Đề bài:
Đồng chí hãy rút ra 3 bài học tâm đắc nhất sau khi khi học xong học
phần Tâm lý học ứng dụng trong tổ chức và quản lý giáo dục. Liên hệ những
bài học đó vào thực tiễn?
1
Bài làm
Mở đầu
Từ khi nước ta chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN, mở cửa và hội
nhập thì việc đổi mới và nâng cao hoạt động quản lí đã trở thành nhiệm vụ bức
xúc. Hoạt động quản lí đã trở thành một trong những yếu tố có tầm quan trọng
hàng đầu đối với việc phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Đã đến lúc chúng ta
cần phải nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lí, nâng cao hiệu quả hoạt
động của các tổ chức trong mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội.
Những yêu cầu trên đã đặt ra cho chúng ta cần phải nghiên cứu về tâm
lí của những người lãnh đạo, những người dưới quyền… trong tổ chức. Bởi
lẽ mỗi con người, mỗi tổ chức xã hội là một thế giới tâm lí rất phức tạp và
phong phú. Thế giới tâm lí này là động lực nội tâm chi phối từ nhận thức
đến hành vi của các chủ thể.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn đó cộng với tâm thế ham học hỏi,
tìm tòi những học viên cao học quản lý giáo dục đã được học tập và nghiên
cứu học phần Tâm lý học ứng dụng trong tổ chức và quản lý giáo dục do
GS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc trực tiếp giảng dạy. Trong khoảng thời gian
không nhiều chúng tôi đã được học tập những nội dung cơ bản sau:
Phần thứ nhất: Hành vi cá nhân trong tổ chức. Gồm có 4 chương:
Chương 1. Sự khác biệt cá nhân trong tổ chức: Nhân cách, thái độ, năng
lực, cảm xúc
Chương II. Tri giác và quy kết (phán quyết về người khác)
Chương III. Động cơ
Chương IV. Nâng cao hiệu quả công tác trên cơ sở thông tin phản hồi
và khen thưởng
2
Phần thứ hai: Nhóm và các quá trình xã hội. Gồm có 4 chương:
Chương V. Nhóm
Chương VI. Quyền lực, Chính trị, Xung đột, Thương thảo
Chương VII. Quyết định cá nhân và quyết định nhóm
Chương VIII. Đội công tác
Phần thứ ba: Các quá trình tổ chức. Gồm có 4 chương:
Chương IX. Giao tiếp trong tổ chức
Chương X. Biến đổi hành vi tự quản lý
Chương XI. Lãnh đạo
Chương XII. Quản lý sự căng thẳng
Qua quá trình học tập, trao đổi, chia sẻ và trải nghiệm những kiến thức
trên bản thân tôi đã tự rút ra cho mình một số bài học sâu sắc và ý nghĩa. Đây
sẽ là những phương pháp luận thiết thực cho tôi vận dụng vào công tác quản lý
của mình cũng như quá trình học tập và nghiên cứu sau này. Nội dung cụ thể
của những bài học đó như sau:
1. Bài học thứ nhất: Người cán bộ quản lý cần hiểu biết rõ các thuộc tính
tâm lí và những khác biệt thứ cấp của những người dưới quyền trong tổ
chức.
Trong hoạt động quản lí, đối tượng mà người lãnh đạo tác động tới
chính là con người - con người với các thuộc tính tâm lí phong phú và phức
tạp. Quản lí về bản chất là quản lí con người và tập thể những con người. Để
hoạt động quản lí có hiệu quả, thì người lãnh đạo nhất thiết phải hiểu biết đối
tượng mà mình tác động vào - con người, tập thể người, tức là hiểu biết các
thuộc tính tâm lí quan trọng của họ.
Khi hiểu biết các thành viên trong tổ chức như một con người, một
nhân cách, một cá tính thì chúng ta sẽ trân trọng hơn sự khác biệt của mỗi cá
nhân, tạo điều kiện cho họ phát huy được năng lực và hạn chế được những
nhược điểm để từ đó sử dụng họ một cách hợp lí nhằm thực hiện các mục
3
đích chung của tổ chức.
Đã có một thời kì dài đất nước ta chìm trong chế độ phong kiến bảo
thủ với nền sản xuất tiểu nông manh mún lạc hậu và sự ngự trị của chủ
nghĩa bình quân, yếu tố cá nhân hầu như không được quan tâm, cá nhân bị
che khuất và nhòe đi trong cộng đồng. Nói cách khác con người với tư cách
là thành viên của cộng đồng không được quan tâm và tạo điều kiện để phát
triển.
Trong cơ chế cũ - cơ chế tập trung bao cấp, yếu tố con người chưa
được chú ý đúng mức. Căn bệnh quan liêu, giáo điều đã làm cho những
người lãnh đạo xa rời quần chúng, không hiểu biết họ, đặc biệt là mỗi cá
nhân với tư cách là chủ thể của một thế giới tâm lí đầy phức tạp. Phong cách
lãnh đạo hành chính, mệnh lệnh đã biến những người bị lãnh đạo thành
những người thừa hành máy móc và thiếu sáng tạo. Trong những năm gần
đây, yếu tố con người đã và đang được chú ý. Những tiềm năng của con
người đã bắt đầu được các nhà lãnh đạo khai thác. Tìm hiểu các thuộc tính
tâm lí của con người và sử dụng chúng đã trở thành yêu cầu đầu tiên đối với
người lãnh đạo trong cơ chế mới, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước hiện nay. Các yếu tố tâm lí của con người được những nhà
lãnh đạo bắt đầu tính đến trong quá trình tổ chức hoạt động của tổ chức,
trong việc đề ra các chủ trương và biện pháp quản lí.
Thực tiễn của hoạt động quản lí cho thấy, khi người lãnh đạo nắm
vững các thuộc tính tâm lí của những người lao động thì họ đã nắm được
chìa khóa mở ra những tiềm năng mới trong việc nâng cao năng suất và chất
lượng lao động. Khi người lãnh đạo coi nhẹ những hiểu biết đó sẽ dẫn đến
chỗ thiếu tin tưởng vào khả năng sáng tạo của mọi người, việc tổ chức sinh
động lại thay bằng những biện pháp hành chính, mệnh lệnh.
4
2. Bài học thứ hai: Người cán bộ quản lý cần quan tâm và tác động vào
đúng nhu cầu, động cơ của người dưới quyền trong tổ chức.
Đối với người lãnh đạo, nhu cầu của các cá nhân nổi lên như một trong
những vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Bởi vì, nhu cầu có vai trò hết sức
quan trọng đối với hoạt động của con người. Con người không thể tồn tại mà
thiếu nhu cầu, trước hết là những nhu cầu vật chất tối thiểu như ăn, mặc, ở. K.
Mác viết: "Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới làm ra lịch sử. Nhưng
muốn sống được thì trước hết phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo". Sự
thoả mãn nhu cầu là động lực thúc đẩy hoạt động của mỗi cá nhân và tập thể.
Nhu cầu quy định xu hướng lựa chọn ý nghĩ, tình cảm và ý chí của con người.
Mặt khác, nhu cầu quy định và tích cực hoá hoạt động của con người. Chính vì
vậy người cán bộ quản lý cần hiểu rõ nhu cầu của từng thành viên trong tổ
chức để có những biện pháp tác động phù hợp đem lại hiệu quả cao.
Cùng với yếu tố nhu cầu, động cơ là một yếu tố tâm lí quan trọng của
những người thừa hành mà người lãnh đạo cần hiểu và nắm được để biến nó
trở thành động lực làm việc của các thành viên trong tổ chức.
Động cơ là cái thúc đẩy hành động, gắn liền với việc thoả mãn nhu
cầu của chủ thể, là toàn bộ những điều kiện bên trong và bên ngoài có khả
năng khơi dậy tính tích cực của chủ thể.
Động cơ là nguyên nhân, là cơ sở của sự lựa chọn hành động của các
cá nhân và nhóm trong tổ chức. Động cơ của con người gắn liền với nhu cầu
và được hình thành từ nhu cầu. Khi nhu cầu gặp đối tượng và có điều kiện
thoả mãn thì trở thành động cơ của chủ thể.
Việc tìm hiểu để nắm được động cơ làm việc của người lao động và
tạo điều kiện hiện thực hoá những động cơ chính đáng của họ là một yêu
cầu trong hoạt động quản lí của người lãnh đạo. Người lãnh đạo phải biết
phát hiện ra được những động cơ bức xúc, quan trọng nhất đối với người lao
5
động để giúp họ thực hiện nếu động cơ đó phù hợp với lợi ích của tổ chức
và xã hội. Khi tìm hiểu động cơ làm việc của người lao động, người lãnh
đạo cần phân biệt những động cơ nào là chính đáng và động cơ nào là chưa
chính đáng. Động cơ làm việc chính đáng là động cơ kết hợp một cách hài
hoà giữa lợi ích của cá nhân và lợi ích của tập thể, ở phạm vi rộng hơn, nó
phải hài hoà với lợi ích của xã hội. Động cơ làm việc không chính đáng là
động cơ chỉ xuất phát từ lợi ích của cá nhân mà không phù hợp với lợi ích
chung của tổ chức. Nó mang tính "vụ lợi" rõ rệt.
3. Bài học thứ ba: Để trở thành một người cán bộ quản lý tốt ngoài trình
độ, năng lực, phẩm chất tốt người cán bộ quản lý cần có uy tín. Tuy nhiên
để bảo toàn và nâng cao được uy tín tổ chức thì người lãnh đạo phải tự tạo ra
được uy tín cho cá nhân bằng chính nhân cách lãnh đạo của mình bằng con
đường gây dựng những biện pháp nâng cao uy tín cu thể như sau:
Một là: uy tín là “hữu xạ tự nhiên hương” để có được điều đó mỗi cán bộ
quản lý cần rèn luyện phẩm chất, năng lực theo yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Hai là: Tự kiểm tra tự phê bình và dựa vào sự phê bình để tìm ra
nguyên nhân mất uy tín hoặc suy giảm uy tín từ đó có chương trình cụ thể sửa
chữa khuyết điểm xây dựng lại củng cố lại uy tín.
Ba là: Rèn luyện uy tín cá nhân người lãnh đạo không tách rời việc bảo
vệ uy tín của tổ chức, uy tín của tập thể và ngược lại tập thể có trách nhiệm
bảo vệ giữ gìn uy tín của tập thể đó.
Bốn là: Muốn gây dựng và nâng cao uy tín phải thật sự hiểu mình hiểu
người bị điều kiển, điều chỉnh mình để nâng cao uy tín của tổ chức của lãnh
đạo cấp trên, của dân tộc, của lãnh tụ.
Phải giữ được đạo đức phẩm chức cách mạng lối sống lành mạnh giản
dị gắng bó với quần chúnh nhân dân.
4. Bài học thứ 4. "Chọn đúng người, giao đúng việc”. Tư chất, năng lực,
năng khiếu, đó là những tiềm năng hiện thực ở mỗi cá nhân. Việc phát hiện
6
ra tư chất, phát triển năng lực và hình thành năng khiếu của mỗi người là
nhiệm vụ của những người lãnh đạo và tổ chức. Với những người lãnh đạo,
khi phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong tập thể mình, cần nắm
được tư chất và năng lực của họ, cần tính đến các yếu tố đó để giao nhiệm
vụ cho phù hợp có như vậy mới khai thác được tiềm năng ở mỗi con người,
tạo điều kiện cho họ hoàn thành tốt công việc.
7
Kết luận
Cùng với những kiến thức Tâm lý học nói chung kiến thức Tâm lý học
ứng dụng trong tổ chức và quản lý giáo dục nói riêng có ý nghĩa thực tiễn và
lý luận rất lớn trong công tác lãnh đạo quản lý ngành giáo dục.
Về mặt nhận thức, Tâm lý học ứng dụng trong tổ chức và quản lý giáo
dục cung cấp tri thức về các đặc điểm, các quy luật chung của tâm lý con
người, đặc biệt trong các hệ thống lãnh đạo - quản lý giúp cho các chủ thể của
những quá trình này những cơ sở nhận thức để tiến hành công việc một cách
có hiệu quả tránh được những sai lầm không đáng có. Sự am hiểu tâm lý học
lãnh đạo - quản lý là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý
giáo dục và đào tạo. Trong tình hình hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề khó khăn và
phức tạp. Do đó, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải xây dựng được một đội
ngũ cán bộ ngang tầm là yêu cầu bức xúc góp phần thực hiện 2 nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN, vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Đối với bản thân, nhờ học môn Tâm lý học ứng dụng trong tổ chức và
quản lý giáo dục mà tôi am hiểu được tâm lý của đối tượng quản lý, từ đó mà
bố trí sắp sếp công việc phù hợp hơn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong
công lãnh đạo quản lý. Mặt khác, cũng nhờ kiến thức tâm lý học về nhân cách
người lãnh đạo quản lý mà bản thân có cách nhìn đúng đắn hơn về mình, từ
đó biết điều chỉnh nhược điểm, phát huy những ưu điểm nhằm hoàn thiện
hơn. Cũng nhờ Tâm lý học ứng dụng trong tổ chức và quản lý giáo dục bản
thân đã học tập được những đặc điểm tâm lý từ đó xây dựng được mối gắn bó
đoàn kết trong cơ quan, đơn vị mình.
8