Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ tại kho bạc nhà nước lạng sơn trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.75 KB, 15 trang )

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác huy động vốn thông qua
phát hành trái phiếu chính phủ tại kho bạc nhà nước lạng sơn trong
thời gian tới
3.1. Phương hướng, mục tiêu
Đất nước đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhu cầu chi
tiêu của Nhà nước ngày một lớn, trong khi nguồn lực thì có hạn, huy động vốn
bổ xung cho NSNN, tăng đầu tư phát triển và công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước là một vấn đề cấp thiết. Các nhà kinh tế cho rằng, lượng vốn nhàn rỗi
nằm trong dân chúng còn rất lớn. Đây là tiềm năng sẵn có trong nội lực nền
kinh tế, Nhà nước cần có biện pháp thu hút được số vốn tiền tệ đó để thực hiện
những mục đích của mình, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững:
Thứ nhất : Huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân góp phần đáp ứng
nhu cầu chi tiêu của NSNN.
Thực hiện đường lối chiến lược của Đảng, để đáp ứng nguồn tài lực cho
NSNN nhằm phục vụ chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, công nghiệp hoá và
hiện đại hoá đất nước. Trong thời gian tiếp theo, công tác huy động vốn bằng
việc phát hành TPCP càng không ngừng được cải thiện và hoàn thiện, đa dạng
hoá, mở rộng phạm vi và tăng cường hiệu quả.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, NSNN thường xuyên bị thiếu hụt đã ảnh
hưởng không nhỏ tới hiệu quả quản lý kinh tế- xã hội. Để đảm bảo một nền tài
chính Quốc gia lành mạnh phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, hệ
thống KBNN cần phải tiếp tục hoàn thiện, đổi mới cơ chế phát hành và thanh
toán TPCP để huy động nguồn vốn đáp ứng kịp thời nhu cầu chi của NSNN, với
mức lãi suất hợp lý, giảm bớt gánh nặng cho NSNN.
Thứ hai : Huy động vốn nhằm thực hiện mục tiêu điều hoà lưu thông tiền
tệ.
Trái phiếu Chính phủ phát hành để thế chỗ cho những đồng tiền “ đóng
băng” trong nền kinh tế, thông qua huy động vốn có thể điều hoà được dòng
chảy của đồng tiền, ổn định giá cả, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Nó phải được
tính toán dựa vào tiềm năng thực tế trong dân, nhu cầu vốn cần thiết của nền
kinh tế, đảm bảo hiệu quả vốn vay và có phương án chủ động chi trả nợ đúng


hạn. KBNN phải thực hiện huy động vốn cho NSNN dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Bộ Tài Chính.
Thứ ba: Lãi suất TPCP trong tương lai là lãi suất thị trường, lãi suất cạnh
tranh .
Hiện nay lãi suất trái phiếu còn dựa chủ yếu vào lãi suất huy động vốn của
Ngân hàng thương mại. Nhà nước cần nghiên cứu , tính toán và đưa ra mức
lãi suất dựa vào quan hệ cung cầu vốn, dựa vào thị trường, đảm bảo sự cạnh
tranh giữa các hình thức tín dụng. Có như vậy, lãi suất mới trở thành công cụ
để Nhà nước có thể tham gia vào điều tiết thị trường chứng khoán.
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác huy động vốn
thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ trong thời gian tới:
Từ khi hệ thống KBNN ra đời đến nay, luôn nỗ lực hết mình, hoàn thành
sứ mệnh mà ngành Tài Chính giao phó và trở thành công cụ đắc lực trong tay
Nhà nước, đảm bảo phát huy sức mạnh của nó đối với sự phát triển nền kinh
tế. Trong suốt quá trình hoạt động hệ thống KBNN luôn làm tốt mọi công việc,
đặc biệt là công tác huy động vốn, mặc dù vậy công tác huy động vốn thông
qua phát hành TPCP vẫn còn một số vấn đề bất cập ví như: Tiềm năng chưa
khai thác hết, quá trình thực hiện còn quá nhiều rào cản...Vậy làm thế nào để
giải quyết những khó khăn đó và hoàn thành tốt công tác huy động vốn thông
qua phát hành TPCP ? Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp chỉ mong
TPCP có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế với đầy đủ ý nghĩa và tác dụng mà
bản thân nó mang lại.
3.2.1. Đối với công tác huy động vốn nói chung của Kho bạc Nhà
nước.
3.2.1.1. Xây dựng một cơ chế lãi suất hợp lý, linh hoạt:
Lãi suất TPCP là giá cả của vốn vay mà Nhà nước phải trả cho người
đầu tư sau một thời gian nhất định. Giá cả này sẽ quyết định rất lớn đến sự lưu
thông của hàng hoá này. Giá cả hợp lý, vừa đảm bảo lợi nhuận cho người cho
vay ( Người mua trái phiếu) và vừa đáp ứng nhu cầu của người đi vay ( Nhà
nước) thì quan hệ cung cầu này mới được hoàn thiện và hàng hoá này mới có

cơ may tồn tại và phát triển trên thị trường vốn.
Trả lời một cuộc phỏng vấn ông Lê Văn Hưng- tiến sĩ, Vụ trưởng Vụ huy
động vốn KBNN TW nói: “ Lãi suất Trái phiếu Chính phủ phải là lãi suất chuẩn
mực. Các Ngân hàng thương mại phải căn cứ vào đó để xây dựng lãi suất cho
vay và lãi suất tiền gửi của các ngân hàng”. Vì vậy trong việc xây dựng TPCP
không nên phụ thuộc vào lãi suất tiền gửi ngân hàng, mà phải đưa ra những
căn cứ có tính sát thực để hình thành một mức lãi suất hợp lý nhất, bảo toàn
vốn cho người vay, hạn chế rủi ro sức mua của đồng tiền và điều chỉnh linh
hoạt theo tốc độ trượt giá hay tỷ lệ lạm phát. Nói như thế không có nghĩa là
việc xác định lãi suất TPCP không cần tham khảo lãi suất huy động vốn của các
Ngân hàng thương mại. Vì dẫu sao, ngân hàng cũng đã có bề dầy lịch sử, với
mạng lưới rộng khắp, huy động vốn thường xuyên từ tầng lớp dân cư với
nhiều hình thức huy động.
Thiết nghĩ rằng: Giữa ngành kho bạc và ngành ngân hàng cần hoạch định
cơ cấu lãi suất phù hợp, từ đó hạ dần mặt bằng lãi suất chung và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn. Tránh tình trạng làm rối loạn dòng chảy vốn. Lợi ích của
việc di chuyển dòng chảy vốn thì chưa thấy, chỉ thấy tốn kém chi phí và đồng
vốn liên tục bị “lôi” từ vòng quany này sang vòng quay khác dù các vòng quay
đều chưa kết thúc và chưa khẳng định được khả năng sinh lời của đồng tiền.
Khi xác định lãi suất TPCP, phải dựa vào nguyên tắc, thông lệ quốc tế và
dựa vào thực tiễn của Việt Nam. theo thông lệ quốc tế, lãi suất vay ngắn hạn
bao giờ cũng phải thấp hơn lãi suất vay dài hạn, lãi suất trả cho người vay bao
giờ cũng đảm bảo lãi suất thực dương, còn mức bao nhiêu thì phải căn cứ vào
thị trường và nhu cầu của người sử dụng vốn.
Bên cạnh đó, tuỳ vào từng loại trái phiếu cụ thể, với điều kiện thích hợp,
có thể áp dụng các phương thức xác định lãi suất khác nhau:
- Lãi suất cố định: Giữ lãi suất ban đầu tính trên mệnh giá phát hành
trong suốt thời gian của trái phiếu.
Lãi suất cố định đòi được nhiều điều kiện đó là nền kinh tế đã phát triển
khá bền vững, TPCP có uy tín và trở nên thân thuộc với dân chúng. Có như vậy,

người dân mới đầu tư mà không cần đảm bảo theo sự biến động của lạm phát.
Áp dụng được mức lãi suất này, Nhà nước sẽ có kế hoạch trả nợ gắn liền với
quá trình sử dụng vốn vay, đảm bảo vốn sử dụng đúng mục đích, trả nợ đúng
hạn không phát sinh nợ mới. Đồng thời, nếu như loại trái phiếu với mức lãi
suất cố định được bán theo phương thức chiết khấu,đảm bảo cho các loại trái
phiếu này có cùng một ngày đáo hạn sẽ tạo diều kiện cho các loại trái phiếu
này có thể niêm yết ,giao dịch trên thị trường chứng khoán.
-Lãi suất điều chỉnh: Lãi suất ban đầu sẽ được điều chỉnh hàng năm theo
sự biến động của lãi suất thị trường. Nó được xác định trên cơ sở lãi suất gốc
tại thời điểm vay, cộng với độ chênh lệch về tốc độ lạm phát và các yếu tố kích
thích nếu có. Bởi vì lãi suất huy động đưa ra luôn đảm bảo một lãi suất thực
dương cho nhà đầu tư, cộng với tốc độ trượt giá của đồng tiền, tính ở thời
điểm huy động. Nếu tỷ lệ lạm phát tăng lên, lãi suất huy động sẽ điều chỉnh
tăng tương ứng. Nhưng nếu tỷ lệ lạm phát giảm, thông thường lãi suất trái
phiếu không thay đổi để khuyến khích các nhà đầu tư, những người giám chấp
nhận rủi ro, bỏ vốn cho nhà nước vay. Lãi suất này có thể áp dụng trong thời
gian tới đây, khi nền kinh tế mới phát triển và chưa ổn định, đồng tiền chưa
được đảm bảo, đặc biệt với những trái phiếu dài hạn 5 năm, 10 năm để nhà
đầu tư yên tâm khi mua chúng. Nhưng khi sử dụng lãi suất này sẽ gây khó
khăn cho nhà nước trong việc thanh toán vì nợ lớn khó trả hơn nợ bé nhất là
khi lạm phát biến động lớn qua các năm.
Như vậy, việc điều chỉnh tạo ra một mức lãi suất hợp lý không chỉ có ý
nghĩa trong công tác phát hành: hấp dẫn các nhà đầu tư vốn vào trái phiếu
chính phủ, tăng khả năng huy động vốn của nhà nước, kéo theo một loạt các
hiệu quả tích cực, đồng thời tạo thuận lợi cho quá trình thanh toán. Nhà nước
chủ động vào ngày đáo hạn, không bị căng thẳng về tài chính, tăng tính thanh
khoản của trái phiếu, khuấy tan sự “đóng băng” của TPCP trên thị trường
chứng khoán.
3.2.1.2 Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy về huy động vốn
thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ.

Nghị định số 01/2000 NĐ- CP ngày 13/1/2000 ra đời thay thế nghị định
72/CP ngày 26/07/1994 về quy định phát hành TPCP song còn nhiều bất cập
mà Bộ Tài Chính cùng với Ngân hàng nhà nước, uỷ ban Chứng khoán phải phối
hợp chặt chẽ để ban hành các văn bản thực hiện, bảo đảm tính kịp thời và
đồng bộ, tạo điều kiện cho các đơn vị triển khai thuận lợi.
Việc phát hành TPCP được thự hiện trên phạm vi rộng- cả nước, do đó
chính sách huy động, các văn bản hướng dẫn phải cụ thể, chi tiết để đảm bảo
tính thống nhất cho TPCP, chẳng hạn nếu trái phiếu đến hạn vào ngày thứ 7
hoặc chủ nhật thì coi là quá hạn vào thứ 2 tuần sau và thanh toán bình
thường, hoặc nên đơn giản hoá thủ tục, trong trường hợp người sở hữu trái
phiếu muốn mua bán, cho tặng, thừa kế...Vì theo như quyết định số 28/2000
QĐ-BTC ngày 25/02/2000 về việc phát hành trái phiếu kho bạc 2 năm đợt
tháng 3/2000 thì trong những trường hợp như vậy cả hai bên liên quan đều
phải đến kho bạc để làm thủ tục chuyển giao quyền sở hữu , gây rắc rối, cản
trở sự lưu thông của trái phiếu và giảm tính thanh khoản của nó.

×