Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Cuộc sống người lính trở về sau chiến tranh trong tiểu thuyết Phố của Chu Lai : KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.2 KB, 59 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




NGUYỄN DIỆU LINH




CUỘC SỐNG NGƢỜI LÍNH TRỞ VỀ SAU CHIẾN TRANH
TRONG TIỂU THUYẾT PHỐ CỦA CHU LAI




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC






SƠN LA, NĂM 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC





NGUYỄN DIỆU LINH




CUỘC SỐNG NGƢỜI LÍNH TRỞ VỀ SAU CHIẾN TRANH
TRONG TIỂU THUYẾT PHỐ CỦA CHU LAI


Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. Nguyễn Công Tho




SƠN LA, NĂM 2014
LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn đến ban giám hiệu trường Đại học Tây
Bắc đã tạo điều kiện tốt nhất cho em trong quá trình thực hiện khóa luận. Đặc
biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo Nguyễn Công Tho – thạc sĩ
giảng dạy trực tiếp hướng dẫn em trong quá trình thực hiện đề tài. Trong quá
trình làm khóa luận thầy đã luôn góp ý, định hướng, sửa chữa để giúp em không
bị lạc lối trong biển kiến thức mênh mông. Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn
đến các thầy cô trong tổ bộ môn Ngữ Văn đã có những đóng góp bổ sung cho

em trong quá trình thực hiện khóa luận. Thông qua đây em cũng xin gửi lời cảm
ơn đến gia đình và bạn bè đã tạo điều kiện tốt nhất để em hoàn thành khóa luận
một cách hiệu quả. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng khóa luận không tránh khỏi
những thiếu sót, em rất mong nhận được những góp ý chân thành từ phía các
thầy cô để khóa luận hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Diệu Linh



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
5. Phương pháp nghiên cứu 6
6. Đóng góp của khoá luận 7
7. Cấu trúc khoá luận 7
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 8
1.1. Những chuyển biến về xã hội, văn học từ năm 1975 8
1.1.1. Chuyển biến về mặt xã hội 8
1.1.2. Chuyển biến về mặt văn học 8
1.2 Nhà văn Chu Lai – cuộc đời và sự nghiệp sáng tác. 12
1.2.1 Cuộc đời 12
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác 14
CHƢƠNG 2. CUỘC SỐNG NGƢỜI LÍNH SAU CHIẾN TRANH TRONG

TIỂU THUYẾT PHỐ CỦA NHÀ VĂN CHU LAI 18
2.1. Người lính với những hoài niệm về quá khứ 18
2.2. Người lính tha hoá, biến chất, cô đơn, lạc lõng giữa cuộc sống mới 23
2.3. Người lính hoà nhập với cuộc sống mới 30
2.4. Những số phân người lính không gặp may mắn trong cuộc sống mới…….37
CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NGƢỜI LÍNH
TRONG TIỂU THUYẾT PHỐ CỦA CHU LAI 45
3.1. Xây dựng nhân vật đối lập 45
3.2. Xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại 46
3.3. Nghệ thuật trần thuật 49
KẾT LUẬN 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO 54

1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Chiến tranh kết thúc đất nước ta bước vào một vận hội mới. Trước những
chuyển biến của đất nước, văn học Việt Nam được đặt vào một tình thế mới đầy
thử thách.
Văn xuôi Việt Nam đã có những bước chuyển mình tương đối rõ nét và toàn
diện. Đặc biệt tiểu thuyết về chiến tranh đã góp phần không nhỏ trong việc tạo
nên bản sắc, diện mạo mới cho giai đoạn văn học này. Với sự đổi mới về đề tài,
cách miêu tả hiện thực, quan niệm nghệ thuật về con người… thể hiện rất rõ
trong tiểu thuyết. Trong đó hình ảnh người lính thời hậu chiến như là một sự tiếp
nối tự nhiên về đề tài chiến tranh và người lính, nó đã tạo nên một mạch chảy
xuyên suốt hành trình văn học Việt Nam kể từ sau cách mạng tháng Tám.
Sau cuộc chiến tranh, các nhà văn có điều kiện tích luỹ mọi mặt để có điều
kiện tích luỹ mọi mặt để có thể tạo được sự đột phá của riêng mình. Tiểu thuyết
giai đoạn này đã khắc phục được phần thiếu hụt, phần hạn chế mà ngay trong

chiến tranh các tác giả cưa làm được. Sau năm 1975, mặc dù không còn chiếm
vị trí độc tôn như trong giai đoạn 1945 – 1975 nhưng đề tài chiến tranh vẫn được
các nhà văn mặc áo lính chú ý khai thác và đã để lại dấu ấn sau sắc trong lòng
độc giả.
Chu Lai là một tác giả đứng ở địa vị từng là một người lính, ông có một bề
dày thực tế phong phú và sự chiêm nghiệm sâu sắc từ hiện thực chiến tranh, ông
không bằng lòng với những gì đã có. Với ông, chiến tranh không chỉ là chuyện
sống chết mà cao hơn là giá trị nhân văn, giá trị hiện thực. Chu Lai, bằng sự
nhạy cảm của một tài năng văn học, bằng sự trải nghiệm của người lính trở về
sau chiến tranh hoà chung vào tinh thần đổi mới văn học, ông đã phát hiện ra
vấn đề. Một trong những vấn đề đó là giá trị đạo đức, là nhân cách là nhân phẩm
con người trong chiến tranh và hậu chiến. Với cuốn tiểu thuyết Phố và các tác
phẩm khác đã đưa Chu Lai trở thành một trong những nhà văn hàng đầu về đề
tài chiến tranh ở Việt Nam năm 1975.

2
Tiểu thuyết Phố của nhà văn Chu Lai đã được coi là tiểu thuyết dặc sắc
nhất viết về cuộc sống người lính thời hậu chiến và đã chuyển thể thành bộ phim
truyền hình Người Hà Nội phát trên Đài Truyền hình Việt Nam.
Trong cuộc sống hôm nay, do sự tác động nhiều mặt của đời sống, nhiều
thế hệ trẻ chưa hiểu hết được ý nghĩa cuộc chiến vĩ đại của dân tộc và chưa biết
trân trọng biết ơn những gì mình được thừa hưởng tù những con người đã hy
sinh vì màu cờ của Tổ quốc chịu mất mát một phần máu thịt cho họ có cuộc
sống như ngày hôm nay.
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi mong muốn góp một cái nhìn mới về hình
tượng người lính trở về sau chiến tranh trong tiểu thuyết Phố của nhà văn Chu
Lai. Qua đó đem lại những giá trị tinh thần to lớn để cuộc sống hôm nay ngày
càng tốt đẹp hơn. Đó là lý do khiến chúng tôi chọn đề tài: “Cuộc sống người lính
trở về sau chiến tranh trong tiểu thuyết Phố của Chu Lai”.
2. Lịch sử vấn đề

Cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm đã kéo dài suốt ba mươi năm, đề
tài chiến tranh đã góp phần quan trọng làm nên diện mạo của nền văn học Việt
Nam. Sau năm 1975, với độ lùi của thời gian và độ chín của tài năng, cho phép
các nhà văn có thể bao quát toàn cảnh cuộc kháng chiến, miêu tả chiến tranh
một cách toàn diện và sâu sắc hơn, không chỉ tập chung vào những thắng lợi vĩ
đại mà trong đó còn có cả những mất mát hi sinh.Trong lĩnh vực nghiên cứu,
phê bình văn học, đã có nhiều bài viết và công trình đề cập đến những sáng tác
của Chu Lai ở năm vấn đề: đề tài chiến tranh, người lính; số phận người lính
thời hậu chiến; quan niệm hiện thực, con người; đổi mới nghệ thuật trong tiểu
thuyết của Chu Lai và một số tồn tại trong tiểu thuyết Chu Lai.
Trong các bài viết, các công trình nghiên cứu đều tập trung đi sâu vào đề tài
xuyên suốt và bao trùm trong các sáng tác của Chu Lai là đề tài chiến tranh và hình
tượng trung tâm là người lính. Chiến tranh và người lính trong sáng tác của Chu
Lai được phản ánh dưới nhiều góc độ khác nhau bằng cái nhìn sử thi và thế sự.
Bùi Việt Thắng trong Tạp chí tác phẩm mới chỉ ra rằng : “ Viết về chiến
tranh còn có nghĩa là viết về hậu quả của nó – bởi vì một cuộc chiến tranh ba

3
chục năm đánh bại mấy nước đế quốc lớn, dù chiến thắng lẫy lừng, to lớn nhưng
hậu quả của nó chắc phải dai dẳng và phức tạp. Vòng tròn bội bạc của Chu
Lai… xoáy vào những vết thương chiến tranh trong lòng người và cách thức con
người chữa trị những vết thương đó”[8]
Ở một bài viết khác, khi nhìn nhận ở góc độ Những biến đổi trong cấu trúc
thể loại tiểu thuyết sau 1975, tác giả Bùi Việt Thắng nhận thấy ở hai tác phẩm
Thân phận tình yêu của Bảo Ninh và Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai: “ Các nhà
điện ảnh sẽ rất thuận lợi khi dựa vào tác phẩm văn học này để xây dựng những
kịch bản điện ảnh tốt”[3, 231]. Tác giả bài viết còn nhấn mạnh Ăn mày dĩ vãng
là “ nhịp điệu của khách bộ hành tìm về mảng đất năm xưa từng gắn bó với số
phận mình”[3,232]
Trần Quốc Huấn trong Người chiến sĩ hôm nay – đội ngũ kế tục những nhà

văn chiến sĩ, khẳng định phẩm chất người lính trong chiến tranh: “Trong truyện
Chu Lai, cái vốn tri thức văn hoá, trí tuệ sáng suốt của người lính trẻ đã thấm
nhuyễn một cách tự nhiên vào từng chi tiết nhỏ của truyện, trong từng phán
đoán nhạy bén, quả quyết, để dẫn tới chiến thắng cuối cùng ở nhân vật”[5]
Trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, tháng 2/1993, trong bài Một đề tài không
cạn kiệt, Bùi Việt Thắng viết: “Nhân vật Chu Lai được thể hiện như những con
người tâm linh. Họ sống bởi những ám ảnh của ảo giác, hối thúc của sự sám
hối, luôn tìm kiếm sự giải thoát. Đó là những con người trở về sau chiến tranh
bị mất thăng bằng, khó tìm được sự yên ổn trong tâm hồn. Họ sống trong cảm
giác không bình yên… đi vào ngõ ngách đời sống tâm linh con người. Chu Lai
làm người đọc bất ngờ vì những khám phá nghệ thuật của mình: Nhân vật Chu
Lai thường tự soi tỏ mình, khám phá mình, khám phá một bản ngã hay là một
con người trong con người”[9,104]
Hồng Diệu nhận xét: “Chu Lai là nhà văn chung thuỷ với đề tài chiến
tranh, anh có nhiều tác phẩm viết về đề tài người lính trên cả ba mặt trận: Văn
học – Sân khấu - Điện ảnh”[2, 6]
Viết về người lính sau hoà bình trong tiểu thuyết chiến tranh thời kì đổi mới,
Nguyễn Hương Giang cho rằng: “Sự thật về chiến tranh hôm nay được nhìn lại

4
là một sự thật trải qua những năm tháng đầy day dứt, trăn trở trong tâm hồn
nhà văn Chu Lai, hơn thế nó thực sự là những nếm trải của người “ chịu trận”,
người trong cuộc”[4]
Lý Hoài Thu cũng khẳng định: “ Dù trực tiếp viết về dĩ vãng mịt mù bom đạn
hay chuyển dịch sang tiếp cận những “kênh”, thông tin mới xô bồ của thời hiện
tại, bao giờ Chu Lai cũng nghiền ngẫm, suy tư về hiện thực với sự nhiệt tâm và
lòng trung thực của người lính”. Trong tập truyện ngắn Phố nhà binh, Lý Hoài
Thu viết: “Nếu như trước kia, các nhân vật của anh được mô tả chủ yếu ở cốt
cách anh hùng trận mạc thì hiện nay (…) Chu Lai tập chung khai thác quãng
đời thứ hai: quãng đời phía sau chiến trận của người lính”[11]

Nguyễn Thanh Tú trong bài Cuộc đời dài lắm – Một tiểu thuyết có sức hấp
dẫn in trong Văn nghệ Quân đội, tháng 01/2002, đặt sự đổi mới vào những sáng
tác của Chu Lai về đề tài người lính: “Ngòi bút tiểu thuyết Chu Lai vẫn cách xây
dựng nhân vật đẩy đến tận cùng của bi kịch, con người của những mâu thuẫn,
có khi thật quyết liệt dữ dội, có số phận tận cùng ngang trái, có nhân cách vô
cùng cao thượng, lại có loại người tận cùng của sự gian xảo”. Đáng chú ý hơn,
Nguyễn Thanh Tú nhấn mạnh: Nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai là kiểu nhân
vật vừa có chiều sâu lại vừa có cá tính và dường như thân phận của các nhân
vật đó ngoài đời vốn cũng đã đầy những bi kịch. Tác giả cũng khẳng định:
“Cuộc đời dài lắm là một tiểu thuyết hay của Chu Lai. Nhưng thành công hơn
cả là ở cách kể chuyện tuy không mới lạ nhưng khá hấp dẫn”[103]
Ý kiến của Hồng Diệu: “Tiểu thuyết Chu Lai đề cập đến nhiều vấn đề
nhưng bao trùm lên tất cả là những người lính sau chiến tranh, rồi chiến
trường trở về, người thì tha hoá, người thì bước vào cuộc chiến đấu mới. Cuộc
chiến đấu của những người lương thiện chống kẻ bất lương, mà thật trớ trêu
thay: Có những người trước kia là đồng đội của nhau giờ đứng trên hai mặt
trận đối lập nhau” [13]
Nguyễn Hương Giang nhận xét: “Phố của Chu Lai là cuốn tiểu thuyết trong
tiểu thuyết: Một cuốn về gia đình Thảo – Nam với sự phá vỡ và làm tan nát
những giá trị truyền thống, một cuốn khác về cuộc đời Lãm, một người lính từ

5
hai bàn tay trắng đi lên, bảo vệ và tha thiết giữ gìn những giá trị ấy. Cái chết
thương tâm của Thảo , Lãm ở cuối tác phẩm đẩy suy nghĩ của người đọc về hai
hướng khác nhau nhưng đều thấm đượm nỗi buồn cao cả”. [4,10].
Về phương diện nghệ thuật: Có ý kiến của Phan Cự Đệ: “Tiểu thuyết Chu
Lai không chỉ đa dạng trong các phương thức tiếp cận mà có trong các biện
pháp nghệ thuật, kết hợp độc thoại nội tâm “dòng ý thức”, nghệ thuật đồng hiện
và có những thành công nhất định”[3, 18]. Hay đánh giá của Hồng Diệu: “Ông
đánh giá cao nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách tạo tình huống, những xung

đột đặc biệt là cái nhìn khá mạnh dạn của Chu Lai. Ông nói rằng: “Vòng tròn
bội bạc của Chu Lai có những trang hấp dẫn, người đọc đã cầm đến sách là
phải đuổi theo câu chuyện đến cùng” [1, 9]
Bích Thu trong bài viết Những nỗ lực sáng tạo của tiểu thuyết Việt Nam từ
sau đổi mới cũng khẳng định: “Với Ăn mày dĩ vãng, nhà văn Chu Lai muốn gửi
đến bạn đọc thông điệp đừng lãng quên quá khứ. Nhân vật Hai Hùng với tư
cách người kể chuyện xưng tôi trong tác phẩm để từ một sự việc cụ thể của hiện
tại gợi lại trong ký ức của anh những kỷ niệm đã qua. Nhân vật chìm trong hồi
tưởng. Trạng thái cảm xúc, suy nghĩ, liên tưởng bất chợt như những dòng chảy,
thay thế nhau, đan xen nhau một cách lạ lùng, phi lôgic. Đó là dòng chảy tự
nhiên của ý thức con người, trong dòng chảy đó bộc lộ những bí mật của nội tâm
nhân vật” [2, 590 -591] . Ở một chỗ khác, Bích Thu lại đề cập đến một khía cạnh
của thi pháp tiểu thuyết sau 1975 và trong tiểu thuyết Chu Lai sau những năm đổi
mới đến nay đã sử dụng mô tuýp giấc mơ, giấc mơ chiêm bao như một ngôn ngữ
độc thoại đặc biệt để giả mã thể giới vô thức của con người. Thủ pháp này thể
hiện rõ trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai.
Nhìn chung, hình tượng người lính trở về sau chiến tranh trong văn xuôi
Việt Nam những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu với những ý
kiến khác nhau, phong phú và cũng có những ý kiến sâu sắc. Tuy nhiên chưa có
công trình nào đặt vấn đề tìm hiểu về cuộc sống người lính trở về sau chiến tranh
trong tiểu thuyết Phố một cách tập chung và có hệ thống.

6
Với Chu Lai, như tôi đã nói ở trên, ông vẫn còn là một nhà văn “mới” sau
1975, sáng tác của ông những năm 80 của thế kỉ XX cũng khá dày dặn và bề thế.
Sáng tác của ông ở chặng đường này còn ít được nghiên cứu. Như vậy, có thể
nói nghiên cứu về hình tượng người lính sau chiến tranh trong tiểu thuyết Phố
Chu Lai còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ ở những goá độ riêng tư nhất. Ý kiến của
những người đi trước là những gợi ý, những tư liệu quý giúp chúng tôi đi sâu
tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề người lính trong tiểu thuyết Chu Lai với một cái

nhìn tập trung và hệ thống nhất.
3. Đối tƣợng, mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Nghiên cứu về cuộc sống của những người lính sau chiến tranh trong tiểu
thuyết Phố của Chu Lai.
Do khuôn khổ của một khoá luận tốt nghiệp Đại học nên tôi chỉ tập trung
đề cập đến tiểu thuyết Phố của Chu Lai
3.2 Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu trào lưu văn thời kì đầu đổi mới, cuộc đời, sự
nghiệp sáng tác và đi sâu tìm hiểu tác phẩm cụ thể của Chu Lai, khoá luận
hướng tới làm rõ cuộc sống người lính thời hậu chiến và những thành công trên
phương diện nội dung và nghệ thuật của nhân vật người lính thời hậu chiến
trong tiểu thuyết Phố của Chu Lai.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
Khoá luận tập trung nghiên cứu bình diện con người, các mối quan hệ trong
tiểu thuyết và những thành công trong việc xây dựng tâm lí, nội tâm nhân vật.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cuộc sống của người lính sau chiến tranh trong tiểu thuyết Phố
của nhà văn Chu Lai.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ lịch sử đề tài và nhiệm vụ của khóa luận, tôi vận dụng các
phương pháp chủ yếu sau:


7
5.1. Phƣơng pháp phân tích văn học
Khóa luận sẽ đi sâu vào phân tích nội dung của tác phẩm Phố trong việc thể
hiện hình tượng người lính thời hậu chiến.
5.2. Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu
Tôi sử dụng phương pháp này để so sánh về các ngữ liệu và kết quả phân

tích các vấn đề đã nghiên cứu về đối tượng. Ngoài ra, so sánh đối chiếu với các
tác phẩm khác cùng viết về người lính của nhà văn Chu Lai.
5.3. Phƣơng pháp tổng hợp
Trên cơ sở phân tích, so sánh, đối chiếu tôi tiến hành khái quát tổng hợp lại
vấn đề trong một cái nhìn toàn vẹn nhất về hình tượng người lính thời hậu chiến
trong các sáng tác của nhà văn Chu Lai
6. Đóng góp của khoá luận
Thực hiện khoá luận này tôi mong muốn làm sáng tỏ và rõ nét hơn về đời
sống của người lính sau khi lập lại hoà bình, vị trí và vai trò của Chu Lai trong
nền văn học nước nhà đồng thời sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên
khoa Ngữ Văn trường Đại học Tây Bắc trong việc học tập, nghiên cứu và giảng
dạy các sáng tác của Chu Lai.
7. Cấu trúc khoá luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, khoá luận được triển khai trong 3
chương.
Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Cuộc sống người lính sau chiến tranh trong tiểu thuyết Phố của
nhà văn Chu Lai.
Chương 3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng người lính trong tiểu thuyết
Phố của Chu Lai

8
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Những chuyển biến về xã hội, văn học từ năm 1975
1.1.1. Chuyển biến về mặt xã hội
Từ năm 1945 – 1975, đất nước ta tập chung vào hai cuộc kháng chiến
chống xâm lược. Cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp (1945-1954) và chiến
tranh chống Đế quốc Mĩ, một trong những đất nước hùng mạnh lúc bấy giờ
(1955- 1975). Sau năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông quy về

một mối, nhân dân Việt Nam thực sự bước vào cuộc sống mới , cuộc sống tự do,
dân chủ, bình đẳng và bắt đầu bát tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Niềm vui
thống nhất anh em Nam Bắc từ nay sống chung dưới một mái nhà, tạo nên sức
mạnh và niềm hăng say lao động, cống hiến hết mình vì tổ quốc. Tất cả mọi tầng
lớp đều hào hứng trước những biến đổi của đất nước cùng bước vào giai đoạn
kiến thiết nhà nước, khắc phục hậu quả sau chiến tranh.
Chính vì vậy, tinh thần hăng hái cũng ảnh hưởng rất lớn tới các sáng tác
văn học giai đoạn này. Các nhà văn đã thực sự xác định được nội dung tư tưởng
chủ đạo và mục đích trong các sáng tác của mình.
1.1.2. Chuyển biến về mặt văn học
1.1.2.1. Những giai đoạn văn học
Sau năm 1975 văn học có những chuyển biến hết sức mạnh mẽ và trải qua
những thời kì quan trọng.
Thời kì 1975- 1980: Đây là giai đoạn các sáng tác vẫn còn mang âm hưởng
chiến tranh bởi vậy các sáng tác thời kì này vẫn xoay quanh những vấn đề về
chiến tranh, hậu quả chiến tranh để lại, những con người thời hậu chiến, những
hồi tưởng về quá khứ đã qua.
Thời kì 1980-1985: Văn học giai đoạn này thực sự có những bước phát
triển quan trọng, số lượng các tác phẩm tăng lên đáng kể, phong phú về thể loại,
nhiều đề tài được khai thác và trở thành nguồn sáng tạo của các nhà văn. Nội
dung chính thời kì này vẫn xoay quanh cuộc sống con người, những thành tựu
đổi mới và những tấm gương sáng trong công cuộc kiến thiết đất nước, những

9
gương lao động tiên tiến quên mình về công việc chung, những nhân vật chính
trong các tác phẩm văn học do đó cũng cá tính hơn và đa dạng hơn.
Thời kì 1985 đến nay: Văn học phát triển song song với những chuyển biến
của đất nước. Đây được coi như giai đoạn đổi mới ( được đánh dấu bằng Đại hội
VI -1986). Văn học thời kì này vận động theo hướng dân chủ hoá mang tính
nhân bản và nhân văn sâu sắc. Nền văn học thiên về tính thế sự và hướng nội từ

cao rộng và đi vào chiều sâu cá nhân của chủ thể sáng tạo và phản ánh những
mặt tiêu cực trong xã hội, các nhà văn giai đoạn này không còn né tránh những
vấn đề xấu, những vấn đề tiêu cực, văn học thời kì này đã dũng cảm vạch trần
cái xấu của xã hội ( kịch của Lưu Quang Vũ hay tiểu thuyết của Nguyễn Mạnh
Tuấn…. Nhìn thẳng vào những thất bại trong chiến tranh Đất Trắng của Nguyễn
Trọng Oánh. Các nhà văn đã đưa vào văn học những tấn bi kịch cá nhân của con
người Người đàn trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn
Minh Châu; Thời xa vắng của Lê Lựu hay Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn
Kháng. Tham gia chống tiêu cực Phùng Gia Lộc – Cái đêm hôm ấy tên gì, Hoàng
Hữu Các – Tiếng đất, Hoàng Minh Tưởng – Làng giáo có gì vui.
Chất nhân văn nhân bản bộc lộ trông thân phận nhân vật, cá thể hoá về
phương pháp, đa dạng hơn phong cách mở rộng cách thức, thủ pháp nghệ thuật,
tạo lập ngôn từ, đổi mới tư tưởng thẩm mĩ, hệ thống thể loại, thi pháp, phong
cách nghệ thuật, mở rộng giao lưu với văn học thế giới nhưng vẫn đề cao tiêu
chí văn hoá và bản sắc dân tộc.
Văn học thời kì này không còn được nhìn nhận từ một phía nền văn học đã
phản ánh được nhiều chiều của cuộc sống. giờ đây bên cạnh nhiệm vụ tiếp tục
đề cao cái đẹp, cái mới, cái tốt, nhà văn được phép viết nhiều hơn về mặt trái
của xã hội, được khuyến khích chỉ ra cái tiêu cực trong đời sống xã hội cản trở
việc xây dựng chủ nghĩa xã hội gây phiền nhiễu cho nhân dân xét về phương
diện khác chủ trương của Đảng và nhà nước phù hợp với tâm trạng của quần
chúng và nguyện vọng của nhà văn, do hoàn cảnh chiến tranh các hiện tượng
trong đời sống, trong bộ máy nhà nước bị tạm giấu đi nay đền thời hoà bình
những hiện tượng đó được chú ý phơi bày cộng thêm những tiêu cực mới gây

10
bất mãn trong nhân dân, văn học tất yếu trở thành người phát ngôn cho xã hội,
nói lên tiếng nói của quần chúng, việc tố cáo cái ác và bất công, những thao thức
về tội lỗi và đau khổ vốn rất gần với thiên chức của văn học như một nhà văn
Nga đã nói: “chừng nào trong cuộc đời còn nhiều điều ác thì chừng đó có cớ để

viết văn”.
Thực ra viết về những mặt trái của xã hội, tái hiện những cái ác vào trong tác
phẩm vừa là phản ánh hiện thực, vừa phản ứng với hiện thực. Văn học không chỉ
là phương tiện giáo dục con người mà còn là một cách giáo dục cuộc sống Những
thiên đường mù, Bên kia bờ ảo vọng, vô đề của Dương Thu Hương, Ly thân của
Trần Mạnh Hảo, Dấn thân của Xuân Cang, Bước qua lời nguyền của Tạ Duy
Anh. Trong những tác phẩm của Nguyễn Khải bắt đầu từ Thời gian của người,
Trong cỗi nhân gian bé tí những tập truyện ngắn gần đây Một thời gió bụi, Ông
đại tá về hưu, và Sư già núi Thắm giọng kể chuyện vẫn thông minh, lôi cuốn như
trước đây nhưng mỗi ngày một mềm mại uyển chuyển hơn bên cạnh sự tự tin có
cái chế giễu mình, cuộc sống đã tạm được nhìn từ nhiều phía khác nhau.
1.1.2.2. Sự đổi mới về nội dung và đề tài
Tiểu thuyết trong thời kì đổi mới với sự thể hiện hình tượng người lính thời
hậu chiến cũng rất đa vẻ, đa chiều. Khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu, tôi nhận
thấy có một số kiểu thể hiện tương đối quen thuộc ví dụ như người lính với mặc
cảm , ám ảnh về quá khứ chiến trận hay người lính không thể hoà nhập với dòng
đời bề bộn sau cuộc chiến, trở nên bơ vơ, lạc lõng, đứng bên lề xã hội. Dù thể hiện
người lính ở lĩnh vực nào, thì điểm dừng và điểm đến của ngòi bút nghệ thuật vẫn
là thế giới nội tâm đầy sóng gió và biến động của mỗi số phận con người.
Có hàng loạt những nhân vật là người lính hậu chiến. Họ đang trở về, đang
sống lại trong sự khắc khoải đau thương buồn tủi nhiều hơn gấp ngàn lần niềm
vui và hạnh phúc. Đó là Kiên trong Thân phận tình yêu của Bảo Ninh; Hai Hùng
trong Ăn mày dĩ vãng; là Linh trong Vòng tròn bội bạc của Chu Lai… Những
người lính ngược dòng để trở về cái màu xanh ngút ngàn của rừng già, để khắc
khoải cùng với tiếng chim từ quy mỗi đem vắng tiếng bom tiếng súng, để thao
thức cùng với mảnh trăng lấp ló phía cuối rừng. Và cũng chính khi ấy họ trở về

11
với những trận đánh, những chiến dịch thấm đẫm máu xương đồng đội. Hoài
niệm quá khứ như một căn bệnh của người lính. Một căn bệnh vừa có tác động

tích cực vừa có tác động tiêu cực đối với đời sống người lính. Một mặt nó thanh
lọc, tẩy rửa những vết nhơ, vết hắc ám của cuộc sống đầy cạm bẫy và con người
có thể bị cuốn vào vòng xoáy của sự cám dỗ bất cứ lúc nào; mặt khác, nó kéo
căng hơn, xa hơn khoảng cách giữa những người lính và cộng đồng xung quanh
làm cho họ mất khả năng hoà nhập. Tác phẩm Tiễn biệt những ngày buồn của
Trung Trung Đỉnh kể về một xóm lính nhỏ năm ngay giữa lòng thủ đô mà như
đi bên lề của nó. Phố xá Hà thành sôi động phồn hoa là thế mà như không có
một dính dáng liên quan gì đến khu tập thể tồi tàn của những người lính làm
công tác văn hoá. Những căn phòng nhỏ hẹp, mối quan hệ giản đơn gợi cái ngột
ngạt, bế tắc, quanh quẩn. Họ buông cây súng trở về với đời thường một cách
bình lặng nếu như không nói là tẻ nhạt. Phía sau cuộc chiến sao còn lắm nỗi éo
le? Hình như có một sự tương phản rõ rệt giữa cuộc đời anh hùng trận mạc còn
nửa kia lại chỉ là một con tốt đen giữa bàn cờ, giữa đời thường. Số phận nhân
vật Nguyễn Vạn trong Bến không chồng của Dương Hướng là một ví dụ, ông
Đông trong Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Hai Hùng, Ba Thành
trong Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Kiên trong Thân phận tình yêu của Bảo
Ninh và Xoan, Luân, Ron, Hà trong Tiễn biệt những ngày buồn của Trung
Trung Đỉnh… Những người lính một thời coi cái chết nhẹ tựa lông hồng ấy bấy
giờ như lạc lõng, bơ vơ giữa dòng đời xô bồ, ồn ã. Họ không còn là những anh
hùng trận mạc, cũng không như những người bình thương, mà số phận của
họ,phần đời còn lại của họ đang nổi bão dông. Đi sâu vào miêu tả số phận người
lính hậu chiến với những diễn biến phức tạp trong nội tâm của mỗi nhân vật
cũng là khi các nhà văn đang đẩy nhanh tốc độ đổi mới tiểu thuyết ở nhiều bình
diện: đề tài, cảm hứng, nhân vật, quan niệm nghệ thuật về con người… Số phận
đời tư người lính sau chiến tranh là số phận bi kịch. Họ không chỉ là con người
xã hội mà trước hết là con người cá nhân, cá thể với đầy đủ sự phức tạp và đa
dạng của nó. Nhân vật Đông trong Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng
vốn là một người lính hiền lành, giản đơn trong quan niệm về hạnh phúc, khổ

12

đau, sống chết. Ông trung tá Đông là niềm vinh dự của cả dòng họ, niềm kiêu
hãnh của cả gia đình, là anh hùng một thời trận mạc, nay trở thành một con
người phẳng nhạt, không hứng khởi, không hi vọng và cũng không thất vọng.
Ông chỉ còn thú vui duy nhất là tổ tôm. Trên mặt trận đời thường rõ ràng ông chỉ
là một “con tốt” không hơn không kém. Đã vậy trên mặt trận tình cảm gia đình
ông cũng là người thất bại thảm hại. Người lính thời hậu chiến này vừa là nạn
nhân, vừa là thủ phạm của tấn bi kịch gia đình tan vỡ.
Khảo sát trên một số tiểu thuyết, ta bắt gặp không ít những đường đời,
những số phận đau lòng của người chiến sĩ ngày sau giải phóng. Nhiều nhà văn
đã quan tâm đến số phận người nữ chiến sĩ trở về từ chiến tranh.
Hình tượng người lính được thể hiện trong tiểu thuyết Việt Nam sau năm
1975 thật đa chiều đa dạng. Khi chiến tranh được miêu tả như đang diễn ra thì
người lính cũng được thể hiện như đang trực tiếp cầm súng đánh giặc, đang đối
mặt trực diện với sinh tử, mất còn. Khi cuộc chiến được miêu tả như đang diễn
ra, thì sự thể hiện hình tượng người lính cũng phong phú như muôn ngàn số
phận con người. Có người trở thành giám đốc, kĩ sư, nhà kinh doanh tài ba,hào
hiệp. Cũng có người trở thành những công dân bình dị. Lại có những kẻ “quái
nhân” với mặc cảm Ăn mày dĩ vãng, lục tìm quá khứ trong sự thất vọng đau đớn
vì bị cuộc đời phụ bạc, lãng quên. Cũng có không ít kẻ “bắn vào quá khứ bằng
súng lục”, vong ân, bội nghĩa với đồng đội đã từng sinh tử cùng nhau để rồi lao
vòng vòng xoáy của vụ lợi, của quyền lực và đồng tiền. Một điều dễ nhận
thấy, cái làm nên nét mới trong cách thể hiện hình tượng người lính ở tiểu
thuyết thời kì đổi mới so với trước đó chính là những con người mang ám ảnh
nặng nề về quá khứ, về chiến tranh. Nhìn ở đâu bất kì chỗ nào của cuộc sống
hiện đại họ cũng đều hình dung ra những năm tháng cùng đồng đội ở Trường
Sơn, ở chiến trận. Cũng bởi vậy, họ trở nên lạc lõng, đơn côi không thể hoà
nhập với cộng đồng.
1.2 Nhà văn Chu Lai – cuộc đời và sự nghiệp sáng tác.
1.2.1 Cuộc đời
Nhà văn Chu Lai tên đầy đủ là Chu Văn Lai, ông sinh ngày 05 - 02 - 1946.


13
Quê gốc là ở thôn Tam Nông, xã Hưng Hạo, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên.
Cha ông là nhà viết kịch Học Phi. Gia đình Chu Lai chuyển lên Hà Nội sống từ
lâu bởi vậy, trong tâm hồn nhà văn Chu Lai chẳng những có hương vị ngọt ngào
của quê hương làng mạc mà còn có cốt cách lịch lãm của một người con trai đất
Kinh kỳ.
Học hết phổ thông, Chu Lai thi đỗ vào đại học. Chứng kiến cảnh đất nước
chìm trong khói lửa cuộc kháng chiến chống Mỹ, Chu Lai tình nguyện lên
đường nhập ngũ khi mới học hết năm thứ nhất đại học. Thời kì đâu quân ngũ
Chu Lai được điều về làm diễn viên Đoàn Kịch nói Tổng cục Chính Trị sau đó
Chu Lai xin ra chiến trường trực tiếp cầm súng chiến đấu và chuyển về đơn vị
đặc công chiến đấu ở vùng ven Sài Gòn trong những ngày gian khổ ác liệt nhất
của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trong khoảng thơi gian là người chiến sĩ đặc
công, ông viết văn như viết nhật kí, trong lúc ông có sự đam mê, tình yêu
thương, lòng hận thù thôi thúc, để rồi những tác phẩm chắt lọc từ cuộc chiến đấu
được bỏ vào thùng đạn đại liên đem giấu xuống đáy sông Sài Gòn. Có lẽ những
năm tháng vào sinh ra tử ở những vùng ven đô Sài Gòn đã để lại dấu ấn sâu sắc
trong tâm hồn Chu Lai và cho ông vốn sống phong phú về số phận con người ở
nơi ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ là gang tấc. Mười năm ở đơn vị đặc
công, Chu Lai giữ chức đại đội trưởng trinh sát chiến đấu cho đến ngày Miền
Nam giải phóng, thống nhất đất nước.
Sau năm 1975, ông trở về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu VII. Cuối năm
1976, ông về trại sáng tác văn học Tổng cục chính trị, sau đó đi học lớp khoá I
của trường viết văn Nguyễn Du. Tốt nghiệp trường viết văn, ông về công tác tại
tạp chí Văn nghệ Quân đội. Với tố chất văn chương, nghiệp nhà văn cùng với
vốn sống, vốn chiến đấu lăn lộn mười năm ở chiến trường đã giúp ông tích luỹ
được những kinh nghiệm dày dặn và vốn sống phong phú. Và rồi “cái nghiệp
chướng văn chương đã khiến ông trở thành một người lao động cặm cụi khổ đau
trên cánh đồng chữ nghĩa”. Dù rất khiêm tốn tự nhận mình như “con tôm nuôi

trong hồ nước lợ” nhưng thực sự tác phẩm của ông là sản phẩm của tài năng và
thực tế trải nghiệm. Ông đã cho ra mắt khối lượng tác phẩm khá đồ sộ và gặt hái

14
được những thành công đáng kể, thu hút được sự quan tâm rộng rãi của công
chúng. Những tác phẩm văn học gây tiếng vang trong lòng độc giả với những vị
trí xứng đáng trong làng văn học như Ăn mày dĩ vãng giải A của Hội đồng văn
học về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang. Hội nhà văn năm
1993, giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng năm 1994; Phố giải thưởng tiểu
thuyết Nhà xuất bản Hà Nội – 1993; Ba lần và một lần Tặng thưởng cuộc thi
tiểu thuyết do Hội nhà văn tổ chức năm 1998 – 2000; Cuộc đời dài lắm giải
thưởng Hội nhà văn 2001. Chu Lai cũng là nhà văn có nhiều kịch bản sân khấu
và kịch bản phim được dàn dựng như Hà Nội đêm trở gió, Người Hà Nội, Người
mẹ tự cháy, Ăn mày dĩ vãng Điều đó đã một phần nào chứng minh những
thành công trong sự nghiệp viết văn của người lính đặc công ven đô ngày nào.
Như vậy bằng tâm huyết của mình Chu Lai đã khẳng định được vị trí xứng
đáng trong văn học thời kì đổi mới nói chung và trong văn xuôi chiến tranh nói
riêng. Đó là một vinh dự không phải nhà văn nào cũng có được.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Là một nhà văn trưởng thành trong bom đạn và khói lửa của cuộc kháng
chiến nói chung và thế hệ 1975 nói riêng, Chu Lai nổi lên với những sáng tác nở
rộ vào những năm 1990 của thế kỷ XX và cả sang thế kỷ XXI, các sáng tác của
ông có sức sáng tác mạnh mẽ, đòi dào, ông sớm trở thành cây bút tiêu biểu viết
về đề tài chiến tranh.
1.2.2.1. Quan điểm nghệ thuật
Với Chu Lai, “nghệ thuật phải lấy từ nguồn cảm hứng từ niềm tự tôn dân
tộc” và với những người sinh ra trong chiến tranh thì niềm tự tôn đó chính là
“ngọn gió của trận mạc”. Vì thế, ông trở thành nhà văn độc đáo khi trong đó
toàn bộ các tác phẩm của ông chỉ lấy duy nhất một nguồn cảm hứng, một đề tài,
một chủ đề duy nhất là số phận người lính. Khi viết về mảng đề tài này, Chu Lai

“nói ra được nhiều điều cần nói về những năm tháng chiến tranh hôm nào mà
anh là người trong cuộc”. Nhà văn biết vượt qua khỏi sự mô tả hiện thực thông
thường, vượt lên trên những ràng buộc của thời sự và tuyên truyền để đi sâu
khám phá chiều sâu hiện thực và thế giới nội tâm người lính. Chu Lai, tác giả

15
của hàng loạt tiểu thuyết về chiến tranh: Phố; Ăn mày dĩ vãng; Vòng tròn bội
bạc; Ba lần và một lần đã từng có những năm tháng “chịu trận” như thế ở vùng
ven đo Sài Gòn, tuy Trung Đỉnh cũng là một nhà văn có nhiều vốn ống về chiến
tranh Tây Nguyên, đặc biệt là cuộc chiến tranh du kích mà nhà văn từng là một
người trong cuộc. Bùi Bình Thi, tác giả của Hành lang phía đông, mặc dù không
phải là người lính nhưng đã có nhiều năm lăn lộn với chiến trường. Lê Lựu,
Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Trí Huân, Trần Huy Quang cũng không nằm ngoài
hai trường hợp trên. Bởi thế, chiến tranh hiện diện trong tác phẩm của họ không
chỉ là sự kiện, những biến cố lịch sử mà còn là số phận con người”. [4,109]
Với tư cách là người từng tham chiến, vốn sống ở chiến trường đủ cho Chu
Lai tái hiện hiện thực chiến tranh với tất cả hình thái đặc thù của nó. Trong
những trang tiểu thuyết, không ít lần ông nói lên suy nghĩ của mình: “ chiến
tranh là ngày nào cũng chôn nhau nhưng chả đến lượt chôn mình”. Một định
nghĩa ngắn gọn, giản dị, mộc mạc nhưng nó cho thấy được bộ mặt ghê rợn,
khủng khiếp của chiến tranh, thấy được cái tàn nhẫn, phi nhân tính mà chiến
tranh đã gieo rắc cho một dân tộc yêu chuộng hoà bình. Chu Lai không chỉ có cơ
hội quan sát mà còn sống đến tận cùng nỗi đau. Chiến tranh không phải là “
ngày hội lớn của dân tộc” mà là “một luật chơi tàn bạo”; không phải là “mảnh
đất bằng phẳng trồng toàn hoa” mà là nơi “ xác người xấp ngửa, xác muôn thú
cháy thui”. Không lẩn tránh sự thật, những mất mát đau thương được nhà văn
miêu tả đến tận cùng, qua việc khám phá hình tượng người lính.
Chu Lai còn có những phát biểu mang tính chính thức trong các hội thảo
thể hiện tâm huyết, năng lực của ông trong sự nghiệp cầm bút. Văn đàn là nơi
thể nghiệm, là nơi ác nhà văn dồn tâm tư, uẩn khúc, báo động cho cuộc đời biết

thiện, ác, đối kháng thế nào. Anh phải đặt được ý tưởng để tranh luận, nhưng
phải là ý tưởng nhân văn chứ không phải bệnh hoạn. Những năm gần đây Chu
Lai thường có những mối quan hệ cộng tác chặt chẽ, thân thiết với báo đài.
Không những vậy ông còn xuất hiện trên truyền hình như một người dẫn chương
trình, một khách mời có duyên, hóm hỉnh, sâu sắc. Lối nói chuyện của Chu Lai

16
cũng gắn liền với ngôn ngữ nhân vật của ông: bụi bặm, sắc cạnh, dí dỏm đầy
chất lính.
1.2.2.2. Sáng tác của Chu Lai giai đoạn tiền đổi mới (1975 – 1986)
Giai đoạn từ 1975 đến 1986, Chu Lai đã cho ra mắt bạn đọc các tác phẩm:
Người im lặng (Tập truyện – 1976); Nắng đồng bằng ( Tiểu thuyết 1977); Đôi
ngã thời gian (Tập truyện – 1975); Đêm tháng hai ( Tiểu thuyết – 1982); Vùng
đất xăm (Tập truyện – 1983); Út Teng (Tiểu thuyết – 1983); Gió không thổi từ
biển (Tiểu thuyết – 1985). Mặc dù trong các sáng tác đã có sự đổi mới nhưng nó
vẫn mang âm hưởng văn học của giai đoạn trước. Nhìn chung các sáng tác đều
mang âm hưởng sử thi. Người đọc vẫn gặp trong tác phẩm hình ảnh quen thuộc
về con người ở văn xuôi trước 1975 – đó là sự phân định tính cách rõ ràng của
nhiều anh hùng trận mạc.
1.2.2.3.Sáng tác của Chu Lai giai đoạn đổi mới (1986 – đến nay).
Giai đoạn từ 1986 đến nay, ngói bút Chu Lai đã thực sự đổi mới toàn diện
và mạnh mẽ. Cùng với những bức xúc và day dứt xung quanh vấn đề người lính
trở về sau chiến tranh, Chu Lai đã cho ra mắt bạn đọc một loạt tiểu thuyết dài
hơn tạo thành “ dòng tiểu thuyết chiến tranh và người lính của Chu Lai” góp
phần phong phú đời sống văn xuôi những năm 1990 như Sông xa (Tiểu thuyết –
1986); Ăn mày dĩ vãng (Tiểu thuyết – 1994); Bãi bờ hoang lạnh (Tiểu thuyết –
1990); Vòng tròn bội bạc (Tiểu thuyết – 1996); Phố (Tiểu thuyết – 1993); Ba
lần và một lần (Tiểu thuyết – 2000); Cuộc đời dài lắm (Tiểu thuyết – 2002).
Có thể thấy các tác phẩm này có những bước bứt phá để thể hiện những
quan niệm mới về hiện thực và con người nhằm phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ

mới của công chúng ngày nay. Số phận con người được quan tâm ở nhiều góc
độ, đặc biệt là hình ảnh người lính trở về sau chiến tranh đã trở thành vấn đề
nhức nhối với một quá khứ ám ảnh mang nặng kí ức chiến tranh họ sẽ như thế
nào trong cuộc sống hiện đại thời bình? Đó chính là cảm hứng bao trùm lên các
sáng tác của Chu Lai.
1.2.2.4. Đề tài ngƣời lính trong các sáng tác của Chu Lai
Với mười một tiểu thuyết xoáy sâu vào một đề tài chủ lực là người lính thời

17
bình, mối quan hệ đa chiều của họ trong các lĩnh vực phức tạp của cuộc sống
hiện nay, Chu Lai là một trong những người ở vị trí hàng đầu của dòng chảy văn
học Việt Nam đương đại ở đề tài người lính thời hậu chiến. Các tiểu thuyết của
Chu Lai tuy tập chung ở một đề tài, song, thông qua đó, rất nhiều lĩnh vực của
cuộc sống được khai thác và phản ánh khá sâu sắc mà hình tượng người lính
luôn là tâm điểm.
Tiểu thuyết viết về người lính thời hậu chiến đã có được thành tựu rất đáng
ghi nhận. Người lính giữa lòng đời thường với bao bộn bề trăn trở chính là mối
quan tâm của các nhà văn. Những day dứt âm thầm về quá khứ như là một “căn
bệnh” cố hữu của người lính hôm nay. Trong tâm tưởng những người đã từng đi
qua nặng nề của chiến tranh, mặt trái của cơ chế thị trường đã làm cho người
lính hậu chiến không có được cuộc sống bình yên. Các nhà tiểu thuyết nghiêm
túc nhìn nhận lại cuộc chiến đã qua và đồng cảm sâu sắc với tâm tư của người
lính hôm nay. Đó là những giá trị thẩm mỹ cần được khẳng định.

18
CHƢƠNG 2. CUỘC SỐNG NGƢỜI LÍNH SAU CHIẾN TRANH
TRONG TIỂU THUYẾT PHỐ CỦA NHÀ VĂN CHU LAI

2.1. Ngƣời lính với những hoài niệm về quá khứ
Chiến tranh đã qua hơn ba mươi năm, cuộc sống đang trong cơn lốc cựa

mình dữ dội của nền kinh tế chuyển từ bao cấp sang kinh tế thị trường. Bánh xe
lịch sử đang vận hành cuốn theo cả những điều tốt xấu. Người lính trở về sau
chiến tranh không đủ vốn sống để bắt nhịp với guồng quay thời đại. Hơn nữa do
ý thức coi trọng và bảo tồn các giá trị văn hoá cội nguồn không thể chấp nhận
lối sống sa đoạ đi ngược với cảm quan thẩm mĩ, quá khứ hào hùng, oanh liệt nên
họ đã tự tách mình ra khỏi cộng đồng và ru mình trong kí ức ngọt ngào của một
thời đã qua. Như vợ chồng Nam và Thảo trong tiểu thuyết Phố là một điển hình.
Nam – là một kỹ sư quân binh đóng tại bên kia cầu Thăng Long. Trong chiến
tranh anh từng là đại đội trưởng công binh “tuổi đời chưa đến hai mươi nhăm,
thân thể cao to như một cầu thủ bóng rổ, lông mày, mắt xếch sáng, đầu cắt bốc,
chân râu xanh rì khắp mặt”, anh được đồng đội mệnh danh là “con cá kình trên
mọi khúc sông trọng điểm” [7,29 ]. Nam là một sĩ quan đa năng, có kỷ luật và
luôn hoàn thành công việc trong mọi tình huống. Dường như anh sinh ra là để
dành cho những hành động bạo liệt. Nhưng trong thân hình to khoẻ, rắn chắc và
hành động bạo liệt ấy thì anh là lại là người có tính cách dữ dội và khoáng đạt
“nói năng bặm trợn, vui chửi tục, cáu cũng chửi tục”, “hồi sáng vừa thét lác om
sòm, thậm chí còn dứ dứ cả nắm đất to tướng vào mũi lính nhưng chiều xuống
đã ngồi hoá đá, nước mắt nước mũi chảy tràn xuống tận cằm bên nấm mồ đồng
đội mới đắp…” [7,31]. Chính sự hồn nhiên như cây cỏ của Nam đã khiến anh có
được tình yêu nơi Thảo. Ngày đó cô là bác sĩ trên Bộ tư lệnh xuống thị sát hiện
trường, là người con gái Hà Nội, rụt rè, ưa suy tưởng, mảnh mai, duyên dáng và
trẻ nhất trong đoàn binh củng bấy giờ. Ở cô toát ra vẻ đẹp làm dịu đi sự ác liệt
của chiến tranh “ cô có mặt ở đâu là ở đấy, hệt một phép màu dịu ngọt, mọi ác
liệt bỗng mềm đi”, “người ta săn đón cô, đua nhau làm đẹp lòng cô và tự làm
đẹp cái dáng bụi bặm, thô rám của mình” [7,30 ], cô hoá thành nguồn cảm hứng

19
chiến đấu, liều thuốc tinh thần của các chiến sĩ “ bảo cô ấy đến đây, đến đây cho
mình nhìn một tý thôi là khỏi ngay, chẳng cần phải cáng đi đâu rắc rối” [7,30]
và ngay cả nhà quay phim Nguyễn Trọng Bình sau này là người bạn thân thiết

của vợ chồng Nam cũng phải thốt lên “ả đẹp thật!”. Sự xuất hiện của Thảo trong
chiến tranh giống như một phép lạ đối với tất cả người lính nhưng Nam thì
dường như không hề hay biết đến sự có mặt của cô ở đó cho đến khi anh “anh
ngỏ ý được đích thân đưa cô về” sau khi cô kiểm tra và điều trị cho những bệnh
binh sốt rét ác tính ở đại đội của anh. Vào đêm mưa rừng ấy hai người hai sắc
thái đối lập nhau đã trao cho nhau tình yêu và cũng chính nhờ có chiến tranh mà
họ đã nuôi dưỡng được tình yêu của mình trong suốt những năm tháng ác liệt, để
rồi khi hoà bình lặp lại cô và anh đã đi đến hôn nhân và có bé Niên Thảo. Nhưng
cuộc sống của họ không chỉ dừng lại ở đó, giữa cái ngổn ngang bề bộn của cuộc
sống, thiên hạ đang tự thoát xác để lao vào làm ăn thì vợ chồng Nam và Thảo
cũng phải đối mặt với những khó khăn „tiền điện tháng này lên đến gần bảy
mười ngàn anh ạ!”, “tiền học thêm của con các khoản gần bốn chục ngàn nữa”,
“thế chỉ còn một trăm năm mươi ngàn tổng thu nhập cái đồng lương thiếu tá
của em, hai vợ chồng ăn đủ chắc”[7,13]. Đối với Nam một người lính phóng
khoáng, anh chỉ có thể tính toán từng đồng bằng cách giảm các khoản chi tiêu
cho bản thân “tình nguyện bỏ ăn bữa sáng”, “xin bỏ thuốc là luôn”, “ta cắt
béng luôn cái khoản trà đi,nhỉ?” [7,14], tối đến vẽ công trình phụ để kiếm tiền.
Cuộc sống khó khăn với những lo toan bộn bề nhưng họ vẫn lui về thăm lại
những kỷ niệm cũ, mong cho nó luôn trọn vẹn để tìm nơi níu kéo tâm hồn, thanh
lọc những bụi bặm đời thường. Đối với cả Nam và Thảo thì quá khứ trở nên
thiêng liêng và quan trọng vô cùng. Mỗi khi gặp phải cơn lốc nào đó họ lại nhớ
về “miếng dù pháo sáng trải vội xuống nền đất ẩm ướt” [7,34]; một bằng chứng
tình yêu; bằng chứng của quá khứ mà họ luôn gìn giữ nó như một báu vật. Cả
hai người luôn khao khát tìm lại cảm giác yêu thương một thời bom đạn mà với
họ nó đầy ắp hạnh phúc. Khi có người thứ ba xen vào cuộc hôn nhân của họ là
Sáu Hùng – một người lính trinh sát và giờ là một giám đốc có uy tín, một kẻ
mặc cảm ăn vay hoài niệm. Hùng là một người đã từng va đập, cọ sát với nhiều

20
lĩnh vực trong cuộc sống hiện đại. May mắn và khôn khéo hơn Nam, Hùng có

thế mạnh về kinh tế, giao du rộng rãi, đi nhiều biết lắm. Đàn bà anh đã quá hiểu
rõ và thậm chí còn kinh hãi họ. Anh sống tỉnh táo vậy mà vẫn không thể nào
vượt qua nổi sự mê hoặc của kỷ niệm. Ngay từ lần đầu tiên khi nhìn thấy tấm
ảnh của Thảo “mặc quân phục, đội nón tai bèo,trẻ đẹp như một cô văn công giải
phóng” [7,57-58 ], treo trên tường anh đã giật mình. Ở Thảo anh tìm thấy một
chút ngọt ngào, một chút đắng chát, một chút trong trắng, một chút hoang sơ của
người đàn bà trong chiến tranh. Với Hùng, Thảo thuộc về quá khứ “nhẫn nại,
trong trẻo, dịu buồn”. Hùng luôn hoài niệm và theo đuổi người mẫu người con
gái trong chiến tranh, người con gái trong quá khứ nhưng đáng buồn thay ở cả
Nam, Thảo và Hùng khi họ cố lục tìm quá khứ những điều tốt đẹp thì lại gặp
phải sự ngăn cản của cuộc sống đời thường. Ở tiểu thuyết Phố, Chu Lai đã khắc
hoạ được nhân vật Trọng Bình cũng là một người lính mang hoài niệm về quá
khứ, trong chiến tranh anh là nhà quay phim, nổi tiếng là người xông xáo, nhưng
sau khi ra khỏi chiến tranh “Trọng Bình kiêm nghề kiến trúc sư có hạng, thương
binh loại bốn trên tám, tóc dài râu rậm vóc dáng nhỏ con nhưng chuyên nói lời
vu quát” [7,21] anh xuất hiện trong tác phẩm sau khi đi tu nghiệp đạo diễn ở
nước ngoài trở về với ước mơ ấp ủ làm một bộ phim về chiến tranh cũng như sẽ
quay “cái phố này như toàn bộ xã hội Việt Nam đương đại”. Anh luôn tự hào về
quá khứ về phẩm chất người lính “hết chiến tranh thằng lính mất giá nhưng bộ
đồ lính vẫn có giá lắm đấy chị ạ! Từ ông lão cày ruộng đến cậu sinh viên… Tất
cả đều mặc tuốt như một thứ bảo hành nhân phẩm bên trong”[7,38]. Sau khi
chịu tổn thương về tình cảm trong quá khứ “cô vợ sắc nước vốn là diễn viên
kiêm làm thơ dứt khoát đòi chia tay”, “con người anh làm tình nhân thì được
nhưng làm chồng thì không” [7,24] điều này khiến trái tim Trọng Bình tổn
thương sâu sắc và không bao giờ anh muốn nhắc đến chuyện vợ con gì nữa, mặc
dù anh rất yêu mến trẻ con, đặc biệt là bé Niên Thảo. Với lòng đam mê điện ảnh,
thích thử thách và lòng tự hào dân tộc về một thời chiến tranh anh lao vào sự
nghiệp điện ảnh và gặm nhấm nỗi đau riêng của chính bản thân mình. Trọng
Bình nhà đạo diễn tài đã phải trả cái giá quá đắt cho sự ngây thơ và cuồng tin


21
vào nghệ thuật với mong muốn thực hiện một bộ phim về chiến tranh, với xã hội
ngày càng thay đổi, tốc độ trổ tường cơi nới mái nhanh đến chóng mặt và thị
hiếu của người xem thì cái danh từ chiến tranh nghe thật “ lãng xẹt ”. họ không
còn phí thời gian vào rạp để xem những cảnh chết chóc, đổ máu và thay vào đó
là những bộ phim mang tính chất giải trí, những tình huống yêu đương bùi ngùi
xúc động, ân ái thác loạn …thế là người đạo diễn mang nợ “Bình đang nợ ba
trăm triệu”, chỉ với mong muốn trụ lại ở “cái rốn cơn lốc phim trường” để anh
được khẳng định mình, khẳng định chân lý nghệ thuật. Với số nợ tiền vốn lên
đến ba trăm triệu anh đã phải khó khăn đi vay mượn bạn bè, đồng đội cũ anh
tiếp tục sự nghiệp làm phim với những sai lầm nghiêm trọng về thời gian “ bộ
phim ba tháng thì quay cơ bản là xong” một bộ phim nếu không muốn chết,
người ta chi có thể quay nó trong vòng nửa tháng hoặc cùng lắm là một
tháng,mặc dù đã dùng loại phim nhựa rẻ tiền nhất nhưng vốn đã cạn thế là phải
đi gọi thầu. Đoàn làm phim giải tán trong sự chia tay ngậm ngùi và lo lắng. Khi
bộ phim được mang lên chiếu thử ở trung tâm phát hành thì phim của anh mặc
dù được khen “ phim tốt. Có tính nhân văn. Cảm động. Tác dụng giáo dục cao.
Làm sống lại truyền thống đã bị lãng quên nhưng… [7,274]” không một ai mua
phim của anh. Cuối cùng người phó giám đốc phát hành một người quen cũ đã
thương tình mua lại bản quyền phim với giá sáu chục triệu. Sự nghiệp và cuộc
sống của anh dường như lại trở lại trong vô vọng khi vốn bỏ ra quá lớn mà
không thu lại được gì. Anh mệt mỏi vô vọng khi trở về nhà khách quân đội sau
khi nhục nhã đi “khất nợ” và “móc gói mì tôm ở gậm bàn lên , bóc ra thả vào
ca sau đó dội nước phích ”, “nằm xuống chiếc giường cá nhân mà tấm chiếu
trải ở trên vừa ngắn vừa rách lại vừa mốc bẩn, mắt mở thao láo nhìn lên đám
mạng nhện trên trần nhà ố nước…” [7,274]. Cuộc sống sẽ bế tắc và ngột ngạt
hơn nếu như “ người đàn bà ấy” và chị bạn Việt Kiều là đạo diễn không xuất
hiện và nói cho anh biết giá trị thực sự của bộ phim của anh? “Họ sẵn sàng trả
cho anh sáu mươi ngàn đô la Mỹ với điều kiện mua đứt bản quyền. Và chị ấy
nhờ em đến hỏi ý kiến anh trước” [7,284]. Vậy là nhà đạo diễn bán được phim

và còn có thể tiếp tục làm nghề. Bộ phim của anh đã được chiếu ở Pháp, Mỹ và

×