Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

tín hiệu thẩm mỹ hoa và đặc trưng tư duy - văn hóa của người việt trong ca dao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.89 KB, 59 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




LÊ THỊ LÂM




TÍN HIỆU THẨM MỸ HOA VÀ ĐẶC TRƢNG TƢ DUY -
VĂN HÓA CỦA NGƢỜI VIỆT TRONG CA DAO




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC







SƠN LA, NĂM 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




LÊ THỊ LÂM




TÍN HIỆU THẨM MỸ HOA VÀ ĐẶC TRƢNG TƢ DUY -
VĂN HÓA CỦA NGƢỜI VIỆT TRONG CA DAO


Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. Trần Thị Lan Anh



SƠN LA, NĂM 2014

LỜI CẢM ƠN

Khóa luận tốt nghiệp được hoàn dựa trên sự chỉ đạo, giúp đỡ tận tình của
giảng viên, thạc sĩ Trần Thị Lan Anh. Nhân dịp khóa luận được hoàn thành
em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên, thạc sĩ Trần Thị Lan Anh –
người đã nhiệt tình, tận tâm và chu đáo hướng dẫn em trong quá trình thực hiện

khóa luận này.
Đồng thời em xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến Phòng Đào Tạo,
Thư viện trường Đại học Tây Bắc và tập thể lớp K51 ĐHSP Ngữ Văn.
Tuy nhiên trong phạm vi khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, vì
vậy em kính mong các thầy cô giáo cùng toàn thể các bạn sinh viên đóng góp ý
kiến để khóa luận hoàn thiện hơn nữa.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn Hội đồng bảo vệ và chấm khóa luận.
Kính chúc thầy cô sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt.
Sơn La, tháng 5 năm 2014
Ngƣời thực hiện


Lê Thị Lâm

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu 4
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4
4.1. Mục đích 4
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 5
5.1. Phương pháp nghiên cứu 5
5.2. Nguồn ngữ liệu 5
6. Đóng góp của khóa luận 5
7. Cấu trúc khóa luận…………………………………………………………….6

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT 7
1.1. Khái quát về tín hiệu thẩm mĩ 7
1.2. Mối quan hệ giữa tín hiệu – tín hiệu ngôn ngữ - tín hiệu thẩm mĩ 8
1.2.1. Tín hiệu 8
1.2.2. Tín hiệu ngôn ngữ 10
1.2.3. Tín hiệu thẩm mĩ 11
1.3. Những đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ 14
1.3.1. Tính đẳng cấu 14
1.3.2. Tính cấp độ 15
1.3.3. Tính tác động 16
1.3.4. Tính biểu hiện 17
1.3.5. Tính biểu cảm (tính bộc lộ) 18
1.3.6. Tính biểu trưng 18
1.3.7. Tính truyền thống và cách tân 19

1.3.8. Tính hệ thống 20
1.3.9. Tính trừu tượng và cụ thể 20
1.4. Tín hiệu thẩm mĩ và ngôn ngữ văn học 22
1.5. Sơ lược về các tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao 23
Tiểu kết chương 1 24
CHƢƠNG 2. TÍN HIỆU THẨM MĨ HOA VÀ ĐẶC TRƢNG TƢ DUY -
VĂN HÓA CỦA NGƢỜI VIỆT TRONG CA DAO 26
2.1. Dẫn nhập 26
2.2. Kết quả khảo sát về tín hiệu thẩm mĩ “hoa” trong ca dao. 26
2.2.1. Tín hiệu hằng thể “hoa” trong ca dao 27
2.2.2 Các biến thể của tín hiệu thẩm mĩ “hoa” trong ca dao 28
2.2.2.1 Biến thể từ vựng của tín hiệu hằng thể “hoa” 28
2.2.2.2 Biến thể kết hợp của tín hiệu hằng thể “hoa” 30
a. Những biến thể kết hợp của tín hiệu thẩm mĩ hoa biểu thị tên gọi của các loài
hoa 31

b. Những biến thể kết hợp của tín hiệu thẩm mĩ hoa biểu thị thuộc tính của hoa 36
c. Những biến thể kết hợp chỉ hoạt động tác động đến hoa 43
2.3. Đặc trưng tư duy – văn hóa của người Việt qua tín hiệu thẩm mĩ “hoa”
trong ca dao 46
Tiểu kết chương 2 49
KẾT LUẬN 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Tín hiệu thẩm mĩ là khái niệm không còn xa lạ với các nhà nghiên cứu và
kể cả đối với người đọc. Tín hiệu thẩm mĩ là một khái niệm có liên quan đến lí
thuyết tín hiệu học nói chung, lí thuyết ngôn ngữ học nói riêng, đặc biệt là
những tín hiệu thẩm mĩ có trong các tác phẩm văn chương. Ngôn ngữ khi đi vào
thế giới thơ ca nghệ thuật đã được chuyển hóa thành một tín hiệu nghệ thuật, tín
hiệu thẩm mĩ ngôn ngữ hay còn là tín hiệu văn chương.
Tín hiệu thẩm mĩ là vấn đề được sự quan tâm của tất cả các ngành nghệ
thuật nói chung và của văn học nói riêng. Nghiên cứu, giải mã tín hiệu thẩm mĩ
là một công việc khó khăn, đòi hỏi nhiều tâm sức của các nhà nghiên cứu và
cũng gây ra không ít tranh luận về vấn đề này. Trong văn học, nghiên cứu tín
hiệu thẩm mĩ tức là tiếp cận tác phẩm văn học từ phương diện ngôn ngữ học, từ
góc độ văn bản tác phẩm. Vì vậy mà sẽ cho chúng ta những nhận xét chính xác,
khách quan về tác phẩm văn học.
Theo GS. Đỗ Hữu Châu, ngôn ngữ văn học có thể được xem là một hệ
thống tín hiệu bao gồm các tín hiệu thông thường và các tín hiệu thẩm mĩ. Tín
hiệu thông thường chỉ thực hiện chức năng tái tạo hiện thực (thực hiện chức
năng giao tiếp lí trí là chủ yếu). Các tín hiệu thẩm mĩ luôn chứa đựng những tư
tưởng, những ý nghĩ nào đó của tác giả thông qua quá trình khái quát hóa, biểu

tượng hóa nghệ thuật. Vì vậy tín hiệu thẩm mĩ là cơ sở giải mã hình tượng, lí
giải tính hàm súc, biểu trưng, giàu sức gợi của ngôn ngữ nghệ thuật.
Nền văn học dân gian Việt Nam rất nổi bật với sự kết hợp của nhiều thể
loại như truyền thuyết, truyện cổ tích, thần thoại… và một bộ phận không thể
thiếu đó là ca dao. Là một thể loại khá tiêu biểu và có vị trí quan trọng trong đời
sống xã hội, ca dao sử dụng rất nhiều hình ảnh độc đáo, thú vị và cũng rất gần
gũi với cuộc sống con người. Không chỉ thế, ca dao còn sử dụng rất nhiều hình
ảnh như những tín hiệu thẩm mĩ để phản ánh cuộc sống của người dân lao dộng,
tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước… như hình ảnh hoa, chim

2
muông, cá nước… Trong ca dao người Việt, các tín hiệu thẩm mĩ và giá trị của
chúng đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Khóa luận mà
chúng tôi lựa chọn với đề tài Tín hiệu thẩm mĩ “hoa” và đặc trưng tư duy - văn
hóa của người Việt trong ca dao nhằm góp phần khẳng định một cách tiếp cận
mới các hình tượng văn học từ góc độ lí thuyết về tín hiệu thẩm mĩ và đặc trưng
tư duy văn hóa của người Việt, đồng thời góp thêm tiếng nói ca ngợi tài năng
xuất chúng của các tác giả dân gian trong việc sử dụng ngôn ngữ. Tìm hiểu giá
trị biểu hiện của tín hiệu thẩm mĩ hoa cũng nhằm khẳng định những giá trị và
đóng góp về phương diện ngôn ngữ cho thơ ca dân tộc, phục vụ cho việc giảng
dạy ca dao trong chương trình Ngữ văn 10 trung học phổ thông hiện nay, và ở
một mức độ nhất định nào đó góp phần nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mĩ
trong ca dao nói riêng và đối với văn học nói chung.

2. Lịch sử vấn đề
Tín hiệu thẩm mĩ trong văn chương là một lãnh địa không quá mới mẻ
nhưng trừu tượng, khó nắm bắt. Đây vừa là một trở ngại nhưng chính nó cũng
vô cùng lôi cuốn, hấp dẫn người nghiên cứu. Từ trước đến nay nghiên cứu ngôn
ngữ trong lĩnh vực văn chương rất được chú ý bởi các nhà ngôn ngữ học nổi
tiếng như Đỗ Hữu Châu, Trần Đình Sử, Hoàng Trinh, Đào Thản, Hoàng Tuệ…

Ngoài ra còn có rất nhiều công trình nghiên cứu khác cũng quan tâm đến vấn đề
này và chủ yếu được soi rọi dưới góc nhìn của ngôn ngữ học hiện đại.
Khoa học nghiên cứu tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương có thể
kể đến công trình của một số tác giả như: Trần Thị Thái với “Một số tín hiệu
thẩm mĩ trong thơ Tố Hữu”; Lê Thị Tuyết Hạnh với “Một số tín hiệu thẩm mĩ
trong thơ Xuân Quỳnh”; Đỗ Ngọc Thư với công trình “Khảo sát các tín hiệu
thẩm mĩ “Mùa xuân” và “Trái tim” trong thơ Xuân Diệu”; Lưu Văn Din với
nghiên cứu “Đặc điểm ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử từ góc nhìn tín hiệu thẩm
mĩ”… Bên cạnh đó cũng có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu quan
tâm đến tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao như: Phạm Thị Kim Anh với “Tín hiệu
thuộc trường nghĩa cây trong thơ Việt Nam”; Nguyễn Thị Duyên với “Ý nghĩ

3
biểu trưng của hệ biểu tượng con số trong ca dao người Việt. Ngoài ra, “Ngôn
ngữ văn chương” của Hoàng Kim Ngọc (chủ biên) – Hoàng Trọng Phiến và
“Ngôn ngữ với văn chương” của Bùi Minh Toán cũng đề cập đến tín hiệu thẩm
mĩ trên cơ sở kế thừa những tác giả đi trước. Những công trình như đã kể trên
đều xuất phát từ cái nhìn của ngôn ngữ học hiện đại, chứng minh được rằng:
Ngôn ngữ nghệ thuật là thứ ngôn ngữ đặc biệt. Nó chồng lên trên ngôn ngữ tự
nhiên. Tín hiệu thẩm mĩ chính là ngôn ngữ nghệ thuật như vậy. Khi ngôn ngữ tự
nhiên trở thành tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật hay tín hiệu văn chương thì nó là
phương thức diễn đạt nội dung nghệ thuật của tác phẩm ngôn từ. Như vậy văn học
là nghệ thuật ngôn từ. Có thể thấy rằng, nghiên cứu về tín hiệu thẩm mĩ trong văn
chương được quan tâm nghiên cứu nhiều và ngày càng tỏ ra rất có ưu thế.
Đặc biệt, tác giả Trương Thị Nhàn có công trình nghiên cứu “Sự biểu đạt
bằng ngôn ngữ của tín hiệu thẩm mĩ - không gian trong ca dao” cùng với công
trình “Tiếp cận tác phẩm thơ ca dưới ánh sáng ngôn ngữ học hiện đại” của tác
giả Bùi Trọng Ngoãn là hai công trình có đề cập về tín hiệu thẩm mĩ có giá trị
nhất. Những bài viết này khẳng định được ý nghĩa thực tiễn của hướng nghiên
cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ học; đồng thời đã có những đóng góp bổ sung

quan trọng vào lí thuyết về tín hiệu thẩm mĩ.
Trong nền văn học dân gian, các hình ảnh mang tín hiệu thẩm mĩ rất
phong phú, đa dạng. Các tín hiệu thẩm mỹ này đang dần dần được đánh giá
đúng với những giá trị vốn có của chúng. Mặc dù đã có rất nhiều bài viết, nhiều
đề tài nghiên cứu về hệ thống các tín hiệu thẩm mĩ được sử dụng trong ca dao,
nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy công trình nào đề cập đến tín hiệu thẩm mĩ
hoa một cách đầy đủ và trọn vẹn nhất, mặc dù đây là nhóm biểu tượng xuất hiện
với tần số cao trong các sáng tác dân gian nói chung, ca dao nói riêng. Đây
chính là lí do để đề tài khóa luận dành cho vấn đề còn bỏ ngỏ này.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của đề tài này là tín hiệu thẩm mĩ hoa trong

4
ca dao và đặc trưng tư duy - văn hóa của người Việt biểu hiện qua tín hiệu thẩm
mĩ này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ có hạn của một khóa luận tốt nghiệp Đại học, đề tài chỉ tập
trung nghiên cứu những tín hiệu thẩm mĩ hoa trong ca dao, qua đó tìm hiểu về
đặc trưng tư duy và văn hóa của người Việt biểu hiện qua việc sử dụng tín hiệu
thẩm mĩ này.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Dựa trên những cơ sở lí thuyết về tín hiệu thẩm mĩ, khóa luận mong muốn
tiếp tục thể nghiệm phương pháp nghiên cứu văn học dưới cái nhìn của tín hiệu
học nói chung, ngôn ngữ học nói riêng thông qua tín hiệu thẩm mĩ hoa trong ca
dao của người Việt. Đồng thời đóng góp tiếng nói khẳng định thêm những thành
công của việc sử dụng tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao dân tộc Việt đối với nền

văn học nước nhà.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ sau:
- Giới thiệu khái quát những vấn dề lí thuyết có liên quan đến đề tài: khái
quát về tín hiệu thẩm mĩ, mối quan hệ giữa tín hiệu - tín hiệu ngôn ngữ - tín hiệu
thẩm mĩ.
- Thu thập và khảo sát ngữ liệu
- Thống kê, phân loại nguồn ngữ liệu
- Phân tích tìm ra nghĩa của từ theo ngữ cảnh sử dụng; tổng hợp các giá trị
chính của tín hiệu thẩm mĩ hoa dựa trên các nội dung ý nghĩa được thể hiện, các
giá trị về mặt dụng học để rút ra những kết luận khái quát về đặc trưng tư duy –
văn hóa của người Việt trong ca dao.




5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài bao gồm:
a. Phương pháp thống kê, phân loại
Trước hết khóa luận tiến hành thống kê toàn bộ số lượng những câu ca
dao nói về hoa trong mọi hoàn cảnh xuất hiện của chúng – dưới dạng hằng thể,
biến thể và các yếu tố ngôn ngữ khác cùng xuất hiện với các tín hiệu thẩm mĩ
này. Đó là cơ sở khoa học cho những nhận định, kết luận của khóa luận. Qua kết
quả phân loại có thể rút ra những nhận xét một cách chính xác, khách quan và
khoa học.
b. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Trên cơ sở của việc thống kê, phân loại khóa luận tiến hành phân tích diễn
ngôn và ngữ dụng học tức phân tích nghĩa của từ theo ngữ cảnh sử dụng,

phương pháp phân tích được áp dụng khi tiến hành khảo sát sự xuất hiện của từ
hoa cùng với các từ ngữ khác xuất hiện kèm theo ở những ngữ cảnh khác nhau
trong câu ca dao với tư cách là những tín hiệu thẩm mĩ văn chương biểu thị cho
một cái gì khác nó. Dựa vào kết quả phân tích ý nghĩa của các từ ngữ đó trong
hoàn cảnh sử dụng, tác giả khóa luận tiến hành tổng hợp để rút ra những kết luận
khái quát.
Trong quá trình đó, khóa luận sử dụng phương pháp bình. Đây không phải
là phương pháp chủ yếu mà đây chỉ là cách tiếp cận sâu hơn khi cần phân tích về
đặc trưng tư duy cũng như văn hoá của người Việt nói chung thể hiện trong ca
dao qua việc sử dụng tín hiệu thẩm mĩ hoa.
5.2. Nguồn ngữ liệu
Nguồn ngữ liệu chủ yếu của khóa luận là những câu ca dao Việt Nam có
chứa tín hiệu thẩm mĩ hoa. Cụ thể là ngữ liệu trong “Kho tàng ca dao người
Việt” tập 1, tập 2 của Nguyễn Xuân Kính (chủ biên).

6. Đóng góp của khóa luận
Với đề tài “Tín hiệu thẩm mĩ “hoa” và đặc trưng tư duy – văn hóa của

6
người Việt trong ca dao” khóa luận mong muốn góp tiếng nói của mình vào lĩnh
vực nghiên cứu tín hiệu thẩm mĩ văn chương vốn là địa hạt tuy không quá mới
mẻ nhưng luôn thú vị. Những kết quả của khóa luận có thể có những đóng góp
nhất định vào địa hạt nghiên cứu tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao của dân tộc.
Ngoài ra, xét về mặt thực tiễn nếu kết quả thực hiện tốt khóa luận sẽ giúp ích
cho việc tìm hiểu và giảng dạy ca dao của giáo viên trong nhà trường từ góc độ
ngôn ngữ học đảm bảo mục tiêu bài học.

7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, đề tài
“Tín hiệu thẩm mĩ “hoa” và đặc trưng tư duy – văn hóa của người Việt trong ca

dao” có cấu trúc gồm 2 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết.
Chương 2: Tín hiệu thẩm mĩ “hoa” và đặc trưng tư duy – văn hóa của
người Việt trong ca dao.















7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT

1.1. Khái quát về tín hiệu thẩm mĩ
Với tư cách là một phương tiện đặc thù nhằm truyền tải những thông tin
thẩm mĩ, ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương vừa được sử dụng như những tín
hiệu thẩm mĩ, vừa là cái biểu đạt cho các tín hiệu thẩm mĩ. Đến lượt mình, tác
phẩm văn chương cũng chính là tín hiệu thẩm mĩ. Nghiên cứu tín hiệu thẩm mĩ
là một công việc cần thiết đối với người làm công tác nghiên cứu văn học nói
chung. Tìm hiểu tín hiệu thẩm mĩ trong văn chương nghĩa là chúng ta đi tìm

hiểu quan hệ của tín hiệu thẩm mĩ với tín hiệu ngôn ngữ, nguồn gốc và cách
thức cấu tạo của tín hiệu thẩm mĩ.
Khi nói đến lí thuyết về tín hiệu thẩm mĩ tức là nói đến lí thuyết về tín
hiệu, tín hiệu ngôn ngữ, tín hiệu thẩm mĩ đặt trong mối qua hệ gắn bó chặt chẽ
với nhau. Những đơn vị lí thuyết này đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu ngôn ngữ học, nhiều công trình nghiên cứu về ngôn ngữ làm nên
diện mạo đầy đủ của lí thuyết về tín hiệu thẩm mĩ.
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, khóa luận dựa vào những kết quả
nghiên cứu của các nhà khoa học nổi tiếng về ngôn ngữ để xây dựng cơ sở lí
thuyết cho việc nghiên cứu tín hiệu thẩm mĩ “hoa” trong ca dao.
Tín hiệu thẩm mĩ là loại tín hiệu có chức năng thẩm mĩ: biểu hiện cái đẹp,
truyền đạt và bồi dưỡng cảm xúc về cái đẹp. Nó cũng cần có hai mặt: cái biểu
đạt và cái được biểu đạt, nhưng cái được biểu đạt là ý nghĩa thẩm mĩ (dẫn theo
[25; 139]).
Mỗi loại hình nghệ thuật đều có tín hiệu thẩm mĩ, tuy được tạo ra bằng các
chất liệu và phương thức khác nhau. Trong nghệ thuật văn chương, chất liệu là
ngôn ngữ hàng ngày của con người, là các tín hiệu ngôn ngữ. Nhưng khi sáng
tác, người nghệ sĩ đã dùng chất liệu ngôn ngữ để tạo ra các tín hiệu thẩm mĩ
trong văn chương. Mỗi tín hiệu thẩm mĩ trong văn chương cũng có ý nghĩa và
chức năng thẩm mĩ của nó.

8
1.2. Mối quan hệ giữa tín hiệu – tín hiệu ngôn ngữ - tín hiệu thẩm mĩ
1.2.1. Tín hiệu
P. Guiraud định nghĩa theo nghĩa rộng: “Một tín hiệu là một kích thích mà
tác động của nó đến cơ thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích thích khác” (dẫn
theo [7; 51]). Còn A. Schaff định nghĩa theo nghĩa hẹp: “Một sự vật vật chất hay
thuộc tính của nó, một hiện tượng thực tế sẽ trở thành tín hiệu nếu như trong
quá trình giao tiếp, nó được các nhân vật giao tiếp sử dụng trong khuôn khổ của
một ngôn ngữ để truyền đạt một tư tưởng nào đó về thực tế, tức về thế giới bên

ngoài hay về những cảm thụ nội tâm (những cảm xúc, những cảm thụ nghệ
thuật, một ý chí…)”.
Dù hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, thì khái niệm tín hiệu vẫn là một
khái niệm quan hệ, không phải là một khái niệm vật tự thân. Có nghĩa là một sự
vật (hay thuộc tính vật chất, hay hiện tượng) muốn trở thành tín hiệu phải nằm
trong quan hệ với những sự vật khác. Và bản chất của tín hiệu bao gồm hai mặt
hình thức và nội dung, hai mặt đó gắn bó mật thiết, biện chứng với nhau.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, tất cả những hình thức vật chất có khả năng gợi
ra hình ảnh đều được coi là tín hiệu, không phân biệt nguồn gốc tự nhiên hay
nhân tạo, có chức năng giao tiếp hay phi giao tiếp… Chẳng hạn, khói báo hiệu
có lửa. Hay:
(1) “Chuồn chuồn bay thấp trời mưa
Bay cao trời nắng đập dừa em ăn.”
Sự vật chuồn chuồn có khả năng gợi ra “hình ảnh” về thời tiết. Chuồn
chuồn bay thấp gợi hình ảnh về cơn mưa, chuồn chuồn bay cao gợi hình ảnh về
ngày hôm sau nắng đẹp trong nhận thức của con người.
Một giọng nói “tự nói lên” những đặc điểm về quê quán, về tuổi tác, nghề
nghiệp hay một trạng thái tâm sinh lí… của người nói trong sự nhận thức của
người nghe. Trong ca dao, thông thường một cánh bướm nhỏ hiểu trong ý nghĩa
của người con trai; còn hoa được hiểu trong ý nghĩa của người con gái. Các nhà
nghiên cứu lí thuyết về thông tin gọi đó là những yếu tố mang “tin” (thông tin).
Các nhà nghiên cứu nghĩa học gọi đó là những yếu tố mang “nghĩa”…

9
Tác giả Đỗ Hữu Châu tổng hợp ý kiến của F. De. Saussure và Ch. W.
Morris, và đã có dịp trình bày một cách sáng tỏ, cụ thể hơn về những điều kiện
cơ bản để một “kích thích” (hình thức vật chất tác động) được coi là tín hiệu
theo cách hiểu trên, qua đó chỉ ra hướng xác định tín hiệu bởi bốn điều kiện sau:
1) Phải có một hình thức cảm tính (“cái biểu hiện”) ;
2) Phải có một nội dung ý nghĩa (“cái được biểu hiện”) ;

3) Phải được nhận thức bởi một chủ thể nào đó (đối tượng của thông tin);
4) Phải nằm trong một hệ thống nhất định.
Những điều kiện này cũng chính là cơ sở cho sự nhận diện tín hiệu trong
đề tài. Mỗi tín hiệu là cái tổng thể do sự kết hợp giữa cái biểu hiện và cái được
biểu hiện. Cái biểu hiện trong ngôn ngữ là hình thức ngữ âm, còn cái được biểu
hiện là khái niệm hay đối tượng được biểu thị.
Đã có nhiều kết quả phân loại tín hiệu khác nhau. K. Buhler chia các tín
hiệu thành: symbole; symptome và signal. Điều đáng chú ý là K. Buhler đã thấy
được rằng ngay một tín hiệu cùng đồng thời thực hiện cả ba chức năng: chỉ ra
cái sự vật đối tượng của giao tiếp, bộc lộ trạng thái sinh lí hay tâm lí… của
người nói, gây ra những tác động sinh lí hay tâm lí ở người nghe. Peirce chia các
tín hiệu thành ba loại chính: Hình hiệu (icones), biểu trưng (symboles) và dấu
vết hay dấu hiệu (indices). Morris dựa vào quan hệ giữa tín hiệu với các loại sự
vật mà chúng biểu thị chia tín hiệu thành hai loại: các chỉ hiệu (signe indexe) và
tín hiệu nêu đặc tính hay các định hiệu (signes caracterisants). Morris cũng chia
các định hiệu thành hai loại hình hiệu và các symbole.
Trong nhiều cách phân loại tín hiệu đó, cách phân loại của Đỗ Hữu Châu
vừa bao quát được tất cả những phạm trù loại khác nhau của tín hiệu, vừa chỉ ra
được mối quan hệ loại hình giữa các tín hiệu trên các tiêu chí khác nhau như:
Đặc tính thể chất của cái biểu hiện; Nguồn gốc tín hiệu; Tính chất mối quan hệ
giữa hai mặt cái biểu hiện và cái được biểu hiện; Chức năng xã hội của tín
hiệu,… Tác giả Đỗ Hữu Châu phân loại theo cách đưa ra nguyên tắc phân loại
theo những tiêu chí khác nhau, trong đó có phân loại theo chức năng, phân biệt
các tín hiệu theo giao tiếp và phi giao tiếp…, phân loại theo đặc tính thể chất của

10
tín hiệu, phân biệt các tín hiệu thị giác, tín hiệu thính giác, tín hiệu xúc giác…;
phân loại theo đặc tính chuyển mã hay chưa chuyển mã, phân biệt các tín hiệu
thứ cấp – còn gọi là “tín hiệu” và các tín hiệu sơ cấp…
1.2.2. Tín hiệu ngôn ngữ

Ngôn ngữ đảm nhiệm những chức năng trọng đại trong đời sống con
người và xã hội loài người, trong đó có hai chức năng cơ bản là: chức năng tư
duy và chức năng giao tiếp. Để thực hiện được điều đó, ngôn ngữ đã được tổ
chức theo những nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc tín hiệu và nguyên tắc hệ thống,
nói cách khác ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu. Tín hiệu ngôn ngữ nói riêng và
tín hiệu nói chung đều là những dạng vật chất tác động vào giác quan của con
người để con người nhận thức và lĩnh hội được một nội dung ý nghĩa cần thiết
về hiểu biết, tư tưởng, tình cảm, hành động hay cảm xúc.
Hệ thống ngôn ngữ là hệ thống nhân tạo có chức năng quan trọng nhất là
chức năng giao tiếp. Tuy nhiên, ngôn ngữ không chỉ thần túy mang chức năng
giao tiếp mà đồng thời còn là công cụ để tư duy, tổ chức xã hội, duy trì sự sống
con người, còn mang chức năng thi pháp… Tín hiệu ngôn ngữ vì vậy vừa là tín
hiệu giao tiếp, vừa có thể là tín hiệu nhận thức, tín hiệu biểu hiện…
Từ những khía cạnh chức năng khác nhau của ngôn ngữ có thể xác định ý
nghĩa “tín hiệu” của chúng trên tất cả các đơn vị mang nghĩa (đơn vị hai mặt), từ
từ đến cụm từ, đến câu, đoạn, văn bản. Một từ, ngữ, câu nói nào đó có thể vừa
mang những thông tin về sự vật, hiện tượng được nói đến, vừa bộc lộ những đặc
điểm về địa phương, về nghề nghiệp, về trạng thái tâm lí của người nói… Qua
các từ “đi”, “mô”, “nỏ” trong câu ca dao:
(2) “Đi mô nỏ biết đi mô
Thắp đèn mà đợi, tim khô hao dầu.”
cho biết người nói là người miền trung xứ Nghệ.
(3) “Chồng chài, vợ lưới, con câu
Lân la khúc vịnh mặc dầu nổi trôi.”
câu ca dao cho nói về cuộc sống hạnh phúc, vô tư của gia đình sống bằng nghề
chài lưới:

11
(4) “Có bạc thời tình phụ tiền
Có nhân ngãi mới, anh quên tôi rồi.”

câu ca dao là lời than trách của cô gái về sự bội bạc trong tình yêu…
Ở bất kì cấp độ nào, một tín hiệu ngôn ngữ cũng phải bao hàm một hình
thức ngữ âm (cái biểu hiện) tương ứng với một nội dung ngữ nghĩa (cái được
biểu hiện) và ở bất kì cấp độ nào, giá trị của tín hiệu ngôn ngữ cũng phải do
những mối quan hệ thuộc hệ thống ngôn ngữ quy định.
Nói đến các quan hệ hệ thống của tín hiệu ngôn ngữ, “Giáo trình ngôn
ngữ học đại cương” của F. De. Saussure đã đề cập đến hai loại quan hệ chung
nhất đó là:
1) Quan hệ đồng nhất – đối lập và quan hệ khác biệt;
2) Quan hệ hình tuyến và quan hệ trực tuyến.
Ngôn ngữ học hiện đại lưu ý thêm các loại quan hệ: Quan hệ tôn ti (giữa
các cấp độ của ngôn ngữ) và quan hệ hiện thực hóa (giữa bình diện trừu tượng
và bình diện cụ thể, giữa điển dạng và hiện dạng của tín hiệu)…
Những nguyên tắc của đồng nhất và đối lập, của kết hợp (hay tuyến tính)
và liên tưởng (hay trực tuyến), điển dạng (hay hằng thể) và hiện dạng (hay biến
thể) trong hệ thống ngôn ngữ sẽ là những cơ sở lí thuyết quan trọng giúp chúng
ta lí giải về các tín hiệu ngôn ngữ trong quá trình hoạt động thực hiện các chức
năng của ngôn ngữ trong giao tiếp, kể cả giao tiếp nghệ thuật (giao tiếp văn học)
có liên quan đến những nhiệm vụ mà đề tài khóa luận này cần giải quyết.
1.2.3. Tín hiệu thẩm mĩ
Tín hiệu thẩm mĩ (hay kí hiệu thẩm mĩ) là khái niệm ra đời cùng với
khuynh hướng cấu trúc trong nghiên cứu mĩ học và nghệ thuật những năm giữa
thế kỉ XX và được tiếp nhận vào nước ta từ những năm 70 qua những bản dịch
các công trình khoa học của Đỗ Hữu Châu, Trần Đình Sử, Nguyễn Lai,… Trong
luận án “Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mĩ – không gian trong ca
dao” tác giả Trương Thị Nhàn chỉ ra rằng: điểm chung nhất trong quan niệm của
các nhà nghiên cứu là việc thừa nhận tín hiệu thẩm mĩ là yếu tố thuộc hệ thống
phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Đó là những phương tiện nghệ thuật được

12

tập trung theo một hệ thống thẩm mĩ, được chúng ta tiếp nhận như là những tín
hiệu đặc biệt, có khả năng kích thích mạnh mẽ thế giới tinh thần của chúng ta.
Những tín hiệu này được kể đến một cách cụ thể hơn trong quan niệm của
M. B. Khrapchenco: Những nhân hóa, ẩn dụ cố định, phúng dụ, tượng trưng,
những hình tượng nghệ thuật đã được mài mòn và cố định hóa về mặt ý nghĩa
mà theo tác giả, phù hợp với điều kiện hoạt động chức năng quan trọng của kí
hiệu là phải có một cách hiểu thường xuyên được nhiều người biết đến. Khái
niệm tín hiệu thẩm mĩ được các nhà ngôn ngữ - phong cách học giới hạn trong
những tín hiệu nghệ thuật chìa khóa có giá trị tổ chức để biểu hiện tư tưởng tình
cảm của bài văn, hay những “thần cú”, những “nhãn tự”, những tín hiệu ngôn
ngữ mang phẩm chất thẩm mĩ: những từ ngữ, những đối thoại có tính thẩm mĩ
trong văn học.
Nói đến phương tiện của nghệ thuật, phải tính đến hai mặt: mặt thể chất và
mặt tinh thần. Trong đó mặt thể chất có thể dễ dàng nhận biết và phân định qua
sự nhận biết của các chất liệu (hình thức vật chất) được sử dụng trong mỗi
ngành nghệ thuật: đường nét, màu sắc trong hội họa, âm thanh có nhịp điệu
trong âm nhạc, ngôn ngữ trong văn học. Còn mặt tinh thần thì trừu tượng và
phức tạp, bao hàm nhiều loại nội dung, nhiều lớp ý nghĩa, nhiều tầng khái quát
hóa, trừu tượng hóa mang tính thẩm mĩ. Mặt tinh thần có thể gắn với hình thức
vật chất trong một nội dung hiện thực cụ thể nào đó, nhưng cái làm nên giá trị
nghệ thuật lại nằm ở sức khái quát của những nội dung hình tượng có thể đồ sộ
hơn rất nhiều so với ý nghĩa của bản thân thực tế, cuộc sống (dẫn theo [16; 18]).
Phương tiện và chất liệu trong nghệ thuật không thể đánh đồng với nhau,
cũng không thể phân định tín hiệu thẩm mĩ chỉ căn cứ trên chất liệu. Không thể
đồng nhất tín hiệu ngôn ngữ thông thường được dùng làm chất liệu trong tác
phẩm văn học với phương tiện của nghệ thuật là tín hiệu thẩm mĩ. Văn chương
nghệ thuật xây dựng tín hiệu thẩm mĩ bằng ngôn ngữ tự nhiên, bằng các tín hiệu
ngôn ngữ thông thường. Do đó, nhà văn cần sáng tạo các tín hiệu thẩm mĩ trên
cơ sở tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên.



13
Chẳng hạn:

(5) “Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.”
câu ca dao quen thuộc, đều thuộc tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên. Đây là một sản
phẩm ngôn ngữ. Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, nhà văn cần phải dùng tín
hiệu ngôn ngữ tự nhiên nhưng thực hiện quá trình xây dựng lại, cấu tạo lại để
chuyển từ tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên thành tín hiệu thẩm mĩ, biểu hiện ý nghĩa
thẩm mĩ. Quá trình cấu tạo lại có thể trải qua nhiều khâu, nhiều bước. Nhà văn
quan sát, chiêm nghiệm thực tế khách quan để lựa chọn các đối tượng trong thực
tế. Mỗi đối tượng như vậy được gọi bằng một từ trong ngôn ngữ tự nhiên.
Chẳng hạn, có hai đối tượng thuyền – bến, quan hệ mật thiết, chi phối lẫn nhau,
cùng tồn tại. Tuy mối quan hệ đó cũng có trạng thái xa rời, cách biệt: thuyền di
chuyển, đòi hỏi giữ vững, duy trì quan hệ. Bởi thế, nhà văn xây dựng hai tín hiệu
thẩm mĩ gắn bó, tạo ý nghĩa thẩm mĩ – quan hệ tình cảm con người.
Từ sự phân tích ý nghĩa thực sự của phương tiện trong các tác phẩm văn
học, tác giả Đỗ Hữu Châu đã có những kiến giải cụ thể hơn về tín hiệu thẩm mĩ.
Tín hiệu thẩm mĩ là phương tiện sơ cấp của văn học. Ngôn ngữ (chất liệu) trong
văn học chỉ là hình thức – cái biểu hiện của tín hiệu thẩm mĩ, là phương tiện thứ
cấp, là kí hiệu so với tín hiệu thẩm mĩ. Trả lời cho câu hỏi: thế nào là tín hiệu
thẩm mĩ?, tác giả Đỗ Hữu Châu chủ trương căn cứ vào sự tương ứng của tín
hiệu thẩm mĩ với các vật quy chiếu thuộc thế giới hiện thực. Tín hiệu thẩm mĩ
phải tương ứng với một vật quy chiếu nào đấy trong thế giới hiện thực. Một con
thuyền, một dòng sông, một nỗi buồn… nào đó chẳng hạn. Tín hiệu thẩm mĩ là
cái được tác giả lựa chọn từ thế giới hiện thực mà xây dựng nên, sáng tạo ra (dẫn
theo [17; 576]). Như vậy có thể thấy rằng, tín hiệu thẩm mĩ chính là toàn bộ
những yếu tố hiện thực, những chi tiết, những sự vật, hiện tượng của đời sống
được đưa vào tác phẩm vì mục đích thẩm mĩ.

Nếu coi ngôn ngữ tự nhiên là hệ thống tín hiệu nguyên cấp (hệ thống tín
hiệu thứ nhất) thì ngôn ngữ nghệ thuật là hệ thống tín hiệu thứ cấp (hệ thống tín

14
hiệu thứ hai). Hình thức ngữ âm và ý nghĩa sự vật – logic của ngôn ngữ tự nhiên
là cái biểu hiện của ngôn ngữ nghệ thuật, còn cái được biểu hiện là các lớp ý
nghĩa hình tượng. Khi đó hệ thống thứ nhất sẽ làm bình diện thể hiện hoặc làm
cái biểu đạt cho hệ thống thứ hai.
Trong “Ngôn ngữ với văn chương” tác giả Bùi Minh Toán chỉ ra rằng tín
hiệu thẩm mĩ là loại tín hiệu có chức năng thẩm mĩ: biểu hiện cái đẹp, truyền đạt
và bồi dưỡng cảm xúc về cái đẹp. Nó cũng cần có hai mặt: cái biểu đạt và cái
được biểu đạt, nhưng cái được biểu đạt là ý nghĩa thẩm mĩ (dẫn theo [25; 139]).
Từ những cách nhìn trên về tín hiệu thẩm mĩ, khóa luận chấp nhận cách
hiểu về tín hiệu thẩm mĩ như sau: tín hiệu thẩm mĩ là tín hiệu thuộc hệ thống các
phương tiện biểu hiện của các ngành nghệ thuật, bao gồm toàn bộ những yếu tố
của hiện thực, của tâm trạng (những chi tiết, những sự vật, hiện tượng, những
cảm xúc thuộc đời sống hiện thực và tâm trạng), những yếu tố của chất liệu (các
yếu tố của chất liệu ngôn ngữ với văn chương, các yếu tố của chất liệu màu sắc
với hội họa; âm thanh có nhịp điệu với âm nhạc) được lựa chọn và sáng tạo
trong tác phẩm nghệ thuật vì mục đích thẩm mĩ (dẫn theo [16; 26 ] và [1; 23]).

1.3. Những đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ
Để có một cái nhìn toàn diện hơn về tín hiệu thẩm mĩ, cần trở lại với một
số đặc tính thường được nói tới của tín hiệu thẩm mĩ, bao gồm:
1.3.1. Tính đẳng cấu
Tính đẳng cấu được hiểu là sự giống nhau về quan hệ, về nội dung nhưng
khác nhau về hình thức biểu hiện. Đặc tính này được Đỗ Hữu Châu đề cập đến
khi nói tới tính thống nhất của ngôn ngữ - tín hiệu thẩm mĩ trong các ngành nghệ
thuật: Rất nhiều tín hiệu thẩm mĩ được sử dụng trong văn học, trong hội họa,
trong âm nhạc, trong điện ảnh… như những tín hiệu đồng nghĩa (có thể là đồng

cảm xúc). Chỉ khác nhau ở sự biểu hiện bằng các chất liệu riêng của từng ngành
(dẫn theo [8; 572]). Tính đẳng cấu của tín hiệu thẩm mĩ ở đây được xét đến
trong tương quan giữa các hệ thống chất liệu nghệ thuật khác nhau.

15
Giữa chất liệu hiện thực và tín hiệu thẩm mĩ cũng có quan hệ đẳng cấu.
Người ta thường tìm ra các lớp nghĩa khác nhau trong tác phẩm dựa trên tính
đẳng cấu này. Những hình ảnh tượng trưng, ước lệ cũng phần nào được lí giải
trên cơ sở tính đẳng cấu giữa chất liệu hiện thực và tín hiệu thẩm mĩ.
Thông thường các tín hiệu thẩm mĩ luôn đi với nhau thành từng cặp, bởi
vậy cũng có sự đẳng cấu giữa các cặp tín hiệu thẩm mĩ với nhau. Chẳng hạn với
motip “thân em” tác giả dân gian đã sáng tác ra hàng loạt những câu ca dao:
(6) “Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.”
hay
(7) “Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa.”
Hai câu ca dao trên đều nói về thân phận của người phụ nữ trong xã hội
xưa, đó là những những người luôn phải phụ thuộc vào kẻ khác, bất lực và
không thể tự quyết định số phận của mình.
Tuy nhiên giữa các cặp tín hiệu thẩm mĩ có khi diễn ra sự đổi chiều, khi
đó ý nghĩa thẩm mĩ cũng có sự thay đổi tương thích. Chẳng hạn:
(8) “Thân em như tấm lụa đào
Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai.”
hình ảnh tấm lụa đào không còn mang nét nghĩa người phụ nữ bị lệ thuộc như
rất nhiều câu ca dao khác mà nói lên vẻ đẹp, sự giữ gìn, sự tự chủ, tự quyết định
số phận mình.
1.3.2. Tính cấp độ
Căn cứ vào sự tương ứng của tín hiệu thẩm mĩ với các sự vật hiện tượng
trong thế giới hiện thực, tác giả Đỗ Hữu Châu đã đề xuất phân biệt tín hiệu thẩm

mĩ ở hai cấp độ cơ bản:
*Cấp độ cơ sở: Tín hiệu thẩm mĩ ứng với một yếu tố, một chi tiết, một sự
vật hiện tượng thuộc thế giới khách quan: một con đò, một dòng sông, một nỗi
buồn,… Đó là các tín hiệu đơn (hay tín hiệu cơ sở) có chức năng tham gia cấu
tạo nên tín hiệu thẩm mĩ ở bậc cao hơn trong tác phẩm.

16
*Cấp độ xây dựng: Tín hiệu thẩm mĩ ứng với nhiều sự vật, hiện tượng…
được xây dựng từ những tín hiệu đơn nhưng ý nghĩa không phải là kết quả của
phép cộng đơn giản những tín hiệu thẩm mĩ đơn. Loại tín hiệu phức được tạo ra
để biểu hiện những ý nghĩa thẩm mĩ mới trong tác phẩm văn chương. F. de.
Saussure đã chỉ ra rằng: “Thường chúng ta không nói bằng những tín hiệu riêng
lẻ mà bằng nhóm những tín hiệu, bằng khối có tổ chức cũng là tín hiệu (dẫn theo
[17; 153]). Cụ thể hơn, tín hiệu thẩm mĩ phức là tổ hợp của nhiều tín hiệu đơn
(mang ý nghĩa thẩm mĩ); đó có thể là những hình tượng văn học, hình tượng
nhân vật trong tác phẩm kể cả một tác phẩm đồ sộ.
Ví dụ: thành ngữ cá chậu chim lồng chỉ nói về cuộc sống tù túng, bó buộc,
mất tự do nhưng trong câu nói của Từ Hải, Nguyễn Du đã sử dụng thành ngữ
này bằng cách: đặt câu thành ngữ trong lời nói của Từ Hải cho thấy Từ Hải đã
biết tư cách của nàng không cam tâm làm gái lầu xanh tầm thường, mà chàng đã
có ý xem nàng là hồng nhan tri kỷ.
(9) “ Một đời được mấy anh hùng,
Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi!”
1.3.3. Tính tác động
Theo cách nói của P. Guiraud, sự tác động của tín hiệu thẩm mĩ trong bản
chất của một kích thích vật chất tác động lên kí ức của chủ thể tiếp nhận tạo nên
hình ảnh của một kích thích khác
Tác giả Đái Xuân Ninh cũng nhận định, hiệu quả tác động của xung động
tín hiệu mang lại là gây nên một tình huống mới trong nhận thức và hành động
của chủ thể tiếp nhận theo hướng mà người phát mong muốn, làm mới, làm

phong phú, làm thay đổi nhận thức thẩm mĩ và có thể điều khiển hành vi con
người. Từ chức năng kích thích của những xung động tín hiệu, có thể nói đến
vai trò của chủ thể tiếp nhận – đối tượng của sự tác động của tín hiệu thẩm mĩ.
Không có chủ thể tiếp nhận, không đo được sức kích thích của tín hiệu thẩm mĩ,
cũng có nghĩa không xác định được nội dung (hình tượng) và tính tự động, tính
cảm xúc của tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm. Qua những nhận định trên, có thể
thấy tính hai mặt không thể tách rời của tín hiệu cùng với hiệu lực thông báo

17
mới trở thành hiện thực. Điều này giải thích câu hỏi vì sao ở từng thời đại khác
nhau, từng đối tượng tác động khác nhau mà ý kiến nhận định về một câu thơ,
một bài thơ lại khen chê hoàn toàn trái ngược nhau. Chẳng hạn, bài thơ Tây Tiến
của tác giả Quang Dũng khi mới ra đời bị một số nhà phê bình đánh giá không
cao. Một vài câu thơ trước đây như:
(10) “Tây Tiến doàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.”
Và đặc biệt ở câu: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, thường bị phê phán
là miêu tả người lính với những nét không bình thường, xa lạ (lãng mạn tiểu tư
sản). Sau này người ta mới nhận ra, Quang Dũng muốn nói lên những gian khổ
(nhưng vẫn giữ oai hùm), bộc lộ bản chất của những thanh niên Hà Nội với
phong cách tài hoa, lãng mạn và những điều ấy không hề làm hạn chế hoặc giảm
đi nhiệt tình của tuổi trẻ khi bước vào cuộc sống chiến đấu lắm gian lao.
1.3.4. Tính biểu hiện
Tính biểu hiện (hay tính tái hiện) là đặc tính quan trọng liên quan đến sự
thực hiện chức năng chung của nghệ thuật, đó là chức năng phản ánh hiện thực.
Tín hiệu thẩm mĩ phải mang nội dung hiện thực nhất định, phải gắn với hiện
thực. Điều này có nghĩa là mỗi tín hiệu thẩm mĩ ứng với một sự vật, hiện tượng
thuộc thế giới vật chất hay tinh thần:
(11) “Một phen thay đổi sơn hà
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu.”

câu thơ nói lên thời đại mà xã hội phong kiến Việt Nam mục nát, rơi vào khủng
hoảng trầm trọng, đầy bóng tối và khổ đau.
Theo F.de.Saussure: “… tín hiệu là một thực thể có hai mặt nội dung và
hình thức không tách rời nhau, trong đó dấu hiệu vật thể có vai trò rất quan trọng
đối với người tiếp nhận. Nếu không có nội dung thì không có gì để truyền đạt; và
nếu có nội dung nhưng không qua lời nói, chữ viết thì người tiếp nhận cũng
không thể biết được nội dung mà người nói muốn truyền đạt (dẫn theo [17; 105]).
Theo Đỗ Hữu Châu, tín hiệu thẩm mĩ phải ứng với một sự vật, hiện tượng
nào đó trong thế giới hiện thực, phải có vật quy chiếu trong thế giới hiện thực.

18
Mặt khác sự biểu hiện của tín hiệu thẩm mĩ còn liên quan đến quá trình liên
tưởng trong chủ thể tiếp nhận. Vì vậy, lượng thông tin biểu hiện trong tín hiệu
thẩm mĩ cũng không phải nhất thành bất biến.
1.3.5. Tính biểu cảm (tính bộc lộ)
Để trở thành tín hiệu của thông tin thẩm mĩ, các tín hiệu thẩm mĩ không
thể chỉ dừng lại ở nội dung mang tính tái hiện. Ngoài những thông tin miêu tả
(nội dung tái hiện hiện thực), tín hiệu thẩm mĩ phải bao hàm những thông tin về
cảm xúc, về thái độ, về sự đánh giá, về tư tưởng thẩm mĩ của người nghệ sĩ.
Chẳng hạn nhà thơ Xuân Diệu vì mang nặng tình yêu mùa xuân tha thiết nên
mặc dù nó chỉ mới sắp tới, nhưng nhà thơ đã ở trong tâm trạng lo sợ mùa xuân
đi qua mau, thời gian trôi qua mau vì đó là quy luật tất yếu của thời gian:
(12) “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.”
Trong tín hiệu thẩm mĩ, cảm xúc vốn là tình cảm chủ quan của chủ thể
sáng tạo đã được khách quan hóa thành một thành phần quan trọng trong cơ cấu
nghĩa của tín hiệu. Nói đến cảm xúc, cũng là nói đến những đặc điểm lịch sử, xã
hội, tâm lí… chi phối cảm xúc, sự nhận thức - tiếp nhận cảm xúc từ cả hai phía
chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận.

Cùng một nội dung sự vật nhưng ý nghĩa biểu cảm khác nhau cũng tạo
nên cái mới, cái sinh động, cụ thể và riêng biệt cho tín hiệu thẩm mĩ trong mỗi
lần xuất hiện.
1.3.6. Tính biểu trưng
Là đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ xét trong mối quan hệ hai mặt cái biểu
hiện và cái được biểu hiện. Đó là mối quan hệ có lí do liên quan đến năng lực
biểu trưng hóa của các yếu tố, các chi tiết, các sự vật hiện tượng được đưa vào
làm tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm. Ch. S. Pierce cho rằng biểu trưng có quan
hệ với đối tượng của nó chỉ qua một nghĩa có tính chất ước lệ mà người ta gán
cho nó trong một hoàn cảnh nào đó. Nghĩa đó là do con người trong cộng đồng
đặt ra. Đặc tính này cho thấy lối tư duy, quan niệm xã hội… gắn với một cộng

19
đồng nào đấy, từ đó hình thành ý nghĩa xã hội nào đó, được cả cộng đồng chấp
nhận. Chẳng hạn, hình ảnh con cò lặn lội trong ca dao biểu trưng cho sự vất vả
cực nhọc của người nông dân:
(13) “Con cò lặn lội bờ ao
Phất phơ hai dải yếm đào gió bay.”
hình ảnh “vườn xuân”, “vườn đào” gắn với tình yêu đôi lứa trong ca dao:
(14) ”Bảy người cuốc cỏ vườn đào
Gái thuyền quyên xin hỏi trai anh hào: chữ chi?”
hình ảnh “cây đa”, “bến nước” biểu trưng cho làng quê Việt Nam.
(15) ”Cây đa rụng lá đầy đình
Bao nhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu.”
Cũng do tính biểu trưng mà hiệu lực, giá trị của tín hiệu thẩm mĩ phụ thuộc
vào cách tri nhận, cách giải thích theo một thiên hướng nào đấy, một quy ước
nào đấy của cả cộng đồng có khi lại trái ngược với cộng đồng khác.
1.3.7. Tính truyền thống và cách tân
Tính truyền thống và cách tân hay chính là vấn đề “cái mới” trong tín hiệu
thẩm mĩ. Truyền thống và cách tân là hai phương diện biện chứng của tín hiệu

thẩm mĩ (dẫn theo [8; 559]). Nói đến truyền thống là nói đến tính cố định, tính
lặp lại, tính kế thừa, đến sự “có sẵn” của tín hiệu thẩm mĩ trong kho tàng nghệ
thuật của một dân tộc. Còn cách tân là nói đến sự đổi mới, sự sáng tạo trong việc
sử dụng tín hiệu thẩm mĩ của mỗi tác giả, mỗi tác phẩm. Không có cách tân, tín
hiệu thẩm mĩ sẽ trở nên bị mài mòn, mất giá trị gợi hình tượng, gợi cảm xúc.
Ngược lại nếu không có truyền thống thì tín hiệu thẩm mĩ sẽ mất đi những điều
kiện nhất định về mặt liên tưởng giúp ích cho việc lĩnh hội tín hiệu thẩm mĩ
trong tác phẩm. Những câu thơ của Nguyễn Du phải bắt nguồn từ ca dao thì mới
có sức lay động lòng người đến như vậy:
(16) “Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.”
Nếu theo truyền thống thì ca dao chỉ diễn tả được quy luật như một lẽ
thường, đó là cảnh chia li xuôi ngược. Song Nguyễn Du đã cách tân ở chỗ dùng

20
lẽ thường ở đời đó mà khơi sâu được bi kịch tình yêu hết sức nghiệt ngã giữa
Thúy Kiều và Thúc Sinh, khi hai người chia tay nhau để chàng Thúc về quê thưa
chuyện với Hoạn Thư mong được lấy nàng Kiều. Đây cũng là cuộc chia tay
chưa biết ngày gặp lại, chưa biết sự thể sẽ thế nào nên nó thấm đẫm một màu sắc
tâm trạng.
Cái mới trong sử dụng tín hiệu thẩm mĩ của các tác giả có thể ở việc xây
dựng một tín hiệu thẩm mĩ hoàn toàn mới, nhưng chủ yếu vẫn là ở sự cách tân
tín hiệu thẩm mĩ, ở việc đổi mới các tín hiệu thẩm mĩ sẵn có trong truyền thống
đem lại cho chúng những ý nghĩa mới – những ý nghĩa chỉ có được thông qua sự
sáng tạo của tác giả trong chính hệ thống riêng mà tín hiệu thẩm mĩ tham gia.
1.3.8. Tính hệ thống
F. de. Saussure đã chỉ ra rằng: “Thường người ta không nói bằng tín hiệu
riêng lẻ, mà bằng từng nhóm tín hiệu, từng khối có tổ chức vốn cũng là tín hiệu”
(dẫn theo [17; 107]). Và khi nói đến vấn đề có tổ chức ở lĩnh vực này, không thể
không nói đến tính hệ thống – một đặc tính làm nên bản chất tín hiệu của ngôn

ngữ. Trong ngôn ngữ đó chính là tính hình tuyến của tín hiệu.
Chẳng hạn trong câu thơ của Nguyễn Du:
(17) “Sầu đong càng lắc càng đầy.”
các tín hiệu đong, lắc, đầy được tạo ra thật là độc đáo. Chúng được tạo ra theo
phương thức ẩn dụ. Nguyễn Du (và Kim Trọng) cảm nhận trạng thái tâm lí sầu
giống như các vật thể: có thể “cân đo đong đếm” được. Nỗi sầu cứ ngày một
tăng lên, càng tìm cách giải sầu cho khuây khỏa thì nó càng sâu đậm nhất là nỗi
sầu trong trạng thái tương tư của một kẻ đang yêu như Kim Trọng.
Tính hệ thống của tín hiệu thẩm mĩ phải được xem xét từ hai khía cạnh:
khía cạnh nội tại (cấu trúc) với những quy luật thuộc cấu trúc tác phẩm và khía
cạnh ngoại tại (chức năng) với những quy luật về sự hoạt động thực hiện các kết
quả tổng hòa của các mối quan hệ trong một đơn vị cấu trúc – chức năng cụ thể.
1.3.9. Tính trừu tượng và cụ thể
Nghiên cứu các tín hiệu thẩm mĩ trên thực tế chính là nghiên cứu các biến
thể của chúng. Như vậy có thể hiểu biến thể của tín hiệu thẩm mĩ là tín hiệu

×