Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

đề tài phân môn vẽ theo mẫu mỹ thuật 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.2 KB, 13 trang )

ĐỀ TÀI: PHÂN MÔN VẼ THEO MẪU MỸ THUẬT 6
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Việc đưa môn Mỹ thuật vào giảng dạy ở trường THCS đã góp phần giải
quyết tiêu chí thẩm mỹ trong định hướng phát triển giáo dục, tạo những bước
đầu tiên cho học sinh hình thành nhân cách bản thân. Trong đó Vẽ theo mẫu là
một phân môn quan trọng, là trọng tâm của bộ môn mĩ thuật. Khi học sinh nắm
vững kiến thức cơ bản ban đầu của phân môn này một cách vững vàng sẽ là điều
kiện và khả năng để phát huy các phân môn khác. Khi nói tới bộ môn mĩ thuật
khối lớp 6 chúng ta sẽ hiểu rằng nó được bắt đầu từ cảm tính dần chuyển thành
lý tính. Chúng ta dạy học sinh nhằm đạt được mục tiêu là học sinh có kiến thức
ban đầu về mĩ thuật. Để bắt đầu cảm nhận mĩ thuật các em sẽ hình thành khái
niệm mĩ thuật qua cách quan sát, nhận xét sự vật hiện tượng trong cuộc sống. Và
tất cả những sự vật hiện tượng ấy được sắp xếp, tổ chức trong các tiết vẽ theo
mẫu ở lớp 6. Trong những bài này là những mẫu vẽ đã được chủ động nghiên
cứu để nó trở thành những mẫu đại diện điển hình cho mọi sự vật hiện tượng.
Vẽ theo mẫu ở lớp 6 là một phân môn tạo nên ý thức quan sát để cảm
nhận cái đẹp của sự vật hiện tượng. Đó sẽ là một trong những kiến thức ban đầu
quan trọng của chương trình mĩ thuật THCS, và từ đây, sẽ dần hình thành các kĩ
năng cần thiết để giúp học sinh hoàn thành được các bài tập theo chương trình,
và vận dụng những kiến thức ấy vào học tập, sinh họat hàng ngày.
Vẽ theo mẫu là một phân môn mà học sinh được quan sát mẫu thực và
nhận xét mẫu để rồi các em sẽ mô phỏng lại mẫu một cách tương đối giống thực.
Tức là học sinh sẽ hình thành được kiến thức cơ bản của môn mĩ thuật qua phân
môn vẽ theo mẫu này. Học sinh sẽ vẽ theo một phương pháp cụ thể, đơn giản
theo những hướng dẫn logic, ngắn gọn và dễ hiểu của giáo viên. Đó là vẽ hình
chung trước (tổng thể mẫu), sau rồi mới vẽ chi tiết (các bộ phận nhỏ), và chu
trình vẽ này đều được vận dụng trong tất cả các phân môn của bộ môn mĩ thuật.
Nói như vậy để thấy rằng vẽ theo mẫu sẽ tạo được thói quen cơ bản cho học
sinh, đó là vẽ từ phần chung trước, phần riêng sau; vẽ phần chính trước, phụ sau;
1


vẽ đơn giản trước, chi tiết sau; vẽ nét thẳng trước, nét cong sau và vẽ mảng
chính trước, mảng phụ sau.
Nói tóm lại, việc giúp học sinh lớp 6 nắm vững những bước cơ bản trong
khi giảng dạy tiết Vẽ theo mẫu có thể là “điểm nhấn” quan trọng cho các phân
môn còn lại của bộ môn mĩ thuật. Và đây sẽ là kiến thức cơ bản tạo đà để các
em tiếp tục khám phá và làm chủ cái đẹp trong chương trình mĩ thuật đồng tâm
ở các khối lớp cao hơn , đặc biệt là biết vận dụng cái đẹp vào cuộc sống hằng
ngày.
1.2. Phạm vi áp dụng.
Các tiết dạy trong phân môn Vẽ theo mẫu khối 6 Trung học cơ sở.
2. NỘI DUNG
2.1. Thực trạng.
Trong thực tế của ngành giáo dục, tuy môn Mỹ thuật đã được đưa vào
chương trình giáo dục tiểu học, nhưng đa phần giáo viên giảng dạy chưa chuyên
biệt cao, tức là đang dạy kiêm nhiệm nhiều môn do vậy có phần hạn chế trong
phương pháp chuyên môn bộ môn Mỹ thuật. Nhiều giáo viên dạy còn phụ thuộc
vào nói “suông” hay còn gọi là dạy “chay”, mà dạy “chay” kiểu này rất không
hiệu quả, mà còn ảnh hưởng lớn tới ý thức ban đầu về bộ môn. Yêu cầu của
phân môn vẽ theo mẫu là cho học sinh vẽ mẫu thực, quan sát mẫu thực. Nhưng
cũng có nhiều lí do mà giáo viên vẫn chưa chuẩn bị mẫu thực cho học sinh vẽ
được. Chính điều đó, khiến mỗi học sinh không nhận thức được đầy đủ kiến
thức, cũng như kết quả của bài vẽ kém hiệu quả. Ngoài thực trạng trên vẫn còn
nhiều giáo viên sử dụng phương pháp cũ mà giờ đây đã trở thành lạc hậu, đã tạo
nên sự áp đặt kiến thức một cách cứng nhắc và chưa phù hợp với đại trà đối
tượng học, khiến cho học sinh tiếp thu một cách thụ động, qua loa chiếu lệ, có
thái độ không cần thiết. Một số giáo viên vẫn coi bộ môn mĩ thuật là môn phụ,
khiến cho việc khích lệ các em khá, giỏi có năng khiếu và các em yếu, trung
bình bị hạn chế.
Đối với học sinh khi đến tiết học mĩ thuật thường học sinh rất mong đợi
nhưng khi thực hành thì lại không tuân thủ (làm theo) các bước cơ bản đã được

2
giáo viên hướng dẫn. Đặc biệt là phân môn vẽ theo mẫu nếu giáo viên chuẩn bị
được mẫu thì học sinh cũng dường như không cần chú ý đến vật mẫu được bầy
ở trên bảng, cũng không cần vẽ theo góc nhìn của mình đối với mẫu. Tôi đã
nhận thấy một số tiết vẽ theo mẫu (có mẫu) nhưng học sinh lại vẽ theo hình
minh họa bảng của giáo viên chứ không vẽ theo những gì mình nhìn thấy.
Do vậy khi chuyển sang chương trình Mỹ thuật THCS thì giáo viên lại
hầu như phải giải quyết từ khâu đầu tiên của việc hướng dẫn về tỉ lệ đo mẫu vật,
bố cục, phác khung hình chung cho đến khi bài hoàn thành.
Đầu năm học, tôi đã cho khối lớp 6 khảo sát thử bài vẽ theo mẫu cơ bản:
mẫu hình trụ và hình cầu. kết quả là 1/3 số học sinh đạt điểm Đạt (nhưng chỉ ở
mức độ trung bình), số học sinh còn lại hoặc là bố cục lệch, hoặc là tỉ lệ không
cân đối giữa các mẫu vật, hoặc cách đánh đậm-nhạt không đúng cách, chủ yếu là
các em sử dụng cách “chà chì” thành hai mảng sáng tối.
2.2. Các giải pháp
Trước thực trạng diễn ra nhiều năm như vậy, cộng với điều kiện dạy học
chưa đầy đủ và đồng bộ, phương pháp giáo dục chưa phát huy mạnh được vai
trò của học sinh, để phân môn vẽ theo mẫu thực sự trở thành “xương sống” của
bộ môn, để học sinh học mĩ thuật ngoài hứng thú ra còn có khả năng biểu hiện
cái đẹp và cảm thụ cái đẹp, bản thân tôi đã tậo trung giải quyết một số vấn đề cụ
thể sau:
+ Công tác chuẩn bị cần thiết cho bài giảng.
+ Hướng dẫn học sinh quan sát nhận xét.
+ Hướng dẫn học sinh cách vẽ.
+ Hướng dẫn học sinh thực hành.
+ Nhận xét đánh giá bài của học sinh.
Năm vấn đề này được giải quyết tốt thì hiệu quả sẽ đem lại một bài giảng
thành công cho một phân môn quan trọng của bộ môn mĩ thuật. Cụ thể từng vấn
đề một sẽ được giải quyết như sau:
a. Công tác chuẩn bị cần thiết cho bài giảng.

3
Đối với môn mĩ thuật nói chung và phân môn vẽ theo mẫu nói riêng, việc
sử dụng đồ dùng dạy học (ĐDDH) là đặc biệt cần thiết. Vì học sinh phải quan
sát, nhận xét thì mới hình thành được khái niệm. Hơn thế vẽ theo mẫu lại phải
trực quan cụ thể, thực tế. Thực tế ở chỗ vẽ theo mẫu phải có mẫu thực không thể
cho học sinh vẽ theo mẫu mà giáo viên minh họa trên bảng được.
Trong chương trình lớp 6 có 9 tiết Vẽ theo mẫu, giáo viên cần chuẩn bị đủ
mẫu theo đơn vị bài và trực quan cho các bài đó. Từ những mẫu đơn giản như
các khối hình (khối hộp, khối trụ, khối cầu…) tới những mẫu cụ thể hơn (như
quả cây, đồ dùng vật dụng…).
Sự chuẩn bị của giáo viên còn căn cứ theo thực tế của từng tiết và điều
kiện ở địa phương. Ở trường tôi, do số lượng học sinh trong một lớp ít do vậy tôi
chuẩn bị một bộ mẫu, đối với những tiết vẽ theo mẫu phải sử dụng mẫu tươi
như bài 15 “mẫu có dạng hình trụ và hình cầu”- quả táo hoặc bưởi thật thì sau
khi sử dụng ở tiết 1(vẽ hình), tôi cất giữ trong tủ lạnh để sử dụng trong tiết 2(vã
đậm -nhạt) vì khoảng cách giữa hai tiết là 1 tuần. Và mẫu vật không nhất thiết
phải giống trong sách giáo khoa hoặc hình minh họa.
Về phương pháp, có nhiều phương pháp được tích hợp trong một tiết
nhưng chủ yếu tập trung các phương pháp như vấn-đáp, gợi mở và luyện tập.
Phương pháp giảng dạy của giáo viên cần phát huy được tính tích cực, sự độc
lập suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo của học sinh và đây cũng là tư tưởng chủ đạo của
phương pháp dạy học mĩ thuật nói chung và daỵ vẽ theo mẫu nói riêng. Kết quả
cuối cùng của việc “dạy” là kiến thức phải “đến” phải “vào” người học. Hơn
nữa, học sinh phải là người chủ động tiếp nhận kiến thức từ giáo viên. Vì thế khi
giảng dạy, giáo viên không chỉ quan tâm đến phương pháp dạy của giáo viên mà
còn phải chú ý tới phương pháp học của học sinh. Do đó, khi Dạy-Học vẽ theo
mẫu ở tiểu học giáo viên còn cần phải chú ý những đặc điểm sau:
+ Tạo được không khí học tập tốt để học sinh háo hức chờ đón bài học.
+ Tạo điều kiện cho học sinh suy nghĩ, tìm tòi .
+ Tổ chức bài học sao cho học sinh tham gia nhận thức một cách tự giác.

+ Động viên nhằm giúp học sinh làm bài bằng khả năng và cảm xúc riêng.
4
b. Hướng dẫn học sinh quan sát nhận xét.
Dạy mĩ thuật nói chung và vẽ theo mẫu nói riêng, phải thực hiện theo
hướng để học sinh làm bài thực hành là chính (thời gian khoảng 20 - 25 /45 phút
của tiết học).Thế nhưng thời gian đầu giờ (15 -20 phút) là thời gian giảng lý
thuyết. Phần này tuy chiếm ít thời gian nhưng lại là một việc vô cùng quan trọng
trong quá trình hình thành kiến thức mĩ thuật, kiến thức vẽ theo mẫu đối với học
sinh.
Trong 9 tiết Vẽ theo mẫu ở lớp 6 là những bài vẽ từ đơn giản và nâng cao
dần theo cấu trúc chương trình đồng tâm. Cho nên, việc hướng dẫn quan sát mẫu
cho học sinh là rất cụ thể, rất gần gũi, chỉ cần đòi hỏi giáo viên sử dụng phương
pháp phù hợp là sẽ đạt hiệu quả cao.
Trong phương pháp giảng dạy cũ: Giáo viên thường vấn đáp học sinh và
học sinh trả lời câu hỏi máy móc thậm chí vu vơ bởi học sinh thường không chú
ý tới mẫu. Do đó, việc đầu tiên để dạy tốt và hướng dẫn tốt học sinh quan sát,
nhận xét thì giáo viên cần chủ động khắc phục cách bày mẫu và chuẩn bị mẫu
cũng như phương pháp cho học sinh quan sát mẫu.
- Giáo viên bầy mẫu: lớp học thường đông cho nên giáo viên nên bầy mẫu
vào giữa lớp và kê bàn ghế theo hình chữ u hoặc để mẫu vẽ vừa tầm mắt học
sinh và đảm bảo các em được quan sát mẫu 100%, không có hiện tượng học sinh
này quan sát “mẫu” tại “gáy” học sinh ngồi trước mình.
- Giáo viên chủ động đối với phương pháp dạy quan sát mẫu: cần hình
tượng, cụ thể hoá mẫu vẽ thành những hình phải đơn giản, cụ thể và dễ mô
phỏng. Ví dụ: Vẽ cái cốc trước hết phải hướng dẫn học sinh vẽ một hình học
giống cái cốc đã, như hình chữ nhật chẳng hạn. Vậy để vẽ được hình cái cốc cần
phải vẽ hình chữ nhật trước, như vậy chúng ta thấy cụ thể hoá hình vẽ rất quan
trọng, đó chính là quá trình qui đổi mẫu vẽ thành một hình học có tên, dễ vẽ, từ
đó việc biểu hiện mẫu trên bài vẽ là rất dễ dàng, đơn giản.
- Trước đây giáo viên hay cho học sinh nhận xét hay so sánh mẫu bằng lời

không. Vì các em còn rất nhỏ, khái niệm về mĩ thuật còn hạn chế nhiều, nên
giáo viên cần hướng dẫn học sinh so sánh mẫu ngoài bằng lời ra còn bằng cả
5
hành động (động tác). VD: Khi hướng dẫn các em quan sát để tìm ra hình chung
của mẫu giống hình gì ? . Nếu giáo viên chỉ sử dụng câu hỏi không, buộc học
sinh phải hình dung khó hơn, lâu hơn, nhưng nếu giáo viên hỏi xong rồi dùng
thước kẻ chặn hai chiều, theo chiều ngang và chiều dọc. Lúc đó học sinh sẽ
được cụ thể hoá hình chung của mẫu là hình học gì? Bằng phương pháp này học
sinh sẽ nhận xét nhanh hơn và hiệu quả hơn, tỷ lệ hình dễ chuẩn xác hơn.
- Khi đặt câu hỏi quan sát cần sử dụng những cụm từ ít chuyên môn (từ
khó) mà sử dụng những cụm từ đơn giản nhưng dễ hiểu như: Đối với từ khó:
Các em cho biết tỷ lệ của vật mẫu như thế nào ? ; Thay bằng cụm từ dễ hơn: Em
hãy so sánh xem chiều cao của mẫu với chiều ngang của mẫu như thế nào ? Khi
giáo viên đặt câu hỏi như vậy thì học sinh sẽ tập trung vào so sánh, nhận xét và
đưa ra kết quả ngay, đã giản đơn được một bước phải suy nghĩ tỷ lệ là gì đối với
học sinh.
- Đối với việc quan sát so sánh từng phần của từng vật mẫu: Hầu hết các
tiết ở lớp 6 thường vẽ từ 2 mẫu trở lên (Mẫu có hai đồ vật) do vậy việc gợi ý cho
học sinh tìm hiểu tỷ lệ các phần là rất quan trọng, đặc biệt chú ý các vị trí khác
nhau sẽ cho một tỷ lệ tương ứng.
- Đối với việc quan sát, nhận xét mầu sắc (đậm nhạt) của vật mẫu. Hệ
thống bài vẽ theo mẫu, vấn đề quan sát để nhận biết đậm nhạt là rất quan trọng.
Để học sinh nhận biết được đậm nhạt, chúng ta cần chọn một hướng ánh sáng
chiếu vào mẫu, giáo viên sẽ đóng một vế cửa lại chỉ mở một bên để tạo ánh sáng
chiếu một chiều vào vật mẫu. Lúc đó học sinh quan sát mẫu sẽ nhận dạng được
tối thiểu 3 sắc độ. Một số giáo viên hướng dẫn quan sát đậm nhạt lại đặt câu hỏi:
Em cho biết nhìn mẫu vẽ thấy mấy độ đậm nhạt ? Như vậy khái niệm của thầy
chưa cụ thể khiến nhiều học sinh chưa thể hình dung được sắc độ là gì ?. Ngược
lại, nếu giáo viên thay bằng: Em nhìn lên mẫu thấy phần bên nào là đậm nhất ?
Tương tự như vậy đặt câu hỏi với phần sáng nhất. Còn ở giữa em thấy độ đậm

nhạt như thế nào ? (ở giữa là độ sáng trung gian). Nếu mẫu được chuẩn bị là hai
vật có mầu đậm nhạt khác nhau thì giáo viên cũng cần gợi ý sự quan sát của học
sinh theo cách tương tự.
6
c. Hướng dẫn học sinh cách vẽ.
- Hướng dẫn về bố cục (cách sắp xếp): Trước hết bài vẽ bao giờ giáo viên cũng
cần phải hướng dẫn học sinh xây dựng ý đồ với một bố cục đẹp, tức là sắp xếp
phải cân đối, thuận mắt. Theo tôi để hướng dẫn học sinh vào vấn đề thì nên đặt
học sinh trong hoàn cảnh đó: Giáo viên treo trực quan bao gồm 4 hình vẽ vật
mẫu trong đó có một hình chuẩn về bố cục và gợi ý học sinh tìm hình chính xác
nhất về bố cục, như vậy tránh được hiện tượng học sinh vẽ theo sự sắp xếp tự do
không có chuẩn mực nào cả.
- Hướng dẫn học sinh vẽ hình chung của mẫu.
Khung hình chung có nghĩa là hình của mẫu vẽ được chứa chọn vẹn bên
trong khung hình ấy. Khi xác định bố cục của bài vẽ chiếm bao nhiêu giấy tức là
khung hình chung sẽ chiếm từng ấy. Khi vẽ khung hình chung học sinh chủ
động được tỷ lệ với trang giấy là điều mà mỗi giáo viên chúng ta ai cũng rất cần.
Việc hướng dẫn vẽ kung hình chung này được đơn giản và hiệu quả thì
phần quan sát nhận xét sẽ đóng một vai trò tương đối quan trọng. Khi giáo viên
hướng dẫn học sinh vẽ khung hình chung cần đặc biệt chú ý tới tỷ lệ (tức là
chiều rộng so với chiều cao).
Nên yêu cầu các em chỉ sự dụng tay và chì để vẽ, khi tay đã vẽ luyện nét
thuần thục rồi thì việc vẽ các phân môn khác là rất khả dĩ. Chính vì vậy, mà giáo
viên không được để các em dùng thước kẻ hoặc compa để vẽ theo mẫu nếu vẽ
như vậy thì nét vẽ của học sinh không mềm mại, thay vào đó là nét vẽ cứng
nhắc, đơn điệu, việc tạo nên nét vẽ đơn điệu và cứng nhắc là điều gây cản trở
lớn khi học sinh học cao lên, đòi hỏi vẽ mẫu khó hơn.
- Tìm và xác định vị trí của các bộ phận chi tiết trên mẫu vẽ.
Phần này học sinh sẽ làm tương đối nhanh, giáo viên cũng không nên
hướng dẫn nhiều bởi nó sẽ thừa vì phần hướng dẫn quan sát nhận xét giáo viên

đã cụ thể rõ ràng. Như vậy, giáo viên cần tập trung hướng dẫn học sinh một số
thao tác vẽ (cách dựng hình cơ bản), những thao tác này vẫn còn nhiều giáo viên
bỏ qua, hoặc xem nhẹ dẫn đến học sinh cũng vẽ đại khái.
- Hướng dẫn học sinh vẽ phác bằng nét thẳng:
7
Tới phần này thì bài vẽ đã đang dần hiện bộ khung của bài. Để vẽ được
bài giáo viên không nên cho học sinh vẽ nét cong giống thực luôn mà phải vẽ
phác bằng nét thẳng trước. Ở bước này giáo viên cũng yêu cầu học sinh luôn:
khi phác hình phải dùng bút chì, nhưng vẽ nhẹ tay để tạo thành nét mờ.
- Hướng dẫn vẽ chi tiế .
Bước vẽ này có thể coi là bước hoàn thiện hình.Vẽ chi tiết tức là học sinh
sẽ vẽ những gì các em quan sát, so sánh, nhận xét và nhìn thấy trên vật mẫu.
Đích cuối cùng của bài vẽ theo mẫu đối với học sinh tiểu học là mô phỏng được
mẫu. Từ những nét vẽ phác trông bản thân nó đã gần giống mẫu, giáo viên chỉ
cần hướng dẫn học sinh vẽ bám theo các nét thẳng để hoàn thiện. Việc hướng
dẫn học sinh, giáo viên cần chú ý tới đối tượng của mình dưới lớp. Cũng có
nhiều em có năng khiếu hoặc tiếp thu nhanh và dễ dàng vẽ bài, nhưng cũng có
nhiều em do khả năng của bản thân và yêu cầu của bộ môn vẫn chưa đáp ứng
được hay vẽ còn lúng túng, thao tác còn vụng về. Chính vì điều đó mà giáo viên
phải sử dụng những phương pháp phù hợp để các em giỏi, có năng khiếu vẫn
thích thú, các em yếu lấy đó làm lời động viên, khích lệ và có hứng thú học tập
hơn.
- Hướng dẫn học sinh vẽ đậm - nhạt:
Giáo viên không nên đòi hỏi quá cao ở học sinh và cũng không nên quá
coi nhẹ vấn đề này. Yêu cầu học sinh bước đầu nhận biết được đậm nhạt khi vẽ
theo mẫu tức là cần vẽ được ba độ đậm nhạt: Sáng, tối, trung gian. Nhưng vấn
đề ở đây là giáo viên làm thế nào để hướng dẫn học sinh hiểu được ba sắc độ tối
thiểu ấy.
Cũng như nhiều phần hướng dẫn trước giáo viên sẽ sử dụng một số
phương pháp tích cực rất đặc thù của bộ môn để các em tiếp thu bài một cách

hiệu quả. Giáo viên vẫn sử dụng phương pháp trực quan, vấn đáp, nhưng vấn
đáp nên hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Cụ thể ở phần này giáo
viên nên đặt câu hỏi để học sinh tìm được phần nào là phần đậm nhất, phần nào
là phần sáng nhất, giữa đậm và nhạt (sáng) là độ đậm gì? Nó không phải là đậm
và cũng không phải là nhạt vậy sẽ là độ đậm trung gian của sáng - tối. Khi giáo
8
viên đặt câu hỏi tìm độ đậm nhất: VD: Em hãy tìm trên mẫu phần nào trông đậm
nhất ?. Như vậy, học sinh sẽ quan sát và nhận xét sau đó đưa ra kết quả ngay.
Tương tự như vậy, giáo viên hỏi các độ đậm nhạt khác học sinh cũng sẽ tìm ra
dễ dàng. Tới lúc đó giáo viên sẽ giảng giải độ đậm nhạt có do đâu? và tại sao lại
cần độ đậm nhạt?: Giáo viên treo bài mẫu (đã chuẩn bị) hoàn thiện có đậm nhạt
lên bảng để học sinh quan sát.
* Toàn bộ các bước hướng dẫn này nó có một vai trò rất quan trọng.
Trong thực tế giảng dạy giáo viên vận dụng linh họat các bước.
Chú ý: theo tôi, để tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao tính thực tế cho tiết
dạy, ở phần này giáo viên cần vừa hướng dẫn vừa minh họa các bước lên bảng
cho các em theo dõi (hạn chế treo tranh các bước hoặc chiếu hình vẽ lên bảng
phụ), nhưng yêu cầu giáo viên phải có chuyên môn cao.
d. Hướng dẫn học sinh thực hành.
Như đã biết, phần thực hành chúng ta phải dành 2/3 tiết học để các em thể
hiện bài, hơn nữa đây lại là vẽ theo mẫu thì việc đó càng quan trọng. Việc hướng
dẫn học sinh thực hành chúng ta cần chú ý những nội dung như: để học sinh
quan sát và vẽ độc lập; giáo viên sẽ tham gia góp ý cho cá nhân học sinh.
Lâu nay giáo viên vẫn thường xuyên để học sinh thực hành một cách tự
do thoải mái, nhiều khi coi giờ thực hành của học sinh là giờ nghỉ giải lao của
giáo viên. Nếu quan niệm như vậy là sai nghiêm trọng, trong lúc học sinh làm
bài thì giáo viên phải tập trung theo dõi từng em một làm bài. Chú ý tới cách vẽ
và xem các em có vẽ theo góc độ của mình ngồi hay không. Yếu tố ấy sẽ khẳng
định được học sinh có làm việc độc lập hay tự, vẽ không.
Giáo viên hướng dẫn cá nhân: Việc hướng dẫn cá nhân rất quan trọng

trong thời gian thực hành của học sinh. Phần hướng dẫn học sinh đã nắm được
bài một cách tương đối đầy đủ, tuy nhiên tới giờ thực hành các em sẽ không
tránh khỏi những sai sót, cũng như gặp phải một số vướng mắc, chính vì vậy
việc hướng dẫn cá nhân là rất cần thiết.
Tuy là giáo viên cần phải hướng dẫn cá nhân học sinh trong giờ thực hành
nhưng cũng có nhiều khi giáo viên phải hướng dẫn tập thể do một điều đó là: có
9
quá nhiều em mắc phải một lỗi khi vẽ bài, trong trường hợp này giáo viên yêu
cầu học sinh dừng bài trong ít giây để giáo viên uốn nắn kịp thời.
e. Nhận xét, đánh giá bài của học sinh.
Đối với vấn đề này giáo viên cần nắm được tinh thần đổi mới phương
pháp trong việc đánh giá nhận xét bài của học sinh. Thực chất đây lại là phần đã
gián tiếp tác động tư tưởng yêu thích bộ môn đối với học sinh. Thông thường
học sinh hay thích vẽ theo đề tài và vẽ tự do, còn vẽ theo mẫu các em vốn cũng
chưa mặn mà nhiều. Chính vì lý do đó việc nhận xét bài của học sinh cần phát
huy được tinh thần khích lệ các em hăng hái học phân môn là chính, và phải tôn
trọng ý kiến của học trò nếu là tích cực, nếu phê bài yếu kém thì giáo viên cũng
phải dùng cách khen trước để rồi chê sau.
Tôi vẫn tâm niệm một điều bởi đây là một môn nghệ thuật chứ không phải
một môn khoa học tự nhiên hay một môn khoa học xã hội, tuy nhiên ở lớp 6 là
dạy cho học sinh bước đầu cảm thụ nghệ thuật hội họa là chính. Lời nhận xét
của giáo viên có thể khiến học sinh tiếp tục làm bài nhưng cũng có thể khiến học
sinh không thèm làm bài. Dưới đây là một số nội dung về đánh giá nhận xét bài
của học sinh mà ở vấn đề này chúng ta cần giải quyết:
Cho ít nhất từ 5 đến 10 em học sinh nhận xét cảm nhận của mình khi xem
các bài vẽ đó, yêu cầu học sinh chọn ra được các bài vẽ đẹp. Giáo viên còn tiếp
tục vấn đáp để học sinh tự nhận xét được vì sao bài đó đẹp, vì sao bài đó chưa
đẹp.
VD: Giáo viên đặt câu hỏi như em hãy chọn các bài theo em coi đó là
đẹp?, Tại sao em thấy bài đó đẹp hơn các bài kia ?, Em hãy nhận xét về hình vẽ

của các bài em coi là đẹp ?, Những bài vẽ chưa đẹp em thấy hình vẽ của các bạn
đó như thế nào? Như em thấy bạn vẽ các độ đậm nhạt như thế nào, trông khối
hình đã rõ hay chưa? Theo em với những bài vẽ chưa đẹp này thì cần vẽ sửa
những điểm nào? Theo em thì những bài đẹp này được bao nhiêu điểm, những
bài chưa đẹp này được bao nhiêu điểm?
10
Bằng hệ thống câu hỏi trực tiếp đối với học sinh nhận xét đã làm cho học
sinh chủ động nêu cảm nhận của mình trước những bài mĩ thuật, như vậy đã rèn
được thói quen phê bình và tự phê bình bài vẽ của bạn cũng như của mình.
Giáo viên căn cứ vào thực tế bài vẽ nhận xét khách quan các bài đã dán
lên bảng đó và cuối cùng cho điểm khích lệ học sinh bằng cách cho điểm cao
đối với những bài vẽ đẹp và hứa giờ sau chấm tiếp các bài còn lại.
3. KẾT LUẬN
Việc đổi mới phương pháp dạy vẽ theo mẫu nói riêng mĩ thuật nói chung
và cũng như bao môn khác là điều cần thiết đối với tình hình thực tế hiện nay.
Đối với đề tài này, bản thân tôi đã áp dụng vào công tác giảng dạy bộ môn
Mỹ thuật qua các năm và nhận thấy được sự thay đổi thực tế rất cao, hầu hết đến
cuối năm học tỷ lệ học sinh thực hiện một bài vẽ theo mẫu đạt yêu cầu là từ
95%-100% trong đó về bố cục và tỷ lệ hình vẽ cân đối khi hoàn thiện là 95%,
cách đánh bóng đậm-nhạt tốt từ 80-85%.
Kết quả cụ thể năm học 2012-2013:
- Khảo sát chất lượng đầu năm:
Lớp S.lượng Xếp loại Ghi chú
Đạt yêu cầu % Chưa đạt %
6A 31 15 48,4 16 51,6
6B 31 12 38,7 19 61,3
- Khảo sát chất lượng cuối học kì 1:
Lớp S.lượng Xếp loại Ghi chú
Đạt yêu cầu % Chưa đạt %
6A 31 26 83,9 5 16,1

6B 31 23 74,2 8 25,8
11
- Khảo sát chất lượng cuối học kì 2:
Lớp S.lượng Xếp loại Ghi chú
Đạt yêu cầu % Chưa đạt %
6A 31 31 100 0 0
6B 31 31 100 0 0
Với kết quả như trên tôi thấy việc dạy học mĩ thuật nói chung và dạy vẽ
theo mẫu nói riêng muốn có kết quả giảng dạy cao thì người thầy phải không
ngừng tìm tòi và đổi mới phương pháp dạy học để tạo được cách dạy lấy học
sinh làm trung tâm cho bài dạy, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, gợi mở, dẫn
đường thì ngoài việc sử dụng một số phương pháp dạy truyền thống còn cần kết
hợp nhiều phương pháp khác để tiết học sinh động hơn.
Trong tất cả các giải pháp nêu trên, điều cốt lõi làm nên sự thành công của
một tiết Vẽ theo mẫu là giáo viên phải luôn chủ động trong mỗi bước của một
bài giảng, và nhất thiết phải quan tâm tới tâm lý lứa tuổi này, đồng thời tạo được
không khí thoải mái để mỗi khi có tiết Mỹ thuật thì các em sẽ chào đón với một
tâm trạng vui tươi hào hứng.
Giáo viên cần có nhiều thời gian để nghiên cứu phương pháp, phải chuẩn
bị nhiều đồ dùng dạy học có chất lượng. Nếu trường chưa trang bị đầy đủ mẫu,
giáo viên cần cố gắng chuẩn bị mẫu không nên để học sinh vẽ mẫu “chay”.
Giáo viên cần thường xuyên luyện vẽ để minh họa bảng đạt thuần thục
làm cho học sinh “tâm phục”, “khẩu phục”, học sinh có đặc điểm là rất thích
thầy minh họa. Giáo viên còn phải tinh tế trong khi sử dụng đồ dùng dạy học và
quan sát học sinh trong khi các em làm thực hành.
Trên đây tôi đã mạnh dạn đưa ra phương pháp hiệu quả khi dạy-học phân
môn vẽ theo mẫu ở khối lớp 6 bằng những kinh nghiệm thực tế giảng dạy của
bản thân tôi. Do tài liệu tham khảo còn hạn chế, do kinh nghiệm viết sáng kiến
còn ít, do chưa có nhiều đồng nghiệp góp ý xây dựng phương pháp và do khả
năng của bản thân, trong quá trình thực hiện chắc sẽ không tránh khỏi những

khiếm khuyết. Tôi rất mong các đồng chí lãnh đạo cùng các bạn đồng nghiệp
tham gia góp ý để đề tài của tôi hoàn thiện hơn và được áp dụng rộng rãi trong
các trường THCS trên địa bàn một cách hiệu quả nhất.
12
13

×