Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

tăng cường huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương - chi nhánh thành công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1017.23 KB, 72 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
MỤC LỤC
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTW : Ngân hàng trung ương
TMCP : Thương mại cổ phần
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NH TMCP NTVN : Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt
Nam
TCTD : Tổ chức tín dụng
GTCG : Giấy tờ có giá
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1: Số lượng cán bộ Vietcombank 2007- 2011Error: Reference source
not found
Bảng 2.2: Nguồn vốn của Vietcombank Thành Công 2009-2011 43
Bảng 2.3: Tỷ trọng các phương thức huy động trong tổng nguồn vốn huy
động của Vietcombank Thành Công Error: Reference source not found
Bảng 2.4: Nguồn vốn huy động của Vietcombank Thành Công 2009-2011
Error: Reference source not found
Bảng 2.5: Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn Error: Reference source not
found
Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng nợ 2009-2011 Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ cơ cấu vốn theo kỳ hạn 2009- 2011 Error: Reference
source not found
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
LỜI MỞ ĐẦU
Với tư cách là loại hình trung gian đặc biệt, chuyên thực hiện huy động
vốn để cho vay nên hiệu quả huy động vốn là vấn đề luôn được các nhà Quản trị


ngân hàng, các nhà Nghiên cứu,các nhà Chính sách quan tâm.
Tuy nhiên, hiệu quả huy động vốn của các NHTM Việt Nam hiện nay so
với nhiều nước trên Thế giới vẫn chưa cao: quy mô huy động vốn nhỏ, cơ cấu
huy động chưa phù hợp, chi phí huy động cao Ngân hàng TMCP Ngoại
Thương Việt Nam - Chi Nhánh Thành Công cũng không phải là ngoại lệ.
Làm thế nào để nâng cao hiệu quả huy động vốn tại các NHTM Việt Nam
nói chung và Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Chi nhánh Thành Công nói riêng
đang là câu hỏi được đặt ra cho thực tiễn hiện nay, khi mà Việt Nam đã trở thành
thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới. Các NHTM Việt Nam
phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Thêm vào đó, năm 2011, nền kinh tế
toàn cầu tiếp tục suy giảm, kinh tế Việt Nam tiếp tục đối mặt với một loạt khó
khăn và thách thức như: lạm phát tăng cao, sản xuất kinh doanh của nhiều doanh
nghiệp bị đình trệ, thị trường Tài chính Tiền tệ bất ổn,…Điều đó gây khó khăn
lớn cho các hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung, cũng như công tác huy
động vốn nói riêng, do tác động của chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách
kiểm soát thị trường ngoại hối nghiêm ngặt. Bên cạnh đó, hoạt động huy động
vốn còn phải đối mặt với nhiều thách thức hơn do sự cạnh tranh không lành
mạnh của các tổ chức tín dụng khác.
Xuất phát từ những lý do trên cùng với khoảng thời gian thực tế tại NH
TMCP NTVN Chi nhánh Thành Công, qua tìm hiểu nhu cầu, thực trạng về huy
động vốn tại đây, em đã quyết định chọn đề tài “Tăng cường huy động vốn tại
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương - Chi nhánh Thành Công” làm đề tài cho
chuyên đề tốt nghiệp của mình.
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn của ngân
hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Vietcombank Thành Công

Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Vietcombank Thành
Công
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của Ngân hàng thương mại
NHTM đã hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển của
nền kinh tế hàng hóa. Sự phát triển của hệ thống các NHTM đã có tác động rất
lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, và ngược
lại, kinh tế hàng hóa phát triển càng cao thì NHTM cũng ngày càng được hoàn
thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được trong nền kinh
tế.
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
- Ở Mỹ, Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung
cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
- Theo “Đạo luật Ngân hàng” của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân
hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là
nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức
khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu,
tín dụng và tài chính”.
- Ở Việt Nam, “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà
họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu
và làm phương tiện thanh toán”.
Trong hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM có những đặc điểm
riêng biệt mà các doanh nghiệp thông thường không có:

* Trung gian tài chính
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai nhóm cá nhân và tổ chức trong
nền kinh tế:
- Các cá nhân và tổ chức tạp thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu vượt cho
tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập. Bởi vậy, họ là những người cần bổ sung
vốn.
- Các cá nhân và tổ chức tạp thời thặng dư trong chi tiêu, tức là họ có thu
nhập hiện tại lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy, họ có
tiền để tiết kiệm.
Sự tồn tại hai nhóm trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Và dẫn đến một
tất yếu, đó là tiền sẽ chuyển từ nhóm thặng dư sang nhóm thâm hụt chi tiêu nếu
cả hai bên cùng có lợi. Như vậy, thu nhập gia tăng sẽ là động lực tạo ra mối quan
hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở
lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ
tín dụng; còn nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn.
Ngân hàng làm tăng thu nhập cho những người gửi tiền, từ đó khuyến khích
họ tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư và khuyến khích
đầu tư. Do đó mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt
động của ngân hàng sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kĩ
thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
* Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá
trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán được diễn ra nhanh chóng, thuận
tiện, tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh
toán như: thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…; cung cấp

mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách
hàng cần. Các NHTM còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua
NHTW hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua
ngân hàng càng hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở
rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
quản lý tìm cách áp dụng một cách rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được
chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán, không chỉ giữa các
ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên thế giới. Các
trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả thanh toán qua
các ngân hàng và biến các ngân hàng thành trung tâm thanh toán quan trọng và
có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế thế giới.
* Chất lượng dịch vụ
Phát triển dịch vụ là một hướng phát triển chiến lược của các NHTM. Xu hướng
này hình thành nên một nền kinh tế dịch vụ tại các nước phát triển, cũng như các
nước đang phát triển như Việt Nam. Các ngân hàng luôn chạy đua nhau về chất
lượng dịch vụ cả về quy mô phát triển, tiềm lực vốn, bề rộng hệ thống mạng
lưới, cũng như chiều sâu công nghệ.
Thực tế cũng chỉ ra rằng: duy trì chất lượng dịch vụ cao có thể tạo ra lợi
nhuận, giảm chi phí và làm tăng thị phần của các NHTM. Hệ thống phân phối và
quy trình giao dịch thuận tiện và hiệu quả như hồ sơ vay vốn rõ ràng, dễ hiểu,
cung cấp sản phẩm cho vay một cách nhanh chóng cũng là biểu hiện của dịch vụ
ngân hàng tốt …
* Sản phẩm dịch vụ ngân hàng
Nếu các doanh nghiệp sản xuất sáng tạo ra hàng hóa hữu hình như: lúa, gạo,
máy móc thiết bị…; thì các NHTM sản xuất ra các hàng hóa vô hình, hay nói
đúng hơn là các dịch vụ. Sản phẩm của NHTM có đặc tính phi vật chất, luôn bị
động, phụ thuộc vào khách hàng. Chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng thể

hiện ở khả năng hoàn thành ủy nhiệm của khách hàng với thời gian ngắn nhất,
chính xác nhất, an toàn và tiện lợi nhất, đặc biệt là đối với các dịch vụ thanh toán
tiền tệ.
Bản chất của sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đó là:
- Các sản phẩm dịch vụ được NHTM cung cấp trước hết phải đảm bảo
lợi ích cho khách hàng, mà trong đó cũng bao gồm cả lợi ích của chính ngân
hàng.
- Khi xây dựng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, cần phải thực hiện các biện
pháp bảo đảm an toàn hoạt động kinh doanh như cần duy trì mức vốn nhất định
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
nhằm tương hợp ý muốn với người tiết kiệm, có khả năng chống đỡ những biến
động của thị trường; lựa chọn khách hàng, hạn chế tín dụng, giám sát thực hiện,
đa dạng hóa tài sản để phân tán rủi ro; sử dụng thị trường tiết kiệm kỳ hạn hoặc
thị trường lựa chọn các công cụ vay nợ và phương pháp hoán đổi lãi suất để hạn
chế rủi ro lãi suất, tỷ giá…
Như vậy, có thể thấy NHTM là một trong những trung gian tài chính quan
trọng nhất với đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ
cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra,
NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản
phẩm dịch vụ của xã hội.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ thực hiện các hoạt động cơ bản:
huy động vốn, sử dụng vốn và cung cấp dịch vụ. Ba loại nghiệp vụ đó có quan
hệ mật thiết, tác động hỗ trợ, thúc đẩy nhau phát triển, tạo nên uy tín cho ngân
hàng. Có hoạt động huy động vốn thì mới có nguồn vốn cho vay, cho vay có
hiệu quả, phát triển kinh tế thì mới có nguồn vốn dồi dào để huy động, đồng thời
muốn cho vay và huy động vốn tốt thì ngân hàng phải làm tốt nghiệp vụ môi
giới, trung gian cung cấp dịch vụ cho khách hàng.

1.1.2.1.Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của NHTM. Hoạt
động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động khác
như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Trên góc
độ kinh doanh thì vốn huy động được càng nhiều khả năng cho vay càng lớn, tác
dụng kích thích kinh tế và việc kiểm soát bằng tiền đồng càng được phát huy
mạnh mẽ.
Các NHTM huy động vốn theo nhiều phương thức khác nhau: có thể phát
hành thêm cổ phần (gia tăng vốn chủ sở hữu) hay huy động vốn nợ với các hình
thức huy động như:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới
hình thức tiền gửi có kì hạn, tiền gửi không kì hạn và các loại tiền gửi khác.
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy
động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.
- Vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác hoạt động.
- Vay vốn ngắn hạn của NHNN.
1.1.2.2.Hoạt động sử dụng vốn
Các NHTM sau khi huy động được tiền gửi từ nền kinh tế sẽ phải trả lãi, do
đó, để khỏi bị thiệt hại đồng thời có được lợi nhuận, ngân hàng phải sử dụng vốn
để sinh lời. Điều kiện nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển nên hoạt động sử
dụng vốn của ngân hàng cũng phát triển và ngày càng đa dạng thông qua các
hoạt động sau:
* Hoạt động cho vay
Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó, tổ chức tín dụng giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định (thời hạn
cho vay) theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cho vay rất đa dạng: phân theo mục đích

vay, bao gồm: cho vay phục vụ sản xuất, cho vay tiêu dùng…; phân theo thời
hạn vay, bao gồm: cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn….
Hiện nay, cho vay là hoạt động chính của ngân hàng để tạo ra lợi nhuận,
danh mục cho vay chiếm khoảng trên dưới 1/2 tổng danh mục tài sản của
NHTM và mang lại thu nhập từ 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Bởi
thế mà hoạt động này có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của
NHTM. Tuy nhiên, hoạt động cho vay cũng luôn tiềm ẩn các rủi ro, vì vậy trong
tương lai, xu hướng của các ngân hàng là chú trọng hơn các thu nhập từ dịch vụ.
* Góp vốn liên doanh mua cổ phần
Góp vốn liên doanh liên kết, mua cổ phần là hình thức ngân hàng góp vốn
cùng khách hàng để kinh doanh. Phổ biến nhất là hình thức mua cổ phiếu với
mục đích thu cổ tức hàng năm và liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, ngân
hàng nước ngoài. Việc đầu tư vốn thông qua liên doanh liên kết, mua cổ phần sẽ
giúp các NHTM thực hiện được nhiều mục đích: đa dạng hoá các hình thức đầu
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
tư để gia tăng lợi nhuận; hạn chế rủi ro cho ngân hàng và tận dụng lợi thế của
nhau.
* Hoạt động cho thuê
Ngoài hoạt động cho vay, ngân hàng còn cho thuê máy móc, thiết bị,
phương tiện vận chuyển,… trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho
thuê là tổ chức tín dụng, NHTM với khách hàng thuê là tổ chức, cá nhân.
Khi hết thời hạn thuê, khách hàng có thể mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó
theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn thuê, các
bên không được đơn phương chấm dứt hợp đồng.
* Hoạt động dự trữ đáp ứng khả năng thanh toán
Phần lớn nguồn tiền trong NHTM là các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu
cầu. NHTM thường xuyên phải đối đầu với các nhu cầu chi trả, do vậy, để đảm
bảo tính thanh khoản cho mình, đối với mỗi khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ phải

trích lập một khoản dự trữ theo tỷ lệ nhất định do NHNN quy định.
1.1.2.3.Các hoạt động khác
* Mua bán ngoại tệ
Là hoạt động ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại
tiền khác nhằm hưởng chênh lệch tỷ giá và phí dịch vụ. Trong thị trường tài
chính ngày nay, hầu hết tất cả các NHTM đều có chức năng kinh doanh ngoại tệ.
Tuy nhiên, phạm vi và mức độ của các ngân hàng là khác nhau vì lợi nhuận
mang lại từ hoạt động này lớn nhưng mức độ rủi ro cũng rất cao, đồng thời yêu
cầu đối với cán bộ làm công tác kinh doanh ngoại tệ là phải có trình độ chuyên
môn cao.
* Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Việc mở tài khoản giao dịch và cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán
mua hàng hoá, dịch vụ được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất
của công nghiệp ngân hàng. Các tiện ích từ việc không dùng tiền mặt như: an
toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí,… đã góp phần rút gọn thời gian
kinh doanh và nâng cao thu nhập cho cá nhân. Điều này khuyến khích các doanh
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
nghiệp và cá nhân đến gửi tiền vào ngân hàng nhờ thanh toán hộ. Hiện nay, có
nhiều phương thức thanh toán đang rất phát triển: uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi,
L/C, thanh toán bằng điện tử, thẻ…
* Bảo lãnh
Bảo lãnh là việc cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh)
với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay
cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa
vụ đã cam kết với bên bảo lãnh. Bảo lãnh là dịch vụ có thu phí, sử dụng uy tín và
khả năng tài chính của ngân hàng. Khách hàng phải trả nợ cho ngân hàng số tiền
đã được trả thay.
* Tài trợ cho hoạt động của Chính Phủ

Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách khi thu không đủ cho chi,
Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận các khoản vay của ngân hàng. Các ngân
hàng khi thành lập đều phải cam kết thực hiện ở một mức độ nào đó các chính
sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng phải mua trái phiếu
của Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng
huy động được hoặc phải cho vay với điều kiện ưu đãi đối với các doanh nghiệp
của Chính phủ.
* Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền cho các doanh nghiệp nhằm quản lý
việc thu chi cho các doanh nghiệp và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt
tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi hoặc tín dụng ngắn hạn cho đến khi doanh
nghiệp cần tiền mặt để thanh toán.
* Quản lý tài sản có giá
Là việc ngân hàng giữ hộ vàng, các vật có giá khác cho khách hàng trong
kho bảo quản và giao cho khách hàng tờ biên nhận. Ngân hàng thu được lợi
nhuận từ phí bảo quản. Do việc có thể chi trả bất cứ lúc nào cho giấy biên nhận
nên đã có thời gian giấy biên nhận được sử dụng như tiền dùng để thanh toán các
khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Việc sử dụng
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách
hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận ngân hàng.
* Cung cấp một số dịch vụ khác
Việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ nhằm đem lại lợi ích tối đa cho
khách hàng đã và đang là nhiệm vụ được các ngân hàng đặt lên hàng đầu. Ngoài
các hoạt động dịch vụ như trên, các ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng
nhiều các sản phẩm dịch vụ khác như: ủy thác đầu tư, môi giới đầu tư chứng
khoán, đại lý, bảo hiểm, tư vấn,…
1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại

1.2.1.Nguồn vốn trong ngân hàng thương mại
Với ngân hàng, nguồn vốn không chỉ mang tầm quan trọng như với các
doanh nghiệp bình thường mà nó còn là cơ sở, là nền tảng để hình thành, tổ chức
mọi hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn của NHTM bao gồm:
1.2.1.1. Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu cung cấp năng lực tài chính cho quá trình tăng trưởng, mở
rộng quy mô, phạm vi hoạt động cũng như phát triển các sản phẩm dịch vụ mới
của NHTM. Vốn chủ sở hữu của NHTM có các thành phần sau:
* Vốn góp:
Là nguồn được đóng góp chủ yếu bởi những người chủ ngân hàng dưới
hình thức mua cổ phiếu.
Vốn góp = Tổng Số cổ phần phát hành * Mệnh giá Cổ phiếu
* Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động:
Là nguồn vốn được bổ sung từ lợi nhuận hoặc phát hành thêm cổ phần,
góp thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết
bị.
* Các quỹ: quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo tồn vốn, quỹ thặng dư
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình
thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên, có một số quỹ ngân
hàng không thể sử dụng lâu dài.
* Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần:
Một số khoản vay trung và dài hạn của NHTM được ngân hàng quy định
là có thể chuyển đổi thành vốn cổ phần.
1.2.1.2.Vốn nợ
Vốn nợ là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng vay được từ các tổ chức kinh tế
và cá nhân thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các
nghiệp vụ kinh doanh khác và dùng làm vốn để kinh doanh. Ngân hàng chỉ có

quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu đối với nguồn vốn này và có trách
nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến kỳ hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút
vốn. Vốn nợ đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của
NHTM.
Vốn nợ bao gồm :
* Vốn huy động từ tiền gửi
- Tiền gửi của tổ chức kinh tế: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh, các tổ chức kinh tế thường có một phần vốn nhàn rỗi tạm thời: khấu hao
đã trích nhưng chưa đến lúc sử dụng, các quỹ đầu tư phát triển…Và để đảm bảo
khả năng an toàn và sinh lời của đồng vốn, họ có thể gửi chúng vào ngân hàng.
Bên cạnh đó, họ thường xuyên có các giao dịch mua, bán hàng hoá với nhiều đối
tác khác nhau và ngân hàng chính là trung gian thanh toán vừa đảm bảo thời
gian, vừa đảm bảo an toàn. Thông thường thì các tổ chức kinh tế gửi tiền vào
ngân hàng dưới hai hình thức:
+ Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền mà khách hàng có thể rút tiền bất cứ
lúc nào và ngân hàng phải có nghĩa vụ thoả mãn nhu cầu đó. Mặc dù việc rút tiền
và gửi tiền có thể thực hiện bất cứ lúc nào, nhưng trên thực tế luôn có sự chênh
lệch về thời gian và số lượng, do đó, tại các ngân hàng luôn tồn tại một số dư
tiền gửi không kỳ hạn và ngân hàng có thể sử dụng cho vay. Tiền gửi không kỳ
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
hạn có lãi suất thấp, có những khoản ngân hàng không phải trả lãi. Do đó, nguồn
vốn này giúp cho ngân hàng hạ thấp chi phí mua vốn, nâng cao khả năng cạnh
tranh trong kinh doanh.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền mà khách hàng và ngân hàng có sự thoả
thuận về thời gian rút tiền, khách hàng chỉ có thể rút số tiền này khi khoản tiền
gửi đó đáo hạn. Trên thực tế, nhằm thu hút loại tiền này, đồng thời nâng cao khả
năng cạnh tranh ngân hàng sẽ cho phép khách hàng rút tiền trước thời hạn nhưng
chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn hoặc hưởng mức lãi suất tương ứng theo

loại kỳ hạn nhất định. Đây là loại vốn có độ ổn định cao mà ngân hàng có thể
chủ động trong quá trình sử dụng vốn.
- Tiền gửi của dân cư: bao gồm:
+ Tiền gửi tiết kiệm:
Đây là khoản thường chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi ngân
hàng. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm các loại sau: Loại không kỳ hạn, loại có kỳ
hạn và loại kỳ hạn dài.
- Tiền gửi khác: tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác, tiền gửi của Kho
bạc Nhà nước, tiền gửi của các tổ chức đoàn thể xã hội…Các nguồn vốn này
thường chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn, mục đích chủ yếu là thanh
toán.
* Vốn vay trên thị trường liên ngân hàng
Khi thiếu vốn NHTM đi vay từ các ngân hàng thừa vốn trên thị trường liên
ngân hàng để đảm bảo khả năng thanh toán Tuy nhiên, chi phí huy động của
nguồn vốn này lớn do ngân hàng vay phải trả lãi suất cao, các ngân hàng thừa
vốn thường không muốn cho vay, đặc biệt là các ngân hàng đối thủ cạnh tranh.
* Vốn vay trên thị trường vốn
Bên cạnh các phương thức đi vay trên, các ngân hàng còn vay trên thị
trường vốn như: phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu…
Việc phát hành các loại chứng khoán này giúp cho ngân hàng có được
nguồn vốn trung và dài hạn, chủ động phát hành về số lượng huy động, thời hạn,
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
lãi suất. Vì vậy mà ngân hàng có thể chủ động tính toán kế hoạch tài chính. Nhìn
chung, đây là nguồn vốn ổn định, chi phí khá thấp, song phải trả lãi suất cao hơn
so với lãi suất tiền gửi huy động vốn.
* Vốn vay Ngân hàng Nhà Nước
Nếu khi cần vốn nếu mà các nguồn trên vẫn không đủ, ngân hàng sẽ phải đi
vay NHTW. NHTW đóng vai trò là người cho vay cuối cùng.

Vốn vay NHTW là quan hệ giữa các NHTM với NHTW nằm trong sự điều
tiết của chính sách tiền tệ. Khi NHTW sử dụng công cụ thị trường mở, mua bán
các kỳ phiếu, trái phiếu ngắn hạn, hệ thống NHTM phải chịu sự kiểm soát chặt
chẽ của NHTW.
1.2.1.3. Vốn khác
NHTM trong quá trình làm trung gian thanh toán cũng tạo được một khoản
vốn được trích từ một số tài khoản nhập vào tài khoản chờ sử dụng, tạm thời
nhàn rỗi, được gọi là vốn trong thanh toán.
Thông qua các nghiệp vụ đại lý, nhờ quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm
đại lý cho các tổ chức tín dụng khác, nhận và chuyển vốn cho các khách hàng hay
một dự án đầu tư, NHTM cũng thu được một lượng vốn đáng kể.
Thông qua dịch vụ uỷ thác cũng tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng.
Ngoài ra còn có các khoản nợ khác như: thuế chưa nộp, lương chưa trả…Ngân
hàng đều có thể sử dụng tạm thời.
1.2.2. Các phương thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
Để thu hút được nhiều vốn huy động từ các tổ chức, doanh nghiệp và dân
cư, hiện nay các NHTM đang thực hiện nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào điều
kiện riêng của từng ngân hàng. Sau đây là một số phương thức huy động vốn chủ
yếu mà nhiều NHTM hiện nay đang áp dụng:
1.2.2.1. Huy động vốn thông qua tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân
hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các
khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều có thể được chấp nhận
vào tiền gửi thanh toán.
Đây là nguồn chiếm khối lượng lớn do việc giao dịch trong nền kinh tế là
liên tục. Các chủ tài khoản mở tài khoản thanh toán nhưng không có nghĩa là tiền

trong tài khoản phải chuyển đi ngay mà thường nằm trong tài khoản một thời
gian ngắn không xác định, do đó, khoản tiền này cũng sẽ giúp cho ngân hàng có
một nguồn lớn giải quyết cho vay ngắn hạn và đảm bảo được tính thanh khoản.
Hơn thế nữa, chi phí huy động đối với khoản tiền này lại thấp nên phương thức
huy động vốn thông qua tiền gửi thanh toán được sử dụng phổ biến ở các ngân
hàng.
1.2.2.2. Huy động vốn thông qua tiền gửi có kỳ hạn
Nhiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ
được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện
trong hoạt động thanh toán, song lãi suất lại thấp nên các dianh nghiệp nhiều khi
không muốn sử dụng loại tiền này. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi
tiền, các ngân hàng đã đưa ra phương thức huy động theo tiền gửi có kỳ hạn.
Nguồn này có tính ổn định hơn, song chi phí huy động lại rất cao. Tiền gửi
huy động có kỳ hạn thường xuất phát từ nguồn tiền gửi của dân cư và một phần
từ các tổ chức kinh tế, nó cũng là nguồn chủ yếu mà các ngân hàng muốn huy
động bởi tính bảo đảm về thời gian. Đây cũng là nguồn chính bảo đảm cho khả
năng hoạt động của ngân hàng, như cho vay trung và dài hạn.
1.2.2.3. Huy động thông qua tiền gửi tiết kiệm
Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền gửi tiết kiệm, các ngân hàng đều cố
gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặ tại nhà, bằng
cách mở rộng mạng lưới hoạt động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng với
lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Theo phương thức này, ngân hàng có thể mở c ho
mỗi khách hàng tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm cho mối kỳ hạn và mỗi
lần gửi khác nhau.
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
Như vậy, cũng như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm cũng đóng vai trò
vô cùng quan trọng cho ngân hàng. Tuy tiền gửi tiết kiệm thường có thời gian
gửi tiền lâu dài và ổn định hơn tiền gửi thanh toán nhưng khách hàng cũng có thể

rút ra bất cứ khi nào khách hàng có nhu cầu. Do vậy, khoản tiền này cũng có thể
mang lại rủi ro cho ngân hàng.
1.2.2.4. Huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá
Hình thức huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá sẽ giúp ngân
hàng có được nguồn vốn lớn. Đây là hình thức huy động có nhiều ưu điểm
nhưng cũng rất khó khăn để thực hiện. Bởi nguồn này sẽ gần như không có biến
động về mặt thời gian, song do phải là những ngân hàng có tên tuổi mới có ưu
thế phát hành và chi phí cho nguồn huy động này cũng không nhỏ nên rất khó
khăn trong việc huy động. Và phải khi được Thống đốc NHNN chấp thuận, ngân
hàng mới được phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá
khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
1.2.3. Các tiêu chí đánh giá khả năng huy động vốn trong ngân hàng thương
mại
1.2.3.1. Chỉ tiêu đánh giá về quy mô, kết cấu nguồn vốn huy động:
- Vốn nợ/ Vốn chủ sở hữu : Phản ánh khả năng huy động vốn nợ trên một
đồng vốn chủ sở hữu. Trong khi vốn của chủ ngân hàng thường chiếm tỷ trọng
nhỏ thì vốn nợ là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng.
- Tổng tiền gửi/ Tổng vốn nợ huy động : Phản ánh tỷ trọng của nguồn tiền
gửi trong tổng nguồn vốn nợ huy động được.
- Tiền gửi ngắn hạn/ Tổng tiền gửi và Tiền gửi dài hạn/ Tổng tiền gửi: phản
ánh tỷ trọng nguồn ngắn hạn và dài hạn trong tổng tiền gửi.
- Tổng dư nợ/ Tổng vốn huy động: Phản ánh tỷ trọng dư nợ so với tổng
nguồn vốn huy động được.
Các chỉ tiêu trên có ý nghĩa quan trọng trong việc cân đối nguồn vốn, phát
hiện tiềm năng và sự thiếu hụt để kịp thời đẩy mạnh công tác huy động vốn theo
từng tiêu chí, theo cơ cấu cho vay của ngân hàng.
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
1.2.3.2.Chi phí huy động vốn

Chi phí huy động = Lãi trả cho nguồn huy động + Chi phí huy động khác
* Lãi trả cho nguồn huy động:
Có nhiều phương pháp để xác định lãi trả cho các nguồn huy động:
- Chi phí trả lãi bình quân
Chi phí trả lãi bình quân cho tiền gửi và tiền vay trên thị trường tiền tệ là:
Lãi suất phải trả bình quân = Tổng lãi phải trả/ Tổng tiền gửi và tiền vay
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất. Từ việc xác định chi phí
trả lãi bình quân, ngân hàng phải kiếm được tỷ suất lợi nhuận sinh lời từ các
khoản cho vay và đầu tư để bù đắp được chi phí trả lãi cho nguồn vốn huy động.
- Chi phí huy động vốn biên
Chi phí biên = Chi phí trả lãi tăng thêm / Tổng vốn huy động tăng thêm.
Chi phí biên là chi phí ngân hàng bỏ ra để có thêm một đồng vốn huy động.
Khi đã xác định được tỷ lệ chi phí biên, ngân hàng so sánh với thu nhập dự tính
tăng thêm mà ngân hàng hy vọng nhận được từ việc sử dụng khoản tiền mới huy
động này. Việc mở rộng nguồn vốn này thực hiện cho đến khi chi phí tăng thêm
bằng thu nhập tăng thêm và tổng lợi nhuận đạt mức tối đa. Nếu xuất hiện sự
giảm sút lợi nhuận, ngân hàng phải tìm kiếm các nguồn tiền khác có chi phí thấp
hơn hoặc các khoản tín dụng và đầu tư có thu nhập cao hơn.
- Xác định chi phí lãi suất dựa trên tỷ lệ lạm phát và thu nhập kỳ vọng của
người gửi tiền.
Theo nguyên lý chung, các ngân hàng huy động với lãi suất thị trường,
phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ. Khi xác định lãi suất huy
động, ngân hàng phải trả một mức lãi suất đủ lớn để thu hút và duy trì nguồn huy
động, nhưng cũng không được trả lãi quá cao vì sẽ làm giảm thu nhập của ngân
hàng. Do đó, ngân hàng có thể lựa chọn phương pháp xác định lãi suất huy động
theo tỷ lệ lạm phát và thu nhập kỳ vọng của người gửi tiền:
Lãi suất huy động = Tỷ lệ lạm phát + Tỷ lệ thu nhập kỳ vọng của người gửi tiền
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

Phương pháp này thường áp dụng đối với nguồn huy động trung và dài hạn, do
có thời hạn dài nên lãi suất huy động phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát và đảm bảo tỷ
lệ sinh lời lớn hơn các hoạt động đầu tư khác.
* Chi phí huy động khác:
Chi phí huy động khác rất đa dạng và không ngừng gia tăng trong điều
kiện các NHTM gia tăng cạnh tranh phi lãi suất. Nó bao gồm chi phí trả trực tiếp
cho người gửi tiền (quà tặng, quay số trúng thưởng…), chi phí tăng tính tiện ích
cho người gửi tiền (mở chi nhánh, quầy, phòng giao dịch, trang thiết bị…), chi
phí lương của cán bộ phòng nguồn vốn, chi phí bảo hiểm tiền gửi… Một số chi
phí khác được tính chung vào chi phí quản lý, rất khó phân bổ cho hoạt động huy
động vốn.
Đối với các NHTM, giá cả chính là lãi suất và mức phí áp dụng cho các
dịch vụ cung ứng cho các khách hàng. Việc vận dụng nhân tố giá để cạnh tranh
chỉ phù hợp khi xâm nhập thị trường mới và để vận dụng tốt công cụ này, các
NHTM thường đưa ra mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất của các đối thủ nhằm
lôi kéo khách hàng và chiếm lĩnh thị trường.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương
mại
Như trên, hoạt động huy động của các ngân hàng là hoạt động nhận tiền
gửi của các tổ chức, cá nhân và tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức khác
nhau; phát hành giấy tờ có giá; vay vốn giữa các tổ chức tín dụng và vay NHNN.
Quy mô, chất lượng của nguồn vốn huy động chịu tác động bởi nhiều nhân tố
khác nhau, trong đó có một số nhân tố điển hình như sau:
1.3.1. Nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan là các nhân tố thuộc về ngân hàng, nằm trong sự kiểm
soát của ngân hàng. Chiến lược với nhóm nhân tố này là xác định và phát huy
điểm mạnh, khắc phục điểm yếu.
* Uy tín của ngân hàng
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
17

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
Hình ảnh của ngân hàng có ảnh hưởng không nhỏ tới công tác huy động
vốn. Ngân hàng phải tạo ra cho mình hình ảnh đẹp, bề thế để gây lòng tin cho
khách hàng. Vì người gửi tiền bên cạnh mục đích sinh lời, tính an toàn đối với
khoản tiền gửi cũng rất quan trọng. Do đó, uy tín của ngân hàng càng lớn thì
người gửi tiền càng cảm thấy an toàn hơn và có thể hy sinh một chút lãi chênh
lệch để hưởng sự an toàn này. Ngược lại, nếu hình ảnh của ngân hàng không tạo
được lòng tin thì người có tiền sẽ dùng tiền đầu tư vào lĩnh vực khác.
* Kênh phân phối của ngân hàng
Sản phẩm dịch vụ của ngân hàng có một trong những đặc tính là nhanh tàn
lụi, không thể lưu trữ, nên việc thiết lập các kênh phân phối trở thành một vấn đề
hết sức trọng yếu trong kinh doanh ngân hàng. Kênh phân phối là phương tiện
trực tiếp đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đến khách hàng, đồng thời giúp
ngân hàng nắm bắt chính xác và kịp thời nhu cầu của khách hàng, qua đó, ngân
hàng có thể chủ động trong việc cải tiến, hoàn thiện sản phẩm dịch vụ, tạo điều
kiện thuận lợi trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ.
* Công nghệ của ngân hàng
Đây là nhân tố quyết định uy thế, sức cạnh tranh của ngân hàng không chỉ
trong hoạt động huy động vốn mà cả trong các hoạt động của ngân hàng. Công
nghệ ngân hàng là nền tảng để ngân hàng cung ứng các dịch vụ ngân hàng hiện
đại, nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng tốt mọi nhu cầu của khách hàng. Trên
cơ sở kỹ thuật công nghệ hiện đại thì các NHTM mới có điều kiện triển khai các
loại hình dịch vụ mới, mở rộng đối tượng và phạm vi khách hàng. Công nghệ
thông tin giúp ngân hàng nắm bắt, cập nhật đầy đủ các thông tin từ phía khách
hàng, giảm thiểu rủi ro từ lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Công nghệ hiện
đại cũng giúp các ngân hàng giảm chi phí, giảm thời gian trong giao dịch, tăng
độ an toàn cho khách hàng.
* Lãi suất huy động của ngân hàng
Lãi suất huy động có tác động rất lớn đến chi phí cũng như lượng vốn huy
động của ngân hàng. Ngân hàng không thể đẩy lãi suất lên quá cao vì sẽ làm tăng

chi phí huy động; cũng không thể đặt mức lãi suất quá thấp vì sẽ không thu hút
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
được khách hàng và làm giảm lượng vốn huy động dẫn đến giảm lợi nhuận. Bởi
vậy, các ngân hàng phải tính toán, đưa ra mức lãi suất huy động hợp lý cho từng
thời kỳ.
* Sự đa dạng các dịch vụ, sản phẩm huy động của ngân hàng:
Mỗi khách hàng có nhu cầu khác nhau nên ngân hàng cần có những sản
phẩm, dịch vụ huy động khác nhau để khách hàng lựa chọn. Một ngân hàng có
sản phẩm dịch vụ phong phú, linh hoạt và thuận tiện thì khả năng huy động vốn
sẽ càng cao.
* Đội ngũ cán bộ ngân hàng
Để tăng lượng khách hàng đến giao dịch với ngân hàng thì một trong
những yêu cầu bắt buộc là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của tất cả các cán bộ,
nhân viên trong các NHTM. Có như vậy thì các NHTM mới tư vấn cho khách
hàng các định hướng mở tài khoản loại nào tại ngân hàng là phù hợp, tiết kiệm
theo hình thức nào, kỳ hạn như thế nào… Đội ngũ cán bộ ngân hàng là người
luôn tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, giới thiệu về sản phẩm của ngân hàng nên
thái độ phục vụ có ảnh hưởng rất lớn đến sự hài lòng của khách hàng. Đội ngũ
cán bộ có chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm, thân thiện với khách hàng và
một nhà quản lý giỏi, nhiệt tình sẽ là nền tảng cho sự thịnh vượng của một ngân
hàng.
1.3.2. Nhân tố khách quan
Nhân tố khách quan là những nhân tố nằm bên ngoài tầm kiểm soát của
ngân hàng. Ngân hàng cần thích ứng một cách tốt nhất đối với nhóm nhân tố
này:
* Môi trường kinh tế chính trị xã hội
Các chỉ tiêu kinh tế như: tốc độ tăng trưởng, chỉ số lạm phát, thu nhập
quốc dân… ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động của ngân hàng, nhất là hoạt

động huy động vốn. Nền kinh tế ổn định làm cho thu nhập dân cư ngày càng
được cải thiện và ổn định, tạo điều kiện cho nguồn tiền vào các ngân hàng ngày
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
càng gia tăng, số vốn huy động được dồi dào và cơ hội đầu tư cũng được mở
rộng.
* Chính sách điều tiết vĩ mô
Hệ thống ngân hàng Việt nam đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước. Tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể mà Chính
phủ, NHTW sẽ thực thi chính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt. Khi nền kinh tế
đang cần vốn cho đầu tư phát triển thì NHNN sẽ giảm lãi suất chiết khấu, giảm
tỷ lệ dự trữ bắt buộc ; còn khi nền kinh tế phát triển quá nóng, lạm phát gia
tăng, NHNN sẽ tăng lãi suất chiết khấu, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc…. nhằm rút
bớt tiền ra khỏi lưu thông.
* Tâm lý tập quán của khách hàng
Tâm lý khách hàng là một trong các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động
huy động vốn của ngân hàng. Bất cứ khách hàng nào khi đem vốn của mình đi đầu tư
cũng muốn đồng vốn của mình sinh lời. Chính vì vậy, các nhà quản lý ngân hàng phải
nghiên cứu tâm lý, nhu cầu của khách hàng từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp
nhằm khơi dậy lòng tin của khách hàng. Ngân hàng phải có vị trí giao dịch thuận tiện -
yếu tố cần thiết nhằm thu hẹp không gian, rút ngắn thời gian cho khách hàng khi đến
giao dịch; tạo điều kiện cho khách hàng mở rộng khối lượng giao dịch; đồng thời góp
phần nâng cao chất lượng huy động vốn. Cán bộ nhân viên ngân hàng phải thật thân
thiện, tích cực giúp đỡ khách hàng, tạo niềm tin cho khách hàng. Từ đó, khách hàng sẽ
thấy được sự quan tâm của ngân hàng đối với mình và sẵn sàng tìm đến ngân hàng khi
có nhu cầu.
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

Chương 2
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG
– CHI NHÁNH THÀNH CÔNG
2.1. Khái quát Ngân hàng ngoại thương – Chi nhánh Thành công
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trước đây, nay là Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) chính thức đi vào hoạt động ngày
01/4/1963, với tổ chức tiền thân là Cục Ngoại hối (trực thuộc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam). Là ngân hàng thương mại nhà nước đầu tiên được Chính phủ
lựa chọn thực hiện thí điểm cổ phần hoá, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
chính thức hoạt động với tư cách là một Ngân hàng TMCP vào ngày 02/6/2008
sau khi thực hiện thành công kế hoạch cổ phần hóa thông qua việc phát hành cổ
phiếu lần đầu ra công chúng. Ngày 30/6/2009, cổ phiếu Vietcombank (mã chứng
khoán VCB) chính thức được niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí
Minh.
Trải qua 49 năm xây dựng và phát triển, Vietcombank đã có những đóng
góp quan trọng cho sự ổn định và phát triển của kinh tế đất nước, phát huy tốt
vai trò của một ngân hàng đối ngoại chủ lực, phục vụ hiệu quả cho phát triển
kinh tế trong nước, đồng thời tạo những ảnh hưởng quan trọng đối với cộng
đồng tài chính khu vực và toàn cầu.
Từ một ngân hàng chuyên doanh phục vụ kinh tế đối ngoại, Vietcombank
ngày nay đã trở thành một ngân hàng đa năng hoạt động đa lĩnh vực, cung cấp
cho khách hàng đầy đủ các dịch vụ tài chính hàng đầu trong lĩnh vực thương mại
quốc tế; trong các hoạt động truyền thống như kinh doanh vốn, huy động vốn, tín
dụng, tài trợ dự án…cũng như mảng dịch vụ ngân hàng hiện đại: kinh doanh
ngoại tệ và các công vụ phái sinh, dịch vụ thẻ, ngân hàng điện tử…
Sở hữu hạ tầng kỹ thuật ngân hàng hiện đại, Vietcombank có lợi thế rõ nét
trong việc ứng dụng công nghệ tiên tiến vào xử lý tự động các dịch vụ ngân
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
21

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
hàng, phát triển các sản phẩm, dịch vụ điện tử dựa trên nền tảng công nghệ cao.
Các dịch vụ: VCB Internet Banking, VCB Money, SMS Banking, VCB Cyber
Bill Payment,…đã, đang và sẽ tiếp tục thu hút đông đảo khách hàng bằng sự tiện
lợi, nhanh chóng, an toàn, hiệu quả, dần tạo thói quen thanh toán không dùng
tiền mặt (qua ngân hàng) cho khách hàng.
Sau gần nửa thế kỷ hoạt động trên thị trường, Vietcombank hiện có
khoảng 11.500 cán bộ nhân viên, với gần 400 Chi nhánh/Phòng Giao dịch/Văn
phòng đại diện/Đơn vị thành viên trong và ngoài nước, gồm Hội sở chính tại Hà
Nội, 1 Sở Giao dịch, 74 chi nhánh và gần 300 phòng giao dịch trên toàn quốc, 3
công ty con tại Việt Nam, 2 công ty con tại nước ngoài, 1 văn phòng đại diện tại
Singapore, 4 công ty liên doanh, 2 công ty liên kết. Bên cạnh đó, Vietcombank
còn phát triển một hệ thống Autobank với khoảng 16.300 máy ATM và điểm
chấp nhận thanh toán thẻ (POS) trên toàn quốc. Hoạt động ngân hàng còn được
hỗ trợ bởi mạng lưới hơn 1.300 ngân hàng đại lý tại 100 quốc gia và vùng lãnh
thổ.
Với bề dày hoạt động và đội ngũ cán bộ có chuyên môn vững vàng, nhạy
bén với môi trường kinh doanh hiện đại, mang tính hội nhập cao…Vietcombank
luôn là sự lựa chọn hàng đầu của các tập đoàn, các doanh nghiệp lớn và của hơn
5,2 triệu khách hàng cá nhân trong và ngoài nước. Bằng trí tuệ và tâm huyết, các
thế hệ cán bộ nhân viên Vietcombank đã, đang và sẽ luôn nỗ lực để
Vietcombank xứng đáng với vị thế là “Ngân hàng hàng đầu vì Việt Nam thịnh
vượng”.
Vietcombank Thành Công, tiền thân là chi nhánh cấp II trực thuộc
Vietcombank Hà Nội, được thành lập theo Quyết định số 525/QĐ/TCCB-ĐT của
Hội đồng quản trị và chính thức khai trương hoạt động ngày 21/12/2001. Đây là
chi nhánh cấp 2 được thành lập đầu tiên so với 4 chi nhánh khác trên địa bàn
( Thăng Long, Chương Dương và Thanh Xuân). Cùng với các chi nhánh trong cả
nước, Vietcombank Thành Công thực sự đã đóng góp đáng kể vào sự lớn mạnh
của cả hệ thống Vietcombank và của ngành ngân hàng trên địa bàn Thủ đô.

SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
22
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm
Ngay từ những ngày đầu thành lập, các cán bộ được giao nhiệm vụ phát
triển mạng lưới và được sự chỉ đạo của Tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam, Vietcombank Thành Công ra đời có trụ sở tại số 30-32 Láng
Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội với đội ngũ cán bộ gồm 21 người. Khu vực này là
khu vực mới phát triển của thành phố, các hoạt động giao dịch kinh doanh tại
đây chưa sầm uất, kinh tế địa bàn còn chưa phát triển. Với số lượng khách hàng
ban đầu còn rất khiêm tốn nhưng tập thể cán bộ lãnh đạo và nhân viên trong chi
nhánh đã rất cố gắng khắc phục khó khăn và đã có những bước tiến vững chắc,
gặt hái được những thành quả cả về quy mô phát triển và chất lượng các dịch vụ
ngân hàng.
Nằm trên địa bàn đường Láng Hạ, quận Đống Đa - một trong 4 quận nội
thành lâu đời nhất của Thủ đô – Chi nhánh Thành công có nhiều thuận lợi trong
việc phát triển kinh doanh hơn so với 3 chi nhánh khác của Vietcombank Hà
Nội. Tuy nhiên, trong những ngày đầu thành lập, do còn nhiều khó khăn nên chủ
trương của Ban lãnh đạo Vietcombank Hà Nội giao cho chi nhánh Thành công
lúc bấy giờ là tập trung vào công tác huy động vốn, cho vay các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, và đẩy mạnh hoạt động ngân hàng bán lẻ.
Chỉ với mô hình 3 phòng ban lúc đầu ( Phòng Tín dụng và Thanh toán
quốc tế, Phòng Kế toán- Dịch vụ ngân hàng, Phòng Hành chính- Ngân quỹ- Tin
học) cùng đội ngũ cán bộ chủ yếu là những cán bộ trẻ, kinh nghiệm công tác
chưa nhiều, nhưng với sự nỗ lực hết mình cùng sự đoàn kết, Vietcombank Thành
Công đã cùng nhau hoàn thành tốt các chỉ tiêu Ban Giám đốc Vietcombank Hà
Nội giao; đồng thời thực hiện tốt công tác quản bá, giới thiệu tới khách hàng các
dịch vụ, sản phẩm của Vietcombank.
Đến cuối năm 2005, sau 4 năm hoạt động, tổng huy động vốn cảu
Vietcombank Thành Công đã đạt hơn 1.777 tỷ đồng, dư nợ tín dụng đạt trên 691
tỷ đồng, lực lượng nhân sự đã tăng lên 62 người, góp một phần rất quan trọng

vào kết quả chung của Vietcombank Hà Nội trong giai đoạn này. Đây cũng là
giai đoạn tiền đề quan trọng để Vietcombank Thành Công phát huy và phát triển
trong những năm tiếp theo.
SV: Bùi Thị Thùy Linh Lớp: Thị trường chứng khoán 50
23

×