Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ tại vietcombank hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.09 KB, 88 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hoạt động kinh tế quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ và chiếm một vị trí
quan trọng đặc biệt trong đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa
của nước ta. Với tư cahcs là chất xúc tác cho sự phát triển của thương mại quốc tế,
nghiệp vụ thanh toán quốc tế cũng không ngừng được mở rộng và phát triển. Tuy
nhiên, khi thương mại quốc tế càng phát triển thì mối quan hệ giữa người mua và
người bán càng trở nên đa dạng và phức tạp. Từ đó nảy sinh ra nhiều phương thức
thanh toán thuận tiên và an toàn cho cả hai bên như: Nhờ thu, đổi chứng từ trả tiền
sau, ghi sổ, tín dụng chứng từ… Trong những phương thức này thì tín dụng chứng
từ là phương thức được sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất hiện nay. Bởi phương
thức tín dụng chứng từ chiếm tỷ lệ sử dụng cao hơn cả, do cân bằng được lợi ích của
hai bên xuất khẩu và nhập khẩu. Thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ đem
lại sự thành công cho các hợp đồng ngoại thương, tạo điều kiện cho hoạt động xuất
nhập khẩu phát triển
Bản thân phương thức tín dụng chứng từ tỏ ra khá ưu việt và phù hợp với
quan hệ thanh toán song nó không phải là phương thức tránh được mọi rủi ro cho
các bên tham gia một cách tuyệt đối. Thực tế cho thấy, khi các bên ngân hàng hay
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã gặp nhiều khó khăn khi phát sinh những rủi ro
trong việc thanh toán bằng tín dụng chứng từ. Do vậy, việc phát hiện các hạn chế
và hoàn thiện các biện pháp nhằm phòng chống rủi ro trong thanh toán tín dụng
chứng từ là một trong những mối quan tâm thường xuyên của mỗi ngân hàng và cả
các doanh nghiệp.
Sau một thời gian học tập cũng như nghiên cứu thực tiễn tín dụng chứng từ
tại Ngân hàng Vietcombank, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Hạn chế rủi ro trong
1
thanh toán tín dụng chứng từ tại Vietcombank Hà Nội” cũng chỉ với mục đích
làm sáng tỏ vị trí, vai trò của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ trong nền
kinh tế, luận giải có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn, các nguyên nhân dẫn tới
rủi ro trong phương thức thanh toán này. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện và hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán tín dụng


chứng từ nói riêng. Bên cạnh đó, bản thân là sinh viên khoa ngân hàng em thấy đây
là một lĩnh vực đầy tiềm năng đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng, tuy nhiên cũng
chứa đựng nhiều rủi ro nên muốn đi sâu vào tìm hiểu nhằm xác định và hạn chế rủi
ro trong thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu rủi ro , hậu quả của rủi ro và những nhân tố tác động rủi ro
trong hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ .
Đánh giá thực trạng rủi ro và nguyên nhân gây ra rủi ro trong hoạt động
tahnh toán TDCT tại VCB Hà Nội.
- Tìm hiểu, nghiên cứu những biện pháp phòng ngừavà hạn chế rủi ro đã sử
dụng trong hoạt động thanh toán TDCT tại VCB Hà Nội.
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế những rủi ro trong hoạt
động TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề lý luận cơ bản về phương thức thanh
toán TDCT,rủi ro trong hoạt động thanh toán TDCT
- Phạm vi nghiên cứu: Rủi ro trong hoạt động thanh toán TDCT tại VCB Hà
Nội trong những năm gần đây, cụ thể là từ 2008- 2010
2
4. Phương pháp nghiên cứu:
Khoá luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phân tích thống kê, s
sánh để luận giải các vấn đề liên quan và được minh hoạ bằng các bảng, biểu, số
liệu,
5. Kết cấu khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3
chương:
Chương I: Tổng quan về TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ và nhận
diện rủi ro
Chương II: Thực trạng rủi ro và phòng ngừa rủi ro tại ngân hàng TMCP
Ngoại thương Hà Nội.

Chương III: Giải pháp hạn chế rủi ro trong TTQT thưo phương thức thanh
toán TDCT tại ngân hàng TMCP Ngoại thương Hà Nội.
3
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC
THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ VÀ NHẬN DIỆN RỦI RO
1.1. Khái quát về thanh toán TDCT
1.1.1. Định nghĩa tín dụng chứng từ
Theo điều 2, UCP 600, Tín dụng chứng từ được định nghĩa như sau:
“Credit means any arrangement, however named or described, that is
irrevocable and there by constitutes a definite undertaking of the issuing bank to
honour a complying presentation”.
“Tín dụng chứng từ là một thoả thuận bất kỳ, cho dù được gọi tên hay mô tả
như thế nào, thể hiện một cam kết chắc chắn và không huỷ ngang của NHPH về
việc thanh toán khi xuất trình phù hợp”.
Trong các phương thức thanh toán khác (ứng trước và ghi sổ, nhờ thu), ngân
hàng chỉ đóng vai trò là đại lý và giám sát mà không có bất kỳ cam kết, trách nhiệm
hay nghĩa vụ nào. Tuy nhiên trong phương thức tín dụng chứng từ, các ngân hàng
đã tham gia tích cực và chủ động hơn nhiều.
Rõ ràng với phương thức thanh toán này lợi ích cũng như rủi ro của tất cả
các bên tham gia đều được dung hoà, cụ thể:
-Đối với người hưởng lợi từ L/C (Beneficiary): Được NHPH đảm bảo thanh
toán chắc chắn nếu xuất trình bộ chứng từ phù hợp.
- Đối với người yêu cầu mở L/C (Applicant): Được NHPH đảm bảo chỉ phải
thanh toán khi nhận được một xuất trình phù hợp.
4
- Đối với ngân hàng: Cung cấp thêm cho khách hàng một phương thức thanh
toán an toàn, mở rộng hệ thống ngân hàng đại lý, nâng cao uy tín cũng như địa vị
trên thị trường quốc tế qua đó thu được những lợi ích về mặt kinh tế.
1.1.2. Đặc điểm của phương thức thanh toán TDCT (L/C):

a) L/C là hợp đồng kinh tế hai bên:
L/C thường bị lầm tưởng cho rằng nó là hợp đồng kinh tế ba bên, bao gồm:
người mở L/C, ngân hàng phát hành L/C và người hưởng lợi từ L/C. Trên thực tế
L/C là hợp độc kinh tế chỉ của hai bên là ngân hàng phát hành L/C và người hưởng
lợi từ L/C. Mọi yêu cầu của người mở L/C được thể hiện thông qua một hợp đồng
khác với ngân hàng phát hành là đơn mở LC. Theo đó tiếng nói của người mở
không được thể hiện chính thức trong L/C mà thông qua sự đại diện của ngân hàng
phát hành.
Sự hiểu lầm này khiến cho các nhà xuất nhập khẩu hạ thấp vai trò của ngân
hàng phát hành và có thể gây ra những rắc rối không đáng có.
b) L/C độc lập với hợp đồng cơ sỏ và hàng hoá:
Theo điều 4 UCP 600: “A credit by its nature is a separate transaction from
the sale or other contract on which may be based. Banks are in no way concerned
with or bound by such contract, even if any reference whatsoever to it is included
in the credit.”.
Như vậy dù được hình thành trên cơ sở của hợp đồng thương mại nhưng một
khi được phát hành nó sẽ hoàn toàn độc lập với hợp đồng này.Trong mọi trường
hợp, ngân hàng không liên quan hoặc bị ràng buộc bởi các hợp đồng như vậy, ngay
cả khi L/C có dẫn chiếu đến các hợp đồng đó.
5
ICC cũng khuyến cáo ngân hàng phát hành nên có hành động cương quyết đề
tránh người mở đưa vào L/C hoặc coi là một phần của L/C các hợp đồng thương
mại.
Việc yêu cầu đưa quá chi tiết vào L/C thường do người mở tin tưởng một
cách sai lầm là họ có thể bảo vệ được chính mình bằng cách làm đó. Thực ra, hiếm
khi được như vậy (ngân hàng chỉ có thể thanh toán, chấp nhận hoặc chiết khấu đối
với các chứng từ phù hợp với các điều khoản và điều kiện của L/C). Đưa quá nhiều
chi tiết vào L/C sẽ bất lợi cho cả hai phía. L/C càng dài, càng chi tiết thì càng dễ bị
lỗi, bị nhiễu điện, gây rối rắm, nhầm lẫn cho Người hưởng cũng như người mở và
cả ngân hàng.

c) L/C chỉ giao dịch bằng chứng từ và thanh toán chỉ căn cứ vào chứng từ:
Các ngân hàng chỉ giao dịch bằng chứng từ chứ không phải bằng hàng hoá,
dịch vụ hoặc thực hiện khác mà chứng từ có liên quan.Việc người thụ hưởng có
được thanh toán hay không phụ thuộc vào việc họ xuất trình chứng từ có phù hợp
không. Khi xuất trình phù hợp thì ngân hàng phát hành phải thanh toán cho người
hưởng.
Trong thực tế, để lập được một bộ chứng từ hoàn hảo là việc không hề dễ
dàng, hơn nữa gianh giới giữa phù hợp và không phù hợp lại rất mong manh, tuỳ
thuộc vào tập quán, trình độ, quan điểm, động cơ của những người liên quan. Do đó
L/C từ một công cụ thanh toán có thể bị lạm dụng để trở thành công cụ từ chối
nhận hàng,từ chối thanh toán.
d) L/C yêu cầu tuân thủ chặt chẽ của bộ chứng từ:
Bản chất của tín dụng chứng từ là chỉ giao dịch và thanh toán dựa trên cơ sở
chứng từ nên việc tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu của bộ chứng từ là nguyên tắc
hàng đầu. Để được thanh toán người thụ hưởng cần phải có một xuất trình phù hợp,
tuân thủ chặt chẽ các điều kiện và điều khoản của tín dụng, bao gồm số loại, số
lượng mỗi loại và nội dung của chứng từ.
6
1.1.3. Các bên tham gia:
a)Người yêu cầu mở (Applicant): là bên mà L/C được phát hành theo yêu
cầu của họ. Trong thương mại quốc tế, người yêu cầu thường là người nhập khẩu,
yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành một L/C và có trách nhiệm hoàn trả lại
tiền cho ngân hàng phát hành số tiền mà ngân hàng đã thanh toán cho người hưởng,
thanh toán các khoản chi phí phát sinh theo L/C.
b) Người thụ hưởng (Beneficiary): là bên được hưởng lợi số tiền thanh toán
hay sở hữu hối phiếu đã chấp nhận thanh toán theo L/C nếu thực hiện đúng những
điều khoản trong L/C.
c) Ngân hàng phát hành (Issuing Bank): là ngân hàng thực hiện phát hành
L/C theo yêu cầu của người yêu cầu hoặc cho chính mình và sẽ thanh toán cho
người hưởng khi chứng từ xuất trình phù hợp.NHPH thường được hai bên mua bán

thoả thuận và qui định trong hợp đồng. Nếu không có sự thoả thuận trước đó, thì
nhà nhập khẩu được phép tự chọn NHPH.
d) Ngân hàng thông báo (Advising Bank): Là ngân hàng thực hiện thông báo
L/C theo yêu cầu của NHPH. NHTB thường là ngân hàng đại lý hay một chi nhánh
của NHPH ở nước nhà xuất khẩu.
e) Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): Là ngân hàng bổ sung sự xác
nhận của mình đối với một L/C theo yêu cầu hoặc theo sụ uỷ quyền của NHPH.
f)Ngân hàng được chỉ định (Nominated Bank): là ngân hàng mà tại đó tín
dụng có giá trị hoặc là bất cứ ngân hàng nào nếu tín dụng có giá trị tự do. Trách
nhiệm kiểm tra chứng từ của NHđCĐ giống như của NHPH khi nhận được bộ
chứng từ. NHđCĐ có thể là: Ngân hàng xác nhận (Confirming bank), Ngân hàng
trả tiền (Paying bank), Ngân hàng chiết khấu (Negotiating bank), Ngân hàng chấp
nhận (Accepting bank), Ngân hàng trả chậm (Defferred undertaking bank).
7
g) Ngân hàng hoàn trả (Reimbursing Bank): là ngân hàng được NHPH uỷ
quyền thanh toán giá trị tín dụng thư cho ngân hàng được chỉ định (ngân hàng này
đã thanh toán hay chiết khấu cho người hưởng). Ngân hàng hoàn trả thường tham
gia trong trường hợp giữa NHPH và NHđCĐ không có quan hệ tài khoản trực tiếp
với nhau.
1.1.4. Qui trình nghiệp vụ thanh toán L/C:
Nhà xuất khẩu
Exporter
NHTB
Advising Bank
Ngân hàng phát hành L/C
Issuing Bank
NHđCĐ
(Nominated Bank)
Nhà nhập khẩu
Importer

(4) Thông báo L/C
Advise L/C
(6a)
Xuất

trình
(6b) Xuất trình
(7a) Trả tiền
(qua NH)
(3) Phát hành L/C
Issue L/C
(7b) Xuất trình
Presenting
(8) Đòi tiền
Retirement
(2) Đơn mở L/C
Apply L/C
(5) Giao hàng
Shipment of goods
(1) Hợp đồng
ngoại thương
Sales contract
(6b’)
Nhận tiền
(7b’)
Trả tiền
8
Các bước trong quy trình thanh toán L/C:
(1) Hai bên mua bán ký kết hợp đồng ngoại thương với điều khoản thanh
toán theo phương thức L/C

(2) Căn cứ vào các điều khoản và điều kiện của hợp đồng ngoại thương, nhà
nhập khẩu làm đơn (theo mẫu) gửi đến ngân hàng phục vụ mình, yêu cầu ngân
hàng này phát hành một L/C cho nhà xuất khẩu hưởng.
(3) Căn cứ vào đơn mở L/C, nếu đồng ý, NHPH lập L/C và thông qua ngân
hàng đại lý hoặc chi nhánh của mình ở nước nhà xuất khẩu để thông báo L/C cho
nhà xuất khẩu.
(4) Khi nhận được L/C, NHTB thông báo L/C cho nhà XK.
(5) Nhà xuất khẩu kiểm tra L/C, nếu phù hợp với hợp đồng đã ký thì tiến
hành giao hàng, nếu không phù hợp thì đề nghị sửa đổi, bổ sung L/C cho phù hợp
với hợp đồng ngoại thương.
(6a), (7a) Sau khi giao hàng, nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của
L/C và có thể xuất trình tại NHPH , sau khi kiểm tra bộ chứng từ, ngân hàng này sẽ
quyết định xem bộ chứng từ có được thanh toán hay không tuỳ thuộc vào sự phù
hợp của chứng từ.
(6b), (6b’) Nhà xuất khẩu cũng có thể xuất trình chứng từ tại NHđCĐ nếu tín
dụng có giá trị tại ngân hàng này, NHđCĐ có thể quyết định trả tiền ngay cho nhà
nhập khẩu tuy nhiên điều này là không bắt buộc.
(7b) và (7b’) NHđCĐ xuất trình chứng từ cho NHPH và đòi hoàn trả, ngân
hàng này lại kiểm tra chứng từ và quyết định có thanh toán cho bộ chứng từ này
hay không.
(8) NHPH đòi tiển nhà nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu
sau khi đã nhận được tiền hoặc chấp nhận thanh toán.
9
1.1.5. Văn bản pháp lý điều chỉnh giao dịch L/C:
Hoạt động thanh toán quốc tế bằng L/C chịu sự điều chỉnh đồng thời bởi các
nguồn luật, công ước quốc tế liên quan, các nguồn luật quốc gia, các thông lệ và tập
quán quốc tế.
Do có nhiều nguồn luật cùng tham gia điều chỉnh nên trình tự ưu tiên về tính
pháp lý theo thứ tự giảm dần được qui định như sau: Công ước và luật quốc tế, luật
quốc gia, Thông lệ và tập quán quốc tê. Nếu có mâu thuẫn giữa các nguồn luật thì:

Luật quốc gia sẽ được ưu tiên vượt lên trên về tính chất pháp lý đối với thông lệ và
tập quán quốc tế; Công ước và luật quốc tế sẽ được ưu tiên vượt lên trên về tính
chấp pháp lý đối với luật quốc gia.
Một số thông lệ và tập quán quốc tế do phòng thương mại quốc tế (ICC) ban
hành:
- Quy tắc thống nhất và thực hành về Tín dụng chứng từ-Uniform customs
and Practice for Documentary credits (UCP)
Quy tắc thống nhất và thực hành về Tín dụng chứng từ là một tập hợp các
nguyên tắc và tập quán quốc tế được phòng thương mại quốc tế (ICC) soạn thảo và
phát hành, quy định quyền hạn, trách nhiệm, của các bên liên quan trong giao dịch
tín dụng chứng từ với điều kiện thư tín dụng có dẫn chiếu tuân thủ UCP. UCP
không chỉ điều chỉnh các ngân hàng mà còn điều chỉnh tất cả các bên liên quan đến
giao dịch L/C.
UCP được ICC ấn hành ấn bản đầu tiên vào năm 1933. Từ đó đến nay, bản
UCP đã được sửa đổi và chỉnh lý 6 lần. Bản sửa đổi gần đây nhất cũng là bản đang
được sử dụng phổ biến nhất là UCP 600 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2007).
UCP ra đời với mục tiêu hướng dẫn thực hành, trên nguyên tắc tự nguyện và
tự điều chỉnh, UCP ngày một hoàn thiện để trở thành một bộ quy tắc có giá trị thực
tiễn nhất trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, đáp ứng kỳ vọng ngày càng tăng của
giới thương mại, ngân hàng, vận tải, bảo hiểm.
10
Tính chất pháp lý tuỳ ý của UCP: UCP là văn bản pháp lý có tính chất tuỳ ý,
điều này có nghĩa là các bên tham gia có thề chọn hay không chọn UCP để điều
chỉnh các hoạt động liên quan đến thư tín dụng. Tuy nhiên khi các bên tham gia đã
thoả thuận áp dụng UCP bằng cách dẫn chiếu trên L/C thì văn bản pháp lý này sẽ
mang tính bắt buộc, ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên tham gia. Tính
chất pháp lý tuỳ ý của UCP được thể hiện ở các điểm chính sau:
- Tất cả các phiên bản UCP đều còn nguyên giá trị, điều này có nghĩa là
phiên bản sau không phủ nhận phiên bản trước. Do đó, khi dẫn chiếu UCP phải nói
rõ áp dụng UCP nào.

- Chỉ khi trong UCP có dẫn chiếu áp dụng UCP thì nó mới trở nên có hiệu
lực pháp lý ràng buộc các bên tham gia.
- Các bên tham gia có thể thoả thuận trong L/C: Không thực hiện hoặc thực
hiện khác đi một hoặc một số điều khoản qui định trong UCP đang áp dụng; Bổ
sung những điều khoản vào L/C mà UCP không đề cập.
- Nếu nội dung UCP có xung đột với luật quốc gia thì luật quốc gia được ưu
tiên vượt lên trên về mặt pháp lý. Điều này hàm ý phán quyết của toà địa phương
có thể phủ nhận nội dung giao dịch bằng L/C.
- Trong giao dịch L/C, các bên trước hết phải tuân thủ các điều khoản của
L/C, sau đó mới đến các điều khoản của UCP đang áp dụng.
UCP dường như là một chuẩn mực hoàn hảo, tuy nhiên, mặt trái của UCP
vẫn là một vấn đề muôn thuở: tranh chấp về tín dụng chứng từ phát sinh trong giao
dịch hàng ngày. Điều đơn giản là thực tiễn muôn màu, muôn vẻ và biến đổi hàng
ngày nhưng UCP vẫn là những nguyên lý cứng nhắc. Vấn đề đặt ra là làm sao hạn
chế tối đa những nhận thức chưa đúng, thiếu tính logic và áp dụng sai lệch UCP
vào giao dịch L/C của những người thực hành. UCP, tự bản thân nó, chưa thể là
một bộ quy tắc thực hành hoàn hảo tuyệt đối. Hiểu và áp dụng nó không đơn giản
11
chỉ là máy móc hay quá linh hoạt mà phải trên nền tảng nắm đúng bản chất sự việc
và khả năng xét đoán thông thường.
- Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế-International Standard Bank
Practice for the examination of documentary credits (ISBP).
ISBP là sự bổ sung mang tính thực tiễn cho UCP, nó không sửa đổi UCP mà
chỉ giải thích chi tiết và rõ ràng hơn cách áp dụng các quy tắc của UCP trong giao
dịch L/C. Nhờ đó, ISBP đã làm cho những nguyên tắc chung quy định trong UCP
và công việc hàng ngày của những người thực hiện nghiệp vụ thanh toán L/C trên
toàn thế giới trở nên thống nhất với nhau.
Cho đến nay đã có hai bản ISBP được ban hành là: Bản ISBP 645 năm 2003,
cụ thể hoá UCP 500 và bản ISBP 681 năm 2007, cụ thể hoá UCP 600.
Ngoài ra còn có một số văn bản khác cũng được ICC phat hành nhằm giải

thích và làm rõ việc áp dụng và thực hiện UCP như: Bản phụ trương UCP về xuất
trình chứng từ điện tử-Supplement to the Uniform Customs and Practice for
documentary credit for Electronic presentation (eUCP); Quy tắc thống nhất về hoàn
trả liên hàng theo L/C-Uniform Rules for bank-to-bank Reimbursements under
documentary credit (URR); DOCDEX 577 (1997), giải quyết tranh chấp Tín dụng
chứng từ; Tập quán thư tín dụng dự phòng (ISP 98).
Giao dịch L/C không chỉ được điều chỉnh bằng tập quán và thông lệ quốc té
mà trước hết nó bị chi phối bởi luật pháp quốc gia.
Có những quốc gia không có luật riêng về giao dịch chứng từ, danh mục các
quốc gia này khá dài ( tại châu Á là Singapore, Indonesia, Nhật, Malaysia,
Philipin, ; tại châu Âu là Đức, Pháp, Anh, Áo, Thụy Sĩ, ; tại châu Mỹ là Canada,
Uruguay, Venezuela, ). Các quốc gia này chấp nhận hoàn toàn UCP trong giao
dịch tại nước mình.
12
Bên cạnh đó có những quốc gia đã tự xây dựng cho mình luật về tín dụng
chứng từ riê ng biệt (hệ thống này gồm các nước phương Tây, Mỹ và một số nước
phát triển ở các châu lục). Về cơ bản, luật của họ không trái với UCP.
Tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thừa nhận hoàn toàn và áp
dụng tuyệt đối UCP trong thanh toán quốc tế (tín dụng chứng từ). Các NHTM nội
địa, ngân hàng nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đều tuân thủ quy định
trên. Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam thông báo tuân thủ UCP 600 hiệu
lực từ 01/07/2007. Cho đến nay UCP 600 được tất cả các ngân hàng được phép
thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế áp dụng nhằm hoà nhập vào mạng lưới
thanh toán toàn cầu. Việt Nam chưa có các các quy định về xét xử tranh chấp theo
Tín dụng chứng từ mà chủ yếu dựa vào Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật các
công cụ chuyển nhượng, Các văn bản như vậy rất cần thiết không chỉ là cơ sở để
tòa án, Trọng tài áp dụng khi xét xử các vụ tranh chấp mà còn bổ ích đối với ngân
hàng, các đối tác giao dịch. Họ sẽ hài lòng khi nghiên cứu trước quy định đó và
không bị lúng túng khi phát sinh tranh chấp.
1.2. Thanh toán quốc tế bằng L/C – nhận diện rủi ro:

Trong hoạt động kinh doanh nói chung, ưu tiên hàng đầu của các doanh
nghiệp là lợi nhận, tuy nhiên ngân hàng thương mại lại là một ngành kinh doanh có
những đặc thù riêng, chứa đựng nhiều rủi ro. Mối quan hệ của ngân hàng là rộng
khắp với nhiều đối tượng, nghiều lĩnh vực, nganh nghề khác nhau trong xã hội, do
đó mỗi rủi ro xảy ra trong ngân hàng có thể gây ra những tác động dây chuyền vô
cùng lớn đến đời sống kinh tế xã hội. Điều này đã được chứng minh trong lịch sử
phát triển kinh tế thế giới và ngày nay vẫn đang là mối đe doạ thường trực với mỗi
quốc gia. Vì vậy việc nhận thức các rủi ro và làm tốt công tác phòng ngừa luôn
luôn phải được đặt lên hàng đầu cùng với mục tiêu về lợi nhuận.
13
Trong hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ thì ngân hàng là trung tâm của
các mối quan hệ, do vậy những rủi ro mà nó gặp phải có thể gây tác động đến tất cả
các bên tham gia tín dụng. Mặc dù tín dụng chứng từ tương đối an toàn với tất cả
các bên tham gia nhưng không phải là không có rủi ro trong phương thức thanh
toán này.
1.2.1. Khái niệm rủi ro:
Hiểu một cách nôm na rủi ro là khả năng một sự kiện không mong muốn,
không thuận lợi có thể xảy ra dẫn đến sự mất mát hoặc hư hỏng.
Cho đến nay chưa có định nghĩa thống nhất về rủi ro. Những trường phái
khác nhau, những tác giả khác nhau đưa ra những định nghĩa rủi ro khác nhau.
Theo trường phái truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn, sự tổn thất,
mất mát, nguy hiểm. Nó được xem là điều không lành, điều không tốt, bất ngờ xảy
đến. Đó là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi
nhuận dự kiến. Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong
quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và
phát triển của một doanh nghiệp. Tóm lại, theo quan điểm này thì rủi ro là những
thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn
hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người. Theo trường phái hiện đại,
rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được, vừa mang tính tích cực, vừa mang tính
tiêu cực. Rủi ro có thể mang lại những tổn thất mất mát cho con người nhưng cũng

có thể mang lại những lợi ích, cơ hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, người ta có
thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực, đón nhận
những cơ hội, mang lại kết quả tốt đẹp cho tương lai.
- Rủi ro trong ngân hàng là những bất trắc xảy ra trong quá trình hoạt động
kinh doanh gây ra những thiệt hại cho ngân hàng.
14
- Rủi ro trong thanh toán L/C xảy ra khi quyền lợi của một trong các bên bị
vi phạm, rủi ro không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là việc chứng từ không được
thanh toán mà còn phải hiểu theo nghĩa rộng của nó là bất kỳ một sự khúc mắc,
chậm trễ nào trong các khâu của quá trình thanh toán. Rủi ro trong thanh toán bằng
L/C có thể xảy ra đối với tất cả các bên tham gia vào tín dụng.
1.2.2. Nhận diện rủi ro:
1.2.2.1. Rủi ro cho người mở L/C (nhà nhập khẩu) – Applicant:
Nhà nhập khẩu có thể gặp những rủi ro liên quan đến: Hàng hoá, biến động
tỷ giá, ngân hàng phát hành mất khả năng thanh toán.
a) Rủi ro liên quan đến hàng hoá:
- Hàng hoá không được gửi đi: Hàng hoá có thể không được gửi đi bởi người
xuất khẩu nhưng họ vẫn lập được một bộ chứng từ giả phù hợp với yêu cầu của L/C
nhằm được thanh toán bởi ngân hàng mở L/C. Nếu ngân hàng phát hành không thể
phát hiện ra được sự lứa đảo này của người thụ hưởng, họ sẽ quyết định thanh toán
cho bộ chứng từ và đòi lại tiền từ nhà nhập khẩu. Vì ngân hàng chỉ làm việc trên cơ
sở chứng từ, họ không thể và không có trách nhiệm về tính chất bên trong của
chứng từ nên khi rủi ro này xảy ra, người nhập khẩu sẽ là ngưòi gánh chịu. Kể cả
trong trường hợp ngân hàng phát hiện được chứng từ giả, người mở L/C có thể vẫn
phải trả cho ngân hàng một khoản phí kiểm tra chứng từ và những thiệt hại của việc
không thể bán hàng như dự tính.
- Hàng hoá nhận được không đúng với quy định trong L/C: Hàng hoá có thể
được giao thiếu và có phẩm chất kém mặc dù bộ chứng từ xuất trình hoàn toàn phù
hợp với những điều khoản và điều kiện trong tín dụng. Ngân hàng đã thực hiện
đúng bổn phận của mình là kiểm tra trên cơ sở chứng từ và quyết định thanh toán

15
khi chứng từ phù hợp. Trong trường hợp này người mua hàng sẽ phải chịu thiệt hại
trong doanh thu bán hàng.
Rủi ro tương tự cũng xảy đến với nhà nhập khẩu khi hàng hoá đến muộn và
họ không thể bán hàng ở giá cả đã dự tính ban đầu.
- Hàng hoá có thể đến trước khi bộ chứng từ được chuyển đến ngân hàng
phát hành: Trong những tình huống như thế này, người mua có thể phải nhận hàng
hoá bằng bảo lãnh nhận hàng của ngân hàng mở L/C. Theo đó nhà nhập khẩu buộc
phải thanh toán cho lô hàng đó cho dù bộ chứng từ không hoàn hảo. Rủi ro của nhà
nhập khẩu là hàng hóa có thể không đạt yêu cầu nhưng vẫn được thanh toán.
b) Rủi ro liên quan đến tỷ giá:
Nếu như đồng tiền sử dụng trong L/C không phải là đồng nội tệ của nước
người nhập khẩu, có thể sẽ có sự chênh lệch giữa tỷ giá tại thời điểm L/C được mở
(và/ hoặc thời điểm ký hợp đồng mua bán) và thời điểm thanh toán khiến người mở
gặp bất lợi. Trong những trường hợp này, nếu như không có hợp đồng mua ngoại tệ
kỳ hạn để thanh toán toàn bộ giá trị hợp đồng thì người mua có thể phải trả nhiều
hơn giá cả dự tính ban đầu, điều mà khiến cho lợi nhuận của hợ bị giảm sút thậm
chí có thể bị thua lỗ.
Một hợp đồng mua ngoại tệ ký hạn có thể hạn chế rủi ro này cho nhà nhập
khẩu.
c) Rủi ro liên quan đến sự mất khả năng thanh toán của ngân hàng phát hành
L/C:
Khi ngân hàng phát hành mất khả năng thanh toán, ngưòi mở L/C có thể bị
yêu cầu trả tiền cho người thụ hưởng mặc dù họ đã ký quỹ toàn bộ hay một phần
giá trị tiền hàng theo tín dụng thư tại ngân hàng phát hành. Mức độ rủi ro cho nhà
nhập khẩu phụ thuộc vào số tiền ký quỹ của họ.
1.2.2.2. Rủi ro cho ngân hàng phát hành L/C – Issuing Bank:
a) Rủi ro do người mở mất khả năng thanh toán:
16
Đây là rủi ro hàng đầu mà ngân hàng phát hành phải đối mặt khi ngân hàng

buộc phải thanh toán cho người hưởng mà không thể thu hồi vốn từ phía người mở
L/C nếu trước đó ngân hàng không yêu cầu người mở ký quỹ hoặc chỉ ký quỹ một
phần giá trị của tín dụng, vì vậy có thể xem đây là một loại rủi ro tín dụng của ngân
hàng. Do đó khi mở L/C ngân hàng cần làm tốt khâu thẩm định, giám sát chặt chẽ
giống như một quy trình cấp tín dụng cho khách hàng. Ngoài ra để giảm thiểu khả
năng xảy ra rủi ro này, ngân hàng nên yêu cầu sự bảo đảm từ phía người mở bằng
việc ký quỹ toàn bộ giá trị tín dụng hoặc mở một tín dụng mà quyền kiểm soát hàng
hoá thuộc về ngân hàng (quy định vận đơn ký phát theo lệnh của ngân hàng).
b) Rủi ro lừa đảo:
“Ngân hàng chỉ giao dịch bằng chứng từ, không liên quan đến hàng hoá hoặc
các giao dịch khác” chính là một khe hở mà những đối tác không trung thực có thể
lợi dụng để lừa đảo ngân hàng.
Nhà xuất khẩu có thể giao hàng không đúng thoả thuận, hàng kém chất
lượng, thiếu và thậm chí là hàng giả hay hoàn toàn không giao hàng nhưng bằng
cách nào đó họ vẫn lập được một bộ chứng từ phù hợp với các điều khoản và điều
kiện của L/C. Vào thời điểm trả tiền, ngân hàng dựa vào chứng từ giao hàng, L/C
và UCP để quyết định thanh toán. Ngân hàng mở mặc dù đã kiểm tra chứng từ với
sự cẩn thận hợp lý nhưng vẫn không phát hiện ra được và quyết định thanh toán
hoặc chấp nhận thanh toán. Nếu ngân hàng không yêu cầu người mở ký quỹ 100%
giá trị tín dụng thì khi rủi ro xảy ra mặc dù ngân hàng sẽ được miễn trách nhiệm
nhưng việc đòi lại tiền từ phía người nhập khẩu là rất khó khăn do họ không muốn
hoặc không thể trả tiền trong khi không hề nhận được hàng. Thậm chí cơ hội đòi lại
tiền của ngân hàng phát hành có thể gần như bằng không nếu như chính nhà nhập
khẩu đã thông đồng với nhà xuất khẩu nhằm chiếm đoạt tiền của ngân hàng.
c) Rủi ro về mặt kỹ thuật nghiệp vụ:
17
- Trong những trường hợp mà tồn tại mối quan hệ thân thiết, lâu bền giữa
ngân hàng phát hành và người mở, giữa ngân hàng phát hành và ngưòi hưởng, giữa
người mở và người hưởng, ngân hàng phát hành thường dễ để cho sự tin tưởng dẫn
đến sự lỏng lẻo khi thực hiện qui trình thanh toán tín dụng.

Từ khi mở L/C, ngân hàng có thể để khách hàng lợi dụng mối quan hệ thân
thiết để yêu cầu đưa vào L/C những điều khoản bất lợi cho ngân hàng, chủ quan
trong việc thu thập, phân tích thông tin, đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh
của khách hàng, không tuân thủ chặt chẽ các quy định về an toàn trong ký quỹ L/C,
đánh giá tài sản thế chấp, cầm cố. do nể nang khách hàng mà đồng ý tháo khoán
tiền ký quỹ trước khi doanh nghiệp hoàn thành nghĩa vụ của mình. Hay trong một
số trường hợp khi doanh nghiệp không muốn nhận hàng đã đề nghị ngân hàng tìm
bằng được lỗi của bộ chứng từ xuất trình, trên tinh thần đó ngân hàng đã cố gắng
tìm ra lý do để từ chối thanh toán trong khi bộ chứng từ có thể đã hoàn toàn phù
hợp. Hành động này của ngân hàng không chỉ gây nên những thiệt hại về mặt kinh
tế mà còn ảnh hưởng đến uy tín.
Mặt khác, khi ngân hàng phát hành và người thụ hưởng hay người thụ hưởng
và người yêu cầu mở L/C là những đối tác lâu năm, tạo nên những mối quan hệ tốt
lành với độ tin tưởng gần như tuyệt đối, điều này có thể dẫn đến việc ngân hàng bỏ
qua lỗi của bộ chứng từ và quyết định thanh toán mà không hề thông báo cho người
mở. Chính hành động này của ngân hàng đã tự mang đến cho nó rủi ro và những
rắc rối không cần thiết khi người mua hoàn toàn có quyền từ chối thanh toán lại cho
ngân hàng.
Vụ Eastern World Co. Ltd kiện Magura Chartered Bank Ltd là một bài học
lớn cho các ngân hàng không những tại địa phương mà còn có giá trị trên bình diện
quốc tế. Giao dịch tín dụng thư giữa hai đối tác thương mại được duy trì hơn 5
năm, tạo nên mối quan hệ tốt lành với độ tin tưởng gần như tuyệt đối. Điều này đã
ảnh hưởng tới các hành động của Magura Chartered Bank trong việc kiểm tra và
18
quyết định thanh toán tín dụng thư của khách hàng. Sự chủ quan đã dẫn đến hậu
quả khó lường: Các nhà quản lý công ty đối tác của Eastern World Co. Ltd đang
trong tình trạng nguy ngập về tài chính đã quyết định thực hiện một vụ lừa đảo và
họ đã nhận được một khoản tiền theo tín dụng thư mà không mất đồng vốn nào cả.
Được thanh toán mặc dù chứng từ không hoàn chỉnh, kẻ lừa đảo đã bỏ chạy, để lại
một vụ tranh chấp giữa ngân hàng và người mở. Eastern World Co. Ltd đã kiện

Magura Chartered Bank vi phạm các quy tắc của UCP, từ chối hoàn trả số tiền mà
ngân hàng đã thanh toán cho người hưởng. Phán quyết của toà nghiêng về phía
người mở và là bài học lớn cho Magura Chartered Bank Ltd và các ngân hàng
khác.
- Khi ngân hàng phát hành thực hiện các giao dịch với những đối tác trpmg
quy trình thanh toán L/C có thể sẽ xảy ra một vài sai xót do lỗi của thanh toán viên.
Điều này là không thế tránh khỏi vì các thao tác nghiệp vụ thanh toán quốc tế đều
được thực hiện bằng tiếng anh, hơn nữa nó đòi hỏi các thanh toán viên phải am
hiểu về quy trình thanh toán, các thông lệ quốc tế về L/C, nắm vững nội dung của
L/C, Do vậy để hạn chế rủi ro này, các thanh toán viên cần phải luôn trau dồi kỹ
năng, làm việc trên tinh thần cẩn trọng, bám sát quy trình thanh toán. Hậu quả của
những sai xót này phụ thuộc khá nhiều vào thiện chí từ các đối tác của ngân hàng,
từ đây có thể thây được việc củng cố mối quan hệ với khách hàng, mở rộng hệ
thống ngân hàng đại lý là vô cùng cần thiết đối với ngân hàng.
d) Rủi ro về nguồn ngoại tệ thanh toán:
Rủi ro này xảy ra khi ngân hàng không thể tự cân đối được nguồn ngoại tệ,
đặc biệt với Việt Nam là một nước nhập siêu, có những khoảng thời gian nguồn
cung ngoại tệ vô cùng căng thẳng, đặc biệt là giai đoạn cuối năm. Khi đến thời
điểm trả tiển, ngân hàng phải trì hoãn do không có đủ ngoại tệ thanh toán cho
người hưởng. Điều này sẽ khiến cho ngân hàng không những thiệt hại về mặt vật
chất mà uy tín với đối tác quốc tế cũng bị giảm sút.
19
1.2.2.3. Rủi ro cho người thụ hưởng L/C – Beneficiary:
Tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán tương đối an toàn đối với
người hưởng nhưng nó không phải là hoàn toàn không chứa đựng chút rủi ro nào.
- Rủi ro lớn nhất đối với nhà xuất khẩu việc thanh toán có thể bị từ chối bởi
ngân hàng phát hành L/C do bộ chứng từ không đáp ứng được những điều kiện tín
dụng, và/hoặc không được xuất trình đúng hạn.
Người hưởng có thể hạn chế rủi ro này bằng cách nghiên cữu tất cả các điều
kiện của tín dụng một cách kỹ lưỡng ngay khi vừa nhận được. Họ cũng nên ngay

lập tức yêu cầu sửa đổi L/C nếu phát hiện bất kỳ sự mâu thuẫn nào giữa L/C và hợp
đồng mua bán, hoặc nếu như nhận thấy sự thoả mãn các điều kiện của tín dụng gặp
phải khó khăn.
- Một rủi ro nữa của nhà xuất khẩu là họ có thể nhận được một L/C giả hoặc
một L/C được phát hành bởi một ngân hàng không hể tồn tại. Nhà nhập khẩu thực
chất là một kẻ lừa đảo, trong những trường hợp này L/C thường không được gửi
qua ngân hàng mà sẽ đến thẳng tay của ngưởi thụ hưởng, vì vậy khi nhận trực tiếp
một L/C từ ngân hàng phát hành, người bán cần phải cẩn trọng, nên nhờ ngân hàng
phục vụ mình kiểm tra tính chân thực của L/C.
- Nếu một tín dụng không được xác nhận, người thụ hưởng có thể gặp phải
rủi ro quốc gia nơi ngân hàng phát hành đặt trụ sở chính. Vấn đề phát sinh khi mà
quốc gia đó ban hành lệnh cấm thanh toán ra nước ngoài, điều này khiến cho ngân
hàng phát hành mặc dù không muốn vẫn phải trì hoãn việc thanh toán cho người
xuất khẩu. Để tránh rủi ro này, người thụ hưởng nên yêu cầu một tín dụng thư được
xác nhận bởi một ngân hàng có uy tín đặt trụ sở tại nước mình.
- Những rủi ro bất khả kháng như chiến tranh, thiên tai, sự thay đổi trong
chính sách của các quốc gia (ban hành lệnh cấm xuất nhập khẩu) cũng có thể xảy ra
với nhà xuất khẩu. Nếu hợp đồng không quy định miễn trách nhiệm cho nhà nhập
20
khẩu khi những rủi ro này xảy ra thì họ có thể sẽ phải đền bù thiệt hại cho bên nhập
khẩu.
1.2.2.4. Rủi ro cho ngân hàng thông báo – Advising Bank:
Ngân hàng thông báo không cam kết bất cứ một nghĩa vụ thanh toán náo, vì
vậy nó không phải chịu rủi ro tín dụng. Nghĩa vụ duy nhất của ngân hàng thông báo
là nếu nó chấp nhận làm theo chỉ thị của ngân hàng phát hành – kiểm tra tính chân
thực bề ngoài của L/C và thông báo nó cho người thụ hưởng.
Theo đó một ngân hàng thông báo có thể sẽ phải chịu trách nhiệm đền bù
cho người thụ hưởng nếu ngân hàng đã thông báo một tín dụng giả mà không
chứng minh được rằng nó đã làm việc một cách “cẩn thận hợp lý”.
Tính chân thật bề ngoài của tín dụng có thể được kiểm tra bằng cách đảm

bảo chữ ký đại diện của ngân hàng thông báo phù hợp với chữ ký mẫu của họ cho
các ngân hàng đại lý trong trường hợp L/C được gửi bằng thư, xác minh khoá mã
teskey nếu L/C được phát hành bằng điện Telex, hoặc xác minh swift code nếu L/C
phát hành bằng điện SWIFT. Vì vậy, ngân hàng thông báo phải thận trọng quan
tâm đến các L/C nhận được từ ngân hàng không có quan hệ đại lý, đặc biệt là từ
ngân hàng không quen biết.
1.2.2.5. Rủi ro cho ngân hàng được chỉ định – Nominated Bank:
Ngân hàng được chỉ định không bắt buộc phải chiết khấu hay thanh toán cho
người xuất trình chứng từ vì vậy nó không chịu những rủi ro liên quan đến ngân
hàng phát hành hay người thụ hưởng. Tuy nhiên rủi ro sẽ phát sinh ngay khi ngân
hàng này thực hiện chiết khấu (thanh toán) một bộ chứng từ xuất trình phù hợp với
các điều kiện và điều khoản của tín dụng cho người thụ hưởng mà sau đó lại bị
ngân hàng phát hành từ chối thanh toán do bất đồng về tính hợp lệ của chứng từ.
Ngân hàng có thể quy đinh chiết khấu miễn truy đòi nhưng việc đòi lại tiền từ
người xuất khẩu cũng vô cùng khó khăn và mất thời gian. Để hạn chế rủi ro này,
ngân hàng được chỉ định cần phải xem xét thật kỹ càng trước khi quyết định chiết
21
khấu một bộ chứng từ: từ ngân hàng phát hành là ai? Tư cách tín dụng của người
thụ hưởng? Sự hoàn hảo của bộ chứng từ?
1.2.2.6. Rủi ro cho ngân hàng xác nhận – Confirming Bank:
Ngân hàng xác nhận của một tín dụng thư không huỷ ngang cam kết thanh
toán cho người thụ hưởng khi người này đưa ra được một xuất trình thỏa mãn các
điều kiện của tín dụng thư.
Rủi ro chính của ngân hàng xác nhận là một khi đã trả tiển cho người thụ
hưởng, nó có thể sẽ không nhận được sự hoàn trả từ ngân hàng phát hành do ngân
hàng này đã mất khả năng thanh toán hoặc do ngân hàng này từ chối thanh toán bởi
sự bất đồng về tính hợp lệ của chứng từ. Vấn đề tương tự cũng nảy sinh khi ngân
hàng phát hành không thể thực hiện thanh toán cho ngân hàng xác nhận nếu chính
phủ có lệnh cấm thanh toán ra nước ngoài hoặc cấm nhập khẩu.
Trước khi xác nhận một tín dụng thư, ngân hàng cần tim hiểu kỹ về ngân

hàng phát hành để hạn chế rủi ro trên. Việc có một mạng lưới ngân hàng đại lý
rộng rãi, mật độ dày và hoạt động tích cực sẽ khiến cho công việc này của ngân
hàng được thực hiện một cách dễ dàng.
1.2.2.7. Rủi ro cho ngân hàng hoàn trả - Reimbursing Bank:
Ngân hàng hoàn trả được ngân hàng phát hành uỷ quyền hoàn trả tiền và
hành động theo chỉ thị của ngân hàng phát hành. Rủi ro chính của ngân hàng hoàn
trả là nó không thực hiện đúng theo chỉ thị của ngân hàng phát hành, lúc này ngân
hàng hoàn trả sẽ phải chịu mọi hậu quả xảy ra do lỗi của họ. Ngoài ra, khi ngán
hàng hoàn trả không yêu cầu một sự bảo đảm thanh toán từ ngân hàng phát hành thì
nó sẽ gặp rủi ro khi ngân hàng phát hành mất khả năng thanh toán hoặc không thể
thanh toán do chính sách quốc gia. Tuy nhiên rủi ro này hầu như không xảy ra do
thông thường ngân hàng hoàn trả thường yêu cầu ngân hàng phát hành phải có một
tài khoản tiền gửi tại ngân hàng của họ để thanh toán cho khoản tièn hoàn trả.
22
1.2.2.8. Các rủi ro chung:
Rủi ro chung là những rủi ro khi xảy ra có thể tác động trực tiếp hay gián
tiếp đến các bên liên quan đến tín dụng chứng từ.
a) Rủi ro lừa đảo:
Với thế giới phẳng, thương mại quốc tế xác lập trên nền tảng của sự tin cậy.
Nếu không có yếu tố này, thương mại không thể phát triển. UCP được sử dụng đạt
sự hoàn thiện cao nhưng chỉ đối vói các đối tác chân thực. Tuy nhiên nó đã và đang
bị lợi dụng để gian lận lừa đảo. “ Ngân hàng chỉ giao dịch bằng chứng từ, không
liên quan đến hàng hoá hoặc giao dịch khác” chính là khe hở mà các đối tác không
trung thực lợi dụng. Luật quốc gia sẽ ngăn cản các hành vi gian lận và lừa đảo. Tuy
nhiên, hậu quả của chúng sẽ do ai gánh chịu?
Có hai loại rủi ro lừa đảo chính liên quan đến phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ:
- Thứ nhất là rủi ro xảy ra khi có một bên thanh toán cho một lô hàng hàng
hoá không hề tồn tại, vô giá trị hoặc không đủ yêu cầu so với tín dụng. Nhà nhập
khẩu hay chính là kẻ có chủ tâm lừa đảo bằng cách nào đó vẫn đưa ra được một bộ

chứng từ hoàn hảo nhằm rút tiền từ ngân hàng. Rủi ro này có thể xảy ra cho người
nhập khẩu, ngân hàng phát hành, ngân hàng chiết khấu. Nhà nhập khẩu là người
đầu tiên phải chịu rủi ro này do các ngân hàng được miễn trách nhiệm nếu họ đã
làm việc với sự cẩn thận hợp lý mà vẫn không biết gian lận lừa đảo. Tuy nhiên, nếu
các ngân hàng không chứng minh được là mình đã thực hiện đúng chuẩn mực, cẩn
trọng trong kiểm tra chứng từ và theo tín dụng thư và UCP thì họ sẽ phải chịu rủi ro
này thay cho người nhập khẩu, hay nếu như các ngân hàng không yêu cầu một
khoản đảm bảo tín dụng trước khi quyết định chiết khấu (thanh toán), cho bộ chứng
từ thì họ cũng sẽ gặp nguy cơ lớn nếu vụ lứa đảo gây ảnh hưởng xấu đến các đối
tác khiến họ mất khả năng hoàn trả lại tiền hoặc phỉa trì hoãn việc thanh toán cho
các ngân hàng này.
23
Trong trường hợp khác khi mà người nhập khẩu và người xuất khẩu bắt tay
với nhau để thực hiện vụ lừa đảo thì các ngân hàng cũng gặp những rủi ro tương tự.
- Thứ hai là rủi ro mà tín dụng bản thân nó đã bị làm giả. Rủi ro xảy ra khi
người thụ hưởng gửi hàng hoá hoặc thực hiện dịch vụ dựa vào một cam kết thanh
toán của ngân hàng mà trên thực tế nó không tồn tại. Trong trường hợp này, ngưởi
hưởng sẽ không có khả năng đòi tiền từ ngân hàng được ghi trên tín dụng bởi vì
hoặc là ngân hàng đó thực chất không phát hành L/C đó hoặc là ngay chính ngân
hàng đó cũng không hề tồn tại. Sự lừa đảo này mang lại rủi ro cho tất cả các bên
gắn quyền lợi của mình vào L/C giả, từ người thụ hưởng, ngân hàng thông báo,
ngân hàng chiết khấu, ngân hàng cấp tín dụng dựa trên L/C giả.
Rủi ro lừa đảo thường xảy ra chủ yếu là do các bên tham gia thiếu những
thông tin chính xác về khả năng tài chính, tình hình hoạt động, uy tín, tư cách về
các đối tác của họ. Từ đó mà họ đưa ra những phán đoán và quyết định sai lầm, gây
ra rủi ro trong thanh toán. Để hạn chế rủi ro lừa đảo trước tiên phải khắc phục tình
trạng thông tin không cân xứng. Đứng trên góc độ ngân hàng thì một hệ thống ngân
hàng đại lý hoạt động tích cực và rộng khắp có thể giúp họ có được những thông
tin cần thiết một cách đầy đủ, chính xác. Ngoài ra, do đặc thù của phương thức tín
dụng chứng từ là làm việc chỉ dựa trên chứng từ nên ngân hàng cũng nên có những

quy định thật chặt chẽ bộ chứng từ xuất trình làm sao để việc làm giả trở nên khó
khăn hơn.
b) Rủi ro chính sách:
Đây là rủi ro mà việc thực hiện phương thức tín dụng chính từ bị ngăn cản
bởi hành động của chính phủ nằm ngoài tầm kiểm soát của các bên tham gia. Rủi ro
xảy ra nếu chính phủ ban hành lệnh cấm thanh toán ra nước ngoài hay cấm xuất
khẩu/nhập khẩu sau khi một tín dụng thư được phát hành nhưng vẫn chưa được
thực hiện đầy đủ.
24
Khi rủi ro này xảy ra nó có thể tác động đến tất cả các bên tham gia vào một
tín dụng thư, cản trở làm trì hoãn việc thực hiện hợp đồng, làm phát sinh thêm
nhiều chi phí. Để hạn chế rủi ro chính sách thì việc tìm hiểu tình hình kinh tế, chính
trị của các quốc gia liên quan là vô cùng cần thiết. Những vấn đề như : Nợ nước
ngoài, dự trữ ngoại thối, cán cân thanh toán, sự cấm vận kính tế, chính sách quản lý
ngoại hối, chính sách thương mại, các quy định về xuất nhập khẩu, đều ảnh
hưởng đến khả năng xảy ra rủi ro chính sách và cần được các bên tham gia lưu tâm.
c) Rủi ro pháp lý:
Những rủi ro chính sách được đề cập ở trên có thể phá vỡ việc thực hiện một
tín dụng thư bởi những vấn đề nằm ngoài khuôn khổ của hoạt động tín dụng chứng
từ. Ngược lại, những rủi ro pháp lý liên quan đến khả năng thực hiện của tín dụng
chứng từ có thể bị gián đoạn bởi các hành động pháp lý liên quan trực tiếp đến các
bên cũng như quyền và nghĩa vụ của họ theo tín dụng thư.
Một ví dụ cho trường hợp này như là khi mâu thuẫn phát sinh từ hợp đồng
thương mại giữa người mở và người hưởng lợi. Người mở kiện người thụ hưởng ra
toà. Ở những phiên toà kiểu này người mở tín dụng thư có thể lấy được tráp của toà
án yêu cầu ngân hàng phát hành tạm dừng việc thanh toán theo tín dụng để giải
quyết mâu thuẫn theo hợp đồng tín dụng trước. Điều này đặt ngân hàng phát hành
vào tình thế không thể thực hiện nghĩa vụ của nó.
Rủi ro pháp lý trở nên phức tạp hơn nhiều bởi hoạt động tín dụng chứng từ
liên quan đến các bên ở nhiều quốc gia khác nhau. Từ đó môi trường pháp lý và

luật quốc gia cũng khác nhau, nếu có sự khác biệt, thậm chí đối nghịch giữa luật
quốc gia và UCP thì luật quốc gia sẽ vượt lên trên và được áp dụng. Do đó trong
nhiều trường hợp, quyết định của toà án địa phương mới là quyết định cuối cùng.
Cho đến nay, các giao dịch tín dụng thư chưa có một chuẩn mực trong áp
dụng luật giải quyết tranh chấp. Tuỳ thuộc vào từng trường hợp mà các bên chọn
luật áp dụng và nơi xét xử. Đây chính là vấn đề tranh cãi vì UCP không liên quan
25

×