc đẩy nhanh sự
phát triển của thị trường chứng khoán.
10
Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu tạo vốn hàng hoá
cho thị trường vốn, thị trường tài chính. Theo nguyên tắc hàng hoá chủ yếu trên thị trường
chứng khoán phải là cổ phiếu nhưng đối với chúng ta, TPCP đặc biệt là trái phiếu Kho
bạc lại có tầm quan trọng với vị trí ngày càng nổi bật. Từ chỗ chưa cho phép chuyển
nhượng, đến nay, trái phiếu Kho bạc đã được đấu thầu ở Ngân hàng nhà nước và không
chỉ trở thành công cụ vay vốn của Nhà nước mà còn là công cụ của chính sách Tài chính
–Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường, đồng thời là công cụ đầu tiên của nghiệp vụ kinh
doanh thị trường mở của Ngân hàng. Đây chính là hàng hoá chủ yếu của thị trường vốn,
thị trường chứng khoán hoạt động công khai và mở rộng ở Việt Nam. Bộ tài chính cùng
với Ngân hàng nhà nước, các bộ, các ngành có liên quan nghiên cứu chuẩn bị điều kiện,
các yếu tố cần thiết cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta c̣òn chưa phát triển, trái phiếu, cổ phiếu doanh
nghiệp chưa phong phú, vì vậy trước mắt TPCP phải đóng vai trò là hàng hoá chủ yếu
trên thị trường, là những hàng hoá đầu tiên cho thị trường chứng khoán hoạt động ở Việt
Nam. Việc đẩy mạnh công tác huy động vốn thông qua phát hành TPCP là hết sức cần
thiết. Chúng ta cần đa dạng hoá các loại TPCP để bù đắp thiếu hụt NSNN, đầu tư phát
triển kinh tế, kiềm chế lạm phát, điều hoà vốn lưu thông tiền tệ và làm cơ sở cho việc phát
triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán ở nước ta.

c) Vai trò của huy động vốn thông qua phát hành TPCP
Việc huy động vốn thông qua phát hành TPCP đă huy động được một khối lượng
vốn lớn cho NSNN và cho đầu tư phát triển, nguồn vốn trong nước này đă góp phần đáp
ứng nhu cầu chi của Ngân sách. Với tốc độ phát triển thời kỳ 1991-1995 nguồn vốn vay
của Nhà nước qua TPCP là 1,3% GDP, chiếm 29% tổng số bội chi NSNN; thời kỳ 1996-
2000là 1,4% GDP, chiếm 33% tổng số bội chi NSNN; thời kỳ 2001-2003 vay bằng TPCP
cao hơn, chiếm 53% tổng số bội chi NSNN; thời kỳ 2004-2007 vay bằng TPCP chiếm
2,8% GDP và chiếm 72% tổng bội chi ngân sách. Đến giai đoạn 2008-2010,vai trò của
nguồn vốn huy động thông qua phát hành TPCP được nâng lên rõ rệt, góp phần cung ứng
nhu cầu vốn đầu tư trong nước, phát triển kinh tế-xã hội.
Cụ thể lĩnh vực giao thông thủy lợi, cạnh đó hực hiện tốt quyết định của Thủ
tướng Chính phủ (số 182/2003/QĐ-TTg ngày 05/9/2003) nhu cầu vốn cho đầu tư các
công trình giao thông thuỷ lợi giai đoạn 2003-2010 đó được huy động dưới h́ình thức phát
hành TPCP là 63 ngàn tỷ đồng. Số vốn này được đầu tư cho 38 công trình - dự án trọng
11
điểm, trong đó có 20 công trình giao thông với tổng số vốn 41.500 tỷ đồng, bao gồm dự
án đường Hồ chí Minh, các quốc lộ 6, 70, 14C, 22B; vành đai biên giới phía Bắc, các
quốc lộ Đồng bằng Sông Cửu Long; có 16 công tŕnh thuỷ lợi tổng số vốn gần 14.000 tỷ
đồng tập trung ở khu vực miền Trung và Tây nguyên; hai dự án tái định cư của thuỷ điện
Sơn La và Tuyên Quang với tổng số vốn đầu tư là 8.800 tỷ đồng.
Trong lĩnh vực y tế các bệnh viện tuyến huyện và các phòng khám đa khoa khu
vực theo Đề án phê duyệt tại Quyết định số 47/2008/QĐ-TTg đó được phân bổ từng năm:
với tổng vốn TPCP được giao là 9.150 tỷ đồng, gồm: năm 2008 được giao 3.750 tỷ đồng,
năm 2009 được giao 3.000 tỷ đồng và 2010 là 2.400 tỷ đồng. Đạt 65,4% so với kế hoạch;
còn lại 4.850 tỷ đồng, năm 2011 dự kiến phân bổ 1500 tỷ đồng. Các bệnh viện tuyến tỉnh
theo Đề án được phê duyệt tại Quyết định số 930/QĐ-TTg: Tổng số vốn đầu tư thực hiện
Đề án giai đoạn 2009-2013 khoảng 45.280 tỷ đồng, trong đó: nguồn TPCP hỗ trợ các địa
phương khoảng 32.628 tỷ đồng. Như vậy, tính đến hết kế hoạch năm 2010, tổng vốn
TPCP đó đầu tư cho ngành y tế là 14.350 tỷ đồng trong đó tuyến huyện là 9.150 tỷ, tuyến
tỉnh là 5.200 tỷ.

Kết quả đó cho thấy tín dụng Nhà nước đặc biệt là huy động vốn trong nước trong
những năm có vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế-xă hội của đất nước.
1.3.2 Các loại TPCP
TPCP có các hình thức sau:
a) Tín phiếu kho bạc :
Là loại giấy nợ do Chính phủ phát hành có kỳ hạn dưới một năm để bù đắp thiếu
hụt tạm thời của NSNN và là một trong những công cụ quan trọng để Ngân hàng Trung
ương điều hành chính sách tiền tệ. (tại Việt Nam, tín phiếu kho bạc do Bộ Tài chính phát
hành). Tín phiếu kho bạc có kỳ hạn 13 tuần, 26 tuần hoặc 52 tuần và đồng tiền phát hành
là đồng Việt Nam. Các kỳ hạn khác của tín phiếu kho bạc do Bộ Tài chính quyết định tùy
theo nhu cầu sử dụng vốn và tình hình thị trường nhưng không vượt quá 52 tuần.
b) Trái phiếu kho bạc :
Là loại TPCP có kỳ hạn từ một (01) năm trở lên và đồng tiền phát hành là đồng
tiền Việt Nam hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi.
c) Công trái xây dựng tổ quốc :
12
Công trái xây dựng tổ quốc là loại TPCP có kỳ hạn từ một (01) năm trở lên, đồng
tiền phát hành là đồng tiền Việt Nam và được phát hành nhằm huy động nguồn vốn để
đầu tư, xây dựng những công trình quan trọng quốc gia và các công trình thiết yếu khác
phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho đất nước.
d) Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh
Chủ thể phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh là doanh nghiệp, ngân hàng
chính sách của nhà nước và tổ chức tài chính, tín dụng thuộc đối tượng được cấp bảo lãnh
Chính phủ theo quy định tại Điều 32 Luật Quản lý nợ công. Trái phiếu được Chính phủ
bảo lãnh được phát hành nhằm mục đích huy động vốn để đầu tư cho các chương trình,
dự án sau:
- Chương trình, dự án đầu tư được Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định
chủ trương đầu tư, bao gồm cả phương án tái cơ cấu nợ của các chương trình dự án này.
- Chương trình, dự án ứng dụng công nghệ cao, dự án trong lĩnh vực năng lượng
khai thác, chế biến khoáng sản hoặc sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ xuất khẩu do

Thủ tướng Chính phủ quyết định phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
- Chương trình, dự án thuộc lĩnh vực, địa bàn được nhà nước khuyến khích đầu tư
theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Chương trình tín dụng có mục tiêu của nhà nước do Ngân hàng Phát triển Việt
Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội hoặc tổ chức tài chính, tín dụng thực hiện theo quyết
định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
e) Trái phiếu ngoại tệ
Trái phiếu ngoại tệ là loại TPCP, phát hành tại các trung tâm tài chính lớn trên thế
giới, có kỳ hạn từ 1 năm trở lên do Bộ Tài chính phát hành cho các mục tiêu theo chỉ định
của Thủ tướng Chính phủ.
1.3.3 KBNN và công tác phát hành TPCP
1.3.3.1 Nhiệm vụ của KBNN với công tác phát hành và thanh toán TPCP, công tác
quản lý và sử dụng vốn
a) Nhiệm vụ phát hành và thanh toán
- Hàng năm cùng với vụ NSNN lập kế hoạch phát hành và thanh toán (gốc, lăi)
13
TPCP để tổng hợp kế hoạch NSNN, tŕnh Chính phủ và Quốc hội phê duyệt.
- Tổ chức in, bảo quản, chuyển giao trái phiếu cho các đơn vị được giao nhiệm vụ
phát hành trái phiếu, bảo đảm an toàn tuyệt đối.
- Tổ chức bán, thanh toán TPCP, bảo đảm nhanh chóng chính xác, thuận lợi cho
người mua theo đúng chế độ quy định.
- Phối kết hợp với các cơ quan chức năng như báo đài, các ban ngành, đoàn thể
tuyên truyền sâu rộng trong công chúng nội dung mỗi đợt phát hành, để người dân hiểu và
ủng hộ chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước.
- Tập trung đầy đủ, kịp thời toàn bộ số tiền thu về bán trái phiếu vào NSNN.
- Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, báo cáo tổng hợp sau khi kết thúc đợt phát hành
và thanh toán TPCP.
b) Công tác Quản lí và sử dụng vốn
Quản lí các khoản vay nợ trong nước của Chính phủ phải được thực hiện từ khâu

xác định số tiền cần vay (cần phát hành trái phiếu) đến việc thực hiện các khoản phải vay
và các khoản phải thanh toán cho số vốn đă vay.
Theo Quy chế phát hành các loại TPCP ban hành theo Nghị định 01/2000/NĐ-CP
ngày 13/01/2000 của Chính phủ Điều 16 có ghi “Toàn bộ các khoản vay từ tín phiếu kho
bạc được tập trung vào ngân sách trung ương, ngân sách trung ương đảm bảo nguồn thanh
toán tín phiếu kho bạc khi đến hạn”; Điều 21 có quy định : “Toàn bộ khoản vay từ trái
phiếu kho bạc được tập trung vào NSNN để sử dụng cho các nhu cầu chi theo dự toán
NSNN đă được Quốc hội phê duyệt”; Điều 26 có quy định “Các khoản vay từ trái phiếu
đầu tư huy động vốn cho công tŕnh được tập trung vào NSNN( NSTW và NS tỉnh) để cấp
phát cho công tŕnh đă được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án phát hành”
Do đối tượng vay là Nhà nước, Nhà nước phải trả cả vốn và lăi, do vậy việc sử
dụng vốn vay cũng phải tính đến hiệu quả kinh tế mà vốn đó mang lại, để tránh lăng phí,
giảm bớt gánh nặng trả nợ cho Nhà nước, trên tinh thần đó, số tiền thu được do phát hành
TPCP mà có, ngoài phần bù đắp bội chi NSNN, c̣òn phải dành ra một phần đáng kể để
đầu tư cho các công trình trọng điểm kinh tế của Nhà nước.
1.3.3.2 Các phương thức phát hành TPCP
14
Căn cứ vào tính chất đặc điểm của từng loại TPCP và từng thời điểm, KBNN chủ
động tổ chức triển khai thực hiện việc phát hành TPCP theo hình thức phỏt hành trực tiếp
qua hệ thống KBNN (bán lẻ) hoặc theo hình thức bán buôn cho các tổ chức bảo lãnh, đấu
thầu, đại lý hoặc kết hợp các hình thức để đảm bảo có hiệu quả, cụ thể là:
a) Bán lẻ qua hệ thống KBNN
Bán lẻ TPCP qua hệ thống Kho bạc là việc các Kho bạc trực tiếp bán và thanh toán
trái phiếu cho người mua. Trái phiếu bán lẻ qua hệ thống Kho bạc thường được phát hành
theo hai hình thức là chiết khấu hoặc ngang mệnh giá.
- Hình thức chiết khấu: áp dụng trong trường hợp trái phiếu được phát hành
thành từng đợt, thời gian phát hành của mỗi đợt không quá 2 tháng, có xác định trước
thời điểm phát hành và thời điểm kết thúc. Các trái phiếu phát hành trong một đợt có
cùng một ngày phát hành và ngày đến hạn thanh toán.
- Hình thức ngang mệnh giá: áp dụng trong trường hợp trái phiếu phát hành liên tục

trong năm hoặc được từng đợt kéo dài, không xác định trước thời điểm dừng phát hành.
Đặc điểm :
- Đây là hình thức phát hành nhỏ lẻ rộng rãi tại các đơn vị KBNN trên cả nước, chủ
yếu phát hành theo chiến dịch, vận động người dân và các tổ chức tham gia trong thời
gian ngắn khoảng 1 đến 2 tháng thông qua phát hành công trái XDTQ hay trái phiếu cho
ĐTPT.
- Phát hành theo hình thức này mang ý nghĩa chính trị để toàn thể các tầng lớp trong
xã hội biết chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước nhằm thu hút nguồn tiền nhàn
rỗi trong dân cư, đảm bảo lợi ích cho người dân, kiểm soát tiền trôi nổi trong dân cư, các
tổ chức.
Hình thức công trái, trái phiếu phát hành theo phương thức bán lẻ chủ yếu dưới
hình thức ấn chỉ và không đủ điều kiện để niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng
khoán tập trung.
Hiện tại, Bộ Tài chính chỉ “bán buôn” TPCP cho các định chế tài chính, chứ không
thực hiện việc “bán lẻ” cho tổ chức, cá nhân thông qua hệ thống kho bạc như trước đây.
b) Phát hành theo hình thức bán buôn :
15
Bao gồm có: đấu thầu qua thị trường GDCK , bảo lãnh phát hành và đại lý phát
hành trái phiếu.
- Bảo lãnh phát hành TPCP
Bảo lãnh phát hành là việc các tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện
các thủ tục trước khi phát hành trái phiếu ra thị trường chứng khoán, phân phối trái phiếu
cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn lại do chưa
bán hết.
Tổ chức bảo lãnh phát hành TPCP giúp Chính phủ thực hiện được các thủ tục
trước khi phát hành trái phiếu ra thị trường, phân phối trái phiếu cho các nhà đầu tư và có
trách nhiệm mua một phần hay toàn bộ TPCP còn lại nếu chưa phân phối hết.
Hoạt động bảo lãnh phát hành TPCP thường do một nhóm bảo lãnh gồm các công
ty chứng khoán, các NHTM, các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư
đứng ra đảm nhiệm. Chính phủ sẽ lựa chọn trong hiệp hội bảo lãnh một công ty có uy tín

lớn nhất làm người bảo lãnh chính. Trong một số trường hợp, Chính phủ có thể bổ nhiệm
thêm 1 hoặc 2 chủ thể đồng bảo lãnh chính. Ở một số thị trường chứng khoán phát triển
có các hình thức bảo lãnh phát hành TPCP phổ biến sau:
+ Bảo lãnh toàn phần (hay còn gọi là cam kết chắc chắn): Người bảo lãnh nhận
mua toàn bộ TPCP để bán lại cho các nhà đầu tư hoặc mua lại số trái phiếu được bán
không hết. Như vậy, người bảo lãnh phát hành sẽ phải cam kết chuyển đầy đủ số tiền như
dự kiến bán trái phiếu cho Chính phủ. Thông thường thì hình thức này thường được sử
dụng cho việc bảo lãnh phát hành TPCP.
+ Bảo lãnh từng phần: Người bảo lãnh nhận mua một phần (được quy định trong
hợp đồng) số TPCP nếu phân phối không hết.
+ Cố gắng tối đa: Có hai hình thức cố gắng tối đa khác nhau.
Người bảo lãnh hoạt động như một đại lý cho người phát hành; người bảo lãnh sẽ
nỗ lực tối đa trong việc phân phối trái phiếu cho các nhà đầu tư, nhưng nếu bán không
hết thì người bảo lãnh sẽ được quyền trả lại số trái phiếu còn lại cho nhà phát hành mà
không bị chịu phạt; hình thức này được các tổ chức bảo lãnh ưa thích nhất.
Người bảo lãnh cũng phải cố gắng tối đa để phân phối hết số chứng khoán được dự
kiến. Trường hợp không bán hết, đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ và người bảo lãnh sẽ không
được nhận bất kỳ khoản hoa hồng nào.
16
- Đấu thầu TPCP
Đầu thầu trái phiếu là việc lựa chọn các tổ chức, cá nhân tham gia dự thầu, đáp ứng
đầy đủ các yêu cầu của tổ chức phát hành.
Việc đấu thầu TPCP được thực hiện qua Trung tâm giao dịch chứng khoán
(TTGDCK), thành viên tham gia đấu thầu là các công ty chứng khoán, NHTM, các quỹ
đầu tư Các nhà đầu tư nhỏ cũng có thể tham gia đấu thầu trái phiếu thông qua các thành
viên đấu thầu. TPCP đấu thầu được mua bán và là loại hàng hoá quan trọng trên thị
trường chứng khoán.
Có 2 hình thức đấu thầu là đấu thầu cạnh tranh lãi suất hoặc kết hợp đấu thầu cạnh
tranh lãi suất với đấu thầu không cạnh tranh lãi suất.Việc xác định khối lượng và lãi suất
trúng thầu căn cứ vào khối lượng và lãi suất đặt thầu của các thành viên, khối lượng vốn

cần huy động và lãi suất chỉ đạọ. Khối lượng trúng thầu được chọn bắt đầu từ mức lãi suất
đặt thầu thấp nhất đến mức lãi suất chỉ đạo. Tại mức lãi suất đặt thầu mà khối lượng đặt
thầu vượt quá số vốn cần huy động thì khối lượng trúng thầu được phân chia cho mỗi
phiếu đặt thầu theo tỷ lệ thuận giữa khối lượng vốn cần huy động còn lại và khối lượng
đặt thầu của từng phiếu tại mức lãi suất đó. Nếu đấu thầu theo kiểu Hà Lan thì lãi suất
trúng thầu cao nhất sẽ là lãi suất áp dụng chung cho tất cả đối tượng trúng thầu. Nếu đấu
thầu theo kiểu Mỹ thì các thành viên trúng thầu sẽ mua trái phiếu có lãi suất đúng bằng lãi
suất họ đã đặt thầu trong phiên đấu thầu.
- Đại lý phát hành TPCP
“Đại lý phát hành trái phiếu” là hình thức phát hành trái phiếu mà chủ thể phát
hành ủy thác cho một tổ chức khác thực hiện việc bán trái phiếu cho đối tượng mua trái
phiếu.
Bao gồm đại lý phát hành và đại lý thanh toán:
+ Đại lý phát hành TPCP là việc các tổ chức được phép làm đại lý phát hành TPCP
thỏa thuận với nhà phát hành nhận bán TPCP. Trường hợp không bán hết, tổ chức đại lý
được quyền trả lại cho nhà phát hành số trái phiếu còn lại.
Các tổ chức được lựa chọn làm đại lý phát hành TPCP bao gồm các công ty chứng
khoán, công ty tài chính và cả các tổ chức ngân hàng hoạt động theo Luật các tổ chức tín
dụng. Các tổ chức đại lý phát hành TPCP hưởng một khoản phí phát hành theo mức thoả
thuận với nhà phát hành.
17
+ Đại lý thanh toán TPCP là việc các tổ chức được nhà phát hành uỷ quyền thực
hiện thanh toán gốc, lãi TPCP khi đến đáo hạn. Các đại lý thanh toán TPCP cũng được
hưởng một khoản phí thanh toán theo mức đã thoả thuận với nhà phát hành.
Đây là ba thức phát hành tiên tiến nhất. Nếu như phát hành trực tiếp qua hệ thống
KBNN (bán lẻ) đối tượng chủ yếu là các tầng lớp dân cư thì phát hành thông qua đấu
thầu, bảo lãnh, đại lý với đối tượng chủ yếu là các tổ chức tài chính trung gian, các
NHTM và các công ty chứng khoán. Trái phiếu của một đợt phát hành với khối lượng lớn
có cùng ngày phát hành và ngày đến hạn thanh thanh toán, đủ điều kiện để niêm yết giao
dịch trên thị trường chứng khoán tập trung. Hiện nay trái phiếu phát hành theo ba hình

thức này được ghi sổ và lưu ký tại Trung tâm lưu ký chứng khoán và giao dịch tại Sở
GDCK Hà Nội. Phát hành theo hình thức bán buôn có ưu điểm lớn là chi phí phát hành
thấp nhất, kết quả nhanh và đạt được khối lượng huy động lớn.
Phát hành theo hình thức bán buôn cho NSNN hiện nay chỉ thực hiện tại KBNN
(Ban Huy động vốn) kết hợp với các đơn vị có liên quan triển khai thực hiện như Vụ
TCNH, Sở GDCK Hà Nội và Trung tâm lưu ký chứng khoán. Căn cứ vào nhu cầu về vốn
cho NSNN và đầu tư phát triển KBNN tổ chức huy động từng đợt, và từng phiên đảm
bảo tổng số vốn cần giải ngân, tránh tình trạng huy động về chưa giải ngân được vẫn phải
trả lãi trái phiếu gây lãng phí.
1.3.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động TPCP
a) Các nhân tố khách quan
- Nhân tố về kinh tế: từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, nền
kinh tế đã tăng trưởng nhanh chóng. Tuy vậy nền kinh tế vẫn còn mất cân đối, lạc hậu,
nguồn thu cho NSNN còn thấp ảnh hưởng đến việc huy động vốn qua TPCP của KBNN .
- Nhân tố về thu nhập: thu nhập bình quân của nước ta hiện này còn thấp, mới đạt
được khoảng 1000USD/1 người/năm, trong đó, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao, tích lũy trong
dân cư chưa lớn, chưa đồng đều mà chỉ tập trung ở một số hộ, một số doanh nghiệp tư
nhân. Trình độ dân trí thấp nên việc phát hành TPCP của KBNN để thu hút vốn nhàn rỗi
trong dân đạt hiệu quả chưa cao.
- Nhân tố lạm phát: Do tình hình lạm phát còn lớn, đồng tiền liên tục bị mất giá nên
rủi ro khi đầu tư loại hình trái phiếu là không thể tránh khỏi. Mặc dù lại suất cao nhưng
tiền mất giá quá nhanh thì lãi suất không thể bù được vốn gốc, người dân mua trái phiếu
18
Kho bạc phải chịu lãi suất thực âm. Đó là lý do nhiều người dân không dám mạo hiểm bỏ
tiền vào mua TPCP. Do đó có thể thấy lạm phát cũng là một nhân tố ảnh hưởng lớn tới
việc huy động TPCP.
b) Các nhân tố chủ quan
- Nhân tố lãi suất: đây là nhân tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới việc huy động vốn.
Người dân mua TPCP trước tiên phải xem xét yếu tố lãi suất vì cho Nhà nước vay cũng là
đầu tư gián tiếp, mà đầu tư bắt buộc phải có sinh lời, ít nhất là sinh lời đó phải bằng với

lợi tức bình quan của các ngành kinh tế đạt được sau khi bảo toàn vốn. Song lãi suất
Chính phủ lại chưa hấp dẫn được người dân trong khi người dân lại có thói quen gửi tiền
tiết kiệm ở các NHTM vì khoản đầu tư này có lãi suất cũng như tính “lỏng” cao hơn cả so
với TPCP.
- Nhân tố thông tin, tuyên truyền: Do thông tin, tuyên truyền còn nhiều hạn chế,
chưa được tổ chức một cách đồng bộ và khoa học trên khắp cả nước, chưa có hoạt động
marketing chuyên sâu về TPCP nên người dân chưa quen với loại hình đầu tư này. Tập
quán cho nhà nước vay dài hạn chưa được hình thành trong đại bộ phận dân chúng.
- Nhân tố về tổ chức công tác huy động vốn: Việc tổ chức phát hành TPCP tại các
địa bàn như thế nào phù hợp với đặc điểm dân cư, kinh tế của từng vùng miền cụ thể cũng
là yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn tới việc huy động vốn.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN DƯỚI HÌNH THỨC TPCP Ở KBNN VIỆT
NAM
2.1 Chức năng nhiệm vụ của KBNN
19
- Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính chiến lược phát triển, quy hoạch dài hạn, hàng năm
của KBNN .
- Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
quỹ NSNN và các văn bản quy phạm pháp luật khác thuộc thẩm quyền của KBNN theo
quy định của pháp luật.
- Hướng dẫn nghiệp vụ công tác thu nộp, chi trả, thanh toán, quyết toán quỹ NSNN,
nghiệp vụ hoạt động khác có liên quan và chỉ đạo việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ thống
nhất trong hệ thống KBNN .
- Tổ chức thược hiện các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý của
KBNN và chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sau khi được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt
- Tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm về quản lý quỹ NSNN, quỹ tài chính nhà
nước và các quỹ khác của Nhà nước được giao theo quy định của pháp luật bao gồm:
+ Tập trung và phản ánh đầy đủ kịp thời các khoản thu NSNN (bao gồm cả thu

viện trọ, thu vay nợ trong nước và nước ngoài); tổ chức thực hiện việc thu nộp vào quỹ
NSNN do các tổ chức và cá nhân nộp tại hệ thống KBNN theo quy định; thực hiện hoạch
toán sổ thu NSNN và của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
+ Tổ chức thực hiện chi NSNN, kiểm soát, thanh toán, chi trả các khoản chi từ
NSNN theo quy định của pháp luật.
+ Quản lý, kiểm soát và thực hiện nhập, xuất các quỹ tài chính nhà nước và các
quỹ khác của nhà nước do KBNN quản lý; quản lý các khoản tạm thu, tạm giữ, tịch thu,
ký cươc, ký quỹ, thế chấp theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
+ Quản lý tài sản quốc gia quy hiếm được giao theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền; quản lý tiền, tài sản, các loại chứng chỉ có giá của Nhà nước và của
các đơn vị, cá nhân gửi tại KBNN .
- KBNN có quyền trích từ tài khoản tiền gửi của các tổ chức, cá nhân để nộp NSNN
hoặc áp dụng các biện pháp hành chính khác để thu cho NSNN theo quy định của pháp
luật; có quyền từ chối thanh toán, chi trả các khaonr chi không đúng, không đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
20
- Tổ chức hoạch toán kế toán NSNN; hoạch toán kế toán các quy và tài sản của Nhà
nước được giao cho KBNN quản lý; định kỳ báo cáo việc thực hiện dự toán thu, chi
NSNN
- cho cơ quan tài chính cùng cấp và cơ quan nhà nước liên quan theo quy định của
Bộ trưởng Bộ Tài chính.
- Tổ chức thực hiện công tác thống kê KBNN và chế độ báo cáo tài chính theo quy
định của pháp luật.
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán và điều hành tồn ngân KBNN bao gồm:
+ Mở tài khoản, kiểm soát tài khoản tiền gửi và thực hiện thanh toán bằng tiền mặt,
bằng chuyển khoản đối với các cơ quan, đơn vị, cá nhân có quan hệ giao dịch với
KBNN .
+ Mở tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn tại Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) Việt Nam và các ngân hàng thương mại Nhà nước để thực hiện các hoạt động
nghiệp vụ của KBNN .

+ Tổ chức quản lý, điều hành tồn ngân KBNN tập trung thống nhất trong toàn hệ
thống, bảo đảm các nhu cầu thanh toán, chi trả của NSNN và các đối tượng giao dịch
khác
+ Đươc sử dụng tồn ngân KBNN để tạm ứng cho NSNN theo quy định của Bộ
trưởng Bộ Tài chính.
- Tổ chức huy động vốn trong và ngoài nước cho NSNN và cho đầu tư phát triển
thông qua phát hành công trái, trái phiếu theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện một số dịch vụ tín dụng nhà nước theo quy định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền hoặc ủy thác của các đơn vị khác.
- Tổ chức kiểm tra kiểm soát việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ cảu các đơn vị
thuộc hệ thống KBNN theo quy định của pháp luật.
- Hiện đại hóa hoạt động của hệ thống KBNN :
+ Tổ chức quản lý, ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ quản lý, kỹ thuật tiên
tiến vào hoạt động của KBNN .
+ Hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật của hệ thống KBNN .
21
- Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế thuộc lĩnh vực KBNN theo quy định của pháp
luật và phân công của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
- Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp
đồng trong hệ thống KBNN ; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy định của pháp
luật và phân cấp quản lý của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
- Quản lý kinh phí do NSNN cấp và tài sản được giao theo quy định của pháp luật;
được sử dụng những khoản thu phát sinh trong hoạt động nghiệp vụ theo chế đọ quản lý
tài chính của Nhà nước.
- Thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính theo mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt
động, công khai hóa thủ tục, cải tiến quy trình nghiệp vụ và cấp thông tin để tạo thuận lợi
phục vụ khách hàng.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính giao.
2.2 Thực trạng công tác huy động vốn thong qua phát hành trái phiếu ở KBNN
2.2.1 Kết quả phát hành tín phiếu Kho bạc

Tín phiếu kho bạc được phát hành theo 2 hình thức :bán lẻ qua hệ thống kho bạc và
đầu thầu qua NHNN.Từ tháng 6/1995, KBNN đã áp dụng việc đấu thầu tín phiếu Kho bạc
qua NHNN dưới hình thức chiết khấu, thay thế hoàn toàn cho việc bán lẻ tín phiếu qua hệ
thống KBNN .Các quy định về đối tượng tham gia và cơ chế phát hành tín phiếu kho bạc
được thực hiện theo nghị định 141/2003/NĐ-CP.Theo đó Tín phiếu kho bạc được phát
hành theo phương thức đấu thầu. Khối lượng và lãi suất tín phiếu kho bạc hình thành qua
kết quả đấu thầu. Bộ Tài chính có thể ủy thác cho Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng
thương mại nhà nước phát hành, thanh toán tín phiếu kho bạc. Đối tượng được tham gia
đấu thầu tín phiếu kho bạc có thể là. Các tổ chức tín dụng hoạt động theo Luật Các tổ
chức tín dụng. Các công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư hoạt động hợp pháp tại
Việt Nam; các chi nhánh quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tín phiếu Kho bạc đấu
thầu qua NHNN được áp dụng theo phương thức đấu thầu của Hà Lan, các thành viên
tham gia đấu thầu sẽ đặt thầu theo lãi suất và áp dụng lãi suất chỉ đạo trong quá trình xét
thầu. Nếu lãi suất đặt thầu trong phạm vi lãi suất chỉ đạo thì đợt đấu thầu thành công. Lãi
suất trúng thầu chính là lãi suất tín phiếu phát hành, các đơn vị trúng thầu đều được
hưởng cùng một mức lãi suất này. Nếu lãi suất đặt thầu cao hơn lãi suất chỉ đạo, phiên
đấu thầu không thành công.
22
Từ 2008 đến ngày 31/12/2010, Bộ Tài chính đã phối hợp với NHNN tổ chức được
131 phiên đấu thầu. Số lượng thành viên tham gia đấu thầu tín phiếu Kho bạc ngày càng
tăng. Đối tượng tham gia đấu thầu chủ yếu là các ngân hàng thương mại (NHTM) và công
ty bảo hiểm. Tính đến cuối năm 2010 đã có 114 thành viên tham gia thị trường đấu thầu
tín phiếu Kho bạc. Kết quả chi tiết trong bảng 1.1.
Bảng 1.1: Kết quả đấu thầu tín phiếu Kho bạc
qua Ngân hàng nhà nước Giai đoạn 2008 - 2010
Số
TT
Năm
Số phiên
đấu thầu

Khối lượng
trúng thầu (Tỷ đồng)
Lãi suất bình
quân (%/năm)
1 2008 37 18.466 9,0-15,7
2 2009 63 10.101 7,2-10,4
3 2010 31 7.492 10,6-11,68
Tổng 131
Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết ngành KBNN
Có thể thấy thị trường trong 3 năm gần đây có khá nhiều biến động.Cụ thể như
năm 2008, quý I, quý II đầu năm, do các tổ chức tín dụng thiếu vốn khả dụng nên mặc dù
NHNN đã tổ chức được 3 phiên đấu thầu phát hành tín phiếu kho bạc nhưng không có
thành viên nào tham gia, tuy nhiên đến quý III, quý IV, chỉ qua gần 35 phiên đấu thầu đã
huy động đượ 20.000 tỷ, tăng 100% so với năm 2007 và bằng 78,23% kế hoạch đề ra của
Bộ tài chính. Lãi suất đạt mức cao nhất là 15,7% và giảm xuống còn 8,38% vào cuối năm
2008.
Đến năm 2009, NHNN đã tổ chức được đến 63 phiên đấu thầu với phương thức
đấu thầu cạnh tranh lãi suất.Khối lượng trúng thầu đạt 10.101 tỷ chỉ đạt 14,81% trong
tổng 68.200 tỷ đồng dự kiến phát hành. Trong đó có đến 31 phiên(trong tổng 63 phiên)
khối lượng trúng thầu bằng 0. từ đầu năm 2009 đến nay, KBNN gặp khó khăn trong việc
phát hành TPCP bằng đồng việt nam. Điều này có thể được giải thích là do thiện chí và
khả năng tham gia vào thị trường sơ cấp của các nhà đầu tư đã giảm đáng kể bới tính
thanh khoản thị trường bị thắt chặt (là kết quả từ việc phục hồi hoạt động cho vay mạnh
mẽ của các ngân hàng) và lãi suất chung cuộc đã xuống thấp chỉ còn trung bình khoảng
23
8,2%, thấp hơn cả thị trường thứ cấp.
Nhìn chung trong 3 năm qua, hoạt động đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN đã
đem lại những kết quả thiết thực. Thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc đã đi vào nền nếp
và từng bước phát triển cả về quy mô cũng như tần suất phát hành. Số phiên đấu thầu tăng
dần qua từng năm, khối lượng vốn huy động qua đấu thầu tín phiếu năm sau cao hơn so

với năm trước. Và trở thành nguồn vốn chính để bù đắp thiếu hụt NSNN. Lãi suất tín
phiếu Kho bạc ngày càng ổn định và có xu hướng giảm dần qua từng năm. Đấu thầu tín
phiếu qua NHNN là một công cụ hữu hiệu để NHNN điều hành thị trường tiền tệ, tạo ra
một bước cạnh tranh mới trong việc hình thành lãi suất tín phiếu theo cơ chế thị trường.
Tín phiếu phát hành theo hình thức ghi sổ nên đã giảm bớt chi phí in ấn chỉ. Việc NHNN
Trung ương giữ sổ sách và thanh toán tín phiếu đã rút ngắn thời gian thanh toán và tạo
điều kiện cho việc chuyển giao tín phiếu trên thị trường thứ cấp. Tuy nhiên, việc đấu thầu
và giao dịch tín phiếu Kho bạc trong thời gian qua vẫn còn nổi lên một số vướng mắc cụ
thể:
Thứ nhất, thực chất của việc đấu thầu tín phiếu là đấu thầu khối lượng tín phiếu
với khung lãi suất đã được định trước. Mặc dù cơ chế lãi suất chỉ đạo cũng đã được điều
chỉnh theo xu hướng phù hợp với lãi suất chung trên thị trường, nhưng sự can thiệp của
Chính phủ (Bộ Tài chính) đối với vấn đề lãi suất đã phần nào ảnh hưởng không nhỏ đến
việc xác định lãi suất, chưa thực sự bắt nhịp với tiến trình tự do hoá lãi suất.
Thứ hai, về kỳ hạn của tín phiếu gồm có các loại (91 ngày,182 ngày, 273 ngày và
loại 364 ngày) nhưng chủ yếu là loại 364 ngày; nếu đứng trên góc độ huy động vốn cho
đầu tư phát triển thì kỳ hạn của tín phiếu như vậy là quá ngắn, nếu đứng trên góc độ của
thị trường vốn ngắn hạn thì kỳ hạn của tín phiếu lại dài hơn so với kỳ hạn của các hàng
hoá khác trên thị trường này.
Thứ ba, các thành viên tham gia đấu thầu chủ yếu là các NHTM nhà nước, nơi có
vốn khả dụng cao, bởi các NHTM này có vốn điều lệ rất lớn. Trong thời gian qua, số
lượng các thành viên tham gia đấu thầu thường xuyên còn khá ít, do vậy tính cạnh tranh
không cao.
Thứ tư, thị trường thứ cấp tín phiếu Kho bạc đã được mở ra với việc khai trương
nghiệp vụ thị trường mở, nhưng các thành viên tham gia chưa nhiều và lại vẫn chỉ tập
trung vào các NHTM. Vì vậy, công cụ này chưa phát huy hết được vai trò trong việc thực
thi chính sách tiền tệ.
24
Tóm lại, thông qua phương thức đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua NHNN, Chính
phủ đã huy động được một lượng vốn cần thiết để bù đắp thiếu hụt cho NSNN với chi phí

thấp và cung cấp một lượng hàng hoá có chất lượng cao cho hoạt động của thị trường tiền
tệ. Đối với các tổ chức tín dụng, đầu tư vào tín phiếu Kho bạc sẽ có hệ số an toàn cao, khả
năng sinh lời cũng không nhỏ và đặc thù của tín phiếu là có tính thanh khoản khá cao. Thị
trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc còn thể hiện được vai trò trong việc cung cấp thông tin
về lượng vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng.
2.2.2 Kết quả phát hành trái phiếu Kho bạc
Trái phiếu kho bạc được phát hành theo 2 hình thức: bán lẻ qua hệ thống KBNN và
đấu thầu qua thị trường chứng khoán.
a) Kết quả bán lẻ trái phiếu Kho bạc qua hệ thống KBNN
Trước năm 1996, KBNN chỉ phát hành trực tiếp loại trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 1
năm. Nếu đứng trên góc độ huy động vốn để đầu tư phát triển thì kỳ hạn này quá ngắn,
dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn vay không cao. Để khắc phục nhược điểm này, từ tháng
9/1996, Bộ Tài chính (KBNN ) đã phát hành loại trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 2 năm, có ghi
tên và không in trước mệnh giá, bán cho các đối tượng là người Việt Nam và người nước
ngoài đang làm việc và sinh sống ở Việt Nam. Loại trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 2 năm đã
được liên tục phát hành trong các năm tiếp theo, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số TPCP
đã phát hành. Trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2010, KBNN chỉ phát hành được
851,3 tỷ đồng năm 2009, kết quả chi tiết được phản ánh trong bảng 1.2.
Nhìn chung, Bộ Tài chính đã điều chỉnh kịp thời lãi suất trái phiếu Kho bạc bán lẻ
trong từng giai đoạn cho phù hợp với lãi suất trên thị trường. Việc phát hành trái phiếu
Kho bạc kỳ hạn 2 năm đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình đổi mới cơ
chế huy động vốn qua hệ thống KBNN. Cơ cấu dư nợ chuyển dần từ loại ngắn hạn sang
trung hạn, từng bước kéo dài thời gian sử dụng vốn cho đầu tư phát triển. Kết quả huy
động trái phiếu thời gian qua tuy còn khiêm tốn, song đã tạo cho các nhà đầu tư quen dần
với hình thức đầu tư trung hạn, tạo đà cho việc phát hành các loại trái phiếu dài hạn hơn
trong tương lai.
Bảng 1.2: Kết quả bán lẻ trái phiếu Kho bạc
qua KBNN Giai đoạn 2004 - 2007
25

×