Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY
Page 1 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
MỞ ĐẦU
Một đất nước muốn phát triển được thì phải có một bộ máy nhà nước
hoạt động có hiệu quả cùng với những công cụ hỗ trợ. Một trong những công cụ đắc
lực nhất chính là Ngân sách Nhà nước. Trong những năm gần đây, Ngân sách Nhà
nước đã trở thành cánh tay phải cho Nhà nước trong việc đảm bảo sự ổn định của
tài chính quốc gia, và phát triển nền kinh tế thông qua việc kiểm soát lạm phát, tỷ lệ
lãi suất và hình thành quan hệ thị trường trong sản xuất. Tuy nhiên, việc quản lý
Ngân sách Nhà nước còn yếu kém dẫn đến những hậu quả xấu và trước hết đó là
tình trạng bội chi Ngân sách Nhà nước kèm theo nhiều ảnh hưởng sâu sắc đến nền
kinh tế.
Vậy bội chi Ngân sách Nhà nước là gì? Thực trạng bội chi Ngân sách
Nhà nước trong những năm gần đây như thế nào? Chúng ta hãy cùng đi tìm hiểu
qua bài tiểu luận với đề tài: “Bội chi Ngân sách Nhà nước từ năm 2007 đến nay”.
Vì sự hạn chế về thời gian và kiến thức nên trong bài tiểu luận, tôi chỉ
đề cập đến các vấn đề quan trọng ảnh hưởng và có liên quan trực tiếp đến bội chi
Ngân sách Nhà nước. Trong bài tiểu luận chắc chắn sẽ có những thiếu xót. Mong
nhận được sự góp ý của Giảng viên.
Page 2 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
I. TỔNG QUAN VỀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.
1. Vài nét cơ bản về Ngân sách Nhà nước.
a. Khái niệm Ngân sách nhà nước .
Về khái niệm, Ngân sách nhà nước (NSNN) là toàn bộ các khoản thu, chi
của Nhà nước đã được Quốc hội quyết định và được thực hiện trong một năm để
bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Ở Việt Nam, năm ngân
sách trùng với năm dương lịch bắt đầu từ 1/1 và kết thúc vào 31/12.
Về mặt bản chất Ngân sách nhà nước là hệ thống các mối quan hệ kinh tế
giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng
các nguồn tài chính nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng của Nhà nước. Các
quan hệ kinh tế bao gồm:
Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
dịch vụ.
Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các tổ chức tài chính trung gian.
Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các tổ chức xã hội.
Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các hộ gia đình.
Quan hệ kinh tế giữa NSNN và thị trường tài chính.
Quan hệ kinh tế giữa NSNN với hoạt động tài chính đối ngoại.
b. Vai trò của Ngân sách Nhà nước .
i. Ổn định thị trường giá cả, chống lạm phát.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, giá cả chủ yếu phụ thuộc vào quan hệ
cung cầu hàng hóa trên thị trường. Do đó để ổn định giá cả, chính phủ có thể tác
động vào cung hoặc cầu hàng hóa trên thị trường. Sự tác động này không chỉ được
thực hiện thông qua thuế mà còn được thực hiện thông qua chính sách chi tiêu ngân
sách nhà nước. Bằng nguồn vốn cấp phát của chi tiêu ngân sách nhà nước hàng
năm, các quỹ dự trữ nhà nước về hàng hóa và tài chính được hình thành. Trong
trường hợp thị trường có nhiều biến động, giá cả lên cao hoặc xuống thấp, nhờ lực
lượng dự trữ hàng hóa, vật tư bình ổn giá cả trên thị trường, bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng và ổn định sản xuất. Chính phủ cũng có thể sử dụng ngân sách nhà nước
nhằm khống chế và đẩy lùi lạm phát một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện
chính sách thắt chặt ngân sách, cắt giảm các khoản chi tiêu, đồng thời có thể tăng
thuế tiêu dùng để hạn chế cầu, mặt khác giảm thuế đầu tư, kích thích sản xuất phát
triển để tăng cung. Ngoài ra, Chính phủ phát hành các công cụ nợ để vay nhân dân
nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước cũng góp phần to lớn trong việc làm
giảm tốc độ lạm phát trong nền kinh tế quốc dân.
ii. Kích thích sự tăng trưởng kinh tế.
Trong cơ chế thị trường kế hoạch hóa tập trung, cùng với việc nhà nước can
thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vai trò của ngân sách nhà nước
trong việc điều chỉnh các hoạt động là hết sức thụ động. Ngân sách nhà nước gần
như chỉ là một cái túi đựng sổ thu rồi thực hiện việc bao cấp vốn cố định, vốn lưu
Page 3 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
động, cấp bù lỗ, bù giá, bù lương Trong điều kiện đó, hiệu quả các khoản thu chi
ngân sách không được coi trọng và tất yếu tác động của ngân sách nhà nước là hết
sức hạn chế. Chuyển sang cơ chế thị trường, trong lĩnh vực kinh tế, Nhà nước định
hướng về việc hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh
doanh. Điều đó được thực hiện thông qua các chính sách thuế và chính sách chi tiêu
của ngân sách chính phủ kích thích sự tăng trưởng kinh tế.
iii. Giải quyết các vấn đề xã hội.
Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, sự tồn tại và hoạt động có hiệu quả
của bộ máy Nhà nước, lực lượng quân đội, công an, sự phát triển của các hoạt động
xã hội, y tế, văn hóa có ý nghĩa quyết định. Việc thực hiện các nhiệm vụ cở bản
thuộc về Nhà nước và không vì mục tiêu lợi nhuận. Như vậy, trong việc thực hiện
các nhiệm vụ có tính chất toàn xã hội, ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng
hàng đầu. Bên cạnh đó, hàng năm chính phủ vẫn có sự chú ý đặc biệt cho tầng lớp
dân cư có thu nhập thấp nhất. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó thông qua các loại
trợ giúp cho dân cư có thu nhập thấp, có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã
hội; các loại trợ giúp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu
(lương thực, điện nước…), các khoản chi phí thực hiện các chính sách dân số, chính
sách việc làm, các chương trình chống dịch bệnh, mù chữ …
c. Những hoạt động của Ngân sách Nhà nước .
i. Thu Ngân sách Nhà nước.
Thu Ngân sách nhà nước là quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài
chính những để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi
tiêu của nhà nước. Thu NSNN bao gồm các khoản thu chủ yếu từ thuế, phí, lệ phí
và các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước, các khoản đóng góp của các tổ
chức và cá nhân, các khoản viện trợ của nước ngoài…
Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước
• Thu lợi tức từ hoạt động góp vốn liên doanh, cổ phần của nhà nước
vào các cơ sở kinh tế.
• Thu tiền sử dụng vốn NSNN từ các doanh nghiệp nhà nước.
• Tiền thu hồi vốn nhà nước cấp tại các cơ sở kinh tế (tiền bán cổ phần
tại các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, bán doanh nghiệp nhà nước)
• Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi) từ các tổ chức, cá
nhân trong nước vay qua tổng cục đầu tư phát triển hoặc qua hệ thống ngân hàng và
từ chính phủ nước ngoài, các tổ chức quốc tế.
Thu từ hoạt động sự nghiệp
• Thu từ bán sản phẩm các đơn vị sự nghiệp. Các đơn vị sự nghiệp có
cơ chế tài chính là dự toán NSNN nên toàn bộ các khoản thu phải nộp vào NSNN
• Các khoản chênh lệch thu – chi cả các đơn vị hoạt động sự nghiệp có
thu.
ii. Chi Ngân sách Nhà nước.
Page 4 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
Chi Ngân sách nhà nước là quá trình Nhà nước phân bố và sử dụng các quỹ
tiền tệ đã được tập trung vào ngân sách để đáp ứng cho các nhu cầu chi gắn liền với
việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. Chi ngân sách nhà nước bao
gồm các khoản chi đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, các khoản chi thường xuyên
bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ
của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác.
Chi đầu tư phát triển về:
• Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
• Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ
chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp.
• Chi bổ sung dự trữ nhà nước.
• Chi đầu tư phát triển thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án
nhà nước;
Chi thường xuyên về:
• Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông
tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, các sự nghiệp xã
hội khác.
• Các hoạt động sự nghiệp kinh tế.
• Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
• Hoạt động của các cơ quan nhà nước.
• Hoạt động của Đảng CS VN và hỗ trợ các tổ chức chính trị xã hội.
• Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội;
• Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài các khoản thực chi còn có các khoản được liệt kê vào chi NSNN là:
chi trả nợ (bao gồm cả gốc và lãi) các khoản tiền do Chính phủ vay; chi cho vay; chi
viện trợ của ngân sách trung ương cho các chính phủ và tổ chức nước ngoài; chi bổ
sung quỹ dự trữ tài chính NSNN…
2. Cân đối Ngân sách Nhà nước.
a. Khái niệm .
Cân đối NSNN là quan hệ cân bằng giữa thu và chi của NSNN trong một
thời kỳ (thường là một năm ngân sách). Khái niệm cân đối NSNN xuất phát từ yêu
cầu khách quan đối với phân bổ và điều hòa thu, chi NSNN trong sự vận động của
nguồn lực tài chính, cũng là quá trình kinh tế do Nhà nước vận dụng các biện pháp
điều tiết tài chính để tiến hành kiểm soát và điều hòa sự phân phối nguồn lực tài
chính xã hội.
b. Các trạng thái của Ngân sách Nhà nước .
Mối tương quan giữa thu và chi NSNN trong một năm tài khóa được biểu
hiện qua 3 trạng thái sau:
Page 5 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
NSNN cân bằng: nhà nước huy động nguồn thu vừa đủ để trang trải chi tiêu
NSNN thặng dư: thu ngân sách lớn hơn chi ngân sách. Nhà nước đã huy
động nguồn lực quá mức cần thiết hoặc không xây dựng được chương trình chi tiêu
hợp lý tương ứng với số thu hoặc kinh tế phát triển thịnh vượng làm tăng thu ngân
sách ngoài dự toán và nhà nước có thể chủ động sắp xếp phân bổ thặng dư cho
những năm tiếp theo.
NSNN bội chi (thâm hụt): nghĩa là chi NSNN lớn hơn thu NSNN. Trong
trường hợp này, thu NSNN không đáp ứng được nhu cầu chi. Nguyên nhân có thể là
do nhà nước không sắp xếp được nhu cầu chi cho phù hợp với khả năng; cơ cấu chi
tiêu dùng và đầu tư không hợp lý gây lãng phí; do tình trạng thất thu ngân sách;
nhưng cũng có thể là do nền kinh tế suy thoái theo chu kỳ hoặc ảnh hưởng bởi
thiên tai hay chiến tranh, thu NSNN giảm sút tương đối so với nhu cầu chi để phục
hồi nền kinh tế.
3. Bội chi Ngân sách Nhà nước.
a. Khái niệm Bội chi Ngân sách Nhà nước .
Bội chi NSNN (hay còn gọi là thâm hụt NSNN) là tình trạng chi NSNN vượt
quá thu NSNN trong một năm tài khóa, là hiện tượng NSNN không cân đối thể hiện
trong sự thiếu hụt giữa cung và cầu về nguồn lực tài chính của nhà nước.
b. Cách đo lường Bội chi Ngân sách Nhà nước .
Về mặt kỹ thuật, NSNN có bội chi hay không, bội chi nhiều hay ít, còn tùy
thuộc vào cách đo lường bội chi NSNN. Ở mỗi nước có thể tồn tại một cách hiểu về
bội chi NSNN khác nhau. Có ba yếu tố ảnh hưởng đến kết quả đo lường bội chi
NSNN:
Phạm vi tính bội chi NSNN.
Việc xác định các khoản thu, chi trong cân đối NSNN.
Thời gian ghi nhận thu – chi NSNN.
Việc xác định phạm vi, xác định các khoản thu, chi trong cân đối khi đo
lường mức bội chi NSNN và qui tắc kế toán chính phủ nào được sử dụng sẽ phụ
thuộc vào:
Việc xác định vai trò của nhà nước.
Mục đích chính trị và mục đích sử dụng báo cáo.
Mục tiêu của chính sách tài khóa.
Năng lực quản lý của các cấp chính quyền.
Bối cảnh kinh tế – xã hội.
c. Nguyên nhân xảy ra bội chi Ngân sách Nhà nước .
i. Nguyên nhân khách quan.
Do kinh tế suy thoái mang tính chu kỳ. Kinh tế suy thoái thì sẽ làm cho
nguồn thu NSNN sút giảm, nhu cầu chi tiêu gia tăng (trợ cấp xã hội, những khoản
chi để phục hồi nền kinh tế), kết quả NSNN có thể bị bội chi.
Page 6 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
Thiên tai, tình hình bất ổn của an ninh thế giới. Tình hình bất ổn của an ninh
thế giới và diễn biến phức tạp của thiên tai sẽ làm gia tăng nhu cầu chi cho quốc
phòng và an ninh trật tự xã hội, gia tăng nhu cầu chi NSNN để khắc phục hậu quả
của thiên tai.
ii. Nguyên nhân chủ quan.
Do quản lý và điều hành NSNN bất hợp lý. Quản lý và điều hành NSNN bất
hợp lý được thể hiện qua việc đánh giá và khai thác nguồn thu chưa tốt; phân bổ và
sử dụng NSNN còn nhiều bất cập, gây thất thoát, lãng phí nguồn lực tài chính nhà
nước; phân cấp quản lý NSNN chưa khuyến khích địa phương nỗ lực trong khai
thác nguồn thu và phân bổ chi tiêu hiệu quả. Kết quả là thu NSNN không đủ để
trang trải nhu cầu chi tiêu.
Do nhà nước chủ động sử dụng bội chi như một công cụ của chính sách tài
khóa để kích cầu, khắc phục tình trạng suy thoái của nền kinh tế.
Do cách đo lường bội chi.
d. Tác động của bội chi Ngân sách Nhà nước đến nền kinh tế .
i. Ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế
Xuất phát từ đẳng thức kinh tế xác định tổng sản phẩm quốc nội
GDP = C + I + G + NX
Trong đó GDP là tổng sản phẩm quốc nội, C là tiêu dùng tư nhân, I là tổng
đầu tư, G là chi tiêu chính phủ, NX là xuất khẩu ròng.
Đưa thêm biến số thuế T vào đằng thức ta có:
(GDP – C – T) + (T – G) = I
S = (GDP – C – T)
S + (T – G) = I
Với S là tiết kiệm tư nhân, (T – G) là tiết kiệm chính phủ, cũng chính là
chênh lệch giữa thu ngân sách và chi ngân sách. Trường hợp (T – G) = 0 tức NSNN
cân bằng, trường hợp (T – G) > 0 NSNN có thặng dư, trường hợp (T – G) < 0
NSNN bội chi. Trong bối cảnh NSNN bội chi, chính phủ phải tìm cách bù đắp bội
chi bằng cách vay trong nước hoặc nước ngoài. Vay trong nước làm cho tiết kiệm tư
nhân giảm, tổng đầu tư giảm; để duy tri được mức tổng đầu tư chính phủ phải lựa
chọn phương án đi vay nước ngoài. Mỗi khi chính phủ chi tiêu quá một đồng vượt
số thu ngân sách, buộc phải tài trợ bằng cách tăng nợ công một đồng.
ii. Ảnh hưởng lạm phát
Về cơ bản, hầu hết chính phủ các nước đều dùng các biện pháp sau để khắc
phục bội chi NSNN: vay trong nước, vay nước ngoài hoặc phát hành tiền. Tùy từng
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà các nguồn bù đắp bội chi được sử dụng riêng rẽ
hay kết hợp. Từ đó cũng gây ra tác động lên nền kinh tế khác nhau.
Khi chính phủ sử dụng giải pháp bù đắp bội chi NSNN bằng cách phát hành
trái phiếu (kể cả phát hành trong nước và phát hành ra nước ngoài), thi tất yếu chính
phủ phải trả tiền nợ gốc và lãi trái phiếu trong tương lai đồng thời gây áp lực lên xã
hội bằng việc tăng thuế. Tuy nhiên bằng cách này, bội chi NSNN sẽ không gây lạm
Page 7 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
phát và đặc biệt trong trường hợp bội chi được tài trợ cho các dự án đầu tư sinh lợi
thì nó lại là động lực cho sự phát triển của nên kinh tế trong dài hạn.
Khi chính phủ sử dụng giải pháp bù đắp bội chi NSNN bằng việc phát hành
tiền, hành động này ngay lập tức làm cho lương tiền cung ứng trong lưu thông tăng.
Cung tiền tăng là một yếu tố quan trọng làm tăng tổng cầu. Trong bối cảnh suy
thoái kinh tế tăng cung tiền có tác dụng kích thích nền kinh tế, thúc đẩy đầu tư tăng
tổng sản phẩm tiến tới mức tiềm năng, ảnh hưởng lạm phát là tối thiếu. Tuy nhiên
duy trì bội chi kéo dài trong thời kỳ kinh tế tăng trường phát hành tiền sẽ gây ra lạm
phát cao, rất nguy hại.
iii. Nợ quốc gia và những bất ổn trong nền kinh tế
Quy mô nợ công của Chính phủ tùy thuộc vào số nợ vay là để tài trợ cho tiêu
dùng hay đầu tư và hiệu quả của việc đầu tư đó đến đâu. Nếu chính phủ chấp nhận
bội chi để tài trọ cho các dự án có hiệu quả, có khả năng sinh lời trong dài hạn, thì
chính lợi tức từ dự án lại tạo ra và làm tăng nguồn thu trong dài hạn cho ngân sách
nhà nước, giúp NSNN trả được gốc và lãi cho các khoản vay tài trợ bội chi trong
quá khứ. Trường hợp bội chi NSNN được sử dụng cho mục đích tiêu dùng tức thời
thì phần lớn ảnh hưởng của nó chỉ tác động đến tổng cầu trong ngắn hạn (tại thời
điểm bội chi xảy ra), và trong dài hạn nó không tai ra một nguồn thu tiềm năng cho
ngân sách mà chính nó làm nặng nề hơn khoản nợ công trong tương lai.
iv. Thâm hụt cán cân thương mại
Bù đắp bội chi NSNN bằng các tăng vay nợ góp phần làm tăng lãi suât, sẽ
ảnh hưởng bất lợi đến cán cân thanh toán thương mại quốc tế. Lãi suất thị trường
của nước này tăng lên cao so với các đồng tiền các nước khác trên thế giới thì người
nước ngoài sẽ tìm kiếm đồng nội tệ của nước có bội chi để mua các chứng khoán
chính phủ và các tài sản tài chính khác. Dẫn đến tình trạng nhập siêu ở nước có
ngân sách bội chi lớn.
II. THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY .
1. Thực trạng thu Ngân sách Nhà nước.
Theo số liệu được thống kê cho thấy đến gần kết thúc quý III/2012 việc thu
Ngân sách nhà nước có nguy cơ thâm hụt trầm trọng. Nhiều yếu tố giảm thu ngân
sách nhà nước đang xuất hiện làm cho khả năng mất cân đối thu chi ngân sách nhà
nước cả năm trở thành thách thức lớn đối với nền kinh tế.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tổng thu ngân sách Nhà nước từ
đầu năm đến 15/8/2012 ước tính đạt 418.500 tỷ đồng, bằng 56,5% dự toán năm.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/8/2012 ước tính đạt 534.000 tỷ
đồng, bằng 59,1% dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước tính trong thời gian này
khoảng 116.000 tỷ đồng.
Tại các địa phương tình hình thu ngân sách nhà nước năm 2012 cũng sẽ hụt
thu nhiều so với dự toán. Điển hình như Thành phố Hồ Chí Minh dự kiến hụt ngân
sách nhà nước so với dự toán khoảng 4.000 tỷ đồng; trong khi nhiều tỉnh ước hụt
thu ngân sách nhà nước so với dự toán khoảng từ 1.000 đến 3.000 tỷ đồng. Tính
chung cả nước hụt thu ngân sách nhà nước cũng được dự báo khoảng 20.000-
25.000 tỷ đồng.
Page 8 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
Thông
qua
thống kê
trên,
chúng ta
nhận
thấy
rằng
tổng
thu
Ngân sách Nhà nước tăng qua hàng năm. Năm 2011, tổng thu Ngân sách Nhà nước
tăng 20.6% so với năm trước. Tuy nhiên đến cuối quý III năm 2012, tổng thu ngân
sách bị sụt giảm trầm trọng vì nhiều lý do như:
Việc thực hiện chính sách tài khóa chưa được nghiêm, đôi lúc, đôi chỗ
còn chưa thực hiện tốt các quy định, quy chế tài chính. Việc chậm nộp thuế, thất thu
thuế vẫn còn, chi tiêu lãng phí, thực hành tiết kiệm chưa cao… nên dẫn tới việc thu
ngân sách nhà nước chưa đạt được như mục tiêu đề ra.
Do cơ chế tài chính còn rườm rà, phức tạp nên giải ngân của các dự
án, công trình gặp nhiều khó khăn gây tổn hại cho tăng trưởng kinh tế.
Việc quản lý công sản, đặc biệt là tài nguyên đất thời gian qua vẫn
còn nhiều bất cập, điều này đã làm hạn chế việc khai thác nguồn lực tài chính phục
vụ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo,
tạo áp lực cho cân đối NSNN.
2. Thực trạng chi Ngân sách Nhà nước.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/10/2012 ước tính đạt 678,6
nghìn tỷ đồng, bằng 75,1% dự toán năm. Trong đó chi đầu tư phát triển 134,4 nghìn
tỷ đồng, bằng 74,7% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 129,7 nghìn tỷ đồng, bằng
74,5%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà
nước, Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách tiền lương) ước tính đạt
466,2 nghìn tỷ đồng, bằng 77,5%; chi trả nợ và viện trợ 78 nghìn tỷ đồng, bằng
78%.
Page 9 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
Những vấn đề còn tồn tại trong việc chi ngân sách còn khá nhiều dẫn đến
việc chi tiêu không hợp lý và kết quả là xảy ra tình trạng bội chi Ngân sách Nhà
nước. Trong điều hành chi NSNN phải đảm bảo chi đúng, chi đầy đủ và chi kịp thời
cho những khoản cần chi, nhưng ở đây xuất hiện vấn đề: Để đảm bảo chi đúng thì
việc rà soát, đánh giá, phân loại đúng các khoản chi, xác định các khoản chi thuộc
phạm vi chức năng NSNN phải đảm bảo vẫn còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Để
có giới hạn chi đủ cần có định mức tiêu chuẩn phù hợp, nhưng hiện nay hệ thống
này của ta còn rất lạc hậu, không thống nhất giữa nhiều ngành nhiều cấp. Chú trọng
cho chi đầu tư phát triển là cần thiết, song, do cơ chế quản lý ngân sách theo đầu
vào nên chưa tạo được sự phối hợp cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường
xuyên, dẫn đến tình trạng thiếu linh hoạt trong sự điều phối nguồn lực trong nội bộ
các ngành: có ngành chi đầu tư phát triển quá cao so với những khoản chi thường
xuyên cần thiết; ngược lại đối với một số ngành khác. Chính sự thiếu phối hợp này
đưa đến hiệu quả chi thấp. Chẳng hạn như, sự bất cập và chậm trễ trong hoạt động
bảo dưỡng, cải tạo hệ thống thủy lợi và thoát nước đã làm xói mòn hiệu quả của
nguồn vốn phân bổ trong lĩnh vực nông nghiệp. Xu hướng phổ biến hiện nay là chú
trọng quá mức tới việc xây mới trong khi không quan tâm đúng mức tới việc bảo
dưỡng và duy trì hệ thống tưới tiêu hiện có; trong khi đó, hoạt động bảo dưỡng và
quản lý hệ thống thủy lợi và tưới tiêu không chỉ tạo ra nhiều việc làm mà còn giúp
nâng cao năng suất nông nghiệp.
Về chi lương, hiện nay quỹ lương của ta chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng
chi thường xuyên nhưng mức lương của cán bộ, công nhân viên rất thấp, đó là một
bất hợp lý. Việc cải cách tiền lương chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là cải cách về
tổ chức các cơ quan công quyền, cải cách về quy chế công chức, tinh giản biên chế
nhằm trả lương đúng với yêu cầu của công vụ, cho những người đủ khả năng đáp
ứng yêu cầu công vụ của nhà nước.
Một vấn đề nữa không kém phần quan trọng khi đánh giá tình hình phân bổ
và sử dụng nguồn lực tài chính Nhà nước, đó là: chi NSNN vẫn chưa dứt bỏ hoàn
toàn cơ chế bao cấp, không tính đến hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực tài chính Nhà
nước. Tình trạng cấp vốn lưu động, gia hạn nợ đọng thuế hoặc khoanh nợ, đảo nợ,
giảm nợ… cho các DNNN làm ăn thua lỗ vẫn tiếp tục diễn ra. Điều này, về lâu dài
không những có hại cho chính doanh nghiệp mà còn tạo nên gánh nặng cho NSNN,
vì những doanh nghiệp yếu kém thường thiếu sức cạnh tranh, không giải quyết
được nợ nần dây dưa gây hại đến cả hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, các hoạt
động đầu tư bằng vốn NSNN không thật sự được công khai hóa, sự phân định trách
nhiệm thiếu minh bạch, thiếu sự giám sát toàn diện từ công chúng, năng lực quản lý
của các bộ ngành yếu kém không theo kịp xu hướng phát triển của nền kinh tế. Kết
quả là tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư XDCB của NSNN diễn ra rất phổ
biến. Và, một khi khoản chi không được sử dụng hiệu quả thì mục đích của việc vay
nợ và khía cạnh tích cực của bội chi ngân sách sẽ không được phát huy. Tác động
của việc gia tăng cả bội chi NSNN trong tương lai.
3. Bội chi Ngân sách Nhà nước.
Mặc dù thu NSNN 15 ngày đầu tháng 7 đạt khá so với cùng kỳ tháng
trước, do một số khoản thu phát sinh theo quý (thuế thu nhập doanh nghiệp, thu
chênh lệch thu chi ngân hàng nhà nước đến kỳ kê khai nộp thuế quý II/2012
Page 10 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
theo chế độ), nhưng vẫn ở mức thấp so với yêu cầu thu NSNN.
Luỹ kế thu NSNN đến hết ngày 15/7/2012 ước đạt 369.225 tỷ đồng, bằng
49,9% dự toán, trong đó: thu nội địa ước đạt 234.445 tỷ đồng, đạt 47,4% dự
toán; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục ở mức thấp, đạt
38,3% so với dự toán. Đây là mức thấp trong những năm gần đây.
Riêng thu từ dầu thô tiếp tục trở thành thành tố quan trọng trong việc bù
đắp sự giảm thu từ một số nguồn thu quan trọng khác (do giá dầu thanh toán
bình quân khoảng 114,5 USD/thùng, cao hơn 29,5 USD/thùng so với giá xây
dựng dự toán). Tính đến hết ngày 15/7/2012, thu từ dầu thô lũy kế thực hiện đến
15/7 ước đạt 62.430 tỷ đồng, tương đương với 71,8% so với dự toán.
Nguyên nhân của tiến độ thực hiện dự toán thu NSNN đạt mức thấp so
với cùng kỳ năm 2011 và so với năm 2012 chủ yếu là do những khó khăn mà
nền kinh tế gặp phải trong những tháng đầu năm 2012. Hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp còn khó khăn, sức mua của người dân ở mức thấp.
Ngoài ra, việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ về tài khóa để tháo gỡ khó
khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường ban hành gần đây như Nghị
quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 của Chính phủ cũng đã tác động làm giảm
số thu NSNN trên một số phương diện, trong khi đó các tác động lan tỏa của
những giải pháp này trong việc thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp cần phải có thời gian mới có thể phát huy được.
Chi NSNN 15 ngày đầu tháng ước đạt 39.310 tỷ đồng; luỹ kế chi NSNN
đến hết ngày 15/7/2012 ước đạt 453.205 tỷ đồng, bằng 50,2% dự toán, tập trung
đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, quản lý
nhà nước và thanh toán các khoản chi trả nợ đến hạn, đảm bảo chi trả kịp thời
các khoản lương và các khoản có tính chất lương đến các đối tượng thụ hưởng
NSNN góp phần thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội.
Trong đó: chi đầu tư phát triển đạt 49,7% dự toán, chi trả nợ và viện trợ
đạt 56,3% dự toán, chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, an ninh, quản lý nhà
nước (bao gồm cả chi cải cách tiền lương) đạt 51,1% dự toán.
Bội chi NSNN lũy kế đến ngày 15/7/2012 là 83.980 tỷ đồng, bằng
khoảng 60% mức bội chi cả năm 2012 đã được Quốc hội phê duyệt (140,2 nghìn
tỷ đồng).
Tình hình thực hiện NSNN 15 ngày đầu tháng 7 năm 2012
Đơn vị : tỷ đồng
Page 11 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
Tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước so với GDP qua các năm.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bội chi ngân sách nhưng dưới đây là những lý
do căn bản nhất.
Nguyên nhân chủ quan của bội chi ngân sách thể hiện ở chính sách chủ động
chấp nhận bội chi ngay khi lập dự toán để tăng cường nguồn lực cho xây dựng cơ
sở hạ tầng, và khi chấp hành NSNN đã cố gắng kiểm soát được con số này để góp
phần tạo đà cho tăng trưởng kinh tế. Nguyên nhân chủ quan còn thể hiện ở chính
Page 12 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
sách khai thác nguồn thu còn nhiều bất cập; chính sách phân bổ, sử dụng nguồn lực
và cân đối giữa các khoản chi chưa hợp lí đưa đến tình trạng thất thoát, lãng phí.
Chất lượng đầu tư công thấp: chất lượng của đầu tư công là một chỉ báo then
chốt cho sự thành công của chính phủ trong cải cách. Những người hay nhóm có thế
lực chính trị thường lợi dụng các dự án đầu tư công để trục lợi cá nhân và trở lên
giàu có một cách bất chính. Khi đầu tư công trở thành đối tượng của các hành vi
trục lợi thì một mặt mục tiêu của dự án đầu tư không được thực hiện, đồng thời
gánh nặng chi phí sẽ được đặt lên vai của người dân và của nền kinh tế. Trên thực tế
Việt Nam đang đánh mất một phần đáng kể nguồn lực của mình do lãng phí và
tham nhũng.
Quá nhiều tiền được chi cho các dự án thâm dụng vốn và hàng nhập khẩu,
nhưng lại không đóng góp đúng mức cho tăng trưởng kinh tế. Quá nhiều tiền được
chi cho các doanh nghiệp lớn của nhà nước với mục đích đầu cơ. Việc chi tiêu cho
cở sở hạ tầng công cộng thì không được ưu tiên đúng mức.
Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở chỉ số ICOR tăng. Hệ số ICOR tăng lên
nhanh chóng: năm 2007 là 5,2; 2008 là 6,6 và 2009 đã tăng lên trên 8. Chỉ số ICOR
của Việt Nam ở một mức rất cao không những so với các quốc gia mới nổi ở Châu
Á mà còn cao so với các nước trong khu vực Asean. Đối với các nước đang phát
triển, ICOR do các tổ chức quốc tế khuyến nghị nằm ở mức 3 lần, đây là mức đầu
tư có hiệu quả và từ đó nền kinh tế có hướng phát triển bền vững. Nếu so sánh với
các nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam lớn gần gấp đôi, đồng nghĩa với hiệu
quả sử dụng vốn thấp hơn một nửa.
Ảnh hưởng của hội nhập quốc tế đưa đến sự cắt giảm thuế quan. Khi gia
nhập WTO, nguồn thu từ thuế nhập khẩu của NSNN sẽ giảm xuống do cam kết cắt
giảm thuế quan. Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ cắt giảm 22% thuế nhập
khẩu so với mức hiện hành, thực hiện trong vòng 5 năm kể từ khi gia nhập WTO.
Giá hàng hóa trên thế giới (nhất là giá nhóm hàng năng lượng, phân bón,
Clinke, thuốc phòng chữa bệnh và phôi thép) tăng liên tục với tốc độ cao ảnh hưởng
đến mức bội chi NSNN trên các giác độ: các hàng hóa xuất khẩu đạt giá cao hơn.
Từ đó, thu NSNN từ hoạt động ngoại thương tăng nhưng các hàng hóa tăng giá
mạnh lại là những vật tư đầu vào quan trọng mà chúng ta phải nhập khẩu với số
lượng lớn kết quả là chi phí sản xuất của các doanh nghiệp tăng, làm giảm thu nhập
chịu thuế của gần như tất cả các doanh nghiệp, nguồn thu NSNN từ thuế thu nhập
doanh nghiệp giảm.
III. CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỘI CHI NGÂN SÁCH .
1. Các giải pháp kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước.
Thay đổi tư duy về mô hình tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng kinh tế cần dựa
trên nền tảng coi trọng chất lượng. Theo đó, trong dài hạn cần từ bỏ quan điểm phải
đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh theo chiều rộng, tăng trưởng nhờ tăng vốn đầu
tư, khai thác tài nguyên thiên nhiên và sức lao động, mà chuyển dần sang mô hình
tăng trưởng dựa vào tri thức và công nghệ.
Tiếp theo, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ NSNN Từ đó, tăng
cường tính công khai, minh bạch và thực hiện đầu tư có hiệu quả, tránh dàn trải.
Page 13 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và thực hiện quản lý đầu tư theo quy
hoạch. Khắc phục tình trạng tiêu cực, lãng phí, thất thoát trong đầu tư, tăng cường
công tác giám sát đầu tư, kiểm tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý nghiêm những
hành vi vi phạm quy định về quản lý đầu tư.
Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, coi đây là nhân tố chính quyết
định tốc độ và chất lượng của tăng trưởng kinh tế. Đầu tư nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực thực chất chính là tăng cường đầu tư cho giáo dục - đào tạo. Trong
đó chú trọng hướng các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án thuộc các lĩnh
vực: đào tạo nghề, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục đại học và sau đại học,
…Các lĩnh vực này có khả năng tạo lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư, đồng thời cần
phát triển nhanh để đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu
CNH – HĐH đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường, Chính phủ không nên đảm đương mọi việc của
xã hội mà nên chuyển bớt cho các doanh nghiệp, tổ chức xã hội thực hiện một số
dịch vụ công.
Trong cơ cấu thu NSNN, các nguồn thu từ dầu mỏ và các nguồn thu có liên
quan đến hoạt động ngoại thương chiếm một tỷ trọng lớn, gây khó khăn trong việc
dự báo và hoạch định chính sách. Để đảm bảo tính bền vững thu NSNN trong thới
gian tới cần phải dịch chuyển cơ cấu thu NSNN theo hướng tăng tỷ trọng các nguồn
thu từ khu vực kinh tế tư nhân/GDP.
2. Các biện pháp bù đắp bội chi ngân sách nhà nước
Được thực hiện bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ. Trái phiếu chính
phủ là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ do Bộ Tài chính phát hành, có thời hạn, có
mệnh giá, có lãi, Trái phiếu chính phủ gồm các loại ký danh và vô danh được phát
hành dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc , trái phiếu kho bạc và trái phiếu công
trình, Tín phiếu kho bạc là loại trái phiếu ngắn hạn dưới một năm, huy động vốn để
bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước tạm thời trong năm tài chính. Trái phiếu kho
bạc là loạt trái phiếu có thời hạn từ một năm trở lên, huy động vốn để bù đắp thâm
hụt ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi đầu tư phát triển trong kế hoạch ngân
sách nhà nước được duyệt. Và trái phiếu công trình là loại trái phiếu có thời hạn từ
một năm trở lên, huy động cho từng công trình cụ thể theo kế hoạch đầu tư của nhà
nước. Việc phát hành trái phiếu Chính phủ là một biện pháp quan trọng để tập trung
nguồn vốn cho ngân sách nhà nước.
Để bù đắp thiếu hụt ngân sách dành cho chi đầu tư phát triển kinh tế, khi vay
trong nước không đáp ứng đủ. Vay nợ nước ngoài của Chính phủ có 3 loại: vay từ
nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA), vay ưu đãi của các tổ chức tài chính,
tiền tệ quốc tế.
Về vốn vay ODA cần đẩy nhanh tiến độ giải ngân trên cơ sở: xúc tiến thủ tục
tiếp nhận và thực hiện sự án; tạo ra tương thích giữa ký kết hiệp định vay nợ với
chuẩn bị nguồn lực yêu cầu vốn đối ứng; giải quyết vướng mắc trong giải phóng
mặt bằng và tái định cư; nâng cao năng lực quản lý, kiểm tra, đánh giá.
Page 14 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
KẾT LUẬN
Thâm hụt ngân sách không phải là hiện tượng mới mẻ mà phổ biến ở hầu hết
các nước trên thế giới, từ những nước công nghiệp phát triển đến những nước nghèo
đang phát triển song mức thâm hụt mỗi nước là khác nhau. Nó là nguyên nhân gây
nên hiện tượng lạm phát,nhập siêu gây ảnh hưởng xấu đến nềnkinh tế,do đó đây
là mối quan tâm sâu sắc của mỗi quốc gia.
Thực ra về lý luận, thâm hụt ngân sách không phải hoàn toàn là tiêu
cực.Theo kinh nghiệm nếu ở mức độ nhất định (dưới 5% năm ) thì nó còn có thể
kích thích sản xuất.Cho nên ở các nước phát triển cũng chỉ cố gắng thu hẹp thâm
hụt ngân sách nhà nước chứ chưa loại trừ được hoàn toàn.
Có nhiều biện pháp tài trợ như phát hành tiền, vay trong nước,vay nước
ngoài,cắt giảm chi tiêu song chúng đều chứa những nhược điểm riêng có thể gây
tác dụng phụ đến nền kinh tế.Để tài trợ thâm hụt ngân sách một cách có hiệu quả
cần kết hợp đồng bộ nhiều biện pháp và nghệ thuật quản lý vĩ mô là phải hạn chế và
trung hoà các mặt tiêu cực, đẩy mạnh mặt tích cực nhằm hạn chế những tác động
xấu đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Để tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, cần đẩy mạnh tăng trưởng kinh
tế và tuỳ vào đặc điểm mỗi nước mà nước đó sẽ đưa ra những chính sách cụ thể và
thích hợp.
Page 15 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TTVN, Bội chi Ngân sách Nhà nước đến ngày 15/7/2012 là 83.980 tỷ đồng,
/>pers_id=48309719&item_id=67226942&p_details=1, 20/07/2012.
2. Cổng thông tin điện tử Chính Phủ Nước Cộng hòa Việt Nam, Số liệu Ngân
sách nhà nước 2012,
/>oc?categoryId=100002587&articleId=10048221, 2012.
3. Quốc Huy, Thu ngân sách nhà nước nguy cơ thâm hụt trầm trọng,
/>hut-tram-trong-20120829091824990ca34.chn, 29/08/2012.
4. Hương Ly, Thu ngân sách Nhà nước 2012: “Nước rút về đích”,
/>nam-2012-nuoc-rut-ve-dich, 19/10/2012.
5. Cổng thông tin điện tử Chính Phủ Nước Cộng hòa Việt Nam, Số liệu Ngân
sách nhà nước 2011,
/>nhanuoc?categoryId=10000500&articleId=10002558, 2011.
6. Minh Anh, Quốc Hội đánh giá cao kết quả thu ngân sách Nhà nước 2011,
/>ngan-sach-2011.aspx, 29/10/2011.
7. Hương Ly, Năm 2011, tổng thu ngân sách nhà nước tăng 26%,
/>sach-nha-nuoc-tang-206-, 25/12/2011.
8. Bình Minh, Thu, chi ngân sách 2009 đều vượt dự toán,
/>2009-deu-vuot-du-toan/200911/70789.dfis, 30/11/2009.
9. Trần Thúy, Tổng chi Ngân sách nhà nước đạt 75% dự toán,
/>nha-nuoc-dat-75phantram-du-toan, 29/10/2012.
10. Bộ tài chính, Quyết toán 2010,
/>p_folder_id=2201709&p_recurrent_news_id=66803056, 18/07/2012.
11. Bộ tài chính, Quyết toán 2008,
/>p_folder_id=2201709&p_recurrent_news_id=17845756, 05/07/2010.
MỤC LỤC
Page 16 of 17
Nguyễn Mộng Lân – Lớp: EC002_1_121_T05
Page 17 of 17