Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BÁO CÁO TỔNG KẾT, ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.21 KB, 13 trang )

BÁO CÁO TỔNG KẾT, ĐÁNH GIÁ
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
--------- - - - - - - - - - - - - -
Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) được thông qua ngày 10/5/1997 tại kỳ
họp thứ 11 Quốc hội khoá IX và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1999. Việc ban
hành Luật thuế GTGT để thay thế cho Luật thuế doanh thu theo chương trình cải
cách thuế bước II đã được Bộ chính trị, Quốc hội và Chính phủ thông qua.
Trong quá trình triển khai thực hiện, Luật thuế GTGT được sửa đổi, bổ sung
nhiều lần nhằm tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh, phù hợp với điều
kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam (Phụ lục số 1- Nội dung các lần sửa đổi Luật
thuế GTGT).
Luật thuế GTGT sau 9 năm thực hiện đã đi vào cuộc sống, tác động tích
cực đến nhiều mặt kinh tế-xã hội của đất nước và đã đạt được những mục tiêu đề
ra của cải cách thuế bước II. Tuy nhiên, trước bối cảnh nền kinh tế đang tiếp tục
chuyển đổi mạnh mẽ, hội nhập ngày càng sâu hơn, rộng hơn, Luật thuế GTGT
vẫn còn bộc lộ một số vấn đề cần phải xem xét để tiếp tục hoàn thiện. Cụ thể
như sau:

1. Những kết quả đạt được
a) Thuế GTGT góp phần khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu,
thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh
Việc hoàn thuế GTGT đầu vào đối với các dự án đầu tư đã tạo thuận lợi
cho doanh nghiệp phát triển công nghệ, đầu tư đổi mới tài sản cố định, góp phần
thúc đẩy vốn đầu tư xã hội tăng trưởng. Thông qua áp dụng thuế suất 0% đối với
hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu đã tạo điều kiện để doanh nghiệp hạ giá hàng hóa,
dịch vụ xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, từ đó
khuyến khích xuất khẩu tăng trưởng mạnh qua các năm, cụ thể là:
- Số thuế GTGT hoàn cho các dự án đầu tư và xuất khẩu hàng hoá, dịch
vụ tăng qua các năm: năm 1999 là 2.700 tỷ đồng, chiếm 15,7% tổng thu từ thuế
GTGT của năm, đến năm 2005 là 14.830 tỷ đồng (32,4% tổng thu từ thuế
GTGT), năm 2006 là 18.037 tỷ đồng (32,7% tổng thu từ thuế GTGT) và năm


2007 là 24.650 tỷ đồng (34,2% tổng thu từ thuế GTGT).
- Vốn đầu tư toàn xã hội so GDP tăng qua các năm: năm 2003 là 35,5% ,
năm 2004 là 36,2%, năm 2005 là 39,8%; 2006 là 40,9% và dự kiến năm 2007
đạt khoảng 40,4%.
- Kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng cao cả vể số tuyệt đối và tỷ lệ so
với năm trước: năm 2003 đạt xấp xỉ 20 tỉ USD tăng 19%, năm 2004 đã tăng lên
là 26 tỉ USD tăng 28,9%, năm 2005 đạt 33,0 tỉ USD tăng 21,9% và năm 2006
đạt 39,6 tỷ USD tăng 20%, năm 2007 đạt 48 tỷ USD tăng 22,4%.
b) Việc áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu phù hợp với thông lệ
quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các cam kết trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế
Hầu hết các nước trên thế giới đã áp dụng thuế GTGT. Việc ban hành
Luật thuế GTGT không những khắc phục được những bất cập của thuế doanh
thu là thu trùng thuế qua các khâu sản xuất, lưu thông, phân phối mà còn tạo
điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh và hoạt động
thương mại của các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.

Theo cam kết khi hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta phải cắt giảm thuế
nhập khẩu, đồng thời phải bãi bỏ các khoản trợ cấp trực tiếp từ ngân sách cho
doanh nghiệp, việc thu thuế GTGT đối với hàng hoá nhập khẩu, hoàn thuế cho
hàng hoá xuất khẩu đã góp phần điều chỉnh cơ chế kinh tế phù hợp với thông lệ
quốc tế nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu khuyến khích doanh nghiệp xuất khẩu hàng
hoá, dịch vụ, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước và bù đắp cho Ngân sách phần
thiếu hụt do cắt giảm thuế nhập khẩu.
c) Thuế GTGT là nguồn thu quan trọng và ổn định của NSNN, tăng cường
tài chính quốc gia, đảm bảo nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội, xoá đói,
giảm nghèo và củng cố an ninh, quốc phòng
Năm 1999 số thu từ thuế GTGT là 17.113 tỷ đồng, chiếm 23% trong tổng
thu NSNN tổng thu từ thuế, phí và lệ phí, đến năm 2007, các con số này là

2
72.022 tỷ đồng tương ứng là 30,6%. Số thu thuế GTGT năm sau so với năm
trước tăng bình quân là 19,13%. Dự báo trong những năm tới, số thu từ thuế
GTGT vẫn giữ vai trò quan trọng cho ngân sách quốc gia (Phụ lục số 2 kèm
theo).
d) Thuế GTGT đã góp phần thúc đẩy việc thực hiện pháp luật về kế toán,
thuế của doanh nghiệp, từ đó, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, hiện đại
hoá và đổi mới phương thức quản lý thuế
Để thực hiện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, doanh nghiệp cần thực
hiện tốt chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ. Từ đó giúp doanh nghiệp hạch toán
đầy đủ doanh thu, chi phí, xác định chính xác kết quả kinh doanh và nâng cao ý
thức tự giác chấp hành pháp luật thuế của các đối tượng nộp thuế.
Áp dụng thuế GTGT vừa đặt ra yêu cầu, vừa tạo điều kiện để cơ quan
thuế hiện đại hoá, đổi mới phương thức quản lý thuế (chuyển từ cơ chế cơ quan
thuế trực tiếp tính thuế và ra thông báo nộp thuế sang cơ chế đối tượng nộp thuế
tự tính, tự kê khai, nộp thuế theo thủ tục đơn giản, công khai, minh bạch; thực
hiện phương pháp quản lý rủi ro: phân loại đối tượng nộp thuế trên cơ sở đó tập
trung quản lý thanh tra, kiểm tra những đối tượng có hành vi gian lận về thuế).
Theo cơ chế quản lý mới này, cơ quan thuế có điều kiện tổ chức lại bộ máy theo
chức năng, tập trung vào việc thực hiện các chức năng chính như tuyên truyền,
cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho đối tượng nộp thuế, quản lý nợ và thanh tra, kiểm
tra, đồng thời tạo điều kiện cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các
khâu trong quá trính quản lý thuế, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý
thuế.
2. Những điểm cần tiếp tục hoàn thiện
Trong quá trình thực hiện, Luật thuế GTGT đã được sửa đổi, bổ sung để
kịp thời tháo gỡ những vướng mắc phát sinh, phù hợp với thực tiễn của nước ta.
Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế của Việt Nam trong
những năm tới, Luật thuế GTGT cần được tiếp tục hoàn thiện nhằm phát huy

hơn nữa những ưu điểm, khắc phục những hạn chế hiện nay. Cụ thể là:
a) Về diện hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT
Luật thuế giá trị gia tăng hiện hành quy định một số nhóm hàng hoá, dịch
vụ không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng. Đây là các hàng hoá, dịch vụ
3
trước đây được miễn thuế doanh thu hoặc có mức thuế suất thuế doanh thu thấp
(0,5%). Việc quy định hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng là tiếp
tục kế thừa Luật thuế doanh thu trước đây, phù hợp với điều kiện khi nền kinh tế
nước ta trong giai đoạn đầu chuyển đổi và tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh có
thời gian thích nghi với luật thuế mới. Tuy nhiên, trước tình hình mới của đất
nước và thực hiện các cam kết quốc tế trong quá trính hội nhập, cần thiết phải rà
soát lại một số hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng để điều chỉnh
cho phù hợp, cụ thể:
Việc áp dụng không chịu thuế giá trị gia tăng đối với hàng hoá nhập khẩu
là máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải làm tài sản cố định của doanh nghiệp,
vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được là phù hợp với điều kiện của
nước ta để khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ. Đến nay, năng lực về vốn,
công nghệ của các doanh nghiệp trong nước đã được nâng cao, nhiều loại máy
móc, thiết bị, vật tư trong nước đã sản xuất được mà trước đây phải nhập khẩu
do đó, quy định nêu trên chưa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước
mạnh dạn đầu tư vào hoạt động nghiên cứu-phát triển, sản xuất ra những máy
móc, thiết bị, vật tư mới cung cấp cho nền kinh tế và từng bước chiếm lĩnh thị
trường trong và ngoài nước.
Hiên nay, các doanh nghiệp vận tải và đóng tàu của nước ta đã phát triển,
đã đóng được tàu vận tải biển có trọng tải lớn có khả năng đáp ứng nhu cầu vận
tải trong nước và quốc tế. Cạnh tranh trong lĩnh vực vận tải quốc tế ngày càng
gay gắt, việc quy định vận tải quốc tế; hàng hoá, dịch vụ cung cấp trực tiếp cho
vận tải quốc tế thuộc diện không chịu thuế giá trị gia tăng dẫn đến doanh nghiệp
vận tải quốc tế không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào làm tăng cước
phí vận tải, giảm khả năng canh tranh với các hãng vận tải nước ngoài. Ngoài ra,

quy định hàng hoá, dịch vụ cung cấp trực tiếp cho vận tải quốc tế không chịu
thuế giá trị gia tăng trên thực tế rất khó xác định, kiểm soát, dễ bị lợi dụng làm
sai lệch mục tiêu của chính sách, gây thất thu thuế.
Trước đây khi ban hành Luật thuế GTGT, việc đưa các hoạt động: Hoạt
động văn hoá, triển lãm và thể dục, thể thao; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất
phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim nhựa, phim vi-đi-ô tài liệu (khoản 10,
Điều 4), điều tra, thăm dò địa chất, đo đạc, lập bản đồ thuộc loại điều tra cơ bản
của Nhà nước (khoản 17, Điều 4) vào đối tượng không chịu thuế GTGT là phù
hợp bởi vì khi đó, các hoạt động này chỉ do các đơn vị sự nghiệp thực hiện bằng
nguồn kinh phí ngân sách. Trong những năm qua và thời gian tới, Nhà nước
đang thực hiện chuyển đổi các đơn vị này sang hoạt động theo mô hình doanh
nghiệp với sự tham gia của các thành phần kinh tế theo phương thức nhà nước
4
đặt hàng. Việc quy định các dịch vụ nêu trên thuộc đối tượng không chịu thuế
đến nay không còn phù hợp vì sẽ không đảm bảo tính liên hoàn của thuế GTGT,
doanh nghiệp kinh doanh các hàng hoá, dịch vụ này không được kê khai khấu
trừ thuế GTGT đầu vào mà phải tính vào chi phí, từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả
kinh doanh. Nếu chuyển dịch vụ này sang đối tượng chịu thuế GTGT thì cơ sở
kinh doanh sẽ được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, giảm chi phí sản xuất kinh
doanh.
Trong những năm gần đây, thị trường tài chính đang hình thành và phát
triển, kéo theo sự xuất hiện một số dịch vụ tài chính mới như dịch vụ hoán đổi
lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn mua, bán ngoại tệ...
(gọi chung là dịch vụ tài chính phái sinh) và các giao dịch chuyển nhượng vốn
xuất hiện ngày càng nhiều. Theo thông lệ quốc tế, các dịch vụ tài chính thuộc
đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng. Hiện nay, Luật thuế GTGT mới chỉ
quy định không chịu thuế đối với một số dịch vụ tài chính như tín dụng, bảo
hiểm nhân thọ...mà chưa có dịch vụ tài chính phái sinh, chuyển nhượng vốn. .
Một số nhóm hàng hoá, dịch vụ cần tiếp tục áp dụng không chịu thuế
GTGT cho phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam, bao gồm: nhóm

các mặt hàng sản phẩm nông nghiệp của tổ chức, hộ gia đình cá nhân tự sản xuất
và bán ra; các dịch vụ xã hội cần thiết phục vụ chính sách phát triển con người,
bao gồm: y tế, giáo dục, đào tạo; một số dịch vụ công như dịch vụ thoát nước
đường phố và khu dân cư, duy trì vườn thú, vườn hoa, công viên, cây xanh
đường phố, chiếu sáng công cộng, phát sóng truyền thanh, truyền hình công
cộng; nhóm các hàng phục vụ an ninh, quốc phòng được tài trợ từ Ngân sách
Nhà nước, bao gồm các loại vũ khí, khí tài chuyên dụng phục vụ quốc phòng, an
ninh; nhóm các hàng hoá nhập khẩu theo thông lệ quốc tế không thuộc diện chịu
thuế GTGT như hàng viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại, hàng nhập
khẩu theo tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao, tiêu chuẩn hành lý cá nhân...
b) Về điều kiện khấu trừ, hoàn thuế
Luật thuế GTGT quy định phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng đối
với các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện đầy đủ chế độ kế toán,
hoá đơn, chứng từ. Căn cứ để khấu trừ thuế là hoá đơn GTGT mua hàng hoá,
dịch vụ phục vụ cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT
nên trong quá trình thực hiện Luật thuế GTGT một số doanh nghiệp đã lợi dụng
quy định này, sử dụng hoá đơn giả, hoá đơn ghi chép không trung thực nội dung
kinh tế phát sinh và các loại hoá đơn bất hợp pháp khác để kê khai khấu trừ thuế
GTGT đầu vào nhằm trốn, lậu thuế không những gây thất thu cho NSNN mà
5

×