Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

chức năng ngữ nghĩa và ngữ pháp của các yếu tố chỉ bộ phận - chỉnh thể trong cấ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.23 KB, 66 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC


BÙI THỊ ÁNH PHƢƠNG


CHỨC NĂNG NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ PHÁP CỦA CÁC YẾU TỐ
CHỈ BỘ PHẬN - CHỈNH THỂ TRONG CẤU TRÚC
CÂU TIẾNG VIỆT








KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC








Sơn La, năm 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC







BÙI THỊ ÁNH PHƢƠNG


CHỨC NĂNG NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ PHÁP CỦA CÁC YẾU TỐ
CHỈ BỘ PHẬN - CHỈNH THỂ TRONG CẤU TRÚC
CÂU TIẾNG VIỆT



Chuyên ngành: Ngôn ngữ học


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Lê Thị Hà



Sơn La, năm 2014
LỜI CẢM ƠN


Nhân dịp khóa luận được hoàn thành, em xin chân thành cảm ơn các thầy
cô trong bộ môn tiếng Việt, khoa Ngữ văn, cùng sự ủng hộ của các thầy cô trong
thư viện Trường Đại học Tây Bắc.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo, ThS. Lê Thị Hà đã tận tình
giúp đỡ, chỉ bảo và động viên em trong quá trình thực hiện khóa luận!
Đồng thời, em cũng nhận được sự quan tâm động viên của các bạn trong
tập thể lớp K51 ĐHSP Văn - Giáo dục Công dân để hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sơn La, ngày 14 tháng 05 năm 2014
Tác giả
Bùi Thị Ánh Phương












MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2

3. Đối tượng nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu 4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 5
4.1. Phương pháp nghiên cứu 5
4.2. Nguồn ngữ liệu 5
5. Đóng góp của khóa luận 5
6. Cấu trúc của khóa luận 6
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT 7
1.1. Quan hệ bộ phận - chỉnh thể xét ở phương diện từ vựng - ngữ nghĩa 7
1.2. Quan hệ bộ phận - chỉnh thể xét ở phương diện cụm từ 8
1.3. Quan hệ bộ phận - chỉnh thể xét ở phương diện cú pháp 9
1.4. Xác định và phân loại quan hệ bộ phận - chỉnh thể 12
1.4.1. Quan hệ bộ phận - chỉnh thể với những quan hệ có liên quan 12
1.4.1.1 Quan hệ bộ phận - chỉnh thể với quan hệ cấp loại (Hyponymie) 12
1.4.1.2 Quan hệ bộ phận - chỉnh thể với quan hệ sở hữu 18
1.4.2. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của quan hệ bộ phận - chỉnh thể 20
1.4.2.1 Khái niệm 20
1.4.2.2 Đặc trưng cơ bản của quan hệ bộ phận - chỉnh thể 20
Tiểu kết: 21
Chƣơng 2: CÁC CHỨC NĂNG NGỮ NGHĨA CỦA CÁC YẾU TỐ TRONG
QUAN HỆ BỘ PHẬN - CHỈNH THỂ 22
2.1. Khái niệm vị tố và các tiêu chí cơ bản phân loại các sự thể 22
2.1.1. Khái niệm vị tố 22
2.1.2. Những tiêu chí cơ bản phân loại các sự thể 23
2.2. Các chức năng ngữ nghĩa của các yếu tố có quan hệ bộ phận - chỉnh thể 24
2.2.1. Quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong các kiến trúc chứa vị tố - tính tĩnh 24
2.2.1.1 Quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong sự thể “tư thế” 25
2.2.1.2 Quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong sự thể “trạng thái” 27
2.2.2. Quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong các kiến trúc chứa vị tố - tính động 29

2.2.2.1 Quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong sự thể “hành động” 31
Chƣơng 3: CÁC CHỨC NĂNG NGỮ PHÁP CỦA CÁC YẾU TỐ TRONG
QUAN HỆ BỘ PHẬN – CHỈNH THỂ 41
3.1. Chỉnh thể giữ vai trò chủ ngữ 41
3.1.1. Chỉnh thể - chủ ngữ, bộ phận - bổ ngữ trực tiếp 41
3.1.2. Chỉnh thể - chủ ngữ, bộ phận - bổ ngữ gián tiếp 43
3.1.3. Chỉnh thể - chủ ngữ, bộ phận - bổ ngữ cách thức 44
3.1.4. Chỉnh thể - chủ thể (chủ hữu), bộ phận - bổ ngữ (vật sở hữu) 46
3.1.5. Chỉnh thể - chủ ngữ, bộ phận - nằm trong thành phần phụ trạng ngữ của câu 47
3.2. Bộ phận giữ vai trò chủ ngữ 51
3.2.1. Bộ phận - chủ ngữ, chỉnh thể - yếu tố phụ miêu tả của danh từ bộ phận . 51
3.2.2. Bộ phận - chủ ngữ, chỉnh thể - chủ ngữ 54
Tiểu kết 55
KẾT LUẬN 56





1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt đã được rất nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm ở những lĩnh vực khác nhau và có những kết quả đáng tin cậy. Từ
những thế kỉ thứ III trước công nguyên, học phái ngữ pháp A-lech-xang-đri-a đã
nêu định nghĩa về câu: "Câu là sự tổng hợp của các từ biểu thị một tư tưởng trọn
vẹn". Vì những lí do nhất định, mà trước hết là tính chất đơn giản, dễ hiểu và
khá hoàn chỉnh của nó, định nghĩa về câu đã được thử thách qua hàng ngàn năm
và cho đến nay vẫn được sử dụng khá phổ biến.

Có thể nói, trong ngữ pháp, những vấn đề liên quan đến câu là những vấn
đề đa dạng và phức tạp nhất. Câu là đơn vị trọn vẹn nhất trong một hệ thống
ngôn ngữ, trong nó phản ánh được đầy đủ nhất các đặc trưng hình thức và ý
nghĩa của một ngôn ngữ cụ thể. Vì thế, trong ngôn ngữ học nói chung và Việt
ngữ học nói riêng đã có nhiều công trình khảo cứu về câu. Tuy nhiên, do ảnh
hưởng của truyền thống thiên về hình thức cấu trúc mà câu trong tiếng Việt phần
nhiều được xem xét về mặt cấu trúc ngữ pháp.
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu bàn về cấu trúc câu trong
tiếng Việt. Nói chung, các kết quả đưa ra thường tập trung vào các lĩnh vực:
Một là về cấu trúc ngữ pháp của câu. Ở lĩnh vực này, dựa trên những
tiêu chí về mặt cấu trúc, câu được chia thành các kiểu: câu đơn, câu ghép (và
câu phức)… Trong đó, đã đề cập đến việc xác định các thành phần câu, vai trò
và chức năng của từng thành phần trong cấu trúc.
Hai là về cấu trúc ngữ nghĩa của câu. Ở lĩnh vực này, đi theo quan điểm
của ngữ pháp chức năng, câu lại được nghiên cứu trong khả năng kết hợp của
các vị tố với các tham tố tham gia cấu tạo câu. Đây là một lĩnh vực có khá nhiều
vấn đề thú vị và phức tạp đang được các nhà nghiên cứu tiếp tục quan tâm.
Trong những năm gần đây, dưới ánh sáng của ngữ dụng học, câu trong
tiếng Việt không phải chỉ được nghiên cứu đơn thuần về mặt cấu trúc hay mặt
ngữ nghĩa nữa mà được quan tâm nhiều về mặt sử dụng.



2

Xét về ngôn ngữ học văn bản, câu được quan tâm về mối quan hệ của các
câu với nhau trong văn bản… Đó chưa phải là tất cả những vấn đề được đặt ra
trong nghiên cứu cũng như những vẫn đề được chú ý đến trong các công trình
nghiên cứu về câu.
Khi nghiên cứu về câu, ngoài những vấn đề đã nên trên, về phương diện

ngữ nghĩa còn tồn tại một loại quan hệ đặc thù, đó là quan hệ bộ phận - chỉnh
thể. Đây không phải là quan hệ giữa chỉnh thể câu (cả câu) với bộ phận nào đó
của câu mà quan hệ giữa từ chỉ bộ phận và từ chỉ chỉnh thể chứa bộ phận đó. Do
sự chi phối của quan hệ bộ phận - chỉnh thể mà câu đôi khi có những cách hiểu
khác nhau về mặt ngữ nghĩa.
Chúng tôi đưa ra những lí do trên, xuất phát từ thực tiễn của hoạt động
tiếng Việt, trên cơ sơ tiếp thu những thành tựu đã đạt được của những công trình
nghiên cứu về câu, chúng tôi mạnh dạn chọn “Chức năng ngữ nghĩa và ngữ
pháp của các yếu tố chỉ bộ phận - chỉnh thể trong cấu trúc câu tiếng Việt”
làm đề tài nghiên cứu. Với hi vọng, kết quả nghiên cứu góp một phần hữu ích
cho việc tìm hiểu về quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong cấu trúc câu tiếng Việt.
2. Lịch sử vấn đề
Trong các kiến giải về cấu trúc câu, lối phân tích câu theo thành phần là lí
thuyết lâu đời và phổ biến hơn cả. Nó đặt nền móng từ thời Aristote (384 - 322
TCN) với cách phân tích câu thành các bộ phận O'no'ma (danh từ chủ danh, chủ
ngữ) và Re'ma (động từ ở thời hiện tại, vị ngữ) (Kondrashov N.A, 1979, tr 13 -
14; Desnitskaja A.B, Nguyễn Kim Thản, 1984, tr 151 - 152) và được áp dụng
vào việc phân tích câu ở hầu hết các ngôn ngữ, nhất là trong nhà trường. Trong
khi đó, những kiến giải khác nhau về cấu trúc câu như lí thuyết thành tố trực
tiếp, ngữ pháp cải biến, ngữ pháp tạo sinh, lí thuyết phân đoạn thực tại… chỉ
mới xuất hiện vào những năm 30 - 40 của thế kỉ XX, có lúc rộ lên như thời
thượng ở một số nơi nhưng rồi lại nhanh chóng được thay thế bằng lí thuyết
mới. Có thể nói, cấu trúc câu là lĩnh vực đã được nghiên cứu từ rất lâu.


3
Nhìn lại quá trình nghiên cứu về quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong câu
tiếng Việt, mặc dù đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, xem xét nhưng mức
độ còn rất hạn chế, hay nói cách khác là sự quan tâm chưa được sâu và rộng.
Từ những năm của thập niên 80, tác giả Nguyễn Kim Thản [18,156] đã

đưa ra một khái niệm về động từ có tên gọi “Nhóm động từ chỉ hành động của
bộ phận cơ thể” tác giả đã liệt kê một số động từ, ví dụ như “bạch” “bấm”
“co”… Theo tác giả, những động từ này có các đặc trưng về khả năng kết hợp
và về giá trị ngữ nghĩa. Tuy nhiên, đó chỉ là những phác họa ban đầu, chưa có
những phân tích chi tiết và những kết luận cụ thể về nhóm động từ này, đồng
thời về mối quan hệ giữa chúng với những từ chỉ “bộ phận cơ thể ” theo sau:
Tác giả Hoàng Trọng Phiến [14, 169] cũng nêu ra những kiến giải của
mình về vấn đề này. Theo ông, kiến trúc có quan hệ bộ phận - chỉnh thể không
nhất thiết phải có một dạng tồn tại duy nhất mà còn có một dạng cải biến. Và
phạm trù “yếu tố sở hữu khả li, bất khả li” cũng có liên quan nhất định trong
quan hệ bộ phận chỉnh thể này.
Quan điểm của Nguyễn Văn Lộc trong “Kết trị của động từ tiếng Việt”
hay của Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp trong “Thành phần câu tiếng
Việt” phần nào giống với ý kiến của Nguyễn Kim Thản và Hoàng Trọng Phiến.
Trong số các nhà nghiên cứu, người quan tâm nhiều nhất đến phạm trù
quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong cấu trúc câu tiếng Việt là tác giả Diệp Quang
Ban. Tác giả sơ bộ đã nghiên cứu và có những kết luận cụ thể và khá rõ ràng về
loại hình quan hệ này.
Ngay từ công trình khoa học đầu tiên là “Một số vấn đề tồn tại về câu
trong tiếng Việt ngày nay” (Luận án PTS, 1981), khái niệm bộ phận - chỉnh thể
đã được tác giả bàn đến với những đặc điểm, tính chất riêng biệt, không giống
với các loại bộ phận quan hệ cấu trúc khác trong câu. Hay trong bài viết “Bổ
ngữ chủ thể - một thuật ngữ cần thiết cho việc phân tích ngữ pháp tiếng Việt”
(Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, 1983) trên cơ sở phân tích kĩ các ngữ liệu, tác giả đã
đưa ra những kết luận cụ thể về quan hệ bộ phận - chỉnh thể. Tác giả thừa nhận
rằng quan hệ này là quan hệ đặc biệt, cần phải được tìm hiểu và nghiên cứu


4
nhiều hơn. Trong “Câu đơn tiếng Việt” (1987) những căn cứ để xác lập loại

quan hệ bộ phận chỉnh thể trong câu và những minh chứng, lí giải về chúng càng
được khẳng định.
Tài liệu của tác giả J.Lyons trong “Nguyên lí ngữ nghĩa học” (bản dịch
tiếng Pháp của J.Durand, 1918), là một tài liệu mà chúng tôi được tiếp cận cũng
có ý kiến xác đáng bàn về quan hệ bộ phận - chỉnh thể. Ngoài những tác giả kể
trên, còn những tác giả khác bàn về vấn đề này bằng cách này hay cách khác
nhưng trong chừng mực còn rất hạn chế.
Từ những điều đã nói trên đây, có thể khẳng định rằng “Các chức năng
ngữ nghĩa và ngữ pháp của các yếu tố về quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong cấu
trúc câu tiếng Việt được thể hiện trong một số truyện ngắn hay từ 1980 đến nay”
là một lĩnh vực thú vị, cần phải được nghiên cứu sâu rộng hơn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quan hệ bộ phận - chỉnh thể không phải là một vấn đề hoàn toàn mới
trong ngữ pháp tiếng Việt, tuy nhiên, xét về quan hệ này như một đối tượng
chuyên môn thì cho đến nay các công trình nghiên cứu vẫn còn nhiều hạn chế và
chưa được quan tâm sâu rộng. Khóa luận lấy cấu trúc câu làm đối tượng tìm
hiểu. Song, chúng tôi chỉ dừng lại tập trung nghiên cứu đối tượng trong mối
quan hệ bộ phận - chỉnh thể của cấu trúc câu tiếng Việt. Đó chính là mối quan hệ
giữa từ chỉ bộ phận và những từ chỉ chỉnh thể chứa bộ phận đó.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của khóa luận là khảo sát mối quan hệ giữa các từ chỉ bộ phận
và các từ chỉ chỉnh thể chứa bộ phận đó, để thấy được các chức năng ngữ nghĩa
và ngữ pháp của các yếu tố về quan hệ bộ phận chỉnh thể trong các câu cụ thể.
Chúng tôi cố gắng bổ sung thêm một cách nhìn, một cách nghiên cứu mới về
một loại quan hệ trong cấu trúc câu tiếng Việt.


5
4. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu

4.1. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai khóa luận, chúng tôi dựa vào phương pháp nghiên cứu sau:
phân tích, khảo sát, miêu tả, thống kê… Trong đó, phương pháp phân tích luôn
giữ vai trò chủ đạo. Chúng tôi dựa vào phương pháp phân tích chức năng ngữ
nghĩa và ngữ pháp của các yếu tố ngôn ngữ có mặt trong phát ngôn và phân tích
mối quan hệ nghĩa giữa chúng để tìm ra những hiện tượng ít nhiều có tính đều
đặn trong tiếng Việt ở phạm vi đối tượng được xem xét. Ngoài ra, khi triển khai
khóa luận, chúng tôi còn có thể sử dụng phương pháp quy nạp, diễn dịch… Để
phân tích lí thuyết và nguồn ngữ liệu liên quan đến đề tại, rồi tổng hợp các nội
dung để đi đến kết luận.
4.2. Nguồn ngữ liệu
Những công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước là nguồn tài liệu dồi
dào và phong phú, tạo tiền đề thuận lợi để người đang thực hiện khóa luận đi sâu
vào những vấn đề cụ thể. Trong quá trình triển khai khóa luận, chúng tôi đã
dành một thời gian thích đáng để nghiên cứu, học tập những thành quả nghiên
cứu của hàng loạt các tác giả đi trước như Diệp Quang Ban, Đỗ Hữu Châu, Cao
Xuân Hạo, Nguyễn Kim Thản, Hoàng Trọng Phiến… Đặc biệt ở phương diện lí
thuyết về quan hệ bộ phận - chỉnh thể, chúng tôi dựa vào những tư tưởng của
John Lyons trong "Nguyên lí ngữ nghĩa học" (bản dịch tiếng Pháp của J.
Durand, 1978).
Ngoài ra, một phần làm nên thành công của khóa luận phải kể đến tư liệu
đã được khảo sát trong một số truyện ngắn hay từ 1980 đến nay của các tác giả:
Nguyễn Minh Châu, Vũ Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Trang Thế Hy, Huỳnh
Thạch Thảo, Hồng Nhu…
5. Đóng góp của khóa luận
Bước đầu tìm hiểu chức năng ngữ nghĩa và ngữ pháp của các yếu tố chỉ
quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong cấu trúc câu tiếng Việt là thú vị. Đặc biệt, tìm
ra điểm trung gian trong quan hệ ngữ nghĩa giữa các yếu tố có quan hệ bộ phận -
chỉnh thể là một trong những kết quả đáng kể nhất trong quá trình thực hiện



6
khóa luận. Kết quả nghiên cứu, chừng mực nhất định đã cho thấy bản chất chức
năng ngữ nghĩa và ngữ pháp của các yếu tố này trong cấu trúc câu. Khẳng định
sự tồn tại của quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong cấu trúc câu tiếng Việt là đồng
thời khẳng định rằng có một kiểu quan hệ ngữ ngĩa mới, bổ sung thêm một cách
nhận diện về giá trị ngữ nghĩa của câu - một lĩnh vực luôn luôn là mới mẻ trong
ngữ pháp tiếng Việt nói riêng và trong ngữ pháp học nói chung.
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài gồm có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 2: Các chức năng ngữ nghĩa của các yếu tố về quan hệ bộ phận -
chỉnh thể trong cấu trúc câu tiếng Việt.
Chương 3: Chức năng ngữ pháp của các yếu tố về quan hệ bộ phận - chỉnh
thể trong cấu trúc câu tiếng Việt.


















7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT

Ngữ pháp tiếng Việt là một bộ phận thuộc chuyên ngành "Ngôn ngữ học"
chủ yếu nghiên cứu về: từ (cấu tạo từ và từ loại); cụm từ và câu. Trong đó, ở
lĩnh vực nghiên cứu về câu thì được nhiều tác giả quan tâm hơn cả. Sự tiếp thu
những thành tựu chung của việc nghiên cứu cấu trúc câu tiếng Việt trong những
năm gần đây đã có nhiều bước phát triển mới và đạt được những thành tựu đáng
kể, đặc biệt đáng chú ý nhất là thừa nhận sự tồn tại của quan hệ bộ phận - chỉnh
thể của các tác giả ở mọi phương diện khác nhau. Sự xuất hiện của quan hệ này
trong cấu trúc câu tiếng Việt là một bước đột phá mới về câu làm cho tiếng Việt
càng đa dạng và phong phú hơn. Điều này đã được minh chứng rất rõ trong các
công trình nghiên cứu khác nhau của nhiều tác giả tiêu biểu, như: tác giả Đỗ
Hữu Châu thì xem xét quan hệ bộ phận - chỉnh thể ở phương diện từ vựng - ngữ
nghĩa. Đối với tác giả Nguyễn Kim Thản thì quan hệ bộ phận - chỉnh thể được
nghiên cứu ở bình diện cụm từ. Và ở phương diện cú pháp câu thì tác giả Diệp
Quang Ban có những kiến giải rất sâu sắc và phần nào đã đưa ra một cách nhìn
nhận sơ bộ tương đối chi tiết về quan hệ này. Cùng với ý kiến của tác giả nêu
trên, chúng tôi không thể không nhắc đến cách xác định và phân loại quan hệ -
chỉnh thể của J.Lyons - người đặt nền móng cho cơ sở lý luận về quan hệ bộ
phận - chỉnh thể. Những đóng góp của của các nhà nghiên cứu về quan hệ bộ
phận - chỉnh thể trong cấu trúc câu tiếng Việt càng làm cho ngữ pháp tiếng Việt
trở nên hấp dẫn hơn, thiết thực hơn đối với người học, người nghiên cứu.
1.1. Quan hệ bộ phận - chỉnh thể xét ở phƣơng diện từ vựng - ngữ nghĩa
Tác giả Đỗ Hữu Châu [12, 212] nói rằng có sự phân chia một chỉnh thể
(toàn thể) thành những bộ phận tạo nên chúng. Ví dụ “người”với nghĩa là “cơ
thể” là một chỉnh thể được phân chia thành các bộ phận: đầu, mình, tay, chân…

Trong các bộ phận chỉnh thể lại có sự phân biệt giữa “bộ phận khả li” và
“bộ phận bất khả li” của chỉnh thể. Bộ phận bất khả li là bộ phận cấu thành
chỉnh thể một cách tự nhiên, thiếu chúng thì chỉnh thể trở nên không hoàn chỉnh,
có khuyết tật (thiếu tay, chân gọi là què, thiếu một mắt gọi là chột). Bộ phận khả


8
li là bộ phận thường có mặt trong chỉnh thể nhưng thiếu chúng chỉnh thể không
vì thế mà trở thành có khuyết tật. Đối với “cái nhà” chẳng hạn bộ phận khả li là
“quả đấm” (cửa) “gạch lát”… Ngôn ngữ học đã chú ý những hành vi ngữ pháp
riêng của các từ chỉ bộ phận bất khả li. Ví dụ, ít khi chúng ta nói: tôi có tay hoặc
tôi có hai tay, tôi có đầu, nhà có mái, (so sánh tôi có áo,tôi có tiền, tôi có vàng
…). Những cách nói như vậy là thừa về thông tin. Những thông tin do câu trên
cung cấp được xem là đã hiển nhiên, đã thuộc tiền giả định giao tiếp. Hễ dùng
đến những cách nói như vậy là hàm ẩn một cái gì bất thường, điều gì đáng chú ý
về những bộ phận đó. Bởi vậy, thông thường phải có những định nghĩa kèm theo
các từ chỉ bộ phận và lượng tin chủ yếu nằm trong các định ngữ này: (tôi có một
tay, tôi có một bàn tay khéo léo… nhà có ba tầng, nhà có mái bằng, tôi có đầu
méo…). Trong tiếng Việt, nói chung chúng ta không dùng các loại từ trước danh
từ chỉ bộ phận bất khả li của chính mình (gãi đầu, chép miệng, giơ tay…). Kết
cấu động từ hoặc tính từ ở trước cũng là dấu hiệu của các danh từ chỉ các bộ
phận bất khả li (đau đầu, bạc tóc, tịt mũi, què tay…). Tuy nhiên, không phải sự
phân biệt bộ phận khả li - bộ phận bất khả li lúc nào cũng rõ ràng, và cũng cần
tính tới khả năng việc một bộ phận bất khả li được dùng một cách cố ý như bộ
phận khả li và ngược lại, một bộ phận khả li lại được dùng một cách cố ý như bộ
phận bất khả li.
1.2. Quan hệ bộ phận - chỉnh thể xét ở phƣơng diện cụm từ
Tác giả Nguyễn Kim Thản [18, 156] cho rằng, trong những câu mà vị tố
là những động từ chỉ hoạt động của bộ phận cơ thể thì hoạt động đó là do chủ
thể (vật hữu sinh) gây ra và chuyển tới bộ phận của cơ thể.

“Chủ thể” ở đây, trong tương quan với “bộ phận” chính là “chỉnh thể”.
Nói cách khác, chỉnh thể (danh từ) bằng hoạt động được động từ biểu thị thì tác
động đến đối tượng mà hoạt động chuyển tới, đối tượng này chính là những
danh từ biểu thị những bộ phận cụ thể của cơ thể con người như : tóc, đầu, mắt,
mặt, má, (lông) mày, mồm, môi, mép, râu, lưỡi, răng…hoặc của động vật như:
mõm, sừng, đuôi… cần nói thêm rằng sự kết hợp của những động từ và những
danh từ nói trên bị hạn chế về mặt ngữ nghĩa và chỉ kết hợp một cách cụ thể, ví
dụ, chỉ nói nhắm mắt chứ không nói nhắm mồm.


9
Ở đây, quan hệ giữa chỉnh thể và bộ phận là quan hệ giữa một bên là kẻ
gây ra hành động (chỉnh thể) với một bên là đối tượng chịu tác động của hành
động (bộ phận của chỉnh thể) thông qua động từ chỉ hoạt động của bộ phận cơ
thể. Nhưng điều quan trọng là không phải quan hệ này lúc nào cũng diễn ra một
chiều mà còn có trường hợp danh từ bộ phận biểu thị đối tượng mà hoạt động
chuyển tới, nhưng đối tượng này chỉ có thể trở thành chủ thể của hành động do
chính động từ biểu thị.
Nguyễn Kim Thản còn liệt kê ra một số những động từ đặc chỉ những
hành động của bộ phận cơ thể như: bước, cau, co, cúi, chan, chép, chìa, chợp,
chớp, chổm, chum, dang, dỏng, há, hất, khụy, khom, khiễng, lắc lè, liếc, lim dim,
nguẩy, ngoắt, nghển, ngước, vục, với, xòe, xua… Ngoài ra còn có một số động
từ dùng riêng cho động vật như: quắp, quặp, cúp, húc, ngoe, nguẩy, ve vẩy…
1.3. Quan hệ bộ phận - chỉnh thể xét ở phƣơng diện cú pháp
Tập trung nhiều sự chú ý về quan hệ bộ phận - chỉnh thể tác giả Diệp
Quang Ban [1, 41] trong quá trình đi sâu nghiên cứu cho rằng: phạm trù này
được thể hiện đa dạng, quan sát kĩ sẽ thấy có một số điểm giống một loại quan
hệ khác, đó là quan hệ tồn tại định vị hay quan hệ sở hữu. Trên cơ sở phân tích
nguồn ngữ liệu, điều đáng chú ý là tác giả đã chia quan hệ này thành 2 nhóm.
Nhóm thứ nhất là quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong các kiến trúc chứa vị

tố - tĩnh trạng.
Ví dụ:
(1) Chị Lan yếu phổi.
Ở ví dụ này, yếu phổi được dùng để nêu đặc trưng cho Chị Lan một cách
trực tiếp, tức là một trạng thái nào đó (yếu) của một bộ phận tim được dùng là
đặc trưng chỉnh thể Chị Lan nghĩa là chỉnh thể có thể được mô tả thông qua bộ
phận. Không phải vô cớ mà có thể hiểu câu này là Chị Lan yếu ở bộ phận gọi là
tim cách hiểu này cho thấy yếu cũng có liên hệ nghĩa một cách trực tiếp với Chị
Lan. Trên cơ sở đó, về mặt ngữ pháp, tim là một bộ phận của Chị Lan. Vậy có
thể gọi tim là bổ ngữ - bộ phận, còn Chị Lan là chủ ngữ - chỉnh thể.



10
Cùng với câu Chị Lan yếu phổi chúng ta còn gặp:
Ví dụ:
(2) Chị Lan yếu tim
Tại đây đặc trưng của bộ phận cũng được lấy làm đặc trưng của chỉnh
thể (ở đây tim có được nhấn mạnh hơn), cho nên cách lí giải Chị Lan trong câu
là chủ ngữ, còn tim yếu là một kiến trúc chủ - vị làm vị ngữ như nhiều tác giả
chủ trương hiện nay là có thể chấp nhận được.
Tìm trong các ngữ liệu mà chúng tôi thu thập được quan hệ bộ phận
chỉnh thể trong kiến trúc chứa vị tố - tĩnh trạng chiếm một khối lượng đáng kể.
Có thể dẫn thêm một số ví dụ khác:
(3) Mắt anh sáng long lanh. [30, 14]
(4) Ông lão bỗng tái mặt. [27, 241]
(5) Cổ họng tôi nghẹn lại. [30, 52]
(6) Lão giỏng tai nghe. [32, 40]
(7) Cô thấy lạnh toát sống lƣng. [32, 46]
(8) Cấn trừng mắt. [32, 61]

(9) Da thịt anh ấm nóng, những sợi râu cọ nham nháp khiến tôi rùng
mình. [30, 30]
(10) Tôi thấy mắt tôi hoa lên, tai tôi ù đi. [32, 96]
Nhóm thứ hai là quan hệ bộ phận - chỉnh thể trong các kiến trúc chứa vị tố
- hoạt động. Những phức tạp nhất đồng thời cũng là điều lí thú nhất về quan hệ
bộ phận - chỉnh thể tập trung ở nhóm này.
(11) Ví dụ: Chị Lan co chân.
Cùng với ví dụ này tác giả còn dẫn thêm:
(12) Chị Lan co dây.
Và tác giả phân tích như sau: co ở câu Chị Lan co dây là động từ ngoại
động đích cực, dây là bổ ngữ - khách thể. Và như vậy, thì câu này không có gì
đáng bàn thêm. Đáng bàn là ví dụ thứ nhất, Chị Lan co chân.
Động từ chỉ hoạt động co trong ví dụ là động từ có tính chất nước đôi. Nó
là động từ chỉ hoạt động ngoại động, xét trong mối quan hệ với chủ ngữ - chỉnh


11
thể, Chị Lan là vật tạo ra hoạt động và bằng hoạt động co tác động lên vật khác
chân. Nói cách khác Chị Lan gây ra hoạt động co hoạt động này tác động trực
tiếp lên đối tượng chân. Nhưng mặt khác đối tượng chịu tác động của hoạt động
lại là một bộ phận nằm trong chỉnh thể nêu ở chủ ngữ và bộ phận này có khả
năng tác động lên chỉnh thể. Và như vậy, chủ thể của hành động lại là bộ phận
chân. Tình hình này được nhận bằng một phép chuyển hóa:
(13) Chân (chị Lan) co.
Như vậy, trong câu Chị Lan co chân thì co cùng một lúc có quan hệ với
danh từ đứng trước (chỉ chỉnh thể) và danh từ đứng sau (chỉ bộ phận) theo kiểu
vật - đặc trưng của vật, giống như ở các kiến trúc chứa vị tố - tĩnh trạng như đã
xem xét ở trên.
Chỗ riêng biệt của câu Chị Lan co chân so với các kiến trúc có quan hệ bộ
phận - chỉnh thể chứa vị tố - tĩnh trạng không chỉ ở tính chất của hoạt động co

mà ở tính chất “ngoại động” đặc biệt, không phải là tính chất tác động lên một
vật khác một cách bình thường như ở:
(14) Chị Lan co dây.
Nếu dây là một vật hoàn toàn chịu tác động của co thì chân lại có thể tự
hoạt động bằng chính hoạt động nêu ở vị tố, hoạt động “co”. Tình hình đó khiến
cho có thể hiểu Chị Lan ở câu Chị Lan co chân là người điều khiển chân mình
hoạt động, là nguyên nhân của sự kiện co chân. Về mặt ngữ pháp đối chiếu với
dây trong Chị Lan co dây thì chân trong Chị Lan co chân rõ ràng là một bổ ngữ.
Nhưng về mặt ngữ nghĩa, trong mối quan hệ với co nếu dây là khách thể thì
chân lại là chủ thể. Trong mối quan hệ với Chị Lan, chân là bộ phận.
Trong nguồn ngữ liệu, kiến trúc có quan hệ bộ phận - chỉnh thể chứa vị tố
chỉ hoạt động chiếm một số lượng lớn, đặc biệt là những kiến trúc chứa vị tố chỉ
“hoạt đông của bộ phận cơ thể” theo cách gọi của Nguyễn Kim Thản.
Ví dụ:
(15) Chị nhắm mắt lại nghĩ nhanh. [30, 402]
(16) Tôi gật đầu. [32, 96]
(17) Bà già nhíu trán, im lặng một lúc rồi thủ thỉ như tâm sự. [30, 407]
(18) Cô Phượng gục đầu vào ngực tôi nức nở. [32, 115]
(19) Chị quay đầu nhìn chừng con. [30, 431]


12
(20) Anh chép miệng phàn nàn. [30, 44]
Trên cơ sở cách nhận diện quan hệ bộ phận - chỉnh thể của các tác giả chúng
ta đã nêu cộng với quan điểm cơ bản mà J.Lyons đề ra, quan hệ bộ phận - chỉnh thể
được hiểu như thế nào? chúng ta sẽ được tìm hiểu ở mục tiếp theo sau đây.
1.4. Xác định và phân loại quan hệ bộ phận - chỉnh thể
Trong nghiên cứu, những minh chứng về sự tồn tại hiển nhiên của phạm
trù quan hệ bộ phận - chỉnh thể đã cho chúng ta thấy rằng, đây không phải là
một phạm trù có tính độc lập hoàn toàn. Tìm hiểu và nghiên cứu kĩ sẽ thấy ở

những mức độ nhất định, phạm trù này cũng có liên quan đến những phạm trù
khác, như quan hệ cấp loại và quan hệ sở hữu. Ranh giới giữa quan hệ bộ phận -
chỉnh thể với những quan hệ kể trên không phải lúc nào cũng rõ ràng, tách bạch
và dễ nhận biết.
1.4.1. Quan hệ bộ phận - chỉnh thể với những quan hệ có liên quan
1.4.1.1 Quan hệ bộ phận - chỉnh thể với quan hệ cấp loại (Hyponymie)
Trên thực tế, đây là hai loại quan hệ có những kiểu khác nhau rõ rệt.
Quan hệ bộ phận - chỉnh thể là mối quan hệ hợp nhất được các bộ phận
cấu thành tách rời nhau hoặc có thể tách rời của một vật và toàn bộ vật mà
chúng là các bộ phận cấu thành (J.Lyons).
Ví dụ:
(21) Phác bỗng nhe răng cười. [27, 410]
Trong ví dụ này thì Phác được hiểu là “chỉnh thể” và răng là một “bộ
phận" cấu thành của chỉnh thể Phác này, hay bánh xe là một bộ phận tạo nên xe
hoặc cánh cửa, mái nhà, tường nhà là những bộ phận tạo nên chỉnh thể nhà…
Nhưng quan hệ cấp loại (Hyponymie) lại là quan hệ kéo theo một chiều. Nói
đến quan hệ cấp loại là quan hệ “bao gồm” (Inclusion) và “nằm trong”. [12, 208]
Ví dụ: Hai từ hoa và hoa cúc là quan hệ cấp loại. Nếu nhìn từ trên xuống
thì hoa bao gồm từ hoa cúc(và hoa huệ, hoa mai, hoa nhài…), nếu nhìn từ dưới
lên thì hoa cúc nằm trong từ hoa. Đối với từ hoa cúc từ hoa là từ thượng danh
(Superordonne). Đối với từ hoa, hoa cúc là từ hạ danh ( Hyponymie).



13
(22) Ví dụ: Có hai câu: Tôi mua hoa cúc và Tôi mua hoa.
Nếu nói: Tôi mua hoa cúc có nghĩa là Tôi mua hoa nhưng nói: Tôi mua hoa
thì chưa chắc Tôi mua hoa cúc mà có thể là mua hoa hồng, mua hoa huệ, mua
hoa lan…
Như vậy, quan hệ cấp loại là quan hệ giữa hai lớp, lớp nọ bao hàm lớp kia,

giả sử ta có lớp gọi là hoa và lớp ta gọi là hoa hồng thì hoa bao chứa hoa hồng
và hoa hồng nằm trong hoa. Còn quan hệ bộ phận - chỉnh thể là quan hệ trong
một lớp và từng phần tử của nó. Giữa một chiếc xe và một chiếc đèn nhưng lớp
chiếc xe không chứa lớp chiếc đèn. [17, 29]
Ở quan hệ cấp loại là sự phân loại - loại (Toxonomie) tức là sự phân chia
một lớp lớn thành các tiểu loại, còn ở quan hệ bộ phận - chỉnh thể là sự phân loại
bộ phận, tức là sự phân chia một chỉnh thể thành những bộ phận tạo nên chúng.
Ví dụ: Sự phân loại hoa thành hoa huệ, hoa hồng, hoa lan rồi hoa hồng
lại tiếp tục được chia thành hồng nhung, hồng bạch… là sự phân loại - loại. Còn
sự phân chia cơ thể thành: mắt, mũi, tai… rồi mắt được chia thành lông mày,
lông mi, lòng trắng, lòng đen, con ngươi… là sự phân loại - bộ phận.
Ví dụ: Trong tiếng Việt, các từ: mái, nền, tường, cửa… có quan hệ bộ phận
với từ chỉnh thể nhà, đầu, mình, tay, chân… có quan hệ với từ người (hiểu theo
nghĩa cơ thể).
(23) Ví dụ: Quý ngừng lại một giây rồi bỗng rướn người lên, hai bàn tay
run run chụp lấy tay tôi, ghì sát vào má. [30, 30]
Quan hệ cấp loại và quan hệ bộ phận - chỉnh thể còn có chỗ khác nhau nữa
là: ở quan hệ cấp loại, ý nghĩa của các từ hạ danh là sự loại biệt hóa ý nghĩa của
các từ thượng danh. Khi định nghĩa một từ hạ danh chúng ta có thể dùng một từ
thượng danh (hay ý nghĩa của nó) để diễn đạt phần chung, theo cách nói của chúng
ta thì có thể dùng từ thượng danh để làm ngoại biểu cho nét nghĩa phạm trù chung
cho các từ cùng một cấp loại. J.Lyons cho rằng ý nghĩa của các từ hạ danh có thể
xem là một sự định ngữ, tức là thêm định ngữ cho từ thượng danh.
Ví dụ: Có thể định nghĩa áo là “đồ mặc cho nửa thân trên” và đồ mặc (y
phục) là từ thượng danh, hoặc định nghĩa bò là “hoạt động dời chỗ bằng cách…”


14
và như vậy, “dời chỗ” là từ thượng danh của bò, đi, chạy… Đặc điểm này,
không đúng với các từ chỉ bộ phận chỉnh thể. Không thể nói tường, mái, nhà là

nhà. Không thể nói tay, chân là thân thể… mà chỉ có thể nói tường là một bộ
phận của nhà thường xây bằng gạch,… tay là bộ phận của thân thể từ vai đến
đầu ngón tay…
Và nếu dùng khái niệm “chuyển tiếp” (transitives) làm “thuốc thử” trong
“phản ứng” với quan hệ bộ phận - chỉnh thể và quan hệ cấp loại thì chúng ta
thấy kết quả của hai phản ứng này cũng không như nhau. Quan hệ cấp loại là
quan hệ có tính chuyển tiếp. Ví dụ: nếu rau là thượng danh đối với rau câu, rau
câ” là từ thượng danh với rau câu chạc thì rau cũng là từ thượng danh với rau
câu chạc. Đối với quan hệ bộ phận - chỉnh thể, các bộ phận trong quan hệ với
chỉnh thể có tính chất tôn ti, nghĩa là có những bậc phân chia giữa một đơn vị
được xem là chỉnh thể với các bộ phận tạo nên chúng.
Ví dụ: Người phân chia bậc thứ nhất thành: đầu, mình, tay, chân, rồi đầu
lại phân chia thành các bộ phận: mắt, mũi, miệng, tai, rồi mắt lại phân chia
thành: lông mày, lông mi, lòng đen, lòng trắng… Trật tự các bậc phân chia, tính
phân chia trực tiếp hay cách bậc (người, đầu, là phân chia trực tiếp, người, mắt
là cách một bậc. Người, mi là cách hai bậc), có ý nghĩa quan trọng trong việc
xác định tính chuyển tiếp của các từ có quan hệ bộ phận - chỉnh thể. Về nguyên
tắc bộ phận của một bộ phận thuộc chỉnh thể cũng là bộ phận của chỉnh thể đó
(mắt của mặt, mặt của đầu. Do đó mắt là của đầu”; cánh cửa của cửa; cửa của
nhà cho nên cánh cửa là của nhà). Tuy vậy, sự cách bậc quá xa sẽ khiến cho
việc xác lập quan hệ bộ phận - chỉnh thể trở nên thiếu tự nhiên. Ví dụ, ít khi
chúng ta nói: mi của thân thể (của người) [12, 212]. Không phải vô cớ mà
J.Lyons khẳng định rằng các quan hệ từ vựng bộ phận - chỉnh thể là những quan
hệ không có chuyển tiếp (non - transitives) chứ không phải là chuyển tiếp
(transitives) và không chuyển tiếp (intransitives). Măng séc: tay áo, và tay áo:
áo đều là những cặp quan hệ bộ phận - chỉnh thể như vậy. Trong ngôn ngữ
người ta thừa nhận cả ba câu sau và mối quan hệ ngữ nghĩa của chúng:
(24) Mấy cái tay áo này không có măng séc.
(25) Những tay áo của cái áo này không có măng séc.



15
(26) Cái áo này không có măng séc.
Nói chung, sự khác biệt giữa quan hệ cấp loại và quan hệ bộ phận - chỉnh
thể như chúng ta đã nói là tương đối rõ ràng nhưng trong trường hợp: cánh tay:
thân thể, bánh xe: xe đạp… tức là những trường hợp mà những từ đang xét là
những danh từ cụ thể, biểu thị sự vật rời (có thể đếm được). Tuy nhiên, cũng có
những ý kiến cho rằng quan hệ bộ phận - chỉnh thể cũng áp dụng được vào
những trường hợp từ đang xem xét là những từ không phải những danh từ cụ thể
biểu thị sự vật rời. Trong những trường hợp này, sự phân biệt giữa quan hệ cấp
loại và quan hệ bộ phận - chỉnh thể khó mà nhận ra được.
Theo J.Lyons trong ngôn ngữ có những từ có thể có thể được biểu thị bằng
ngôn ngữ như một quan hệ cấp loại hoặc một quan hệ bộ phận - chỉnh thể. Đó
không phải là những danh từ cụ thể biểu thị những sự vật rời, ví dụ như đầu,
mình, tay, chân… với cơ thể; măng séc, tay áo… với áo mà là những danh từ
trừu tượng không đếm được. Chẳng hạn, người ta có thể nêu ra mệnh đề: X biết
khâu hàm chứa sự liên hợp các mệnh đề: X biết khâu đường viền, X biết khâu
lược, X biết pick… Mỗi động từ của tập hợp đó (khâu đường viền, khâu lược,
khâu picke) là một cấp loại của khâu, đồng thời cũng chỉ ra một hoạt động là bộ
phận mà hoạt động khâu chỉ ra. Hay người ta có thể coi tính trung thực là một
thứ đạo đức và cũng có thể coi là một bộ phận của đạo đức.
J.Lyons còn cho rằng, trong nội bộ quan hệ bộ phận - chỉnh thể còn có
một kiểu khác mà chúng tôi gọi là quan hệ “thành viên - tập hợp” (thuật ngữ của
Diệp Quang Ban). Có thể nói, quan hệ “thành viên - tập hợp” là một kiểu nhỏ
nằm trong quan hệ bộ phận - chỉnh thể cơ sở để xếp quan hệ “thành viên - tập
hợp” vào kiểu quan hệ bộ phận - chỉnh thể là trong quan hệ “tập hợp - thành
viên”, các thành viên là những đơn vị cấu thành “tập hợp” cũng giống như trong
các bộ phận là những yếu tố cấu thành chỉnh thể. Tuy nhiên, các bộ phận trong
quan hệ bộ phận - chỉnh thể là các bộ phận hữu cơ cấu thành chỉnh thể còn các
thành viên là những đơn vị rời, tách biệt, hoàn chỉnh nhưng cũng cấu thành tập

hợp. Chính vì thế mà trong thực tiễn chúng ta có những biểu hiện ngữ pháp khác
nhau. Về vấn đề này, chúng tôi tán thành ý kiến rất sâu sắc của một trong những


16
tác giả đầu tiên trong lĩnh vực có những đóng góp nghiên cứu, đồng thời cũng có
nhiều kết luận sáng tỏ về phương diện cú pháp đối với phạm trù quan hệ bộ phận
- chỉnh thể và tập hợp - thành viên là tác giả Diệp Quang Ban.
Tính sâu sắc trong ý kiến của tác giả thể hiện ở những căn cứ chứng tỏ có
một sự khác biệt nho nhỏ giữa quan hệ “bộ phận - chỉnh thể” với “thành viên -
tập hợp” trên cơ sở phân tích nguồn dữ liệu ở hai bình diện: kiến trúc chứa vị tố
- tĩnh trạng và kiến trúc chứa vị tố - hoạt động. Cần khẳng định rằng sự khác biệt
này không vì thế làm cho quan hệ “bộ phận - chỉnh thể” và quan hệ “thành viên
- tập hợp” phân biệt nhau mà chính nó là điều kiện để coi quan hệ “thành viên -
tập hợp” như một tiều loại thuộc quan hệ “bộ phận - chỉnh thể”. Để tìm hiểu vấn
đề này có thể trở lại với bài viết “Bổ ngữ chủ thể - một thuật ngữ cần thiết cho
việc phân tích ngữ pháp tiếng Việt” (Diệp Quang Ban - Tạp chí Ngôn ngữ học -
số 4 - 1983).
Ở kiến trúc chứa vị tố - tĩnh trạng:
Ví dụ: Quân địch chết hai sĩ quan. (27)
Rõ ràng người chết là hai sĩ quan - những thành viên trong tập hợp quân
địch chứ không phải là quân địch với tư cách là một tập hợp chứa sĩ quan và
binh lính. Hai sĩ quan là chủ đề của chết. Trong quan hệ bộ phận - chỉnh thể, đặc
trưng của bộ phận thường được lấy làm đặc trưng của chỉnh thể. Trong quan hệ
thành viên - tập hợp, mỗi thành viên là một đơn vị rời, hoàn chỉnh độc lập, đặc
trưng của thành viên chỉ có chỉ có thể được dùng để miêu tả chính thành viên ấy.
Do đó, không thể hiểu chết hai sĩ quan là vị ngữ của quân địch được. Trong ví
dụ (27) vì chết thuộc về hai sĩ quan cho nên giữa quân địch với chết không còn
cơ sở nghĩa (nét nghĩa lặp “sự sống”) cho quan hệ chủ - vị trực tiếp (không có
từ chỉ quan hệ) như trong: Quân địch chết.

Về thực chất, trong câu (27) Quân địch có quan hệ nghĩa với hai sĩ quan
theo kiểu thành viên - tập hợp. Quan hệ này bộc lộ rõ trong các kiểu câu:
Ví dụ: Gà còn hai con. (28)
Trong ví dụ (28) từ gà khi dùng không có danh từ - loại từ, con đứng trước
thường có nghĩa chỉ giống gà nói chung, cho nên ý nghĩa tập hợp và thành viên


17
ở đây là rất rõ giữa gà và con không còn cơ sở nghĩa cho một quan hệ chủ - vị
trực tiếp. Quân địch ở ví dụ (27) và gà ở ví dụ (28) là những vật được nêu lên,
nhưng không có quan hệ chủ - vị trực tiếp với phần câu còn lại, nên chúng là
chủ đề của câu nói và không phải là chủ ngữ trong câu. Đó là thứ thành phần
phụ của câu mà hiện nay được đặc biệt chú ý tới với tên gọi “đề ngữ”.
Phần câu còn lại trong (27) và (28) là dạng câu đặc biệt giống như: Còn tiền.
Vai trò bổ ngữ của Hai sĩ quan ở (27) và gà (28) đã được một số tác giả
thừa nhận. Thuật ngữ bổ ngữ - chủ thể cũng thích hợp với chúng, vì cả ở đây các
danh từ chỉ thành viên cũng có thể chuyển lên trước vị tố để làm thành câu có
chủ ngữ - chủ thể.
(29) Ví dụ: Hai sĩ quan (địch) chết.
(30) Hai con gà (vẫn) còn.
Như vậy, cách phân tích ngữ pháp câu chứa quan hệ thành viên - tập hợp
khác cách phân tích ngữ pháp câu chứa bộ phận - chỉnh thể không phải là không
có cơ sở.
Dù cho trật tự giữa vị tố với các danh từ chỉ thành viên như thế nào, danh
từ chỉ tập hợp vẫn là đề ngữ của câu. Về phía mình, vai trò chủ yếu của danh từ
chỉ chỉnh thể cũng không lệ thuộc vào trật tự của vị tố và danh từ chỉ bộ phận.
Ví dụ: Chị Lan yếu tim. (31)
Cùng với câu này chúng ta còn gặp:
Chị Lan tim yếu. (32)
Tại câu (31) đặc trưng của bộ phận cũng được lấy làm đặc trưng của chỉnh

thể (ở đây tim có được nhấn mạnh hơn) cho nên cách lí giải Chị Lan ở đây là
chủ ngữ còn tim yếu là một kiến trúc chủ vị là vị ngữ như nhiều tác giả chủ
trương hiện nay là có thể chấp nhận được. Sự khác biệt giữa quan hệ bộ phận -
chỉnh thể với quan hệ thành viên - tập hợp sẽ được bộc lộ rõ hơn trong kiến trúc
chứa vị tố - hoạt động:
Ở kiến trúc chứa vị tố - hoạt động:
Ví dụ: Quân địch lên 30 tên. (33)


18
Cũng như chết trong (31), lên thuộc về cụm từ 30 tên chứ không thuộc về
quân địch. Quân địch chỉ có thể có quan hệ nghĩa trực tiếp với lên như là “người
sản xuất ra hoạt động”, khi không có 30 tên đứng sau lên. Quan hệ nghĩa giữa quân
địch với 30 tên cũng là quan hệ thành viên - tập hợp như trong ví dụ (27) và (28).
Ở đây, có thể thấy rõ sự khác biệt giữa quan hệ bộ phận - chỉnh thể chứa vị
tố hoạt động với thành viên - tập hợp chứa vị tố hoạt động. Nếu như trong ví dụ:
Chị Lan co chân như đã phân tích, động từ co có mang sắc thái ý nghĩa ngoại
động thì động từ lên trong (33) hoàn toàn không như vậy. Do đó, không thể xếp
lên trong (33) làm nhóm động từ trung tính.
Mặt khác, nếu trong Chị Lan co chân có thể phần nào hiểu Chị Lan là
nguyên nhân của sự kiện co chân thì trong (33) không thể nào tìm được dấu vết
của nội dung ý nghĩa như vậy. Hiện tượng này bắt nguồn từ chỗ vắng mặt hoàn
toàn sắc thái ý nghĩa tạo tác giữa Quân địch với lên do vậy không có cơ sở nghĩa
cho một quan hệ chủ - trực tiếp.
Như vậy, phân tích ngữ pháp câu (33) theo cách phân tích các câu (27) và
(28) là điều hoàn toàn có thể.
Nói tóm lại, những kiến giải của tác giả Diệp Quang Ban đã cho thấy cơ sở
để khẳng định quan hệ thành viên - tập hợp là một tiểu loại trong quan hệ bộ
phận - chỉnh thể.
1.4.1.2 Quan hệ bộ phận - chỉnh thể với quan hệ sở hữu

Trong “Nguyên lí ngữ nghĩa học” [25], J.Lyons đã dẫn ra ý kiến của hai tác
giả Bierwisch, 1965 và Kiefer, 1966 trong việc khẳng định quan hệ bộ phận -
chỉnh thể gắn với một lớp con riêng của kiến trúc sở hữu được thể hiện qua các
ngữ đoạn và câu có liên hệ với nhau về mặt ngữ nghĩa (và có thể về mặt ngữ
pháp nữa).
Nhiều ngôn ngữ (nhưng không phải là tiếng Anh) có một sự khác biệt giữa
các cấu trúc sở hữu này với các ngữ đoạn và các câu kiểu như “John‟s book”
(sách của John) và “John has book” (John có một quyển sách ). Đối với loại thứ
nhất, người ta nói đến sở hữu bất khả li, đối với loại thứ hai người ta nói đến sở
hữu khả li.


19
Với tác giả Diệp Quang Ban, không những hai loại quan hệ này liên quan
đến nhau mà trong nhiều trường hợp còn không thể phân biệt được đâu là quan
hệ bộ phận - chỉnh thể, đâu là quan hệ sở hữu.
Ví dụ:
(34) Cái cây này có nhiều cành.
Trong ví dụ, giữa cành và cây có quan hệ bộ phận - chỉnh thể. Và quan hệ
này lấp dưới khuôn hình câu sở hữu trả lời cho câu hỏi “X có cái gì” hoặc “X
thế nào” [6,67]. Trong [1,45], tác giả còn khẳng định giữa quan hệ bộ phận -
chỉnh thể, quan hệ sở hữu, quan hệ tồn tại định vị đều có nét chung. Và lí thú
hơn là trong tiếng Việt, tồn tại những câu trong đó thực sự tổng hòa ba kiểu
quan hệ trên, và các kiểu chủ ngữ - chủ hữu, chủ ngữ - vị trí, chủ ngữ chỉnh thể
một bên, bổ ngữ - vật sở thuộc, bổ ngữ - chủ thể, bổ ngữ - bộ phận một bên,
cũng được hợp nhất lại trong ba yếu tố ngôn ngữ, khó tách chúng ra khỏi nhau.
Đó là các trường hợp của ví dụ:
(35) Con bò này có hai cái sừng rất đẹp.
Sự khái quát trên rõ rang là có cơ sở lí luận và thực tiễn, tuy nhiên việc
phân chia chúng thành ba kiểu nhỏ vẫn là cần thiết (ở những bậc phân tích sâu

hơn) và vẫn có cơ sở ngữ pháp. Bởi vì, tuy có những điểm chung nhưng không
phải lúc nào ba kiểu quan hệ này cũng đồng nhất trong cùng một yếu ngôn ngữ
như ở ví dụ đã dẫn.
Khi chủ ngữ - chủ hữu là đại từ nhân xưng thì khó biến nó thành một “trạng
ngữ chỉ vị trí” bằng cách thêm giới từ vào trước. Người Việt Nam thường nói:
(36) Tôi có quyển sách này.
mà ít nói:
(37) Ở tôi có quyển sách này.
Nếu dùng giới từ chỉ vị trí ở tôi thì câu này là tồn tại định vị chứ không
phải là câu có quan hệ sở hữu…
Ở câu có quan hệ bộ phận - chỉnh thể, khó chuyển danh từ chỉ chỉnh thể
thành “trạng ngữ chỉ vị trí” bằng phép chuyển hóa thêm giới từ đi trước. Và điều


20
đáng chú ý là người Việt Nam thích nói theo lối chủ động hơn là lối nói dùng
trạng ngữ đi trước. Thường nói:
(38) Con bò có hai cái sừng rất đẹp.
(39) Anh ấy có một bàn tay bị tật.
mà không nói:
(40) Ở con bò có hai cái sừng rất đẹp.
(41) Ở anh ấy có một bàn tay bị tật.
Và trong khuôn hình câu sở hữu có vật sở thuộc là vật khả li kiểu như:
Ông ấy có một chiếc xe đạp thì quan hệ sở hữu không thuộc phạm trù quan
hệ bộ phận - chỉnh thể.
Nói tóm lại, cũng giống như mối liên quan với quan hệ cấp loại, quan hệ
bộ phận - chỉnh thể có liên quan đến quan hệ sở hữu nhưng ở những mặt nhất
định, quan hệ bộ phận - chỉnh thể cũng khác biệt với quan hệ sở hữu.
1.4.2. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của quan hệ bộ phận - chỉnh thể
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn như chúng ta đã phân tích và chứng minh ở

trên, có thể phát biểu về quan hệ bộ phận và chỉnh thể như sau:
1.4.2.1 Khái niệm
Quan hệ bộ phận - chỉnh thể là quan hệ giữa các bộ phận không tách rời
(bất khả li) hay tách rời (khả li) của một sự vật với chính vật (chỉnh thể) đó.
(42) Ví dụ: Người đàn ông khẽ cau mày rồi lặng im hớp mấy ngụm rượu
liên tiếp. [30, 542]
Ở ví dụ này, có thể hiểu Người đàn ông và mày là một cặp từ có quan hệ bộ
phận - chỉnh thể với nhau, trong đó Người đàn ông là từ chỉ “chỉnh thể”, “mày” là từ
chỉ một “bộ phận” nằm trong (cấu thành) Người đàn ông. Mày là yếu tố "bộ phận"
thể hiện đặc trưng cho Người đàn ông "chỉnh thể". Người đàn ông là nguyên nhân
gây ra hành động “cau” mà “mày” là chủ thể thực hiện hành động…
Như vậy, quan hệ bộ phận - chỉnh thể có những đặc trưng cơ bản sau:
1.4.2.2 Đặc trưng cơ bản của quan hệ bộ phận - chỉnh thể
Trước hết phải khẳng định rằng, quan hệ bộ phận - chỉnh thể là quan hệ ngữ
nghĩa giữa các yếu tố được gọi là “bộ phận” và “chỉnh thể”. Bởi vì hình thái của từ

×