Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu rau quả chủ yếu trong giai đoạn 2000 -2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.08 KB, 77 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay xuất khẩu trở thành hoạt động cực kỳ quan trọng đối với mọi quốc
gia trên thé giới. Nó cho phép các quốc gia khai thác được lợi thế của mình trong
phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho nền kinh tế
đất nước.
Đối với Việt Nam hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho công nghiệp hoá
đất nước và là mũi nhọn ưu tiên trong nền kinh té quốc dân. Bởi vậy trong chính
sách kinh tế của mình, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định tầm
quan trọng của công tác xuất nhập khẩu và coi nó là một trong ba chương trình
kinh tế lớn phải tập trung thực hiện. Có đẩy mạnh xuất khẩu, mở cửa ra thế giới
bên ngoài, Việt Nam mới có điều kiện thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Với ưu thế về điều kiện sinh tháI và lao động, Việt Nam có tiềm năng lớn về
sản xuất các loại rau quả mà thị trường thế giới có nhu cầu như: chuối, vải, dứa,
xoài... và nhiều loại rau có giá trị kinh tế cao như dưa chuột , khoai tây, cà
chua...Những năm trước, khi còn thị trường Liên Xô và các nước trong khối
SEV, năm cao nhất Việt Nam đã xuất khẩu được khối lượng rau quả tươi, rau quả
chế biến trị giá 30 triệu rúp chuyển nhượng. Từ khi đất nước chuyển nhượng cơ
chế quản lý kinh tế, do thị trường truyền thống bị thu hẹp, thị trường mới còn
đang trong giai đoạn thử nghiệm chưa ổn định, hơn nữa chất lượng, số lượng,
chất lượng, giá cả sản phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường nên kim
ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam còn khiêm tốn. Điều đó tiềm năng lớn về xuất
khẩu rau quả chưa được khai thác.
Bước đầu tìm hiểu nguyên nhân hạn chế xuất khẩu rau quả cho thấy, ngoài lý
do biến động thị trường xuất khẩu truyền thống thì một nguyên nhân quan trọng
khác là chưa có chính sách và biện pháp hữu hiệu để phát huy thế mạnh của các
thành phần kinh tế tham gia tích cực vào hoạt động sản xuất, ché biến, lưu thông
xuát khẩu rau quả. Một thời gian dàỉ ở tầm vĩ mô coi nhẹ sản phẩm rau quả, chưa
đánh giá đúng mức lợi thế của nó trong lĩnh vực xuất khẩu. Vì thế, việc đi sâu
nghiên cứu hoàn thiện các chính sách và đề xuất các giải pháp thúcđẩy hoạt động


1
xuất khẩu rau quả thời gian tới là rất cấp thiết nhằm phát huy tiềm năng, thế
mạnh của mọi thành phần kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu rau quả,
góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra, góp phần nâng cao
vị thế sản phẩm nông nghiệp nước ta trên thị trường quốc tế.
Bằng nhận thức của mình sau ba năm nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế
Quốc dân và đợt thực tập tại Viện phát triển quốc tế học để tìm hiểu tình hình
xuất nhập khẩu trong thời gian qua, tôi muốn góp một phần nhỏ bé nhằm tìm ra
một số giải pháp tốt hơn để khắc phục hạn chế trong xuất nhập khẩu của nước ta .
Và đó cũng là lý do tôi chọn đề tài “Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh
xuất khẩu rau quả chủ yếu trong giai đoạn 2000 -2005’’ làm báo cáo chuyên đề
thực tập tốt nghiệp. Với mục đích chính đặt ra ở trên, ngoài lời nói đầu, kết luận
và danh mục tài liệu tham khảo báo cáo chuyên đề được chia làm ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm
rau quả ở Việt Nam.
Chương II: Thực trạng tình hình sản xuất và xuất khẩu rau quả của Việt Nam
thời gian qua.
Chương III: Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm rau
quả chủ yếu trong giai đoạn 2000 - 2005.
Với thời gian nghiên cứu thực tế còn ít, tài liệu tổng kết chưa đầy đủ, kinh
nghiệm công tác và sự hiểu biết của bản thân chưa nhiều, bài viết này không
tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong rằng sẽ nhận được nhiều sự đòng góp ý
kiến của các thầy cô cũng như của toàn thể các bạn. Qua đây tôi cũng xin cảm ơn
thạc sĩ Nguyễn Anh Minh cùng các cô chú trong viện phát triển quốc tế học, đặc
biệt là tiến sĩ Hoàng Hải-Viện trưởng viện phát triển quốc tế học, đã tận tình giúp
đỡ tôi hoàn thành báo cáo chuyên đề này.
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU
SẢN PHẨM RAU QUẢ Ở VIỆT NAM.
I. Các lý thuyết kinh tế cơ bản về thương mại quốc tế và phân công lao
động quốc tế:
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thương mại nói chung và
thương mạI quốc tế nói riêng cũng ngày một phát triển. Từ phương thức trao đổi
cơ bản, đơn sơ trong nội bộ các nước, các thương nhân tìm cách mua sản phẩm
trong nước, mang tới các nước khác để đổi lấy sản phẩm độc đáo mà nước mình
không có. Hình thức này ngày càng hoàn hảo, trở nên không thể thiếu được ở bất
cứ nước nào.
Song so với thương mại trong nước, thương mại quốc tế có đặc đIểm trao đổi
hàng hoá, dịch vụ giữa các nước, thông qua buôn bán, là mối quan hệ xã hội,
phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá
riêng biệt của các quốc gia. Như vậy sự khác biệt căn biệt đó là hoạt động buôn
bán không bó hẹp trong phạm vi nội bộ của một nước mà vượt ra khỏi phạm vi
biên giới của một quốc gia, gắn liền với việc sử dụng đồng tiền quốc tế khác
nhau. Hoạt động buôn bán này diễn ra nhay cả khi có sự khác biệt về ngôn ngữ,
phong tục tập quán, văn hoá, xã hội, luật pháp...Do đó đã xuất hiện một số lý
thuyết để giải thích cho các hình thái thương mại quốc tế và phân công lao động
quốc tế.
1. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối:
Adam Smith cho rằng lợi ích của thương mại quốc tế thu được do thực hiện
công tác phân công. Nguyên tắc phân công theo ông là mỗi quốc gia nên chuyên
môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối, thông qua đó phải
sử dụng một cách tốt nhất các nguồn lực. Các nguồn lực đó là đội ngũ lao động
có tay nghề và được đào tạo thích hợp, nguồn vốn, tiến bộ công nghệ và truyền
thống kinh doanh. Như vậy, các quốc gia sẽ tiến hành chuyên môn hoá việc sản
xuất các mặt hàng mà họ có lợi thế tuyệt đối, sau đó tiến hành trao đổi với các
3
quốc gia khác giúp cả hai bên có lợi. Trong thương mại quốc tế, các sản phẩm

của thế giới được sử dụng một cách tốt nhất, tổng sản phẩm của thế giới sẽ gia
tăng. Sự tăng thêm số sản phẩm này là nhờ vào chuyên môn hoá và sẽ được phân
bổ giữa hai quốc gia theo ntỷ lệ trao đổi ngoại thương.
Thực chất của lợi thế tuyệt đối có thể minh hoạ qua ví dụ sau:
Biểu 1: Ví dụ giả định về lợi thế tuyệt đối giữa Việt Nam và Đài Loan.
Việt Nam ĐàI Loan
Gạo (kg/1 giờ công) 6 1
Thịt bò (kg/1 giờ công) 4 5
Biểu 1 cho thấy giả sử một giờ công ở Việt nam sản xuất được 6kg gạo hoặc
4kg thịt bò, trong khi đó ở Đài Loan được 1 kg gạo hoặc 5kg thị bò.
Như vậy, Việt Nam có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất gạo, còn Đài Loan có
lợi thế trong việc sản xuất thịt bò. Việt nam sẽ chuyên môn hoá trồng lúa, còn
Đài Loan sẽ chuyên môn hoá việc chăn nuôi bò, sau đó hai quốc gia này sẽ trao
đổi một phần sản phẩm cho nhau.
Tuy nhiên, lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần nhỏ của thương mại
quốc tế, đó là thương mại giữa các nước đang phát triển với nhau. Phần lớn
thương mại thế giới, đặc biệt là giữa các nước phát triển không thể giải thích
được bằng lợi thế tuyệt đối. Chẳng hạn, một quốc gia nếu có sự bất lợi trong sản
xuất tất cả các loại sản phẩm, hoặc giữa các nước có điều kiện tương tự nhau về
chi phí sản xuất các loại hàng hoá thì phải chăng là không có thương mại quốc
tế? Thực tế cho thấy các quốc gia vẫn trao đổi ngoại thương ngay cả khi một
trong hai nước có bất lơị thế hoàn toàn với nước kia. Chính vì hạn chế đó của lợi
thế tuyệt đối mà lý thuyết lợi thế so sánh đã ra đời.
2. Lý thuyết về lợi thế so sánh.
2.1. Lợi thế so sánh - quy luật cơ bản của thương mại quốc tế:
Theo nhà kinh tế học David Ricardo, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn
so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó
vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế tạo ra lợi ích cho mình. Khi tham gia
thương mại quốc tế, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng
hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá có lợi thế tương

4
đối và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng là nhiều bất lợi
nhất. Trong quá trình trao đổi hàng hoá cho phép mỗi quốc gia sử dụng hợp lý và
có hiệu quả các nguồn lực của mình, đồng thời mang lại lợi ích cho cả hai bên
cũng như làm cho của cải của thế giới tăng lên.
Tư tưởng chủ yếu của lý thuyết này là: Lợi thế so sánh là lợi thế có thể đạt
được cho nên kinh tế quốc dân của một nước thông qua sự phân công quốc tế.
Nếu một quốc gia biết tập trung và sản xuất trao đổi những sản phẩm mà ở đó thể
hiện mối tương quan thuận lợi giữa các mức chi phí cá biệt của quốc gia so với
mức trung bình của thế giới, đồng thời biết khéo léo lựa chọn và kết hợp ưu thế
của quốc gia mình với ưu thế của quốc gia khác thì sẽ đạt hiệu quả tối đa trên cơ
sở nguồn lực hạn chế mà nếu không tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế
thì dù thế nào đi nữa họ cũng không thể nào có được. Một quốc gia mà việc sản
xuất ra các loại hàng hoá và dịch vụ không có hiệu quả bằng các quốc gia khác
nhưng trong nhiều trường hợp vẫn thu được lợi ích, thậm chí lợi ích cao hơn cả
các quốc gia khác, nếu họ biết chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những sản
phẩm sử dụng những nguồn lực tương đối rẻ sẵn có trong nước và nhập khẩu
những mặt hàng mà việc sản xuất ra chúng cần nhiều yếu tố tương đối đắt và
khan hiếm trong quốc gia mình
Tác dụng cơ bản và chủ yếu của lý thuyết về lợi thế so sánh là việc vận dụng
nó để xác định lợi thế của mọi quốc gia khi tham gia vào hoạt động thương mại
quốc tế sao cho thu được hiệu quả cao nhất.
Lợi thế so sánh của một quốc gia chịu tác động của nhiều nhân tố như lợi thế
về nguồn lực chính sách kinh tế như chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách thuế
quan và các hàng rào phi thuế quan...Lợi thế so sánh phải xem xét trong các đIều
kiện về thời gian và không gian nhất định. Một quốc gia có thể có lợi thế tương
đối trong việc sản xuất các loại hàng hoá sử dụng nhiều lao động sau một thời
gian, khi tiền công tăng lên thì quốc gia đó sẽ mất đI lợi thế này. Sự thay đổi đột
ngột tỷ giá hối đoái đôi khi cũng làm cho một nước mất đI lợi thế trong thương
mạI quốc tế.

Ví dụ về mô hình của D.Ricardo được minh hoạ ở bảng sau
Biểu 2: Ví dụ giả định về lợi thế so sánh (lợi thế tương đối) giữa việt Nam và Đài
Loan
5
VN ĐL
Thép (kg/giờ công) 1 6
Vải (m/giờ công) 2 4
Biểu 2 cho ta thấy: Đài Loan có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam về cả hai
loại hàng hoá. Nhưng khi tăng năng suất lao động ở ngành thép của Đài Loan gấp
6 lần của việt Nam thì năng suất trong ngành vải lại chỉ gấp 2 lần. Do đó giữa 2
hàng hoá là thép và vải Việt Nam có lợi thế tương đối trong sản xuất vải.
Theo quy luật lợi thế so sánh cả hai quốc gia cùng có lợi nếu Việt Nam
chuyên môn hoá sản xuất vải, còn Đài Loan chuyên môn hoá sản xuất thép sau
đó cả hai quốc gia đem trao đổi một phần cho nhau.
* Những lợi ích thương mại đem lại:
Biểu 2 cho thấy nếu tỷ lệ trao đổi quốc tế bằng với tỷ lệ trao đổi địa của một
quốc gia thì 1 trong 2 quốc gia sẽ từ chối trao đổi. Do đó tỷ lệ trao đổi phải ở
khoảng giữa tức là:
6/4>tỷ lệ trao đổi quốc tế(thép/vải)>1/2
Giả sử tỷ lệ trao đổi là 6kg thép lấy 6m vải Đài Loan sẽ lợi được 2m vải, tức
là tiết kiệm được 1/2 giờ công. Trong khi đó, Việt Nam có lợi 6m vải hay tiết
kiệm được 1/2 giờ công. Nếu tỷ lệ trao đổi gần với tỷ lệ trao đổi của Đài Loan thì
Việt Nam càng có lợi và ngược lại. Tóm lại, nếu tiến hành trao đổi theo tỷ lệ ở
khoảng giữa thì cả hai quốc gia cùng có lợi. Khoảng giao động của tỷ lệ trao đổi
quốc tế là: 4m vảI<6kg thép <12m vải.
Như vậy khi tỷ lệ trao đổi quốc tế thay đổi sẽ dẫn tới sự phân phối lại nguồn
lợi từ thương mại giữa các nước tham gia.
2.2. Lợi thế tương đối xét dưới góc độ chi phí cơ hội:
6
Có thể giải thích lợi thế so sánh theo quan điểm về chi phí cơ hội. Theo cách

tiếp cận này, chi phí cơ hội của một hàng hoá là số lượng các hàng hoá khác
phải cắt giảm để nhường lại đủ nguồn tài nguyên sản xuất thêm một đơn vị
hàng hoá thứ nhất. Như vậy quốc gia nào có chi phí cơ hội thấp hơn trong sản
xuất một loại hàng hoá thì có lợi thế tương đối trong việc sản xuất hàng hoá
đó và không có lợi thế tương đối trong việc sản xuất hàng hoá thứ hai.
Trong trường hợp không có ngoại thương, mỗi quốc gia chỉ tiêu dùng tối đa
hàng hoá mà họ sản xuất, lúc đó đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ trùng
với đường giới hạn khả năng tiêu dùng. Sau khi có thương mại mà khả năng
tiêu dùng được mở rộng thì lợi ích tăng lên, và quốc gia có khả năng tiêu
dùng nhiều hơn khả năng sản xuất khi nền kinh tế đóng cửa.
7
Tuy nhiên, lợi thế so sánh của Ricardo chỉ đề cập đến mô hình đơn giản của
hai nước, hai hàng hoá và một nguồn lực đầu vào là lao động. Vì thế, mô hình
của Ricardo chưa giải thích một cách rõ ràng nguồn lực của thương mại quốc
tế trong nền kinh tế hiện đại. Hai nhà kinh tế học người Thuỵ Điển là
Hecksher và Ohlin đã bổ sung bằng một mô hình mới rõ cách lựa chọn đó
như thế nào, trong đó hai ông đã đề cập đến hai yếu tố đầu vào là vốn và lao
động.
2.3. Lý thuyết của Hecksher - Ohlin về lợi thế tương đối:
Mô hình Hecksher - Ohlin phát biểu: một nước sẽ xuất khẩu loại hàng hoá mà
việc sản xuất ra nó sử dụng nhiều yếu tố rẻ và tương đối sẵn có ở nước đó và
nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuấtư ra nó cần nhiều yếu tố đắt và
khan hiếm ở nước đó. Một cách vắn tắt, một nước tương đối giàu lao động thì
sẽ sản xuất những hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu hàng hoá
sử dụng nhiều vốn.
Về bản chất, học thuyết Hecksher - Ohlin căn cứ vào sự khác biệt về tính
phong phú và giá tương đối của nhiều yếu tố sản xuất, là nguyên nhân dẫn tới
sự khác biệt về giá cả tương đối của hàng hoá giữa các quốc gia trước khi có
thương mại để giải thích về nguồn gốc của thương mại quốc tế. Sự khác biệt
về giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất và giá cả của hàng hoá sau đó sẽ

chuyển thành sự khác biệt và giá cả tuyệt đối của hàng hoá. Sự khác biệt về
giá cả của các hàng hoá giữa hai nước là nguyên nhân của thương mạI quốc
tế.
II. ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU RAU QUẢ Ở VIỆT NAM LÀ MỘT TẤT
YẾU KHÁCH QUAN.
1. Xuất khẩu rau quả Việt Nam là hướng đi phù hợp với lợi thế so sánh
của Việt Nam trong thương mạI quốc tế:
Trong đIều kiện hội nhập quốc tế ngày nay, muốn phát triển mỗi quốc gia
không thể đóng kín cửa mà phảI tích cực mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
thương mạI, tham gia vào phân công hợp tác quốc tế.
Nhưng để hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam cũng gặp phải
những thách thức. Đó là sản phẩm và dịch vụ của Việt Nam phải chịu sức ép
cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước về mọi mặt do
8
Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới trong bối cảnh phân công lao động đã
được xác lập khá ổn định, thị trường thế giới đã được phân chia tương đối. Mặt
khác các doanh nghiệp Việt Nam còn non trẻ phải tập trung với các tập đoàn lớn
có kinh nghiệm.
Xuất khẩu là một khâu quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân của một nước
Góp phần vào tổng sản phẩn trong nước nhờ bán ra nước ngoài những sản phẩm
có lợi thế, có chất lượng cao. Nguồn thu từ xuất khuẩu được sử dụng vào việc
trang trải nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, góp phần cân đối, duy trì và mơ
rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ của khoa học và công nghệ
mới, hoà nhập với sự tiến bộ củanền kinh tế thế giới
Đối với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là những nước trong khu vực thực
tiễn phát triển những năm gần đây đã chứng minh nhờ thuực thi chính sách
hướng về xuất khẩu mà các nước đã nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo
nàn, lạc hậu, trở thành các quốc gia, vùng lãnh thổ công nghiệp mới, có nền kinh
tế giàu mạnh, hiện đại, có khả năng tiến kịp các nước kinh tế phát triển trong thập
kỉ tới .Do vậy, đối vối nhiều nước xuất khẩu trở thành mũi nhọn của nền kinh tế,

là đòn bẩy của nền kinh tế xã hội.
9
Đối với nước ta, thực tiến những năm qua cho thấy nhờ thực hiện chủ trương
đường lối đổi mới của Đảng và Nhà Nước, đặc biệt là chủ trương hướng
mạnh vào xuất khẩu, nền ngoại thương có bước phát triển khá mạnh, kim
ngạch xuất khẩu tăng nhanh. Kim ngạch xuất khẩu các năm 1996, 1997, 1998
lần lượt là: 7,3 tỷ; 9,1 tỷ và 9,3 tỷ USD. Cơ cấu mặt hàng, thị trường có sự
chuyển dịch quan trọng góp phần thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinhtế, cải
thiện đời sống đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài nhiều
năm.
Một trong những nguyên nhân thành công của hoạt động xuất khẩu là do
chúng ta biết phân tích, chọn ra các nguồn lực, lợi thế so sánh trong điều kiện
cụ thể của nước ta đối với từng ngành hàng, từng nhóm hàng, mặt hàng và
kết hợp với các lợi thế so sánh này trong hoạt động xuất khẩu.
Qua nghiên cứu phân tích, các nhà kinh tế đã khẳng định Việt Nam có những
lợi thế sau trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
- Vị trí địa lý: Việt nam nằm ở vòng cung Châu á - Thái Bình Dương là nơi
đang diễn ra dòng giao lưu kinh tế sôI động nhất và hứa hẹn những bước phát
triển trong tương lai, nằm trên tuyến giao thông quốc tế quan trọng với hệ
thống cảng biển và cửa ngõ không chỉ cho nền kinh tế Việt Nam mà còn cho
các quốc gia khác. Đây là lợi thế so với các nước nằm sâu trong lục địa hoặc
nằm ở những nơI ít diễn ra các hoạt động thương mại quốc tế trên biển. Lợi
thế về địa lý đã và đang được nước ta khai thác để phát triển thương mạI
quốc tế
- Lao động: Với 37 triệu người đang trong độ tuổi lao động trên tổng số 78
triệu người dân, hàng năm nước ta có 1,2 triệu người bước vào độ tuổi lao
động. Đây được xem như một nguồn lực quý. Tuy nhiên đó mới chỉ là lợi thế
về mặt số lượng. Xét về chất lượng, người Việt Nam có tư chất thông minh,
có khả năng tiếp thu nhanh khoa học công nghệ. Giá nhân công rẻ cũng là
một lợi thế của Việt Nam trong phân công lao động quốc tế. Đây là yếu tố thu

hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên lao
động Việt Nam vẫn còn hạn chế về năng suất lao động, ý thức tổ chức kỷ luật
đòi hỏi phải có giải pháp khắc phục mới đáp ứng được nhu cầu phân công lao
động quốc tế.
10
- Tài nguyên thiên nhiên gồm đất đai, khí hậu, đường biển, khoáng sản, tiềm
năng du lịch, được đánh giá là một trong những lợi thế của Việt Nam trong
phát triển thương mại quốc tế. Tuy nhiên để tận dụng được lợi thế so sánh
này chúng ta cần có biện pháp khai thác, sử dụng hợp lý, kết hợp tốt giữa
khai thác và cải tạo để đạt được hiệu quả kinh tế cao.
- chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước: Từ khi Đảng và Nhà nước thực
thi chính sách đến nay , nền kinh tế Việt Nam đạt được những thành tựu nổi
bật, khẳng định được sự đúng dắn trong đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước là sự phát triển trong sự quan hệ hợp tác với các nước, tham gia
vào các tổ chức kinh tế quốc tế. Như vậy chính sách đổi mới đúng đắn của
Đảng và Nhà nước được xem như một trong những lợi thế có vai trò quyết
định đối với thành công của hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó có hoạt
động xuất nhập khẩu. Lợi thế so sánh này tuy không tác động tới hoạt động
sản xuất kinh doanh nhưng có tác động gián tiếp thông qua các chủ trương
chính sách đIều tiết, quản lý kỉnh tế, đIều tiết các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, các chính sách ban hành đã tạo ra
những thuận lợi cho phép phát huy các lợi thế so sánh của đất nước. Kết quả
hoạt động kinh tế đối ngoạI nói chung, hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng
những năm qua đã chứng minh đIều đó.
Bên cạnh những thuận lợi trong quá trình tham giá thương mại quốc tế Việt
Nam còn gặp phải rất nhiều khó khăn.
- Thách thức gay gắt nhất là nguy cơ “tụt hậu” xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực do xuất phát điểm của ta quá thấp, lại phải đối phó với
những cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, không hội nhập được,
nhưng hội nhập với nền kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta không tránh khỏi

phải chịu ảnh hưởng của xu thế “tự do hoá thương mại” của biến động giá cả
quốc tế và lãi suất ngân hàng, tình hình cung cầu hàng hoá và vốn đầu tư, của
thị trường nước ngoài trong khi bố trí cơ cấu kinh tế...Tình hình đó đặt ra cho
ta nhiều khó khăn trong hoạch định chiến lược cũng như trong đIều hành
quản lý, đòi hỏi nền kinh tế nước ta phải phát triển vượt bậc, mau chóng
trưởng thành để đủ sức chống đỡ các ảnh hưởng nói trên.
11
Nền kinh tế còn nhiều yếu kém, đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vừa
thiếu lại vừa yếu, tổ chức bộ máy kinh tế đối ngoại kém hiệu quả đã tác động
không thuận lợi đến sự phát triển kinh tế đối ngoại
Việt Nam cần phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại của mình theo hướng
không ngừng mở rộng quy mô đi đôi với ra sức nâng cao chất lượng của “đa
phương hoá và đa dạng hoá” kinh tế đối ngoại. Đa phương hoá và đa dạng hoá
nhằm khai thác hết mọi tiềm năng, tạo ra đối trọng nhiều chiều, sự cạnh tranh
nhiều mặt giữa các đối tác nước ngoàI trong quan hệ làm ăn với Việt Nam. Để
đạt được hiệu quả cao trong thực hiện phương châm này, cần chú ý đến các vấn
đề sau:
+ Đaphương hoá và đa dạng hoá ngày càng rộng nhưng cần có sản phẩm mũi
nhọn, mặt hàng chủ lực, thị trường trọng đIểm, cần nhằm vào những đối tác thực
sự có nhiều vốn, kỹ thuật công nghệ, thị trường, có chủ trương hoạt động trên thị
trường Việt Nam, có tác dụng làm đối trọng trên một mưc độ nhất định.
+ Luôn luôn nắm vững hiệu quả, lấy hiệu quả làm chuẩn mực trong việc lựa
chọn mặt hàng cũng như đối tác. Với tư cách chủ nhà khi xem xét hiệu quả, cần
xét đồng bộ trên cả ba mặt: Kinh tế - kỹ thuật, xã hội và tài chính. Ở Việt Nam
những ngành có lợi thế so sánh là ngành sử dụng nhiều lao động, tài nguyên thiên
nhiên, ngoài ra Việt Nam còn có một vị trí địa lý thuận lợi và một hệ thống chính
sách thương mại phù họp quốc tế.
2. Sản xuất và xuất khẩu rau quả Việt Nam phù hợp với định hướng
phân công lao động quốc tế:
Hiện nay trên thế giới đã nghiên cứu và trồng hàng ngàn loại rau quả khác

nhau. Cùng với quá trình phát triển khoa học kỹ thuật, con người ngày càng sử
dụng đa dạng và triệt để hơn các sản phẩm rau quả. Theo đánh giá của FAO về
hình cung cầu các sản phẩm rau quả tươi và rau quả chế biến thì ngày nay các sản
phẩm rau quả mới chỉ đáp ứng được 45% nhu cầu tiêu thụ trên thế giới. Cũng
theo số liệu thống kê của FAO hiện tại bình quân sản xuất quả theo đầu người
khoảng 75kg. Dự báo nhu cầu tăng bình quân hàng năm giai đoạn 1990 - 2005 là
3,6%, tốc độ sản phẩm mới là 2,8%
Những nước mùa đông lạnh giá không sản xuất được rau quả SNG, Đông Âu,
Bắc Âu, hoặc những nước và khu vực tuy khí hậu cho phép sản xuất rau quả
12
nhưng thiếu đất, thiếu lao động do bị các ngành công nghiệp và dịch vụ thu hút
như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore là những thị trường cần nhập rau
quả với số lượng lớn. Để đáp ứng nhu ccầu tiêu thụ rau quả, chính phủ nước họ
phảI nhập khẩu. Có nước hàng năm nhập hàng triệu tấn rau quả như: Đức, Pháp,
Mỹ, Tây Ban Nha. Đây là thị trường xuất khẩutiềm năng cho những nước có lợi
thế về trồng rau quả như nước ta.
Bên cạnh tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu đối với mặt hàng rau quả
hiện nay thì xu hưoứng tiêu dùng trong tương lai của nhiều quốc gia trên thế giới
có sự thay đổi lớn, tức là tăng dinh dưỡng bằng thực vật và các loại sinh tố khác
có trong rau quả, sử dụng đồ uống pha trộn nhiều nước hoa quả nguyên chất...đã
góp phần làm cho cầu về rau quả tăng lên nhanh chóng. Một số nước trước đây
sản xuất nhiều rau quả nhưng gần đây có xu hướng giảm dần cả về diện tích, sản
lượng và chủng loại rau quả. Điều đó cũng làm cho cung cầu về rau quả trên thị
trường giảm xuống cầu về rau quả ngày càng tăng.
Tình hình nêu trên đã và đang là vấn đề bức xúc đối với thị trường rau quả thế
giới, đồng thời tạo ra những lợi thế lớn cho việc phát triển ngành sản xuất, xuất
khẩu rau quả nước ta trở thành một mũi nhọn trong tương lai.
3. Sản xuất rau quả phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng
nông nghiệp nước ta, góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân.
Theo kinh nghiệm của những nhà sản xuất kinh doanh xuất khẩu và theo tính

toán của các chuyên gia ngành rau quả cho thấy, sản xuất và xuất khẩu rau quả
cho hiệu quả kinh tế cao hơn các nông sản khác.
Theo tổng kết của huyện Lục Ngạn, trồng vải thiều đến năm thứ 5 đã thu hồi
vốn, từ năm thứ sáu trở đi có lãi, trong khi trồng các loại cây công nghiệp thì
thường từ năm thứ 8 trở đi mới bắt đầu sinh lời.
Theo tính toán của các chuyên gia bình quân thu nhập trồng vải thiều trên một
ha đạt gần 20 triệu đồng. Trong khi đó nếu trồng cây lương thực (sắn, khoai
lang,...) chỉ cho thu nhập 3 triệu đồng/ha. Hiệu quả thu hoạch một cây vỉa thiều 8
tuổi tương đương thu nhập 3 sào lúa.
Tại huyện Nam Thanh tỉnh Hải Dương qua khảo sát thực tế một sào trồng vải
khi thu hoạch ổn định cho giá trị gấp 8 - 10 lần trồng lúa. Năm1997, một số chủ
trang trại thu nhập từ vải thiều được trên 100 triệu đồng.
13
Những thông tin và ý kiến của những chuyên gia, các nhà sản xuất xuất khẩu
cho thấy hiệu quả kinh tế của sản xuấtư và xuất khẩu rau quả được xem như là
một trong những lợi thế trong hoạt động này.
Mặt khác phát triển sản xuất chế biến xuất khẩu rau quả góp phần giải quyết
việc làm tăng thu nhập cho người lao động trong xã hội. Đó chính là hiệu quả
kinh tế xã hôị của hoạt động sản xuất - chế biến - xuất khẩu rau quả.
4. Xu hướng phát triển của thị trường rau quả:
Xu hướng chuyển từ chuyên môn hoá sang đa dạng hoá sản xuất và xuất
khẩu rau quả:
Xu hướng phát triển sản xuất và xuất khẩu chuyển từ chuyên môn hoá sang
đa dạnh hoá ở đây không có nghĩa là từ bỏ sản phẩm chuyên môn hoá mà là đa
dạng hoá nhưng vẫn có sản phẩm chuyên môn hoá. Đa dạng hoá để hỗ trợ cho sự
phát triển sản phẩm chuyên môn hoá, sản phẩm chủ lực.
Theo kinh nghiệm của một số nước Châu á có giá trị xuất khẩu rau quả cao
(ấn Độ, Trung Quốc ...) thì sự chuyển hướng từ chuyên môn hoá sang đa dạng
hoá không phải là quá trình thay đổi sản phẩm chuyên môn hoá có lợi thế so
sánh. Những sản phẩm truyền thống chủ lực không có sự giảm bớt sản lượng

xuất khẩu thậm chí còn có xu hướng tăng. Lịch sử phát triển của những nước có
nền kinh tế phát triển cho thấy họ đã đi từ nông nghiệp đa canh tự cấp sang ngành
nông nghiệp chuyên canh sản xuất hàng hoá cao, từ đó mới chuyển sang đa dạng
hoá sản phẩm nhưng vẫn có sản phẩm chuyên môn hoá, sản phẩm chủ lực.

III. ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU RAU QUẢ VÀ
KINH NGHIỆM SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN - XUẤT KHẨU RAU QUẢ CỦA
MỘT SỐ NƯỚC.
1. Đặc điểm của hoạt động sản xuất rau quả:
1.1. Đặc đIểm của mặt hàng rau quả:
+ Sản phẩm rau quả dễ thiu thối hư hỏng. Do đó công tác bảo quản và chế
biến rau quả rất quan trọng.
+ Giá rau quả biến động mạnh, thị trường không ổn định, có nhiều đối thủ
cạnh tranh.
14
+ Quy định để nhập khẩu rau quả vào các thị trường tiềm năng như Châu Âu,
Bắc Mỹ, Nhật Bản...rất ngặt nghèo, nhất là vệ sinh an toàn thực phẩm.
+Sản phẩm rau quả phụ thuộc vào thời tiết.
+ Thị hiếu, tập quán tiêu dùng của mỗi vùng khác nhau, do vậy nhu cầu về
từng loại rau quả khác nhau.
Do mặt hàng rau quả là sản phẩm của nông nghiệp nên việc sản xuất mang
tính thời vụ, từ đó cũng hình thành thời vụ trong trao đổi, kể cả đối với xuất nhập
khẩu. Do các nước có khí hậu khác nhau nên thời vụ cũng khác nhau.
Ví dụ như ở Mỹ, khả năng dự trữ về kho bảo quản rất lớn nên có thể phân bố
lượng xuất khẩu dàn ra tất cả các tháng trong một năm. Còn ở các nước khác, do
lượng kho dự trữ nhỏ cho nên việc giao hàng và bán hàng phải tiến hành trước
khi mùa đông ở các đường vận tải thuỷ...Chính vào thời điểm đó, thị trường chịu
tác động mạnh của các yếu tố trên.
Ở nước ta, với mặt hàng rau quả được thu hoạch theo mùa vụ và cũng do bảo
quản như các kho dự trữ, kho đông lạnh chưa hoàn thiện. Nên việc xuất khẩu

mặt hàng rau quả tươi ra thị trường nước ngoài chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng đúng mức và kịp thời.
1.2. Đặc đIểm của thị trường rau quả nhiệt đới:
Đối với các loại quả nhiệt đới, người ta thường phân chia thành các phân đoạn
thị trường khác nhau. Nghĩa là sự trao đổi trong khu vực các nước đang phát triển
ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ở các thị trường khác nhau có các yêu cầu
khác nhau đối với cách trình bày, đóng gói, phương thức vận chuyển, phân phối,
và quảng cáo. Điều này được phản ánh qua giá cả bán ra ở các thị trường khác
nhau. Đối với những thị trường ở các nước đã phát triển, có thu nhập cao thì tiêu
chuẩn về chất lượng, trình bày, quảng cáo được đòi hỏi rất nghiêm ngặt.
Việc xuất khẩu các quả tươi nhiệt đới của công ty trên thị trường thế giới
trong những năm gần đây liên tục phát triển, mặc dù giá cả tiêu thụ đối với các
loại rau quả này còn tương đối cao, nhưng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu
tiêu thụ, đặc biệt thị trường các nước đang phát triển.
Hiện nay, ở những nước nhập khẩu ôn đới, sự hiểu biết của người tiêu dùng về
quả nhiệt đới còn hạn chế (trừ dứa). Do thói quen tiêu dùng khác nhau giữa các
15
dân tộc ở các thị trường khác nhau: Bắc Mỹ, Pháp Anh...nên nhu cầu nhập khẩu
ở các nước này về mặt hang quả nhiệt đới có sự khác biệt.
Các yếu tố khiến các loại quả đặc sản của vùng nhiệt đơí ngoài sản phẩm còn
tính đến giá cả.
Việc buôn bán quả nhiệt đới phải tuân thủ một số các luật lệ các phạm vi
chính sách buôn bán. Một số nước đòi hỏi phải có giấy chứng nhận về vệ sinh
thực phẩm, quy định vè mức độ ẩm, tỷ lệ thuốc trừ sâu...
2. Kinh nghiệm thành công của một số nước và khu vực trong lĩnh vực
sản xuất - chế biến xuất khẩu rau quả.
2.1.Kinh nghiệm của Malaysia
Trong những cố gắng xúc tiến phát triển sản xuất phục vụ xuất khẩu, Chính
phủ đã đưa ra những khuyến khích về mặt tài chính đầy sức hấp dẫn, hay những
khuyến khích đầu tư , khuyến khích về thuế nhằm hỗ trợ người sản xuất.

Malaysia còn khuyến khích sản xuất loại cây ăn quả. Các loại cây này được
cân nhắc, lựa chọn trên cơ sở nhu cầu tiêu thụ trong và ngoài nước, trong đó bao
gồm cả các loại rau quả cá mùa vụ và các loại rau quả có quanh năm. Đồng thời
các vụ chức năng trực thuộc Bộ Nông nghiệp còn thực hiện các dịch vụ tư vấn
cho sản xuất, tư vấn tiếp thị cho các nhà quản lý. Các vườn cây ăn quả được tổ
chức theo nhóm có thể được trợ giúp dưới hình thức tín dụng, cung ứng các yêu
tố đầu vào và các điều kiện tiếp thị
Ở Malaysia còn có hội đồng ngành cây ăn quả được thành lập nhằm mục đích
xúc tiến sự liên kết giữa khu vực nhà nước và tư nhân. Mạng lưới của hội đồng
gồm các đại diện của các Bộ, Cục, các công ty, các trường đại học và các đơn vị
tư nhân có liên quan tơí sự phát triển của ngành cây ăn quả
Malaysia còn thực hiện những khuyến khích trong việc trồng cây ăn quả hàng
hoá, phù hợp với các mục tiêu của chính sách nông nghiệp quốc gia. Chính phủ
Malaysia hàng năm vẫn đưa ra những khuyến khích về tài chính và tiền tệ nhằm
khuyến khích việc trồng, chế biến, xuất khẩu các loại cây ăn quả phổ biến trên
quy mô lớn ở Malaysia .Các công ty (bao gồm các hợp tác xã , các tổ hợp nông
nghiệp, các nông hội, các công ty cổ phần ...) muốn tham gia vào việc trồng cây
ăn quả để bán đều có quyền được hưởng các khuyến khích về thuế.
16
Các dự án nông nghiệp đã được chấp thuận, nghĩa là các dự án đã được Bộ
Tài chính thông qua chi cơ bản ban đầu được khấu trừ trong trường hợp: khai
hoang, trồng mới, xây dựng đường xá, cầu cống ở nông thôn, xây dựng công
trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu. Các dự án này có quyền được hưởng thuế đặc
biệt .Chính phủ cũng quy định khoảng thời gian và diện tích tối thiểu được hưởng
đối với từng loại quả.
Để thúc đẩy xuất khẩu, Chính phủ có những khuyến khích trợ giúp xuất khẩu,
trợ giúp phí tổn khi xúc tiến việc xuất khẩu hoa quả, trợ giúp các nhà xuất khẩu
thâm nhập vào thị trường mới, trợ giúp trong việc xây dựng các kho chứa, bảo
quản rau quả .
Đối với lĩnh vực chế biến rau quả được áp dụng những khuyến khích như: với

công ty mới thành lập, được giảm thuế trong năm năm đầu, kể từ ngày bắt đầu
sản xuất .
Để khuyến khích các dự án tổng hợp trồng trọt và chế biến cây ăn quả trên
quy mô lớn , các công ty mới ra đời được hưởng năm năm giảm thuế. Vấn đề này
được Bộ Thương mại và Công nghiệp họp bàn và xác định trên cơ sở các tiêu
chuẩn về giá trị tài sản chung; số nhân công cố định trong thời gian dài và tác
dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - kỹ thuật của đất nước .
Các nhà xuất khẩu các sản phẩm trái cây đã chế biến được hưởng chính
khuyến khích như trợ cấp xuất khẩu, cấp vốn tín dụng xuất khẩu, chuẩn bị cho
các nhà xuất khẩu các khoản tín dụng với lãi suất có thể giúp họ cạnh tranh hữu
hiệu hơn trên thị trường quốc tế. Chính phủ cũng miễn thuế nhập khẩu máy móc
phục vụ cho công nghiệp chế biến xuất khẩu .
Từ tất cả các chính sách đã phân tích trên đây cho ta thấy chính phủ Malaysia
đã tập trung cao vào vấn đề xuất khẩu rau quả , đưa sản xuất rau quả trở thành
một ngành mũi nhọn. Phát triển ngành rau quả đã góp phần nâng cao kim ngạch
xuất khẩu của Malaysia, đưa đất nước ngày càng phát triển, nền kinh tế tăng
trưởng mạnh .
2.2. Kinh nghiệm phát triển ngành đồ hộp của ĐàI Loan.
Trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá ở Đài Loan, nông nghiệp vẫn chiếm một
tỷ trọng đáng kể trong thu nhập quốc dân . Cùng với nông nghiệp, công nghiệp
chế biến thực phẩm có vai trò quan trọng trong xuất khẩu thu ngoạI tệ - một hoạt
17
động cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá. Do vậy Chính phủ có kế hoạch
phát triển ngành thực phẩm dự trữ và đóng hộp và có những tác động thúc đẩy
lĩnh vực này phát triển .
Vào khoảng những năm 50, xuất khẩu chủ yếu của ngành chế biến thực phẩm
Đài Loan là dứa hộp, với giá trị xuất khẩu chủ yếu của ngành chế biến thực phẩm
Đài Loan là dứa hộp, với giá trị xuất khẩu chiếm tới 90% toàn ngành. Để đảm
bảo uy tín của dứa hộp Đài Loan đã đặt ra những tiêu chuẩn về các cơ sở đóng
hộp và dứa hộp cho xuất khẩu. Cho đến nay mới có trên hai trục năm nhà máy

dứa hộp đã thoả mãn các đIều kiện tham gia xuất khẩu .
Vào thời kỳ khan hiếm dứa trong những dịp mùa vụ đã hình thành những
trung gian đầu cơ giữa người nông dân và nhà sản xuất đồ hộp. Đối phó với tình
hình này, các công ty lớn thường lập hệ thống thu mua riêng của mình. Các công
ty dứa Đài Loan thành lập “ Văn phòng nông trang trung tâm ’’. Văn phòng này
có nhiệm vụ theo dõi và báo cáo về tình hình mùa màng. Hệ thống thu mua quả
từ nông dân được thành lập từ những vùng trồng dứa.Hệ thống này đã chứng
minh được tính hiệu quả trong viẹc thu mua nguyên liệu.
Các nhà trung gian vì mục tiêu kiếm lời thường thu mua dứa ngay cả khi còn
xanh và không thoả mãn yêu cầu đóng hộp, gây ảnh hưởng tới chất lượng. Chính
phủ đã có tác động đến việc hình thành nhà máy đóng hộp xuất khẩu và phân
phối nguyên liệu cho các nhà máy thông qua các tổ chức “ Hiệp hội ngành đồ
hộp dứa ‘’. Tổ chức này hoạt động trên nguyên tắc không lợi nhuận mà chủ yếu
đóng góp cho công nghiệp thực phẩm.
Chính phủ cũng như các công ty kinh doanh đều chú trọng đến nghiên cứu
khoa học về đồ hộp thực phẩm, hoa quả và đồ dự trữ. Các kết quả nghiên cứu
được phổ biến cho nhà sản xuất, công chúng qua báo chí cũng như các cuộc trình
diễn thực nghiệm.
Để quản lý chất lượng dứa hộp, Chính phủ ban hành lệnh nâng tiêu chuẩn của
các nhà máy đồ hộp dứa. Theo đó, tất cả các nhà máy đồ hộp phải thoả mãn một
hệ tiêu chuẩn quy định mới được tham gia xuất khẩu.
Kinh nghiệm thành công trong ngành đồ hộp dứa cho thấy Chính phủ có vai
trò rất quan trọng trong phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm .Bên cạnh
việc liên kết có tính chiến lược giữa những nhiều nhà sản xuất, quyền lực của
18
chính phủ giúp gây dựng những luật lệ cơ bản, những tiêu chuẩn kĩ thuật, những
yêu cầu cần thiết về xuất khẩu và nhiều biện pháp khác giúp các nhà sản xuất đi
đúng hướng. Sự hỗ trợ của chính phủ còn thể hiện ở đầu tư của chính phủ cho
những nghiên cứu cơ bản giúp gây dựng nền tảng cho cạnh tranh lâu dài.


19
0
100
200
300
400
500
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Ngµn ha
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU RAU
QUẢ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
I. THỰC TRẠNG SẢN XUẤT - CHẾ BIẾN - XUẤT KHẨU RAU QUẢ CỦA
VIỆT NAM .
Trong những năm qua, đặc biệt từ khi có nghị quyết Hội nghị lần thứ V- BCH
Trung ương Đảng khoá VII(năm 1993)về thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
phát triển mạnh rau, hoa quả, trong sản xuất đã có nhiều chuyển biến tích cực,
diện tích, năng suất, sản lượng rau quả ngày càng gia tăng .
1. Tình hình sản xuất rau quả
1.1. Tình hình sản xuất quả .
Theo số liệu của tổng cục thống kê, trong những năm gần đây, bình quân hàng
năm nước ta sản xuất khoảng 3 triệu tấn quả các loại, chiếm khoảng 6,3 giá sản
lượng nông nghiệp và khoảng 8,5% giá trị sản lượng trồng trọt. Năm 1997 diện
tích cây ăn quả nước ta là 425 ngàn ha sản lượng quả các loạI khoảng 3.8 triệu
tấn, năng suất bình quân đạt 9 tấn / ha.
Hình 1: Diện tích trồng cây ăn quả qua các năm
Nguồn: Viện nghiên cứu Kinh tế Bộ Thương Mại
20
Mức bình quân đầu người của cả nước là 53 kg. Vùng đồng bằng sông Cửu
Long có sản lượng quả chiếm 60% sản lượng của cả nước, có mức sản xuất quả

bình quân đầu người gấp 3 mức sản xuất bình quân đầu người của cả nước .
Diện tích trồng cây ăn quả tăng khá nhanh. Tốc độ tăng bình quân hàng năm
về diện tích trồng cây ăn quả giai đoạn 1991 - 2000 là 7%. Nhìn chung, tỷ lệ này
vẫn còn nhỏ, chưa tương xứng với việc phát triển diện tích trồng cây ăn quả. Cây
ăn quả trồng phân bố khắp các vùng trong cả nước, trong đó vùng đồng bằng
sông Cửu Long có diện tích trồng cây ăn quả lớn nhất, chiếm 43,8% diện tích
trồng cây ăn quả cả nước năm 2000. Diện tích trồng cây ăn quả phân bó theo
vùng năm 2000 như sau:

Hình 2: Diện tích trồng cây ăn quả phân bố theo vùng năm 2000
Cây ăn quả được trồng dưới hai hình thức: Thứ nhất là trồng phân tán tại vườn
của các hộ nông, quy mô từ 0,5 - 2,0 ha/hộ. Một số hộ rất ít có diện tích 5 -10
ha/hộ ; thứ hai là cây ăn quả được tập trung thành vùng, nhằm mục đích sản xuất
hàng hoá nhưng còn rất ít, có khoảng 70 ngàn ha, chiếm 16% tổng diện tích cây
ăn quả của cả nước. Đã bắt đầu hình thành một số vùng chuyện canh cây ăn quả
như xoài ở Hoà lộc ( Tiền Giang ), xoài Cam Ranh ( Khánh Hoà ), thanh long ở
Bình Thuận....
Dựa vào đặc điểm sinh học của từng loại cây và tính thích ứng của các vùng sinh
thái khác nhau, có loại được trồng ở một số địa phương mới cho năng suất cao, chất
21
0
20
40
60
80
100
120
140
160
MN & TD § §BB Khu 4 cò DHMT TN §NB §BSCL

Ngµn ha
lượng cao có hương vị đặc biệt như vải, bưởi, nho...Riêng 4 loại quả chuối, dứa, cây
có múi, và xoài đã chiếm 57% diện tích trồng cây ăn quả của cả nước .
Năng suất cây ăn quả phụ thuộc vào cơ cấu của mỗi vườn và trình độ thâm
canh của từng vườn quả tập trung, của từng vùng nông nghiệp. Nhìn chung, trình
độ thâm canh còn thấp, giống cũ thoái hoá, không được chọn lọc, kỹ thuật chăm
bón không được chú ý đúng mức, sâu bệnh nhiều, chúng ta chưa lựa chọn được
những giống cây cho năng suất cao hoặc nhập giống cây ngoại. Do vậy năng suất
quả của ta còn thấp và không ổn định so với năng suất của thế giới.
Hiện nay cả nước đã hình thành vùng trồng cây ăn quả cho xuất khẩu với tổng
diện tích trên 90 ngàn ha, được phân bố như sau:
Biểu 3: Vùng trồng cây ăn quả xuất khẩu năm 2000
LoạI quả Vùng phần bố Diện tích (ha)
Chuối
-Đồng băng sông Hồng
-Ven sông Tiền, sông Hậu
-Vùng phù sa sông Thao, miền núi Bắc Bộ.
33.100
3.600
26.000
3.500
Xoài
-Ven sông Tiền, sông Hậu
-Khánh Hoà
13.230
12.230
1.000
Dứa
-Cà Mau và Tây sông Hậu
-Bình Sơn - Kiên Giang

-Bắc Đông - Tiền Giang
-Đông Giao - Ninh Bình
-Tam kỳ - Đà Nẵng.
29.900
19.500
4.200
4.500
1.400
300
Nhãn
-Ven sông Tiền, sông Hậu, ĐBSCL
-Đồng bằng sông Hồng
14.230
12.230
2.000
Chôm
Chôm
Sầu Riêng
Măng Cụt
-Đồng Nai - Đông Nam Bộ
-Ven sông Tiền, sông Hậu
6.909
4.707
2.202
Tổng cộng 90.460
22
Nguồn : Chương trình phát triển 10 triệu tấn quả đến năm 2010 - Bộ Nhà
nước và phát triển nông thôn.

1.1.1.Tình hình sản xuất rau.

Trong những năm gần đây, sản xuất rau của cả nước có xu hướng gia tăng cả về
diện tích, năng suất và sản lượng. Mức độ tăng bình quân hàng năm về diện tích
là 4.6 % , về năng suất là 0,7% , về sản lượng là 5,1%. Năng suất rau bình quân
cả nước tăng chậm, đạt khoảng 11,8-12,6tấn / ha. Tuy nhiên, năng suất nhiều loại
rau như bắp cải, dưa chuột, cà chua ... của các vùng truyền thống cao hơn. Ví dụ ,
năng suất bắp cảI 40-60tấn / ha , cà chua 20-40tấn / ha. Năm 1998 diện tích rau
quả cả nước đạt 5,6triệu tấn , năng suất bình quân khoảng 15 tấn / ha.
Biểu 4: Diện tích , số lượng rau giai đoạn 1991-2000
Năm Diện tích (1000 ha) Sản lượng (1000tấn)
1991 268,5 3213,7
1992 279,3 3304,9
1993 293,3 3484,9
1994 304,5 3793,8
1995 318,2 4145,0
1996 330,0 4438,0
1997 377,0 5278,0
1998 380,0 5600,0
1999 395,9 5900,0
2000 411,6 6140,0
Nguồn: Số liệu thống kê nông lâm nghiệp, thuỷ sản Việt Nam 1991-1995
NXB Thống Kê, Hà Nội, 1996.
Số liệu của Bộ thương mại
Cũng như các loại quả, rau có mặt ở hầu khắp các tỉnh, thành phố, với quy
mô, chủng loạI khác nhau. TrảI qua quá trình sản xuất lâu dài đã hình thành
những vùng rau chuyên doanh có kinh nghiệm truyền thống trong các điều kiện
23
sinh thái khác nhau. Sản xuất rau tập trung chủ yếu vào vùng đồng bằng sông
Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ và Đà Lạt.
Trong 7 vùng sinh thái nông nghiệp, đồng bằng sông Hồng có diện tích trồng
rau cao nhất (83ngàn ha), tiếp đến là đồng bằng sông Cửu Long (hơn77 ngàn ha).

Sản xuất rau được quy thành hai vùng chính: vùng rau chuyên canh ven thành
phố, thị xã, khu công nghiệp lớn, diện tích chiếm khoảng 35% tổng diện tích đất
trồng rau nhưng cho sản lượng chiếm 37%sản lượng rau toàn quốc. Vùng rau
luân canh với cây lương thực và cây công nghiệp dài ngày chiếm trên 65% tổng
diện tích và 63% sản lượng rau toàn quốc. Ngoài ra rau còn được trồng tại các
vườn của các hộ gia đình, diện tích bình quân một hộ khoảng 36m2. Lượng rau
sản xuất tính bình quân đầu người đạt 65kg.
Biểu 5: Cơ cấu diện tích trồng rau phân bố theo vùng năm 2000
Các vùng Diện tích (1000ha) Tỷ trọng(%)
Miền núi trung duBắc bộ 64 17,3
Đồng bằng sông Hồng 83 22,5
Khu bốn cũ 40 10,8
Duyên hảI miền trung 42 11,4
Tây Nguyên 25 6,7
Đông Nam Bộ 39 10,6
Đồng bằng sông C Long 75 20,4
Tổng cộng 368
Nguồn : Viện Nghiên cứu Kinh tế Bộ Thương mại.
Rau quả nước ta phong phú về chủng loại , gồm 70 loại cây chủ yếu . Vùng
đồng bằng sông Hồng có rau vụ Đông là một trong những lợi thế của Việt Nam
so với một số nước trên thế giới . Các loại rau chủ yếu gồm cải bắp , su hào , cà
chua , dưa chuột , ớt cay nấm , khoai tây.
2. Chế biến và bảo quản rau quả.
2.1. Hệ thống bảo quản rau quả .
24
Phần lớn rau quả được sử dụng dưới dạng tươi, trong khi đặc tính của sản
phẩm rau quả là thu hoạch theo mùa vụ, thời gian thu hoạch ngắn, khả năng vận
chuyển và bảo quản khó khăn. Vì vậy công nghệ bảo quản rau quả tươi hết sức
quan trọng. Nhưng đến nay kỹ thuật bảo quản rau quả tươi chủ yếu sử dụng kinh
nghiệm cổ truyền, thủ công chưa có thiết bị lựa chọn và xử lý quả tươi trước khi

xuất khẩu. Do công tác bảo quản không tốt nên chi phí cho một đơn vị sản phẩm
rau quả xuất khẩu thường vượt định mức cho phép. Cũng do chưa có công nghệ
và phương tiện thích hợp để bảo quản sau thu hoạch nên tỷ lệ hư hỏng cao, ước
tính có đến 25-30%rau quả bị hỏng bị bỏ đi. Chỉ tính riêng các nhà máy đồ hộp ở
phía bắc, trong số hàng chục ngàn tấn nguyên liệu đưa vào chế biến, lượng
nguyên liệu thối hỏng do bảo quản và vận chuyển lên tới hàng chục phần trăm.
Một số loạI quả như nhãn, vải thiều, chuối được sấy khô để kéo dài thời gian bảo
quản, nhưng không giữ được hương vị thơm ngon tự nhiên ban đầu.
Kỹ thuật bảo quản mới thực hiện ở mức đóng gói bao bì và lưu giữ tại cảng
bằng kho mát chuyên dùng. Tuy vậy, khâu đóng gói và bao bì vẫn chưa đạt yêu
cầu, quy cách, mẫu mã còn xấu. Những hạn chế trong công tác bảo quản rau quả
là một trong những yếu tố cản trở phát triển sản xuất rau quả.
2.2 . Hệ thống chế biến rau quả .
Hiện nay cả nước có 22 nhà máy chế biến rau quả xuất khẩu, với tổng công
suất 100.000tấn / năm , trong đó có 12 nhà máy do Tổng Công ty rau quả Việt
Nam quản lý. Ngoài ra còn có 52 đơn vị sản xuấ , chế biến, kinh doanh, xuất
khẩu rau quả tại các tỉnh thành phố có quy mô nhỏ .
Các nhà máy chế biến rau quả của Tổng công ty rau quả Việt Nam có tổng
công suát thiết kế 70 ngàn tấn / năm và 5 nha máy đông lạnh có tổng công suất
thiết kế 25 ngàn tấn /năm. Tổng công ty quản lý 11 nhà máy đồ hộp và một nhà
máy đông lạnh. Tổng công suất thiết kế 50 ngàn tấn / năm .
Hầu hết máy móc, thiét bị của các nhà máy chế biến rau quả đều nhập từ các
nước XHCN(cũ ) như Nga, Đức, Bungari đã sử dụng trên 30 năm, máy móc thiết
bị, công nghệ đã cũ kĩ, lạc hậu. Do vậy sản phâm không đủ sức cạnh tranh trên
thị trường trong và ngoài nước .
Các nhà máy và thiết bị phụ trợ như bao bì carton, hộp sắt, kho trữ cũng nằm
trong tình trạng như các nhà máy chế biến .
25

×