Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam – chi nhánh sóc sơn – hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.42 KB, 92 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Hoàng Sỹ Thắng, học viên cao học lớp khóa 6, chuyên
ngành Tài chính – Ngân hàng, trường Đại học kinh doanh và Công
nghệ Hà Nội, khoá 2011 – 2013.
Bản luận văn này được thực hiện dưới sự hướng dẫn của thầy
giáo: PGS.TS. Mai Văn Bạn. Tôi xin cam đoan công trình này
được nghiên cứu một cách nghiêm túc, độc lập và các số liệu, tư
liệu, kết quả có nguồn gốc rõ ràng.
Tôi xin chịu trách nhiệm những vấn đề liên quan về nội dung
công trình này.
H N i, ng y tháng à ộ à n m 2013ă
Tác gi ký tênả
Ho ng S Th ngà ỹ ắ
1
MỤC LỤC
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHNo&PTNT VN Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
NHNo&PTNT VN-
chi nhánh Sóc Sơn
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam- chi nhánh Sóc Sơn
CIC Trung tâm thông tin tín dụng
DAĐT Dự án đầu tư
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
NHTW Ngân hàng Trung Ương
KTĐN Kinh tế đối ngoại
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTMCP Ngân hàng thương mại Cổ phần
PGD Phòng giao dịch
TSCĐ Tài sản cố định


DPRR Dự phòng rủi ro
3
DANH MỤC BẢNG BIỂU
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Hoạt động tín dụng của ngân hàng là hoạt động truyền thống mang lại
nguồn lợi nhuận chủ yếu cho các Ngân hàng Thương mại. Tuy nhiên tín dụng
ngân hàng luôn hàm chứa nhiều rủi ro và nếu xẩy ra rủi ro nó có tác động rất
lớn tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại. Đối với hầu hết các
ngân hàng thương mại, dư nợ tín dụng thường chiếm tới khoảng 60% tổng tài
sản có và thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng từ 60-70% tổng thu nhập của
ngân hàng. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu
vào danh mục tín dụng.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sóc Sơn
hình thành và phát triển hơn 25 năm, tuy nhiên quy mô cơ cấu và địa bàn hoạt
động tín dụng của Chi nhánh chưa tương xứng với bề dày lâu đời của mình.
Tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sóc Sơn hiện
nay cấp tín dụng chủ yếu là cho vay, tuy nhiên chất lượng tín dụng còn thấp.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, yêu cầu đặt ra là phải kiểm soát tăng
trưởng tín dụng đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn
trong hoạt động tín dụng. Với kinh nghiệm tích luỹ được từ thực tế công tác
tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sóc
Sơn, kết hợp với những kiến thức và lý luận được trang bị trong khoá học đào
tạo Thạc sỹ tại Trường Đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội, Tôi đã
chọn đề tài “Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi Nhánh Sóc Sơn – Hà Nội”
làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sỹ của mình.
1
2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm giải quyết những vấn đề sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng của
ngân hàng thương mại.
- Phân tính, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng của Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sóc Sơn, từ đó phát hiện
những điểm còn hạn chế còn tồn tại về chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Sóc
Sơn, tìm hiểu nguyên nhân.
- Trên cơ sở tìm hiểu được nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong
chất lượng tín dụng của Chi nhánh Sóc Sơn, đề xuất quan điểm và giải pháp
cơ bản để nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sóc Sơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu chất lượng tín dụng của ngân hàng
thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu chất lượng tín dụng tại Chi nhánh
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sóc Sơn, thời gian
từ 2010 - 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nắm được một cách đầy đủ về thực trạng, người viết tiến hành thực
hiện các cuộc khảo sát sau :
- Khảo sát thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sóc Sơn để đánh giá đúng
thực trạng tín dụng đã và đang thực hiện. Sử dụng các phương pháp hệ thống,
phân tích, so sánh để thực hiện luận văn.
2
- Thảo luận với một số nhà quản lý, kiểm soát viên nội bộ và cán bộ tín
dụng làm việc lâu năm tại Hội sở và Phòng Giao dịch như: Ban Giám đốc,
Trưởng phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ, Phó Trưởng phòng tín dụng, Giám
đốc Phòng giao dịch…để đúc kết được những thông tin xác thực và trọng yếu.
- Tổng hợp và phân tích các bài viết,các báo cáo từ các tạp chí của

NHNN, chuyên đề nghiên cứu trao đổi của NHNN qua các năm, các tạp chí
tài chính, kinh tế, các bài viết trên website của các Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch
đầu tư, Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro…: về tín dụng ngân hàng
- Tổng hợp, hệ thống lại các Nghị định, Thông tư, Chỉ thị, Quy chế…
của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành và đang có hiệu lực thi
hành; Các chỉ thị, Quy chế, Hướng dẫn thực hiện của Ngân hàng No&PTNT
Việt nam đã ban hành và đang có hiệu lực thi hành.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài được bố cục làm 03
chương:
- Chương 1: Những cơ sở lý luận về tín dụng và chất lượng tín dụng
của ngân hàng thương mại
- Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Việt
Nam -Chi nhánh Sóc Sơn trong thời gian qua.
- Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng tín dụng tại
NHNo&PTNT Việt Nam - Chi nhánh Sóc Sơn.
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT
LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm và vai trò của tín dụng NHTM
1.1.1. Khái niệm về tín dụng Ngân hàng thương mại
Tín dụng là một phạm trù kinh tế, bản chất của tín dụng là quan hệ vay
mượn có hoàn trả cả lãi và vốn sau một thời gian nhât định, là quan hệ chuyển
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ được duy trì trên cơ sở thoả
thuận bình đẳng và cùng có lợi giữa người đi vay và người cho vay.
Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản cho thấy tín dụng nặng lãi
không còn phù hợp nữa, nó cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Bởi các nhà
tư bản kinh doanh với mục đích lợi nhuận không thể vay với lãi suất cao hơn
tỷ suất lợi nhuận.

Vậy tín dụng Ngân hàng là gì ?
“Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là
Ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên
là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Trong đó Ngân hàng giữ vai trò
vừa là người cho vay vừa là người đi vay”
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu của nền kinh tế thị trường, nó luôn
luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp
thời.
NHTM là một định chế tài chính có vai trò vô cùng quan trọng đối với
nền kinh tế - xã hội, vậy NHTM là gì:
Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
khoá 12 thông qua ngày 16/06/2010, tại khoản 2, điều 4: " Ngân hàng thương
4
mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi
nhuận ". (cũng theo luật này thì Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp
được thành lập theo qui định của luật này và các qui định khác của pháp luật
để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường
xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch
vụ thanh toán).
Nhưng một vấn đề đặt ra là liệu những người thiếu vốn và những người
thừa vốn có gặp nhau không? Và trong nền kinh tế thị trường hàng ngày hàng
giờ diễn ra không biết bao nhiêu là mối quan hệ như vậy? Nó đã hình thành
nên: Một bên là những người có tiền tích luỹ, có khả năng cung cấp và phía
bên kia là những người có nhu cầu vay cho đằu tư và phát triển. Như vậy nảy
sinh một vấn đề là làm thế nào để họ có thể tìm gặp đượcnhau và làm thế nào
để cùng một lúc thoả mãn được nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các
nguồn tiết kiện còn đang nằm phân tán trong xã hội. Do đó các NHTM với
chức năng là trung gian tài chính,hoạt động như một chiếc cầu nối giữa khả
năng cung ứng và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội. Đồng thời với tư cách

là trung gian tín dụng Ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên
là người có tiền cho vay và một bên là người có nhu cầu vay vốn. Thông qua
cơ chế thị trường bằng những biện pháp kinh tế năng động và áp dụng các
phương pháp kỹ thuật theo hướng hiện đại tiên tiến. Ngân hàng có khả năng
thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ tiết kiện dự trữ trong xã hội để
chuyển giao đúng nơi đúng lúc cho người vay.
1.1.1.1 Khái niệm huy động vốn
Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động ra đời sớm nhất
của NHTM dưới hình thức ban đầu là nhận giữ hộ tiền. Ngày nay, hoạt động
huy động vốn của NHTM được diễn ra duới nhiều hình thức khác nhau như
5
mở tài khoản tiền gửi thanh toán để ngân hàng thực hiện thanh toán hộ khách
hàng, tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm của dân cư,
phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, đi vay các ngân hàng và TCTD khác, vay
NHNN…
Huy động vốn đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra nguồn vốn cho
hoạt động của NHTM.
Huy động vốn có các hình thức cơ bản sau:
+ Huy động vốn tiền gửi: Huy động theo hình thức này chủ yếu là tiền gửi
của dân cư và tổ chức dưới hình thức có kỳ hạn (chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm của
dân cư, tiền gửi chờ thanh toán của tổ chức) và không kỳ hạn (tiền gửi thanh
toán của tổ chức). Đây là nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
tổng nguồn vốn huy động vốn nợ của NHTM.
+ Huy động từ phát hành các công cụ nợ: chủ yếu là phát hành kỳ phiếu
và trái phiếu. Kỳ phiếu dùng chủ yếu huy động vốn ngắn hạn cho các NHTM.
Trái phiếu phát hành để huy động vốn trung - dài hạn cho NHTM. Hình thức
huy động thông qua các công cụ nợ này mang tính ổn định hơn, làm tăng khả
năng huy động vốn của NHTM trong thời gian ngắn và hoàn toàn chủ động
trong sử dụng nguồn vốn.
+ Huy động từ vay các NHTM: các NHTM thực hiện việc đi vay nhằm

điều hoà vốn trong toàn hệ thống, tăng dự trữ đảm bảo tốt khả năng thanh
khoản của NHTM. Việc huy động vốn thông qua hình thức này thường đơn
giản và nhanh gọn có thể vay trực tiếp, vay qua Ngân hàng đại lý (hoặc
NHTW) và khoản vay thường không có bảo đảm (nếu có thường là chứng
khoán của kho bạc).
1.1.1.2 Khái niệm cho vay (cấp tín dụng)
Hoạt động Tín dụng (Credit) được xuất phát từ tiếng Latinh là credo tức là
tin tưởng, tín nhiệm. Trong thực tế hoạt động tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà mỗi cách hiểu có một nội dung riêng.
Trong quan hệ tài chính - tín dụng có thể được hiểu theo một số nghĩa như sau:
- Xét theo góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể có thặng dư tiết
6
kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì hoạt động tín dụng được coi là
phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
- Trong một quan hệ tài chính cụ thể, hoạt động tín dụng là một giao
dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
- Xét trên góc độ quan hệ giữa bên cho vay và bên đi vay thì hoạt động
tín dụng có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp
cho khách hàng.
- Nếu hoạt động tín dụng được xem xét như một chức năng của NHTM
thì được hiểu như sau: Hoạt động Tín dụng là một hoạt động giao dịch về tài
sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài
chính khác nhau) và bên bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể
khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên vay sử dụng trong
một khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm
hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Bản chất hoạt động tín dụng là một hoạt động quan hệ về tài sản có hoàn trả
và có một số đặc trưng cơ bản sau:
+ Tài sản trong quan hệ tín dụng Ngân hàng dưới hai hình thức là bằng
tiền và bằng tài sản Bất động sản hay động sản.

+ Vì phải hoàn trả nên người cho vay phải có cơ sở tin tưởng rằng
người đi vay sẽ hoàn trả đúng hạn (tín nhiệm hay tài sản ràng buộc nghĩa vụ
của Người vay đối với người cho vay).
+ Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói
cách khác người đi vay phải hoàn trả cả vốn gốc vay và lãi (đủ đảm bảo cho
hoạt động của người cho vay bù đắp chi phí và có được mức lợi nhuận nhất
định tương xứng với rủi ro mà NHTM có thể gánh chịu).
Các nguyên tắc cơ bản trong cho vay của NHTM
Nguyên tắc cho vay của NHTM đối với khách hàng bao gồm 2 nguyên
tắc cơ bản sau:
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích: Nghĩa là khách hàng
7
vay vốn phải sử dụng vốn vay vào những mục đích hợp pháp như trong giấy
phép đăng ký kinh doanh, theo những đối tượng được cơ chế cho phép. Có
như vậy vốn vay mới có cơ sở tạo ra hiệu quả, có điều kiện trả nợ ngân hàng.
- Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn: Đảm
bảo tính thanh khoản trong hoạt động là mục đích tối thượng của các NHTM,
bởi lẽ vốn của NHTM cho vay có nguồn gốc chủ yếu là vốn huy động (đi
vay). Vì vậy, ngân hàng phải hoàn trả vốn cho khách hàng cho mình vay đúng
hạn. Hơn nữa ngân hàng cũng phải chi phí trong cho vay, nộp thuế và phát
triển kinh doanh
1.1.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM. Lãi
thu được từ hoạt động tín dụng bù đắp được chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ,
chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, thuế và các khoản chi phí
rủi ro đầu tư của ngân hàng. Hơn thế, thông qua hoạt động tín dụng, NHTM
khẳng định vai trò quan trọng của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế,
đối với sự phát triển của các doanh nghiệp.
1.1.2.1. Vai trò của huy động vốn
- Vai trò đối với khách hàng

Đối với khách hàng, hoạt động huy động vốn cung cấp cho khách
hàng một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho những khoản tiền của họ
được sinh lợi, tạo cơ hội cho họ gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Ngoài
ra, nó cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để cất trữ và tích lũy vốn
tạm thời nhàn rỗi, giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ
ngân hàng khác như dịch vụ thanh toán, tín dụng…
- Vai trò đối với NHTM
Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình. Bởi vì
với đặc trưng hoạt động của NHTM, vốn không chỉ là phương tiện kinh
8
doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Chính vì vậy có thể nói
vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng. Do đó, ngoài
nguồn vốn ban đầu cần thiết thì ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới
việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Thứ nhất: Nguồn vốn huy động có ảnh hưởng trực tiếp đến qui mô hoạt
động của các ngân hàng.
Nguồn vốn khả dụng của ngân hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở
rộng hay thu hẹp tín dụng, hoạt động bảo lãnh hay trong hoạt động thanh toán
của ngân hàng. Nếu khả năng vốn của ngân hàng lớn thì ngân hàng có thể mở
rộng qui mô khối lượng tín dụng, có thể tài trợ cho các dự án lớn (về qui mô
tín dụng, về thời hạn tín dụng…) và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng
về các dịch vụ của ngân hàng.
Thứ hai: Nguồn vốn huy động giúp ngân hàng chủ động trong kinh doanh.
Trong cơ cấu vốn của ngân hàng thì ngoài phần vốn tự có thì còn có vốn
huy động, vốn vay và các nguồn vốn khác. Một ngân hàng không thể chỉ hoạt
động với nguồn vốn tự có vì vốn tự có của ngân hàng chỉ chiếm một tỷ trọng
nhỏ trong tổng cơ cấu vốn của ngân hàng. Nguồn vốn lớn làm tăng khả năng
hoạt động của ngân hàng như chủ động đa dạng hoá các hình thức và phương
thức hoạt động nhằm phân tán rủi ro và tăng lợi nhuận, phục vụ cho mục tiêu
cuối cùng của ngân hàng là an toàn và sinh lời.

Thứ ba: Vốn huy động giúp ngân hàng nâng cao vị thế của mình.
Để đảm bảo cho việc thu hút khách hàng đến quan hệ giao dịch với mình
thì ngân hàng phải tạo được niềm tin với khách hàng. Điều này được thể hiện
ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng. Khả năng thanh toán của
ngân hàng cao chỉ khi ngân hàng có nguồn vốn khả dụng lớn. Mặt khác uy tín
của ngân hàng còn thể hiện ở khả năng cho vay và đầu tư của ngân hàng.
9
Ngân hàng chỉ có thể cho vay những dự án lớn, thời hạn dài nếu như ngân
hàng có nguồn vốn lớn và ổn định- Điều này phụ thuộc vào khả năng huy
động vốn của ngân hàng.
Thứ tư: Vốn huy động quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Để có thể chiến thắng trong cạnh tranh, ngoài việc phải có chiến lược cạnh
tranh hợp lý thì yếu tố vế khả năng tài chính luôn giữ vai trò quyết định cuối
cùng. Nếu ngân hàng có nguồn vốn khả dụng lớn thì có thể chủ động mở rộng
quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế cả về qui mô, khối lượng tín
dụng, chủ động về thời gian và thời hạn cho vay thậm chí trong việc điều
chỉnh lãi suất cho vay để thu hút khách hàng. Ngoài ra ngân hàng còn có thể
phát triển thêm nhiều loại hình dịch vụ mới, tham gia vào nhiều các hoạt động
khác như liên doanh liên kết. đầu tư trên thị trường vốn, trên thị trường tiền
tệ… Bằng chính những hoạt động này sẽ góp phần phân tán rủi ro, thu hút
được nhiều khách hàng, mở rộng thị phần, nâng cao khả năng cạnh tranh của
ngân hàng… Từ đó sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
- Vai trò đối với nền kinh tế
Tiết kiệm và đầu tư là những cơ sở nền tảng của nền kinh tế. Tiết kiệm và
đầu tư có mối quan hệ nhân quả, tiết kiệm góp phần thúc đẩy, mở rộng phát
triển sản xuất kinh doanh, tăng cường đầu tư và đầu tư cũng góp phần khuyến
khích tiết kiệm. Nhưng trong nền kinh tế các khoản tiết kiệm thường nhỏ, lẻ
và người tiên phong trong việc tập hợp vốn hiệu quả nhất chính là các
NHTM. Thông qua các kênh huy động vốn, các khoản tiết kiệm chuyển thành
đầu tư góp phần làm tăng hiệu quả của nền kinh tế.

Việc huy động vốn của ngân hàng giúp cho nền kinh tế có được sự cân đối
về vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các cơ hội đầu tư luôn có điều kiện
để thực hiện. Quá trình tái sản xuất mở rộng sẽ được thực hiện dễ dàng hơn
10
với việc huy động vốn của các NHTM. Tuy việc huy động vốn có thể thực
hiện bằng nhiều kênh: thị trường chứng khoán, ngân sách nhà nước nhưng
trong điều kiện nước ta hiện nay thì huy động vốn qua hệ thống NHTM vẫn là
hình thức chủ yếu và quan trọng nhất.
1.1.2.2. Vai trò của cho vay (Cấp tín dụng)
- Vai trò đối với khách hàng
Với tư cách là trung tâm tín dụng, các NHTM có vai trò rất quan trọng
trong việc tích tụ và tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi nằm rải rác
trong dân cư đáp ứng nhu cầu vốn cho các khách hàng trong nền kinh tế để
thực hiện tái sản xuất theo chiều rộng và chiều sâu. Đặc biệt, đối với Việt
Nam hiện nay khi thị trường vốn chưa phát triển đầy đủ, nguồn vốn tín dụng
ngân hàng luôn là chỗ dựa cho các doanh nghiệp khi cần vốn
Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mang tính chất toàn
cầu, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đã chuyển từ giá cả sản phẩm sang
chất lượng và mẫu mã sản phẩm. Để đi vào cuộc tranh đua có tính chất toàn
cầu này, giữa hàng nội với hàng nội, giữa hàng nội với hàng ngoại đòi hỏi các
doanh nghiệp phải luôn đổi mới công nghệ, bắt kịp tốc độ phát triển công
nghệ của thế giới, đầu tư mở rộng sản xuất. Đối với các doanh nghiệp ở nước
ta, đổi mới công nghệ là những đòi hỏi cần thiết để tồn tại và phát triển. Vấn
đề quyết định công nghệ là vốn đầu tư do vậy cần có vai trò của các NHTM.
NHTM có thể huy động nguồn vốn trung dài hạn để cho vay, tài trợ cho hoạt
động đổi mới công nghệ, thiết bị sản xuất cho doanh nghiệp, nâng cao khả
năng cạnh tranh cho danh nghiệp.
Khi doanh nghiệp muốn tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng, doanh
nghiệp phải hoạt động kinh doanh hiệu quả, sử dụng tối ưu những đồng vốn
của mình. Bởi, vốn của NHTM vận động vì mục đích lợi nhuận theo công

11
thức T-T’ và T’ luôn lớn hơn T do T=T’+ΔT, ΔT>0. Điều này chỉ ra rằng
trong mối quan hệ này khách hàng vay vốn cũng buộc phải sử dụng tiền vay
vì mục đích lợi nhuận, vì chỉ có sinh lợi mới tạo ra lợi nhuận cho bản thân
mình và lợi tức cho ngân hàng. Do đó, tín dụng ngân hàng góp phần làm cho
doanh nghiệp phải tự điều chỉnh hoạt động kinh doanh theo xu hướng hiệu
quả, tiết kiệm chi phí, sử dụng những công nghệ tiên tiến, hiện đại, từ đó nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Và khi các doanh nghiệp trong
nước có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trong việc
cung cấp hàng hoá, dịch vụ thì quốc gia sẽ có khả năng cạnh tranh với các
quốc gia khác trong cùng khu vực và thế giới, tạo tiếng nói có trọng lượng đối
với thế giới.
- Vai trò đối với nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng góp phần đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Ngân hàng hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp chuyển đổi ngành nghề kinh
doanh, từ ngành đang bị kìm hãm phát triển sang ngành sản xuất đang được
ưu tiên, chú trọng phát triển. Đồng thời, tín dụng ngân hàng góp phần thúc
đẩy những doanh nghiệp đang ở ngành sản xuất mũi nhọn cần chú trọng phát
triển đầu tư mở rộng sản xuất, đáp ứng yêu cầu phát triển của Nhà nước.
Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng đã thực hiện sự phân phối lại vốn giữa
các ngành phù hợp với yêu cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế quốc dân một
cách hiệu quả, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tín dụng ngân hàng còn góp phần vào việc bình
quân hoá tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành kinh tế khác nhau một cách hợp lý.
Chính sách tiền tệ là một công cụ quan trọng để Chính phủ điều tiết nền
kinh tế vĩ mô. Thông qua việc kiểm soát hoạt động tín dụng của các ngân
hàng thương mại bằng các công cụ như lãi suất, tỷ lệ chiết khấu, quy mô tín
dụng, cơ cấu tín dụng…, Chính phủ có thể kiểm soát chặt chẽ luồng tiền trong
12
lưu thông, quyết định mức cung tiền phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế,

kiềm chế lạm phát và ổn định sức mua của đồng tiền. Như vậy, thông qua
hoạt động tín dụng của các NHTM, Ngân hàng nhà nước điều tiết nền kinh tế.
Đồng thời, vốn tín dụng là một kênh vốn quan trọng cho doanh nghiệp, cá
nhân, hộ kinh doanh, đặc biệt ở những nước có hệ thống tài chính do hệ thống
ngân hàng chi phối như ở nhiều nước ở Châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung
Quốc…v.v.) và Việt Nam.
1.2 KHÁI NIỆM VÀ CÁC CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH CHẤT LƯỢNG TÍN
DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm và các tiêu chí phản ánh chất lượng nguồn vốn huy động
1.2.1.1. Khái niệm
Chất lượng luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các doanh
nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một
định nghĩa thống nhất nào về chất lượng.
Theo nhà kinh tế học của Mỹ Juran, chất lượng là sự phù hợp với mục
đích sử dụng.
Theo tiêu chuẩn ISO 9000-2000, chất lượng là toàn bộ các đặc tính của
sản phẩm, hệ thống, quá trình đáp ứng yêu cầu của khách hàng và các bên có
liên quan.
Theo Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO, “ Chất lượng là tổng thể
các đặc điểm và đặc tính của một sản phẩm hoặc dịch vụ có ảnh hưởng đến
khả năng thoả mãn được những nhu cầu được nêu ra” (trích 1987/ISO8402).
Là một tổ chức kinh tế trong nền kinh tế, các NHTM cũng rất quan tâm
đến chất lượng hoạt động kinh doanh của mình, trong đó đặc biệt quan tâm
đến chất lượng tín dụng. Chất lượng huy động vốn là một phạm trù kinh tế
13
phản ánh các đặc tính của tín dụng, thể hiện mức độ đáp ứng yêu cầu của các
khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng yêu cầu
phát triển của ngân hàng trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Như vậy Chất lượng huy động vốn được hiểu gắn liền với nhiều góc độ
xem xét, nhìn nhận trên nhiều phương diện khác nhau từ nguời khách hàng,

NHTM, xã hội:
- Khách hàng gửi tiền: thể hiện sự đáp ứng tốt về Lãi suất huy động,
về tính thanh khoản khi khách hàng rút tiền gửi đến hạn, trước hạn.
- Nền kinh tế: Thúc đẩy được sự tăng trưởng kinh tế cả về tốc độ, cơ
cấu ngành trong nền kinh tế và đảm bảo góp phần kiềm chế lạm phát và hỗ trợ
cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế khác của Nhà nước.
- Ngân hàng Thương mại: trước hết ngân hàng có nguồn để đảm bảo
được khả năng an toàn (đảm bảo thu hồi vốn vay đúng hạn đáp ứng tốt khả
năng thanh khoản) và khả năng sinh lợi (đảm bảo thu hồi đủ lãi cho vay và
đồng thời thu hút tốt hơn các dịch vụ khác cho Ngân hàng tạo nguồn thu nhập
cao, ổn định) là mục tiêu quan trọng và mang tính tổng quát nhất. Ta có thể
hiểu thêm cụ thể hơn trong các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của
NHTM.
Vậy có thể hiểu: Chất lượng huy động vốn là chỉ tiêu tổng hợp phản
ánh nguồn vốn tăng trưởng ổn định, đáp ứng kịp thời nhu cầu kinh doanh của
Ngân hàng góp phần đáp ứng vốn cho khách hàng kinh doanh có hiệu quả với
một chi phí hợp lý, đồng thời với ngân hàng góp phần tồn tại và phát triển.
Chất lượng huy động vốn được phản ánh cả chỉ tiêu định tính và định
lượng
1.2.1.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng huy động vốn
Quy mô vốn lớn sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng hoạt động
kinh doanh của mình. Trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thì quy mô vốn
huy động tiền gửi là một bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất và có vai trò quan
trọng hơn cả. Sau khi đã huy động được khối lượng vốn lớn thì điều mà ngân
14
hàng cần quan tâm lúc này là tốc độ tăng trưởng ổn định của nó vì có thể lúc
này quy mô vốn lớn, nhưng sẽ là khó khăn cho ngân hàng khi đưa ra quyết
định cho vay hay đầu tư nếu ngân hàng không kiểm soát, không dự đoán được
xu hướng biến động của dòng tiền rút ra và dòng tiền gửi vào.
Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động được đo lường như sau:

Tốc độ tăng
trưởng nguồn
vốn huy động
= X 100
Chỉ tiêu này cho thấy tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động tại
ngân hàng có ổn định hay không. Nếu nguồn vốn tăng trưởng ổn định trong
thời gian dài sẽ tạo điều kiện cho việc cân đối vốn để phục vụ cho nhu cầu
đầu tư và cho vay nhằm đạt mục tiêu sinh lời. Đây là chỉ tiêu mang tính
định tính về chất lượng nguồn vốn.
Có thể thấy hoạt động huy động vốn không thể có hiệu quả khi mà
nguồn vốn huy động được lại không đạt được quy mô nhất định theo kế hoạch
huy động của ngân hàng, không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho
kinh doanh hay cơ cấu vốn của ngân hàng lại không có sự hợp lý giữa các
nguồn vốn huy động ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, giữa vốn ngoại tệ và vốn
nội tệ. Đối với ngân hàng, do mỗi nguồn vốn có những điểm mạnh, điểm yếu
riêng trong việc khai thác và huy động nên cơ cấu vốn biến đổi sẽ dẫn tới sự
biến đổi trong cơ cấu “đầu ra”: cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo theo sự thay
đổi trong lợi nhuận, rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Cơ cấu nguồn vốn huy
động phụ thuộc không chỉ vào một phần kế hoạch của ngân hàng mà còn chịu
sự tác động của các nhân tố bên ngoài đòi hỏi ngân hàng phải thường xuyên
nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Chi phí huy động vốn là tất cả các khoản chi mà ngân hàng chi ra để
phục vụ cho hoạt động huy động vốn. Nói cách khác là khoản tiền mà ngân
15
hàng phải bỏ ra để có được quyền sử dụng khoản vốn đó. Chi phí huy động
càng cao có nghĩa là lãi suất huy động càng lớn, càng khuyến khích người gửi
tiền vào nhưng nếu chi phí huy động quá cao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi
nhuận của ngân hàng. Các ngân hàng luôn tìm cách để đạt được mục tiêu huy
động càng nhiều vốn với chi phí thấp. Chính vì thế, việc xem xét chi phí trả
lãi cho nguồn vốn huy động và sự biến động của chi phí này luôn được các

ngân hàng quan tâm, là một việc làm thường xuyên trong công tác quản trị
nguồn vốn huy động.
Thành phần cơ bản của chi phí huy động vốn của các ngân hàng thể
hiện ở khoản chi phí trả lãi (trả lãi cho tiền gửi và tiền vay), cùng với khoản
chi phí không dưới dạng lãi suất (chi phí phi lãi) mà ngân hàng phải bỏ ra để
huy động vốn.
Chi phí huy động bình quân được tính như sau:
Chi phí huy động
bình quân =
Chi phí huy động vốn
Tổng nguồn vốn huy động
Chi phí huy động được đánh giá qua chỉ tiêu lãi suất huy động bình
quân, được tính bằng bình quân gia quyền của lãi suất các nguồn theo khối
lượng từng nguồn. Chỉ tiêu huy động bình quân là chỉ tiêu phản ánh chi phí
huy động vốn trung bình của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định, có nghĩa
là để được quyền sử dụng một đồng vốn huy động thì ngân hàng phải bỏ ra
bao nhiêu đồng chi phí để trả cho người sở hữu khoản vốn đó.
1.2.2. Khái niệm và các tiêu chí phản ánh chất lượng cho vay
1.2.2.1. Khái niệm
Chất lượng cho vay là khả năng đáp ứng vốn của NHTM cho hoạt động
kinh doanh của ngân hàng một cách kịp thời đầy đủ và quy mô, loại hình góp
phần sản xuất kinh doanh của khách hàng có hiệu quả, nền kinh tế phát triển
và ngân hàng tồn tại, phát triển.
16
Chất lượng cho vay (cấp tín dụng) được đo bằng chỉ tiêu định tính và
định lượng.
Như vậy chất lượng cho vay luôn được gắn với bối cảnh, điều kiện, tác
dụng của từng lĩnh vực, từng giai đoạn lịch sử cụ thể, đặc biệt là bối cảnh về
kinh tế. Mục tiêu quản lý cáp tín dụng của NHTM là tối đa hoá lợi nhuận của
chủ ngân hàng trên cơ sở đảm bảo an toàn. Như vậy, mục tiêu đảm bảo an

toàn và tăng khả năng sinh lời là hai mục tiêu cơ bản của hoạt động tín dụng
của NHTM. Chất lượng cho vay chính là thước đo mức độ hoàn thành mục
tiêu an toàn và sinh lời của hoạt động tín dụng.
Thông qua chất lượng cho vay, chúng ta có thể đánh giá được mức độ
thích nghi của ngân hàng với môi trường bên ngoài, thấy được tiềm lực cạnh
tranh của ngân hàng để tồn tại và phát triển.
Như vậy, việc nâng cao chất lượng cho vay là một yêu cầu đặt ra rất
cấp thiết đối với một ngân hàng trong mọi thời kỳ phát triển.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay của NHTM
Nhận thức được vai trò của nâng cao chất lượng tín dụng trong hoạt
động kinh doanh, các NHTM luôn tìm cách nâng cao chất lượng cho vay. Tuy
nhiên, để tìm ra được giải pháp nâng cao chất lượng cho vay, NHTM cần phải
xác định được hiện nay chất lượng cho vay của ngân hàng mình đang ở mức
độ nào. Điều này được thể hiện ở những chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay.
- Các chỉ tiêu định tính về chất lượng cho vay.
Chấp hành đầy đủ, nghiêm túc cơ chế cho vay và quy trình cho vay
Đáp ứng kịp thời, đầy đủ về quy mô, cơ cấu cho vay.Góp phần sản xuất kinh
doanh của khách hàng có kết quả. Góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Góp
phần kinh doanh của ngân hàng có thu nhập, tồn tại và phát triển.
- Các chỉ tiêu định lượng về chất lượng cho vay.
17
- Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn
x 100%
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn được hiểu là khoản đến hạn nhưng khách hàng chưa trả
được và phải chuyển sang khoản nợ quá hạn. Những khoản nợ trước khi
chuyển nợ quá hạn thường được ngân hàng trao đổi, bàn bạc với khách hàng
về nguồn trả nợ. Trường hợp, khách hàng có khả năng trả được nợ nhưng hiện

thời chưa có nguồn thu trả nợ ngân hàng, ngân hàng có thể gia hạn nợ đối với
khách hàng. Trường hợp, khách hàng không còn có khả năng tạo nguồn thu
trả nợ ngân hàng, tình hình sản xuất kinh doanh đã rất khó khăn, mất khả
năng thanh toán, ngân hàng buộc phải chuyển nợ quá hạn. Do đó, nguy cơ
ngân hàng mất vốn đối với những khoản nợ quá hạn này rất cao.
Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá chất lượng
tín dụng của một ngân hàng, phản ánh mức độ cho vay của ngân hàng đó đối
với khách hàng có khả năng hoàn trả nợ cao hay thấp. Nếu tỷ lệ này quá cao,
NHTM đang cho vay các khách hàng có khả năng hoàn trả thấp tương đối
lớn.
- Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu =
Nợ xấu
x 100%
Tổng dư nợ
Nợ xấu là các khoản nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 theo Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước.
Tại quyết định này, nợ nhóm 3 đến nhóm 5:
18
Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): Là các khoản nợ
+ Đã quá hạn từ 91 đến 180 ngày
+ Đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ
hạn phân loại vào nhóm 2.
+ Được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không có khả năng trả nợ
đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ ): Là các khoản nợ
+ Đã quá hạn từ 181 đến 360 ngày
+ Đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
+ Đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.

Nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): là các khoản nợ
+ Đã quá hạn trên 360 ngày.
+ Đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu và đã quá hạn trên 90 ngày
trở lên.
+ Đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai và đã quá hạn theo thời
hạn cơ cấu lại lần thứ hai.
+ Đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên (chưa quá hạn và
đã quá hạn).
Nợ xấu là nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5
Như vậy, nợ xấu là những khoản cho vay được đánh giá là có khả năng
tổn thất một phần hoặc toàn bộ gốc và lãi.
Tỷ lệ nợ xấu phản ánh tỷ lệ phần % của các khoản nợ xấu trong tổng dư
nợ cho vay. Cũng như tỷ lệ nợ quá hạn, nếu một NHTM có tỷ lệ nợ xấu cao,
chứng tỏ các khoản nợ xấu đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay
và ngân hàng đó cũng đứng trước nguy cơ bị tổn thất một phần hoặc toàn bộ
gốc và lãi. Do đó, chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt.
- Chỉ tiêu thu lãi từ cho vay
19
Đây là một chỉ tiêu định lượng về chất lượng. Ngân hàng với chất
lượng tín dụng tốt, khách hàng trả nợ gốc và lãi đầy đủ, phát triển tín dụng có
kiểm soát, tổng lãi cho vay mà ngân hàng thu được sẽ cao.
Tuy nhiên, để có thể đo lường chính xác hơn nữa chất lượng tín dụng từ
chỉ tiêu này, người ta còn quan tâm đến chỉ tiêu:
Thu lãi từ cho vay so với tổng thu nhập
Tỷ lệ % =
Thu lãi từ cho vay
x 100%
Tổng thu nhập
Chỉ tiêu này phản ánh thu nhập từ cho vay chiếm bao nhiêu % trong
tổng thu nhập. Tỷ trọng này càng lớn càng chứng minh khả năng sinh lời từ

cho vay. Càng lớn, càng quan trọng, càng có hiệu quả cao
Chỉ tiêu tỷ lệ giữa thu lãi từ cho vay và dư nợ cho vay
Tỷ lệ % =
Thu lãi cho vay
x 100%
Dư nợ cho vay
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng dư nợ cho vay góp phần tạo ra bao nhiêu
đồng lãi
Ngoài thu lãi từ hoạt động cho vay, ngân hàng còn có các khoản thu khác từ
hoạt động đầu tư, kinh doanh chứng khoán… Tỷ lệ thu lãi từ cho vay/Dư nợ
cho vay của NHTM phản ánh khả năng đóng góp của hoạt động cho vay vào
thu nhập chung của ngân hàng. Chất lượng tín dụng cao, ngoài việc đảm bảo
an toàn vốn, hoạt động tín dụng còn tạo nguồn thu từ lãi cho vay cao, và hoạt
động tín dụng trở thành hoạt động sinh lời chính của NHTM.
- Hiệu suất sử dụng vốn vay
20
Hiệu suất sử dụng
vốn vay
=
Dư nợ cho vay
x 100%
Tổng nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của
Ngân hàng với khả năng huy động vốn, Nếu chỉ số này cao chứng tỏ khà năng
cho vay (tài sản sinh lời) tại chỗ lớn, có khả năng tạo ra hiệu quả cao.
- Chỉ tiêu tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
+ Trích lập dự phòng chung: là khoản tiền được trích lập để dự phòng
cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ. Tỷ lệ
trích lập dự phòng chung được tính theo công thức sau
Số tiền Dự phòng trích lập chung = Tổng dư nợ (nhóm 1 đến nhóm 5) x

0,75%
+ Trích lập dự phòng cụ thể: là khoản tiền được trích lập trên cơ sở
phân loại cụ thể các khoản nợ quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước
này để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra
Số tiền dự phòng cụ thể phải trích được tính theo công thức sau:
R = max {0, (A - C)} x r
Trong đó:
R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trị của khoản nợ
C: giá trị của tài sản bảo đảm
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với năm nhóm nợ quy định Khoản 1
Điều 6 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN như sau:
21

×