Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

thực trạng và giải pháp nâng cao kết quả và hiệu quả hoạt động bảo hiểm hỏa hoạn bắt buộc tại công ty bảo hiểm dầu khí việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.21 KB, 100 trang )

MỤC LỤC
Đơn vị: tỷ đồng 40
(Nguồn: PVI) 40
Năm 68
Chi thực tế 68
Lượng tăng giảm 68
3.2.1.1. Thực hiện chiến lược tiếp cận khách hàng một cách hiệu quả: 84
3.2.1.5. Kiểm tra giám sát công tác đề phòng và hạn chế tổn thất 88
3.2.1.6. Nâng cao hiệu quả công tác giám định và bồi thường 91
3.2.1.7. Tăng cường quan hệ với các tổ chức trong và ngoài nước 92
3.2.1.8. Đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đại lý, cộng tác viên 93
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PVI Petrovietnam Insurance
BHDK Bảo hiểm dầu khí
TCT DKVN Tổng công ty Dầu khí Việt Nam
KTKH Kinh tế kế hoạch
BHNL Bảo hiểm năng lượng
BHHH Bảo hiểm hàng hải
BHKT Bảo hiểm kỹ thuật
HĐ Hợp đồng
KD Kinh doanh
CN Chi nhánh
Phòng KD Các phòng trực tiếp kinh doanh bảo hiểm
Phòng KH Phòng kế hoạch
Phòng TBH Phòng tái bảo hiểm
Phòng KT Phòng kế toán
Phòng NVKD Phòng nghiệp vụ kinh doanh
PCCC Phòng cháy chữa cháy
GYCBH Giấy yêu cầu bảo hiểm
GCNBH Giấy chứng nhận bảo hiểm
NBH Người bảo hiểm


GĐV Giám định viên
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Bảng
Loại hình cửa hàng 17
Hình 2. Biểu đồ tăng trưởng doanh thu 40
Đơn vị: tỷ đồng 40
(Nguồn: PVI) 40
Sơ đồ 1 : Các bước cơ bản cần có trong quy trình khai thác 49
Năm 68
Chi thực tế 68
Lượng tăng giảm 68
3.2.1.1. Thực hiện chiến lược tiếp cận khách hàng một cách hiệu quả: 84
3.2.1.5. Kiểm tra giám sát công tác đề phòng và hạn chế tổn thất 88
3.2.1.6. Nâng cao hiệu quả công tác giám định và bồi thường 91
3.2.1.7. Tăng cường quan hệ với các tổ chức trong và ngoài nước 92
3.2.1.8. Đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đại lý, cộng tác viên 93
LỜI MỞ ĐẦU
Hỏa hoạn chính là mối đe dọa thường trực rất lớn và tác động sâu sắc đến hoạt
động sản xuất nói riêng và cuộc sống xã hội nói chung. Chính vì lý do đó mà bảo
hiểm hỏa hoạn ra đời có vai trò và tác dụng to lớn. bảo hiểm hỏa hoạn cũng như
nhiều lọai hình bảo hiểm khác, thực hiện theo nguyên tắc số đông bù số ít, gây quỹ
bồi thường để bù đắp kịp thời những thiệt hại do hỏa hoạn gây ra, ổn định tài chính
cho người đươch bảo hiểm và ổn định xã hội. Mặt khác, do tính chất kết hợp nêu
trên, bảo hiểm hỏa hoạn còn có khả năng thúc đẩy các cơ quan, đơn vị tham gia bảo
hỉểm thực hiện công tác PCCC, tăng cường tính tự chủ của các đơn vị trong việc
phục hồi khả năng tái sản xuất kinh doanh sau hỏa hoạn và tạo ra sự ổn định lớn
trong nền kinh tế.
Tại Việt Nam, kể từ sau Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 về luật kinh
doanh bảo hiểm, hoạt động bảo hiểm bắt đầt hoạt đông sôi động và phát triển, có
nhiều nghiệp vụ mới bắt đầu triển khai, trong đó có bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro

đặc biệt. Đây là nghiệp vụ có tiềm năng phát triển và là một trong những nghiệp vụ
quan trọng của nhiều công ty bảo hiểm, đặc biệt là Tổng công ty cổ phần bảo hiểm
Dầu khí Việt Nam (PVI).
Nhận thức được tầm quan trọng của bảo hiểm hỏa hoạn và các giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ này, sau một thời gian thực tập tại phòng Tài
Sản – Kỹ Thuật của PVI, được sự giúp đỡ và tạo mọi điều kiện của công ty và sự
hướng dẫn nhiệt tình của TS – Nguyễn Thị Hải Đường, em đã chọn đề tài: “Thực
trạng và giải pháp nâng cao kết quả và hiệu quả hoạt động bảo hiểm hỏa hoạn
bắt buộc tại công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVI)” để làm chuyên đề thực
tập tốt nghệp của mình.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và dựa vào tình hình thực tế tại PVI, kết hợp với
các phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh… em đã hoàn thành chuyên
đề này.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần còn lại của chuyên đề đề được chia
thành 3 chương:
1
Chương I: Khái quát chung hoạt động kinh doanh bảo hiểm hỏa hoạn.
Chuơng II: Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn bắt buộc
tại PVI.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh bảo hiểm hỏa hoạn bắt buộc tại PVI.
Chuyên đề này sẽ hệ thống hóa lý luận về nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn bắt
buộc trong điều kiện thực tiễn PVI hiện nay. Từ đó, chuyên đề cũng đưa ra một số
giải pháp cơ bản, phù hợp với tình hình thực tiễn công ty giúp nâng cao hoạt động
của nghiệp vụ này.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình, thiết thực của TS – Nguyễn
Thị Hải Đường và sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ phòng Tài Sản – Kỹ Thuật
của PVI Đông Đô đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
2
NỘI DUNG CHÍNH

CHƯƠNG I – KHÁI QUÁT CHUNG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH BẢO HIỂM HỎA HOẠN
1.1. Giới thiệu chung về bảo hiểm hỏa hoạn:
1.1.1.Khái niệm:
Cháy: Lômônôxôp là người đầu tiên đã chứng minh bản chất của quá trình
cháy là sự hoá hợp giữa các chất cháy với không khí. Đến năm 1773, nhà hoá học
người Pháp Lavoadie đã khẳng định rõ hơn cháy là một phản ứng ô xy hoá, là sự
hoá hợp giữa chất cháy với oxy của không khí.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới hiện nay thì bản chất của
cháy là phản ứng hoá học có toả nhiệt và phát ra ánh sáng. Như vậy, có 3 dấu hiệu
để nhận biết ra cháy là: có phản ứng hoá học, có toả nhiệt và phát ra ánh sáng.
Nổ: Có hai loại nổ chính sau:
- Nổ lý học: Nổ lý học là nổ do áp suất trong một thể tích tăng lên qua cao,
vỏ thể tích không chịu nổi áp lực nên bị nổ. Các nhà khoa học coi hiện tượng nổ này
là một việc san bằng bất thình lình sự khác nhau về áp lực giữa hai khối khí hơi.
- Nổ hoá học: Nổ hoá học là hiện tượng nổ do cháy quá nhanh gây ra. Nổ
hoá học có đầy đủ 3 yếu tố của hiện tượng cháy là: có phản ứng hoá học, có toả
nhiệt và phát ra ánh sáng. Vậy, thực chất nổ hoá học là hiện tượng cháy với tốc độ
nhanh, toả ra nhiều sức nóng và sinh ra nhiều hơi.
Nổ hoá học thường gây thiệt hại có tính cơ học cho môi trường xung quanh
như phá huỷ hay lan sang rất mạnh.
Hoả hoạn: Trong đơn bảo hiểm cháy tiêu chuẩn không định nghĩa rõ hoả
hoạn là như thế nào vì người ta đều hiểu nó theo nghĩa thông dụng. Theo nghĩa
thông dụng, sẽ được hiểu là hoả hoạn khi bao gồm đầy đủ cả 3 yếu tố sau:
- Phải thực sự phát ra lửa
- Lửa đó không phải là lửa chuyên dùng
- Lửa đó phải là bất ngờ hay ngẫu nhiên phát ra chứ không phải là cố ý, có
chủ định của người được bảo hiểm. Tuy nhiên, hoả hoạn do sự bất cẩn của người
được bảo hiểm vẫn thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường.
3

Đơn vị rủi ro: Đơn vị rủi ro là nhóm tài sản tách biệt khỏi nhóm tài sản khác
với khoảng cách không cho phép lửa cháy lan từ nhóm này sang nhóm khác.
Đơn vị rủi ro còn có thể là một hay một nhóm ngôi nhà. Các ngôi nhà được
coi là tách rời nhau về mặt không gian thì khoảng trống phân cách giữa hai ngôi nhà
ít nhất bằng chiều cao của ngôi nhà cao hơn. Theo quy định chung hiện nay thì
khoảng cách gần nhất là không dưới 12m.
Khoảng trống tối thiểu theo quy định chung là:
- Giữa các kho bãi ngoài trời có chứa nguyên vật liệu dễ cháy là 20m
- Giữa các khối nhà trong đó có chứa các vật liệu dễ cháy với các ngôi
nhà khác là 15m
- Giữa các đối tượng khác là 10m.
Tường ngăn cách đơn vị rủi ro được hiểu là cấu trúc xây dựng để phân chia
ngôi nhà thành từng đơn vị rủi ro, do đó loại tường này phải có kỹ thuật chống
cháy cao hơn tường chống cháy, ví dụ như giới hạn chịu lửa không dưới 2,5 giờ…
Tổn thất toàn bộ: Trong bảo hiểm hoả hoạn có hai loại tổn thất toàn
bộ là tổn thất toàn bộ thực tế và tổn thất toàn bộ ước tính.
Tổn thất toàn bộ thực tế là tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ hay hư hỏng
hoàn toàn hoặc số lượng còn nguyên nhưng giá trị không còn.
Tổn thất toàn bộ ước tính là tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ hay hư hỏng
đến mức nếu sửa chữa phục hồi thì chi phí sửa chữa phục hồi đó cón lớn hơn hay
bằng số tiền bảo hiểm.
Về bảo hiểm và bảo hiểm hỏa hoạn:
Bảo hiểm là một hoạt động kinh tế quan trọng trên cơ sở xây dựng quỹ bảo
hiểm dưới hình thức nhất định để bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho những tổn
thất về con người và tài sản xảy ra do tai nạn, rủi ro bất ngờ. Trong khi đó, hoả hoạn
là loại rủi ro có thể xảy ra ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời điểm nào và thiệt hại do nó
gây ra thường rất lớn và phức tạp.
Bảo hiểm hoả hoạn chính là sự bảo đảm cho những tổn thất trực tiếp do cháy
gây ra. Nếu những tổn thất do cháy gây ra thuộc phạm vi bảo hiểm thì người được
bảo hiểm sẽ được nhận được một khoản tiền bồi thường từ các nhà bảo hiểm.

4
1.1.2 Vai trò của bảo hiểm hỏa hoạn:
* Đối với Nhà nước và nền kinh tế
Các doanh nghiệp bảo hiểm là các trung gian tài chính lớn nên từ nguồn quỹ
nhàn rỗi huy động được từ sự đóng góp người tham gia bảo hiểm họ sẽ sử dụng một
cách hết sức linh hoạt và năng động. Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đó sẽ được các
doanh nghiệp bảo hiểm đem vào kinh doanh như cho vay, mua trái phiếu, kinh
doanh bất động sản, tham gia thị trường chứng khoán, đầu tư vào các dự án các
hoạt động kinh tế cũng nhờ đó mà sôi động, hiệu quả hơn, nền kinh tế của một nước
luôn chắc chắn có một nguồn vốn đầu tư đáng kể. Như vậy có thể nói doanh nghiệp
bảo hiểm đã tạo ra một bàn tay vô hình thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Bên cạnh đó, bảo hiểm hỏa hoạn còn có ý nghĩa quan trọng trong việc
giữ gìn trật tự an ninh, an toàn xã hội vì nó tránh được sự bất ổn, lo lắng cho chính
người được bảo hiểm và cả hệ thống tài chính, ngân hàng và các quỹ tài chính trung
gian khác. Bởi vì, khi các doanh nghiệp vay vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh,
họ luôn phải có tài sản thế chấp để chứng minh khả năng thanh khoản đối với các
ngân hàng. Và nếu doanh nghiệp đó tham gia bảo hiểm hoả hoạn thì họ hoàn toàn
có thể đưa ra bản hợp đồng bả o hiểm đó như một bằng chứng đảm bảo để vay vốn.
Các ngân hàng cũng như các trung gian tài chính có thể yên tâm cho vay vốn là vì
họ biết rằng nếu có rủi ro xảy ra với doanh nghiệp họ cho vay vốn thì các doanh
nghiệp đó sẽ nhận được bồi thường từ phía các công ty bảo hiểm và do đó có khả
năng trả được nợ hơn các doanh nghiệp không tham gia bảo hiểm.
Như trước đây, khi xảy ra hoả hoạn là Nhà nước buộc phải gánh vác các
khoản chi khổng lồ đó. Nhưng khi các doanh nghiệp đã tham gia bảo hiểm hoả hoạn
thì Nhà nước đã có thể tiết kiệm được các khoản chi khắc phục hậu quả tổn thất,
tránh được những biến động chi tiêu ảnh hưởng tới ngân sách nhà nước. Hơn nữa,
bảo hiểm hoả hoạn cũng góp phần tăng thu ngoại tệ cho Nhà nước khi mà hoạt động
tái bảo hiểm được thực hiện tốt giữa các nhà bảo hiểm trong nước và quốc tế. Thị
trường bảo hiểm phát triển sẽ thu hút nhiều hơn sự tham gia bảo hiểm của các nhà
xuất nhập khẩu trong và ngoài nước cũng như sự chú ý của các nhà đầu tư.

Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, việc thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài đóng một vai trò hết sức to lớn. Trong khi đó, những chủ đầu tư này đã
5
quen với việc tham gia bảo hiểm hỏa hoạn sẽ rất an tâm khi đầu tư vào Việt Nam
nếu các công ty bảo hiểm trong nước cung cấp đầy đủ các dịch vụ để họ tham gia
bảo hiểm hoả hoạn đối với lĩnh vực mà họ kinh doanh. Như vậy, việc triển khai bảo
hiểm hoả hoạn chính là một kênh thu hút đầu tư hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi và
thúc đẩy quá trình mở rộng phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Tóm lại, bảo hiểm hoả hoạn đã góp phần quan trọng trong việc ổn định và
phát triển kinh tế xã hội. Thông qua việc giúp các doanh nghiệp thực hiện tốt các
biện pháp PCCC, đề phòng hạn chế tổn thất, từ đó giúp doanh nghiệp có thể yên
tâm đầu tư, mở rộng sản xuất. Đồng thời cũng giúp người dân xung quanh tránh
được sự lo lắng, hoang mang để ổn định cuộc sống, tạo một nếp sống văn minh và
an toàn. Nguồn phí thu được sẽ được đầu tư trở lại nền kinh tế, làm phong phú thêm
các hoạt động kinh tế và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động trong xã
hội.
Bảo hiểm hoả hoạn là loại hình bảo hiểm tài sản nhằm áp dụng đối với các
nhà máy, xí nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Khi tiến hành triển
khai bảo hiểm hoả hoạn, mặc dù các nước trên thế giới có khác nhau về tình hình
kinh tế chính trị, xã hội, văn hoá nhưng đều phải tính đến các đặc điểm chung sau:
Giá trị được bảo hiểm thường rất lớn như các công trình kiến trúc, các máy
móc thiết bị, nhà xưởng, văn phòng, phương tiện vận tải, hàng hoá, vật tư trong
kho, bể xăng… Đây là những tài sản rất có giá trị, có khi lên tới hàng chục, hàng
trăm tỷ đồng. Trong khi đó thì mặc dù đã hết sức cảnh giác đề phòng hạn chế tổn
thất và có những biện pháp phòng cháy chữa cháy hiện đại, tiên tiến thì rủi ro hoả
hoạn vẫn rất dễ xảy ra, không thể lường trước được. Thêm vào đó, thiệt hại do hoả
hoạn là rất lớn, không chỉ là một đơn vị nhỏ mà có khi là toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp hay tổ chức.
Đối tượng và phạm vi bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn là khá
rộng. Đối tượng bảo hiểm hầu hết là tài sản thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp

pháp của các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, các tổ chức và các cá nhân thuộc
mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Phạm vi bảo hiểm cũng rất phong phú, bao
gồm các rủi ro chính như cháy, nổ, sét… mà những rủi ro đó rất dễ xảy ra trong
cuộc sống hàng ngày.
6
Nghiệp vụ bảo hiểm có tính kỹ thuật trong hoạt động rất phức tạp,
thể hiện ở mọi khâu của nghiệp vụ như: cách xác định phân chia rủi ro, cách tính
phí, giám định, bồi thường…
Có rất nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến biểu phí vì đối tượng của bảo hiểm
hoả hoạn là rất đa dạng về chủng loại và mức độ rủi ro. Trên thực tế, một số yếu tố
cơ bản ảnh hưởng đến biểu phí như: vật liệu xây dựng, cách phân chia đơn vị rủi ro,
phòng cháy chữa cháy, bao bì đóng gói, chủng loại hàng hóa… Các yếu tố này trực
tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến việc gia tăng hoặc giảm thiểu mức độ rủi ro cháy.
Trong trường hợp rủi ro cháy được giảm càng nhiều thì người được bảo hiểm càng
được giảm phí, nhà bảo hiểm giảm khả năng phải bồi thường, hoạt động kinh tế
cũng nhờ đó mà không bị ngừng trệ.
* Đối với cá nhân và tổ chức tham gia bảo hiểm
Bảo hiểm hoả hoạn là một loại hình bảo hiểm tài sản nhằm áp dụng đối với
các xí nghiệp, khách sạn, nhà máy, văn phòng, nhà hàng… thuộc mọi thành phần
kinh tế. Giá trị bảo hiểm hoả hoạn thường là rất lớn, khi xảy ra rủi ro thì tổn thất
không chỉ là một đơn vị nhỏ mà có khi là đối với toàn bộ tài sản của doanh nghiệp.
Vì vậy, việc các đơn vị này tham gia bảo hiểm là tất yếu và có như vậy mới đảm
bảo ổn định kinh doanh của các doanh nghiệp này.
Khi quy mô sản xuất ngày càng mở rộng như hiện nay thì giá trị tài sản của
các doanh nghiệp cũng ngày càng tăng lên. Vì vậy, khi có rủi ro xảy ra, thiệt hại sẽ
thật khôn lường và sẽ ảnh hưởng lâu dài không chỉ tới bản thân doanh nghiệp đó mà
còn ảnh hưởng tới tất cả các doanh nghiệp khác có liên quan. Khi đó, sự ra đời của
các công ty bảo hiểm sẽ không những giúp các doanh nghiệp ổn định tình hình sản
xuất kinh doanh mà còn giúp các chủ thể khác trong nền kinh tế ổn định cuộc sống.
Thông qua việc bồi thường một cách chính xác, nhanh chóng, kịp thời và thoả đáng,

bảo hiểm đã giúp các doanh nghiệp nhanh chóng khắc phục được hậu quả thiệt hại.
Vì vậy có thể nói bảo hiểm là lá chắn kinh tế để ổn định kinh doanh và bảo toàn vốn
cho các doanh nghiệp khi xảy ra các sự cố bảo hiểm. Mặt khác, quỹ bảo hiểm nhàn
rỗi sẽ được các công ty bảo hiểm đem đi đầu tư sinh lời vừa để bảo toàn và cũng
vừa nhằm thu lợi nhuận, để phát triển và tăng trưởng quỹ bảo hiểm.
Ở không ít quốc gia trên thế giới người ta coi hoả hoạn không khác gì giặc
7
ngoại xâm vì thiệt hại hoả hoạn gây ra là vô cùng to lớn và không thể lường trước
được. Đặc biệt, hoả hoạn còn mang tính chất tích luỹ rủi ro, những thiệt hại do cháy
gây ra không chỉ để lại hậu quả trước mắt còn mà về lâu về dài. Do vậy, nếu chỉ để
một cá nhân hoặc một doanh nghiệp thực hiện khắc phục hậu quả thiệt hại là không
thể làm được.
Để đề phòng và hạn chế hậu quả do cháy gây ra, người ta sử dụng hai biện
pháp chính là PCCC và bảo hiểm. Bên cạnh các biện pháp PCCC truyền thống thì
việc tham gia bảo hiểm cũng được coi như là một trong những biện pháp PCCC tốt
nhất hiện nay. Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc chi trả bồi thường từ các
công ty bảo hiểm có ý nghĩa vô cùng to lớn. Vì như trước đây, các doanh nghiệp
chưa tham gia bảo hiểm hoả hoạn, khi xảy ra sự cố, họ chỉ nhận được một khoản
bù đắp, cứu trợ tượng trưng rất nhỏ của Nhà nước và cũng chỉ áp dụng đối với các
doanh nghiệp Nhà nước. Còn trong quá trình tư nhân hoá đang ngày càng phát triển
như hiện nay, bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia bảo hiểm hoả hoạn và
khi xảy ra sự cố bảo hiểm thì họ cũng nhanh chóng nhận được các khoản bồi
thường lớn để có thể ổn định và tiếp tục sản xuất kinh doanh. Còn đối với các doanh
nghiệp Nhà nước, khi chuyển đổi cơ chế thị trường, họ sẽ không còn có nhiều sự hỗ
trợ của Nhà nước như trước đây nữa nên trong trường hợp xảy ra rủi ro, họ không
được quyền khi giảm vốn. Vì vậy, có thể nói bảo hiểm là lá chắn cuối cùng để đảm
bảo cho sự bảo toàn vốn của các doanh nghiệp khi sự cố bảo hiểm xảy ra.
Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức giúp họ yên tâm
trong cuộc sống, trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Bảo hiểm cũng thể hiện tính
cộng đồng, tương trợ, nhân văn sâu sắc. Việc tham gia bảo hiểm hoả hoạn còn giúp

tạo tâm lý yên tâm trong sản xuất kinh doanh, giúp các nhà thầu và các nhà đầu tư
mạnh dạn hơn trong đầu tư. Do đó, nó cũng gián tiếp góp phần tạo thêm công ăn
việc làm cho người lao động. Nó cũng đồng thời giải toả được sự lo lắng bất ổn của
người dân sống xunh quanh khu vực thường xuyên có hoả hoạn hoặc có nguy cơ
xảy ra hoả hoạn cao.
Hơn nữa, bảo hiểm hoả hoạn còn góp phần đề phòng các rủi ro có thể xảy ra,
giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp vì thông qua việc tham gia bảo
hiểm hoả hoạn, chính người tham gia sẽ có ý thức hơn về việc tự bảo vệ tài sản của
8
mình cũng như của cả cộng đồng. Ngoài ra, các công ty bảo hiểm khi tiến hành kinh
doanh nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn, họ cũng không muốn rủi ro tổn thất xảy ra để
phải bồi thường nên họ luôn tích cực tìm kiếm các biện pháp để đề phòng hạn chế
tổn thất. Bằng một khoản trích theo một tỷ lệ nhất định từ nguồn phí thu được, các
công ty bảo hiểm sẽ thực hiện các biện pháp đó một cách hiệu quả thông qua công
tác thống kê tình hình tổn thất hàng năm, xác định nguyên nhân gây cháy, tư vấn
các khu vực có nguy cơ cao xảy ra hoả hoạn, hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia bảo
hiểm có được các biện pháp đề phòng hạn chế một cách hữu hiệu nhất. Họ cũng có
thể đào tạo những chuyên gia đánh giá rủi ro. Những chuyên gia này một mặt giúp
các doanh nghiệp biết cách đề phòng hạn chế tổn thất mà còn gợi ý giúp các họ áp
dụng các trang thiết bị PCCC thích hợp với điều kiện hoàn cảnh của công ty. Bên
cạnh đó, công ty bảo hiểm còn thường xuyên kiểm tra đôn đốc, tạo cơ sở vật chất và
sẵn sàng hỗ trợ kinh phí để các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp PCCC tốt
hơn.
1.2.Nội dung của bảo hiểm hỏa hoạn:
1.2.1. Đối tượng bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm:
* Đối tượng bảo hiểm:
Đối tượng của bảo hiểm hoả hoạn là tất cả tài sản thuộc quyền sở hữu và
quản lý hợp pháp của các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, các tổ chức và cá
nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Đối tượng của bảo hiểm hoả hoạn
là rất phong phú, có thể được chia thành như sau:

- Máy móc trang thiết bị, phương tiện lao động
- Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng.
- Nguyên vật liệu, thành phẩm, bán thành phẩm
- Vật tư, hàng hoá trong kho
- Các loại tài sản khác như: kho, chợ, của hàng, văn phòng, khách sạn
Việc phân chia đối tượng bảo hiểm như trên không những giúp cho các công
ty bảo hiểm đánh giá và quản lý rủi ro chính xác hơn mà còn giúp cho việc tính
phí bảo hiểm đơn giản và hợp lý hơn. Đồng thời, nó cũng giúp cho người tham gia
bảo hiểm dễ dàng hơn trong việc xây dựng các phương án phòng cháy chữa cháy.
Thiệt hại do cháy không chỉ là các tổn thất vật chất trực tiếp mà nó còn
9
có cả những tổn thất gián tiếp phi vật chất như các tổn thất gây ra cho người thứ ba
thuộc về trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm. Tổn thất đó có thể là thiệt
hại về kinh doanh, thiệt hại cho người xung quanh… Do đó, trên thực tế, công ty
bảo hiểm còn có thể nhận bảo hiểm thêm: trách nhiệm dân sự, thiệt hại kinh
doanh… với điều kiện là các thiệt hại này là do hậu quả của cháy.
* Phạm vi bảo hiểm:
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn các rủi ro được bảo hiểm và giới hạn trách
nhiệm của công ty bảo hiểm. Khi xảy ra rủi ro cháy, người được bảo hiểm sẽ được
bồi thường những thiệt hại và các chi phí khác có liên quan sau:
- Những chi phí cần thiết để hạn chế tổn thất tài sản được bảo hiểm trong
và sau khi cháy như: chi phí chữa cháy, chi phí bảo quản trong và sau khi cháy.
- Những thiệt hại do những rủi ro được bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận
bảo hiểm hoặc danh mục kèm theo giấy chúng nhận bảo hiểm nếu người được bảo
hiểm đã nộp phí và những thiệt hại đó xảy ra trước 16h ngày cuối cùng của thời hạn
bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm, gây ra cho tài sản.
- Những chi phí dọn dẹp hiện trường sau khi cháy.
Khi rủi ro cháy xảy ra, muốn xác định các tổn thất đó là thuộc phạm vi bảo
hiểm hay không để từ đó có phương án đền bù chính xác và thoả đáng, các nhà bảo
hiểm phải xác định rõ các rủi ro bảo hiểm và các rủi ro không được bảo hiểm.

* Rủi ro được bảo hiểm
Trong bảo hiểm hảo hoạn thì các rủi ro được bảo hiểm bao gồm:
Rủi ro chính: “cháy” – Rủi ro A. Thực chất rủi ro này bao gồm: cháy, sét
và nổ.
- Cháy sẽ được bảo hiểm trong trường hợp hội tụ đầy đủ 3 yếu tố sau:
+ Phải thực sự có phát ra lửa.
+ Lửa đó không phải lửa chuyên dùng
+ Lửa đó phải là ngẫu nhiên hay bất ngờ phát ra
Khi đã có đầy đủ các yếu tố trên và có những thiệt hại về vật chất thì thiệt hại
đó sẽ được bồi thường, dù đó là do cháy hay do nhiệt hay khói gây ra.
- Sét: là tác động trực tiếp của tia chớp vào tài sản được bảo hiểm. Người
được bảo hiểm chỉ được bồi thường khi tài sản bị phá huỷ trực tiếp do sét hoặc do
10
sét đánh gây cháy. Nếu sét đánh mà không gây cháy hay không phá huỷ trực tiếp tài
sản thì không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường. Ví dụ như sét đánh phá huỷ
trực tiếp các thiết bị điện tử thì các thiết bị này vẫn được bồi thường nhưng nếu sét
đánh vào một trạm biến thế điện và làm cho dòng điện tăng đột ngột, dẫn đến thiệt
hại cho các thiết bị điện tử này thì công ty bảo hiểm không phải bồi thường trong
trường hợp này.
- Nổ: là hiện tượng cháy cực nhanh, tạo ra một áp lực lớn kèm theo một tiếng
động mạnh, phát sinh bởi một sự giãn nở nhanh và mạnh của các chất rắn, chất
lỏng, chất khí.Nổ trong bảo hiểm hoả hoạn bao gồm:
+ Nổ nồi hơi phục vụ sinh hoạt
+ Hơi đốt phục vụ sinh hoạt, thắp sáng hoặc sưởi ấm trong một ngôi nhà
không phải nhà xưởng hay làm các công việc sử dụng hơi đốt.
+ Các trường hợp nổ gây cháy được bảo hiểm, chỉ còn lại những thiệt hại
tổn thất do nổ mà không gây cháy
+ Tổn thất do nổ mà không gây cháy thì không được bồi thường, trừ những
trường hợp nổ nồi hơi phục vụ sinh hoạt.
+ Tổn thất do nổ có nguồn gốc từ cháy thì thiệt hại ban đầu do cháy gây ra

thì được bồi thường nhưng tổn thát do hậu quả của nổ thì không được bồi thường.
- Các rủi ro phụ:
Các rủi ro phụ này chỉ có thể được bảo hiểm khi đi kèm các rủi ro chính,
và việc có tham gia hay các bảo hiểm các rủi ro này hay không tuỳ thuộc vào quyết
định của người tham gia bảo hiểm. Các rủi ro phụ bao gồm:
+ Máy bay và các phương tiện hàng không khác hay các thiết bị trên các
phương tiện đó rơi vào làm cho tài sản được bảo hiểm bị thiệt hại. Các thiệt hại loại
này đều được bồi thường dù không có xảy ra hoả hoạn.
+ Nổi loạn, bạo động dân sự, đình công, bể xưởng…
+ Lửa ngầm dưới đất: mọi thiệt hại do lửa ngầm dưới đất gây ra đều được
bồi thường dù có xảy ra cháy hay không.
+ Động đất: mọi tổn thất do động đất gây ra đều được phía công ty bảo hiểm
bồi thường dù động đất không gây ra cháy.
+ Giông bão: Dù giông bão không gây ra cháy nhưng những thiệt hại do
11
giông bão gây ra đều được bồi thường.
+ Vỡ tràn nước từ các bể chứa: nhưng loại trừ tài sản bị phá huỷ do nước
chảy, rò rỉ từ hệ thống thiết bị phòng cháy chữa cháy tự động.
* Rủi ro loại trừ
Trên thực tế có những rủi ro mà nhà bảo hiểm không thể nhận bảo
hiểm được. Những điểm loại trừ trong bảo hiểm hoả hoạn được áp dụng như sau:
+ Những thiệt hại tổn thất do hành động cố ý hay đồng loã của người được
bảo hiểm gây nên.
+ Những tổn thất do: nổi loạn, đình công trừ khi những rủi ro này đã được
bảo hiểm kèm theo các rủi ro chính, có thoả thuận trong giấy chứng nhận bảo hiểm.
+ Những tổn thất có liên quan đến phóng xạ, hay nhiễm phóng xạ
+ Những tổn thất về hàng hoá nhận uỷ thác, tiền bạc, chứng khoán, bản thảo,
sổ sách kinh doanh, bản vẽ, tài liệu thiết kế… trừ khi đã có thoả thuận là trả thêm
phí bảo hiểm cho những tổn thất trong trường hợp này.
+ Tài sản bị cướp hay mất cắp nhưng nếu chứng minh được là bị mất cắp

thì vẫn được bồi thường.
+ Những thiệt hại gây ra cho bên thứ ba
+ Những thiệt hại tổn thất mang tính chất hậu quả dưới bất kỳ hình thức nào
do phải ngừng kinh doanh, ô nhiễm môi trường… trừ thiệt hại về tiền thuê nhà được
xác nhận trong giấy bảo hiểm là được bảo hiểm.
+ Chất nổ không bao gồm nguyên nhiên liệu xăng dầu, người, động thực vật
sống.
+ Những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất được bảo hiểm theo đơn
bảo hiểm hàng hải, trừ phần thiệt hại vượt quá só tiền bồi thường theo đơn bảo hiểm
hàng hải.
+ Những thiệt hại tổn thất trong mức miễn thường. Thông thường, trong áp
dụng mưc miễn thường có khấu trừ tối thiểu là 2% số tiền bảo hiểm trên một đơn vị
rủi ro/vụ tổn thất nhưng tối thiểu không dưới 100 USD/vụ và tối đa là 2000
USD/vụ.
1.2.2. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
* Giá trị bảo hiểm:
12
Giá trị bảo hiểm (GTBH) được hiểu là giá trị của tài sản được bảo hiểm. Giá
trị này có thể là giá trị thực tế hoặc giá trị mua mới.
Tài sản trong bảo hiểm hoả hoạn thường có giá trị rất lớn như công trình, kho
tàng, bến bãi… Vì có nhiều loại tài sản khác nhau như vậy nên việc xác định GTBH
và số tiền bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản đôi khi rất phức tạp và khó khăn. Để có
thể xác định GTBH một cách chính xác, người ta phân chia tài sản ra thành 2 loại:
- Những tài sản mang tính kiên cố và tương đối tĩnh (nhà xưởng, văn phòng,
nhà ở, máy móc thiét bị…), căn cứ vào 3 chỉ tiêu sau:
+ Giá trị ban đầu hoàn toàn - khấu hao nếu có
+ Chi phí thực tế cộng dồn
+ Thoả thuận về chi phí và giá trị giữa các bên tham gia.
- Những hàng hoá thường xuyên luân chuyển, khi xác định GTBH người ta
chia thành 2 loại:

+ Bảo hiểm theo giá trị trung bình: Vì hàng hoá trong các kho bãi, cửa hàng
luôn luân chuyển nên không thể xác định được giá trị của số hàng hoá đó trong một
thời điểm nhất định nên trong trường hợp này thì người được bảo hiểm sẽ ước tính
và thông báo cho nhà bảo hiểm giá trị của số hàng hoá trung bình có trong kho,
bãi… trong thời hạn bảo hiểm. Và giá trị trung bình này được coi là số tiền bảo
hiểm. Giá trị trung bình này cũng được làm cơ sở để tính phí bảo hiểm và công ty
bảo hiểm cũng bồi thường tổn thất thực tế nhưng không vượt quá giá trị trung bình
đã khai báo.
+ Bảo hiểm theo giá trị tối đa: công ty bảo hiểm trong trường hợp này
sẽ nhận bảo hiểm cho tài sản với mức giá trị tối đa tại thời diểm mà chủ sở hữu tài
sản có giá trị tối đa so với các thời điểm trong nước. Vì trong trường hợp này thì giá
trị tài sản có thể tăng đột biến nên nhà bảo hiểm và người được bảo hiểm có thể gặp
nhau để thoả thuận thêm về số tiền bảo hiểm.
Trong trường hợp này thì người được bảo hiểm cũng ước tính và thông báo
cho công ty bảo hiểm giá trị của hàng hoá tối đa có thể đạt được vào một thời điểm
nào đó trong thời hạn bảo hiểm. Phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị tối đa này
nhưng không được thu hết ngay toàn bộ phí mà chỉ được thu 75%. Đến cuối năm
bảo hiểm, người được bảo hiểm sẽ phải quyết toán nốt số tiền phí bảo hiểm còn lại
dựa trên giá trị hàng hoá thực tế hàng tháng hay hàng quý. Khi có thiệt hại tổn thất
thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường thiệt hại thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá
giá trị tối đa đã khai báo trước đó.
13
Nếu thiệt hại xảy ra trong thời hạn bảo hiểm và đã được bồi thường vượt quá
giá trị tối đa bình quân thì lúc này việc tính phí bảo hiểm sẽ không dựa vào giá trị
tối đa nữa mà sẽ dựa vào số tiền bồi thường đã trả (nghĩa là coi số tiền bồi thường
chính là số tiền bảo hiểm). Nên trong mọi trường hợp thì số tiền bồi thường vẫn
không được vượt quá số tiền bảo hiểm. Và nếu người được bảo hiểm bồi thường
nhiều lần thì tổng số tiền bồi thường cũng không được vượt quá số tiền bảo hiểm.
Tuy nhiên, để không phải điều chỉnh lại cuối thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo
hiểm, phí bảo hiểm và tiện cho công tác tái bảo hiểm thì các nhà bảo hiểm và người

được bảo hiểm nên chọn bảo hiểm theo giá trị trung bình.
* Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là giới hạn bồi thường tối đa của người bảo hiểm trong
trường hợp tài sản được bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ. Người được bảo hiểm cũng có
thể tham gia bảo hiểm tài sản của mình với số tiền lớn hơn giá trị bảo hiểm nhưng
không vượt quá giá trị bảo hiểm. Cũng như nói ở trên, số tiền bảo hiểm chính là căn
cứ để tính phí bảo hiểm và cơ sở để xác định số tiền bảo hiểm chính là giá trị bảo
hiểm.
Trong bảo hiểm hoả hoạn thì các nhà bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm
theo kiểu chọn điểm. Nghĩa là không nhận bảo hiểm cho bộ phận tài sản, những
công đoạn sản xuất có nhiều rủi ro nhất vì khả năng phải bồi thường cho người
được bảo hiểm là rất cao và rất dễ xảy ra trục lợi bảo hiểm. Tuy nhiên, công ty bảo
hiểm cũng có thể chấp nhận bảo hiểm tới 50% giá trị tài sản.
1.2.3. Phí bảo hiểm và phương pháp xác định phí bảo hiểm
1.2.3.1. Phí bảo hiểm:
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm phải nộp cho cơ quan
bảo hiểm, để bảo hiểm những rủi ro mà họ tham gia. Phí bảo hiểm chính là giá cả
của dịch vụ bảo hiểm. Tính toán mức phí phù hợp với yêu cầu của khách hàng và
đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là mục tiêu phấn đấu của
tất cả các công ty bảo hiểm. Nó là một trong những nhân tố quyết định tính sống
còn của doanh nghiệp trong thị trường bảo hiểm cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Xét về mặt lý thuyết, phí bảo hiểm bao gồm hai phần phí: cơ bản và phụ phí.
Phí bảo hiểm = phí cơ bản + phụ phí
Trong đó: phí cơ bản được xác định dựa trên xác suất xảy ra rủi ro và số tiền bảo
hiểm
Phí bảo hiểm = xác suất xảy ra rủi ro * số tiền bảo hiểm
14
Phần phụ phí thường bằng 30% thực phí bảo hiểm
Trong thực tế phí bảo hiểm gồm 2 phần: phí gốc và VAT
Trong đó: phí bảo hiểm được doanh nghiệp giữ lại còn VAT nộp cho nhà nước,

thông thường VAT = 10% phí bảo hiểm
Phí cơ bản được xác định như sau:
Phí cơ bản = Tỉ lệ phí bảo hiểm * Số tiền bảo hiểm
Tỉ lệ phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm sẽ là những cơ sở để xác định phí bảo
hiểm.
* Giá trị bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm là cơ sở đầu tiên và rất quan trọng để xác định phí bảo hiểm
mà người tham gia bảo hiểm phải đóng góp. Trong cùng một điều kiện, thì phí bảo
hiểm sẽ tỷ lệ thuận với giá trị của tài sản được bảo hiểm.
* Tỷ lệ phí bảo hiểm
Tuỳ vào từng loại công trình khác nhau, điều kiện phòng cháy chữa cháy
(PCCC) khác nhau thì sẽ có tỉ lệ phí khác nhau. Muốn xác định tỷ lệ phí bảo hiểm
phải dựa trên cơ sở sau:
- Vật liệu công trình: người ta chia làm 3 loại
+ Loại 1: vật liệu khó bắt lửa và có khả năng chịu nhiệt tốt như bê tông, cốt
thép, đá ;loại này sử dụng cho công trình loại D (Discount class: là công trình phải
đạt các yêu cầu về bộ phận chịu lửa và bộ phận không chịu lực).
+ Loại 2: vật liệu trung gian là loại vật liệu hỗn hợp chứa nhiều chất hoá học
trộn với vật liệu thiên nhiên, khả năng chịu lửa không tốt bằng vật liệu nặng; loại
này sử dụng cho công trình loại N (Neutral class: không đạt tiêu chuẩn như loại D
nhưng ít nhất các bộ phận chịu lực và các cấu kiện khác cũng phải làm bằng vật liệu
khó cháy).
+ Loại 3: vật liệu nhẹ, nhìn chung loại vật liệu này dễ bắt lửa và được sử dụng
để xây dựng công trình loại L (là loại công trình không đạt được các yêu cầu như
loại D và N)
- Hệ thống phòng cháy chữa cháy
Đây là một yếu tố hết sức quan trọng ảnh hưởng đến việc xác định tỷ lệ phí.
Công tác phòng cháy chữa cháy là một yếu tố quan trọng nhất làm giảm khả
năng xảy ra tổn thất. Nếu công tác phòng cháy chữa cháy được đảm bảo, trang thiết
bị tốt để hạn chế thấp nhất những rủi ro xảy ra thì tỷ lệ phí bảo hiểm sẽ được tính

thấp hơn.
15
Mặt khác ngày càng có nhiều các công ty bảo hiểm phi nhân thọ xuất hiện
làm cho tính chất cạnh tranh ngày càng khốc liệt, nên các công ty bảo hiểm còn phải
dựa vào tỷ lệ phí của các công ty bảo hiểm khác để xác định tỷ lệ phí cho công ty
của mình sao cho hợp lý và đảm bảo tính cạnh tranh.
1.2.3.2. Phương pháp xác định tỷ lệ phí bảo hiểm:
Phí bảo hiểm được xác định dựa trên cơ sở số liệu thống kê tổn thất xảy ra
trong một khoảng thời gian trước, thường từ 3 đến 5 năm. Phí bảo hiểm phải đóng
được xác định trên cơ sở tỷ lệ phí và số tiền bảo hiểm.
Có hai phương pháp xác định tỷ lệ phí theo phân loại và danh mục:
- Theo phân loại
Đây là cách kết hợp các đơn vị có thể so sánh với nhau và cùng một loại, sau
đó tính tỉ lệ mỗi loại phản ánh số tổn thất và các chi phí khác của loại đó. Cách này
phù hợp với các tài sản như nhà cửa, công trình kiến trúc Nhưng khi xác định theo
loại này cần xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phí:
+ Vật liệu xây dựng bằng gì?
+ Khả năng phòng cháy chữa cháy
+ Những vật bố trí xung quanh, bên ngoài (những công trình đặc biệt dễ cháy
để gần lửa lan nhanh tới tài sản được bảo hiểm)
+ Người sử dụng (chủ ở hay cho thuê)
- Theo danh mục
Phân tích từng loại tài sản một cách riêng biệt cho dù tính phí theo phương
pháp phân loại hay theo danh mục thì quá trình tính phí đều phải tuân theo những
bước nhất định không thể thiếu. Các bước xác định phí bảo hiểm bao gồm:
Bước 1: Chọn tỷ lệ phí thích hợp trong biểu phí
Trước hết cần xác định xem đối tượng bảo hiểm thuộc ngành sản xuất nào,
sau đó chọn tỉ lệ phí quy định cho ngành sản xuất kinh doanh đó trong biểu phí.
Biểu phí cơ bản là bảng thống kê xác suất rủi ro của từng loại hình tài sản. Để có
được biểu phí cơ bản, các công ty bảo hiểm phải nghiên cứu trên cơ sở thống kê

tình hình thực tiễn xảy ra rủi ro ở địa phương hay ở quốc gia mà công ty tiến hành
triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn. Hiện nay biểu phí bảo hiểm hoả hoạn ở
Việt Nam được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu áp dụng tại Việt Nam của công ty
tái bảo hiểm Munich (MunichRe).
16
Bảng 1: Biểu phí áp dụng chung cho tất cả các ngành
Loại công trình
Nhà làm việc, văn phòng
Nhà loại D
Nhà loại N
Nhà loại L
Phí cơ bản (
0
/
00
)
1,2
1,5
2,0
Nhà sản xuất đang xây dựng với số tiền bảo hiểm
tăng dần theo tiến độ thi công.
Với số tiền bảo hiểm cố định
1,5
1,2
(Nguồn: Bộ tài chính)
Bảng 2: Biểu phí áp dụng cho cửa hàng, kho tàng
Mã số
9711
9713
Loại hình cửa hàng

Cửa hàng bách hoá có diện tích trên 2000m2
Các công ty bán hàng theo đơn đặt hàng qua
bưu điện Cửa hàng bách hoá, trung tâm thương
mại, siêu thị
Phí cơ bản (
0
/
00
)
2.3
3,2
941
942
943
944
945
Kho (bao gồm cả tháp, hầm, bể chứa)
Kho với rủi ro cháy rất thấp
Kho với rủi ro cháy thấp
Kho với rủi ro cháy trung bình
Kho với rủi ro cháy tương đối cao
Kho với rủi ro cháy rất cao
1,0
1,5
2,3
3,5
5,0
(Nguồn: Bộ tài chính)
Đối với các loại kho, mức độ được đánh giá tuỳ theo diện tích của kho, chiều
cao của kho. Các kho 943-: -945 phải cộng thêm 50% phí nếu diện tích chứa hàng

vượt quá 7500m² hoặc chiều cao xếp hàng vượt quá 7,5m mà không có các phương
tiện phòng cháy chữa cháy tự động như Sprinkler, hệ thống chữa cháy bằng CO
2
v.v
- Tỷ lệ phí bảo hiểm còn phụ thuộc vào hình thức bao gói của hàng hóa. Bao
bì hàng hoá chia làm 5 loại:
17
p1: Không có bao bì
p2: Bao bì bằng chất không cháy, phủ kín hàng hoá và có độ dày bằng nhau.
Nếu không phủ kín hoặc không có độ dày bằng nhau thì được xếp vào p1
p3: Bao bọc một phần bằng nhựa dễ cháy
p4: Bọc kín bằng nhựa xếp
Để nhận biết ta dựa vào các dấu hiệu sau:
+ Nếu hàng hoá được chứa trên giá gỗ thì được xếp vào loại đóng gói p3
+ Nếu hàng hoá được chứa trong hoặc vận chuyển bằng container, làm bằng
vật liệu dễ cháy thì được xếp vào loại p4
Hàng hoá đóng gói không quá 20% diện tích bề mặt của hàng hoá thì xếp vào
loại p3
Ngoài ra, các loại hình sản xuất kinh doanh còn được phân ra thành các nhóm
từ 0 đến
9, quy định cụ thể tỷ lệ phí cho từng ngành sản xuất kinh doanh.
Bảng 3: Phân loại theo loại hình sản xuất kinh doanh
Nhóm Loại hình sản xuất kinh doanh
0 Thương mại kho tàng
1 Khai khoáng
2 Đất đá
3 Kim loại
4 Hoá chất
5 Dệt may
6 Da

7 Gỗ
8 Thực phẩm
9 Khác
(Nguồn: Bộ tài chính)
Bước 2: Điều chỉnh tăng giảm tỷ lệ phí đã chọn
* Xác định bậc chịu lửa của công trình
Xác định bậc chịu lửa của công trình tức là xác định công trình thuộc loại
kiến trúc nào, xem chúng được xây dựng bởi vật liệu gì và khả năng chịu lửa của
mỗi công trình đó.
* Các yếu tố làm tăng giảm mức độ rủi ro;
- Các yếu tố làm tăng mức độ rủi ro.
18
Các công trình có thiết bị phụ trợ có thể làm tăng khả năng xảy ra tổn thất.
Ví dụ: Dây chuyền sơn trong một phân xưởng sản xuất, thiết bị xấy khô, chiết
xuất, chế biến gỗ, gia công nhân tạo.
Tuy nhiên phụ phí này sẽ không được tính thêm, nếu các máy móc thiết bị phụ
trợ thêm được lắp trong phòng ngăn cách với bên ngoài bằng tường chống cháy
đồng thời có máy báo cháy và chiếm không quá 10% diện tích của các đơn vị rủi ro.
Tuỳ từng trường hợp cụ thể nhà bảo hiểm tự đánh giá và đưa ra tỷ lệ tăng phí,
nhưng trong mọi trường hợp tỷ lệ tăng tối đa chỉ là 15%.
+ Có các điều kiện đặc biệt không thuận lợi đối với các rủi ro được bảo hiểm:
• Có các nguồn lửa mà không được ngăn cách chống cháy, có lò sưởi đốt bằng
dầu, khí trong phòng làm việc, có thiết bị sưởi ấm bằng tia hồng ngoại. Tuy nhiên sẽ
không tính thêm phí nếu không có các vật dễ cháy được sản xuất hay cất giữ gần
đó.
• Có dây chuyền sản xuất tự động hóa (không có người điều khiển) nhưng
không được trang bị các thiết bị báo cháy tự động thích hợp và đúng tiêu chuẩn.
• Thiết kế không đạt yêu cầu hoặc công việc sửa chữa không đạt chất lượng
yêu cầu.
• Thiếu các trang thiết bị báo cháy chữa cháy cần thiết.

Đối với những loại công trình như thế này phí bảo hiểm cần phải tăng và mức
tăng phí tuỳ theo đánh giá của nhà bảo hiểm trên cơ sở có sự thoả thuận nhất trí của
người tham gia bảo hiểm.
+ Các công trình có trung tâm máy tính.
Công trình có trung tâm máy tính nhưng không được ngăn cách chống cháy,
không có hệ thống phòng cháy chữa cháy riêng biệt và phù hợp thì tỷ lệ tăng phí tối
đa không quá 5%.
+ Có khả năng xảy ra phá hoại (cố tình gây cháy)
Trường hợp này rất khó xác định và khó đạt được thoả thuận giữa nhà bảo
hiểm và người tham gia. Tuỳ theo sự đánh giá của nhà bảo hiểm và sự thoả thuận
giữa 2 bên để tăng tỷ lệ phí, nhưng mức tăng tối đa không quá 5%.
+ Căn cứ trên cơ sở những tổn thất trong quá khứ.
Nếu trong năm năm trước, tổng số tiền bồi thường vượt quá 150% số phí bảo
19
hiểm đã nộp thì nhà bảo hiểm tăng ít nhất là 10% phí.
- Các yếu tố làm giảm mức độ rủi ro.
Trong các biện pháp đề phòng hạn chế rủi ro thì biện pháp phòng cháy chữa
cháy được đặt lên hàng đầu. Nếu như thực hiện tốt nó sẽ giúp giảm đáng kể những
rủi ro, thiệt hại do hoả hoạn gây ra, mặt khác nó cũng là một yếu tố quan trọng để
giảm phí bảo hiểm hoả hoạn.
+ Các thiết bị phòng cháy, báo cháy.
• Có hệ thống báo cháy tự động được nối thẳng với trạm cứu hoả công cộng:
giảm 8% phí.
• Có hệ thống báo cháy tự động được nối thẳng với phòng thường trực, đội
cứu hoả của xí nghiệp, trạm công an hay cơ quan có trách nhiệm về bảo đảm an
toàn về phòng cháy chữa cháy: giảm 6% phí.
• Có bộ phận báo cháy thuộc hệ thống báo cháy tự động được lắp đặt cố định
được giảm 5% phí.
• Việc trực kiểm tra canh gác thực hiện 24/24 giờ, cứ 2 giờ một lần có người
kiểm tra và liên lạc ngay bằng điện thoại hay bấm nút ngay khi cần phát lệnh báo

động: giảm 5% phí
Chú ý: Trong trường hợp có đủ các phương tiện nói trên chỉ áp dụng
mức giảm cao nhất là: 8% phí
+ Các thiết bị và phương tiện chữa cháy
20
Bảng 4: Tỷ lệ phí giảm áp dụng cho các thiết bị chữa cháy
STT Thiết bị chữa cháy
Mức giảm phí
(%)
1
Có hệ thống chữa cháy tự động
phun nước (Sprinkler)
35- 50
2
Có hệ thống phun nước
- Bằng tay
- Tự động
15-20
30-40
3
Có hệ thống dập cháy bằng CO
2
- Thủ công
- Tự động
15-20
30-40
4
Có hệ thống chữa cháy Halon tự động
25-40
5

Có hệ thống chữa cháy bằng bọt
- Thủ công
- Tự động
tối đa 10
tối đa 20
6
Có hệ thống chữa cháy dạng khô
- Thủ công
- Tự động
7-10
12-20
7
Có hệ thống tự động dập tắt tia lửa điện
tối đa 15
8
Có hệ thống quạt thông gió và hơi nóng
- Thủ công
- Tự động
tối đa 3
tối đa 5
9
Có đội cứu hoả riêng
- Có ô tô chữa cháy và nhân viên
chuyên nghiệp
- Bán chuyên nghiệp
15-20
7-10
10
Gần đội cứu hoả công cộng
5-10

(Nguồn: Bộ tài chính)
21
Tất cả các hệ thống chữa cháy chỉ được coi là đủ điều kiện giảm phí khi nó
được cơ quan chức năng kiểm tra và công nhận.
Chú ý: Đối với hệ thống phun nước (Sprinkler).
- Có ít nhất hai hệ thống cấp nước độc lập với nhau, giảm tối đa là 50% phí
bảo hiểm.
- Nếu chỉ có một hệ thống cấp nước mà kĩ thuật cho phép: giảm tối đa là 30%
phí bảo hiểm.
* Khi một đơn vị rủi ro có nhiều hệ thống chữa cháy khác nhau thì mức giảm
phí cao nhất được giữ nguyên còn các mức giảm khác chỉ được tính 50%.
Tổng các mức miễn giảm phí về các thiết bị, phương tiện phòng cháy chữa
cháy cho mỗi đơn vị rủi ro được bảo hiểm không được vượt quá 70%.
* Xét mức tăng giảm phí theo tỉ lệ tổn thất trong quá khứ.
+ Nếu 5 năm gần nhất số tiền bồi thường cho người được bảo hiểm nhỏ hơn
20% tổng số phí bảo hiểm thu được thì có thể giảm tới 15% phí bảo hiểm, nếu dưới
50% thì có thể giảm tới 10% phí bảo hiểm.
+ Ngược lại nếu trong 5 năm gần nhất số tiền bồi thường bằng 120% số phí
bảo hiểm thu được thì tăng 10% phí bảo hiểm, nếu bằng 150% thì tăng 15%.
- Các mức miễn thường
Mức miễn thường bắt buộc là 2 số tiền bảo hiểm và tuân thủ theo đúng quy
định của bản thoả thuận chung về khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi
ro đặc biệt đã được ký giữa các công ty bảo hiểm. Tuy nhiên mức miễn thường tối
thiểu không dưới 100USD/ mỗi vụ và tối đa không quá 2000USD/mỗi vụ tổn thất,
đây là mức miễn thường bắt buộc không được giảm phí.
Nếu khách hàng muốn lựa chọn những mức miễn thường cao hơn để giảm phí
bảo hiểm thì áp dụng các tỉ lệ phí giảm theo mức miễn thường sau:

22

×